Mục lục
Lời nói đầu
Các vấn đề lý luận chung
Quan niệm về triết học Mác – Lênin về con người
Vấn đề về CNH – HĐH
Sự cần thiết khách quan của việc xây dựng con người trong quá trình đẩy mạnh CNH – HĐH
Thực trạng của vấn đề con người trong quá trình CNH – HĐH ở Việt Nam
Khái quát về con người Việt Nam trước đổi mới
Con người Việt Nam từ khi đổi mới đến nay
Các giải pháp xây dựng con người Việt Nam trong quá trình CNH – HĐH
Phương hướng xây dựng con người Việt Nam trong của quá trình CNH
17 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1542 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Vấn đề con người trong quá trình CNH-HĐH ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
– HĐH
Giải pháp xây dựng con người Việt Nam trong quá trình CNH – HĐH
Kết luận
2
3
3
5
6
7
7
8
10
10
12
16
Lời nói đầu
Tại Việt Nam, sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá (CNH – HĐH) được tiến hành từ những năm 60 theo đường lối mà Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng đã đề ra, đã được xác định là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghiã xã hội (CHXH). Đến nay nhiệm vụ đó vẫn được coi là trung tâm khi chúng ta đã bước sang giai đoạn đẩy mạnh CNH – HĐH mà nhiệm vụ của giai đoạn này là tập trung mọi lực lượng, tranh thủ thời cơ vượt qua thử thách đẩy mạnh công cuộc đổi mới một cách toàn diện và đồng bộ, tiếp tục phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, thứ IX và các hội nghị Ban chấp hành Trung ương đã nhiều lần khẳng định: CNH gắn với HĐH với tư cách là đường lối phát triển tất yếu, khách quan, theo định hướng XHCN, phải lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững. Tăng trưởng kinh tế phải gắn với cải thiện đời sống nhân dân, phát triển văn hoá giáo dục, nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao và đồng bộ, kết hợp đào tạo kiến thức kỹ năng nghề nghiệp với bồi dưỡng phẩm chất đạo đức nhằm hình thành đội ngũ lao động giỏi về chuyên môn nghệp vụ, có tác phong công nghiệp, có ý thức phấn đấu vì sự phồn vinh của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân.
Trên cơ sở những quan điểm cơ bản của triết học Mác-Lênin về con người, vận dụng vào đánh giá vấn đề con người trong quá trình CNH - HĐH ở Việt Nam là nội dung cơ bản của đề tài này.
I. Các vấn đề lý luận chung:
1. Quan niệm của triết học Mác-Lênin về con người:
Mác đưa ra một cách tiếp cận mới về con người: con người hiện thực, đặt con người trong đời sống xã hội hiện thực, lấy hoạt động thực tiễn của con người làm điểm xuất phát.
Quan niệm về con người:
Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội. Là động vật cao cấp nhất, tinh hoa của muôn loài, con người là sản phẩm của quá trình phát triển hết sức lâu dài của thế giới tự nhiên. Mặt sinh học thể hiện trong con người thể hiện ở tổ chức cơ thể người, mối quan hệ với tự nhiên, các quá trình tâm sinh lý, các giai đoạn phát triển khác nhau. Tuy nhiên, đặc trưng quy định sự khác biệt giữa con người với thế giới loài vật là mặt xã hội, thể hiện khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt cho mình, đã gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình. Thông qua hoạt động sản xuất vật chất, con người đã làm thay đổi, cải biến hoàn toàn giới tự nhiên. Trên cơ sở đó hình thành và phát triển ngôn ngữ, tư duy, xác lập các quan hệ xã hội. Lao động là yếu tố quyết định hình thành bản chất con người, hình thành nhân cách cá nhân trong cộng đồng xã hội. Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên qúa trình hình thành và phát triển của con người luôn bị quyết định bởi ba quy luật khác nhau bao gồm hệ thống quy luật của tự nhiên như quy luật về sự phù hợp của cơ thể với môi trường, quy luật về sự trao đổi chất, về di truyền…quy định phương diện sinh học của con người. Hệ thống quy luật tâm lý ý thức hình thành và vận động trên nền tảng sinh học của con người như hình thành tình cảm, khát vọng, niềm tin, ý chí…Hệ thống các quy luật xã hội quy định quan hệ xã hội giữa người với người. Ba hệ thống quy luật trên cùng tác động, tạo nên thể thống nhất hoàn chỉnh trong đời sống con người bao gồm cả mặt sinh học và xã hội.
Trong tính hiện thực của nó, bản chất của con người là tổng hoà các quan hệ xã hội, chỉ hình thành và thể hiện trong các quan hệ xã hội, các quan hệ đó chi phối, quyết định hành vi của con người. Tuy nhiên không phủ nhận cá nhân với đầy đủ tính phong phú đa dạng của nó. Không có con người trừu tượng, thoát ly mọi điều kiện, hoàn cảnh lịch sử xã hội. Con người luôn cụ thể, xác định, sống trong một điều kiện cụ thể nhất định, một thời đại nhất định. Trong điều kiện lịch sử đó, con người bằng hoạt động thực tiễn của mình đã tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triêển cả về thể lực và tư duy trí tuệ. Chỉ trong các mối quan hệ đó con người mới bộc lộ toàn bộ bản chất xã hội của mình.
Con người là chủ thể sáng tạo ra lịch sử và là sản phẩm của lịch sử. Với tư cách là thực thể xã hội, con người hoạt động thực tiễn, tác động vào tự nhiên, cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động phát triển của lịch sử xã hội. Hoạt động lao động sản xuất vừa điều kiện cho sự tồn tại của con người, vừa là phương thức để biến đổi bộ mặt và đời sống xã hội. Trên cơ sở nắm bắt quy luật của lịch sử xã hội, con người thông qua hoạt động vật chất và tinh thần thúc đẩy xã hội phát trển từ thấp đến cao, phù hợp với mục tiêu và nhu cầu do con người đặt ra. Không có hoạt động con người thì cũng không tồn tại quy luật xã hội và do đó không có sự tồn tại của toàn bộ lịch sử xã hội loài người.
Trong thời đại ngày nay, khi khoa học đã thực sự trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, với sự phát triển mạnh mẽ ấy của khoa học hiện đại, con người càng tỏ rõ vai trò to lớn của mình trong lực lượng sản xuất nói riêng và trong sự phát triển cuả xã hội nói chung. Các nguồn lực vật chất khác nhau như vốn, kỹ thuật, công nghệ sẽ không phát huy được hiệu quả nếu không có những con người có trí tuệ và đủ năng lực làm chủ nó. Như vậy, con người là nguồn lực chủ yếu, vững chắc, lâu bền nhất trong lịch sử phát triển, là nguồn lực của mọi nguồn lực, là chủ thể sáng tạo.
Quan đIểm về giải phóng con người: xuất phát từ quan đIểm duy vật về con người, coi bản chất con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội, con người là chủ thể sáng tạo của loch sử, Mác – Lênin đã lấy tư tưởng vì con người và giải phóng nhân loại và xã hội không thể nào giải phóng cho mình đưực nếu không giải phóng cho mỗi cá nhân riêng biệt làm tư tưởng nền tảng để xây dựng học htuyết về xã hội nói chung và xã hội cộng sản chủ nghĩa nói riêng. Giải phóng con người là xoá bỏ sự đối lập giữa con người cá nhân và người công dân trừu tượng, việc xoá bỏ ấy chỉ có thể thực hiện được bằng hoạt động tích cực của con người, coi đó là cuộc đấu tranh nhằm mục đích xoá bỏ sự tha hoá của con người. Cơ sở của sự tha hoá ấy của con người là chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất gắn với chế độ xã hội tư bản chủ nghĩa. Do đó, xoá bỏ chế độ sở hữu tư sản là tiền đề cơ bản cho việc xoá bỏ mọi sự tha hoá con người. Đây không phải là việc làm đơn giản, chốc lát mà là một quá trình hết sức lâu dài, vô cùng phức tạp và đầy những bước thăng trầm. Nó đòi hỏi phảI được thực hiện bằng một cuộc cách mạng toàn xã hội, bằng việc xoá bỏ trật tự xã hội cũ và sáng lập ra một xã hội mới, xã hội vì con người, vì cuộc sống ấm no, hành phúc cho tất cả mọi người.
ở nước ta, ngay từ buổi đầu của công cuộc cách mạng XHCN, khi vận dụng quan đIểm tiến bộ về con người và giảI phóng con người, Đảng ta đã khẳng định con người là vốn quý nhất, chăm lo cho hành phúc con người là mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta.
2. Vấn đề về CNH – HĐH:
CNH – HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiến tiến, tạo ra năng suất lao động cao.
Công nghiệp hoá gắn liền với hiện đại hoá sẽ mở ra con đường tắt, rút ngắn khoảng cách giữa các nước đang phát triển so với các nước phát triển. CNH-HĐH có vai trò thúc đẩy nhằm đa dạng hoá sản phẩm, các mặt hàng sản xuất và thay đổi cơ cấu sản xuất. Đối với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, đây là phương thớc tăng thu nhập, tăng khối lượng sản phẩm, hiện đại hoá cơ cấu sản xuất, thay đổi tập quán làm ăn của một nước có nền sản xuất nhỏ, phân tán, chưa phải là sản xuất hàng hoá.
Đảng ta xác định, nước ta tiến hành CNH-HĐH có cả thuận lợi và khó khăn, thời cơ và nguy cơ đan xen nhau. Chúng ta phải chủ động nắm thời cơ, vươn lên phát triển nhanh và vững chắc, tạo ra thế và lực mới; đồng thời luôn tỉnh táo đẩy lùi và khắc phục các nguy cơ, kể cả các nguy cơ mới nảy sinh, đảm bảo phát triển đúng hướng.
Mục tiêu cơ bản của quá trình đẩy mạnh CNH – HĐH ở Việt Nam:
Đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp, kinh tế mạnh, tăng tưởng nhanh và bền vững, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ.
Xây dựng đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn, kỷ luật. Không ngừng nâng cao năng suất lao động, tăng hàm lượng chất xám trong một đơn vị sản phẩm, tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế thông qua quan hệ đối ngoại và xuất khẩu.
Xây dựng quan hệ sản xuất tiến bộ, phấn đấu xây dựng nền dân chủ XHCN, tạo điều kiện cho mỗi công dân, mỗi tập thể đều được bình đẳng đóng góp tài năng vào việc phát triển đất nước và hưởng thụ những giá trị tương xứng với công sức của họ.
Tiến tới đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế.
3. Sự cần thiết khách quan của việc xây dựng con người trong quá trình đẩy mạnh CNH – HĐH:
Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của quá trình đẩy mạnh CNH – HĐH. Mục tiêu xây dựng CNXH của Việt Nam như Đảng đã chỉ rõ là tạo ra một xã hội mà trong đó con người được giải phóng, nhân dân lao động làm chủ đất nước, có nền kinh tế phát triển cao và nền văn háo tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc…Mục tiêu này hướng tới con người, vì tự do và hạnh phúc của con người. CNH-HĐH nhằm mục đích phát triển kinh tế xã hội và lấy đó làm môi trường để phát triển toàn diện con người. Con người là động lực của CNH-HĐH không phải là sử dụng con người như một phương tiện để có xã hội mới mà việc hình thành con người Việt Nam mới cũng chính là quá trình đẩy mạnh CNH-HĐH, quá trình xây dựng xã hội mới. Quá trình xây dựng con người Việt Nam hiện đại cũng là quá trình tạo ra động lực xã hội cho sự phát triển. Chủ động, tích cực xây dựng con người Việt Nam hiện đại từ con người cũ mang những vết tích của xã hội cũ đã đẻ ra nó về mọi phương diện kinh tế, đạo đức và trí tuệ. Sự thống nhất giữa cá nhân và xã hội cũng là một động lực thường xuyên, quan trọng và không thể thiếu được của quá trình đẩ mạnh CNH-HĐH. Trong quá trình đó, tính chủ động, sáng tạo và tự giác của toàn dân từng bước được phát huy mạnh mẽ.
Con người vừa là sản phẩm, vừa là chủ thể của quá trình đẩy mạnh CNH – HĐH. Con người không thể chọn một xã hội để sinh ra, song xã hội phải đào luyện những con người phù hợp với yêu cầu tồn tại và phát triển của nó. Đổi mới không phải chỉ là đem lại cho con người những điều con người mong muốn mà chủ yếu là khơi dậy trong họ lòng tự hào, niềm tin, ý chí và nhiệt tình cách mạng để họ tự mình làm ra tất cả. Trong quá trình CNH-HĐH phải tạo mọi điều kiện, thu hút tối đa quần chúng tham gia vào hoạt động cách mạng, đấu tranh cải tạo xã hội, xây dựng xã hội mới. Cần tạo mọi điều kiện thuận lợi để mỗi cá nhân phát triển tài năng sáng tạo và lợi ích của xã hội, của bản thân mình. Bởi vậy, lịch sử được coi là quá trình tự sinh của con người, do con người thực hiện trong quá trình thực tiễn cải tạo thế giới.
Phát huy nguồn lực con người là vấn đề chiến lược trong của quá trình đẩy mạnh CNH – HĐH. Chúng ta chỉ có một lối ra, lối ra duy nhất trong thời đại cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại là phát huy nguồn lực con người. Sự đI lên của chúng ta phải dựa vào thế mạnh duy nhất của mình, đó là con người Việt Nam, trí tuệ Việt Nam và tièm năng, chất xám Việt Nam. Nguồn nhân lực ở đây bao gồm dân số và chất lượng con người bao gồm thể chất, tinh thần, trí tuệ và năng lực; những tiềm ăng, những lực lượng thể hiện sức mạnh và sư tác động của con người trong việc cải tạo tự nhiên và xã hội; chất lượng, hiệu quả hoạt động và triển vọng phát triển mới của con người. Tóm lại nó là tổng hoà các tiêu chí của con ngườivà tổ chức xã hội có thể khai thác và thu hút vào quá trình phát triển xã hội.
II. Thực trạng của vấn đề con người trong quá trình CNH – HĐH ở Việt Nam:
Trong suốt quá trình phát triển cách mạng nước ta, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo những quan điểm của triết học Mác – Lênin về con người vào việc xây dựng con người Việt Nam mới phù hợp với điều kiện nước ta.
1. Khái quát về con người Việt Nam trước đổi mới:
Nửa cuối thể kỷ 19, con người Việt Nam đứng trước sự xâm lược của một kẻ thù hoàn toàn xa lạ, một kẻ thù vượt trước mình cả một chế độ xã hội và chế độ xã hội ấy đã phát triển hàng mấy trăm năm. Triều đình và giai cấp phong kiến đầu hàng, làm tay sai cho giặc. Bất chấp sự phản bội đó, bất chấp tàu đồng, súng thép của giặc Pháp, con người Việt Nam lại lao vào trận đánh. Mặc dầu có thừa lòng dũng cảm và khí phách anh hùng, nhưng bị nhốt chặc trong hệ tư tưởng phong kiến, con người Việt Nam thủa ấy đã không phát huy được truyền thống và các khả năng tiềm tàng của dân tộc, không đáp ứng được các yêu cầu của thời đại đương tời, không vạch được cho mình con đường cứu nước đúng đắn. Và cuối cùng, con người Việt Nam hồi ấy đã đành phải uất hận, ngỡ ngàng bước sang thế kỷ 20 với thân phận nô lệ của người dân mất nước.
Sự ra đời của giai cấp công nhân, sự truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào nước ta, thành lập Đảng công sản Việt Nam đã quyết định chiều hướng phát triển lịch sử mới của con người Việt Nam truyền thống. Chỉ trong 45 năm, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã dựng lên sự nghiệp bằng sự nghiệp của hàng chục thế kỷ. Cuộc chiến đấu chống chủ nghĩa thực dân cũ và mới đã thắng lợi hoàn toàn. Tổ quốc thống nhất, cả nước tiến lên Chủ nghĩa xã hội. đặc biệt sự nghiệp chống Mỹ cứu nước là một cuộc thử thách hết sức lớn lao đối với con người Việt Nam. Nghe theo tiếng gọi của đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, một cao trào chống Mỹ cứu nước đã dâng lên cuồn cuộn trong khắp các tầng lớp già, trẻ, gái, trai, miền ngược, miền xuôi, trong Nam, ngoài Bắc. sức mạnh của con người Việt Nam chính là ở chỗ cả dân tộc đồng lòng đứng dậy, đoàn kết nhất trí, yêu thương đùm bọc lẫn nhau, chiến đấu dũng cảm, sống trọn tình nghĩa với đồng bào, đồng chí.
Một trong những thành công lớn về sự nghiệp đào tạo con người dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin là chúng ta đã từng bước xây dựng được những con người có lý tưởng cách mạng vững vàng, ý thức rõ rệt về độc lập dân tộc và CNXH, biết tập hợp và tổ chức quần chúng tham gia lao động sản xuất, học tập một cách có hiệu quả.
Bên cạnh các thành tựu đạt được, khi tiến hành cách mạng XHCN trong cả nước, chúng ta đã phạm phải những sai lầm trong một số chủ trương, chính sách lớn. Đó là do căn bệnh chủ quan duy ý trí, lối suy nghĩ và hành động giản đơn, nóng vội, chạy theo nguyện vọng chủ quan. Về khía cạnh con người, cơ chế tập trung quan liêu bao cấp vừa nuôi dưỡng tính thụ động, ỷ lại về phía người lao động, vừa khích lệ tệ quan liêu trong bộ máy quản lý, gây ra những bất công lớn. Điều này đã dẫn đến tình trạng không ai muốn làm việc, các thang bậc giá trị bị đảo lộn. Cuộc khủng hoảng kinh tế – xã hội ở nước ta từ những năm 80 cho đến giữa những năm 90 thực chất là khủng hoảng động lực hoạt động của con người. Lợi ích cá nhân của người lao động là động lực trực tiếp của quá trình sản xuất bị coi nhẹ. Đồng thời, trong thời gian này, chúng ta chỉ giao lưu trong hệ thống các nước XHCN, không theo kịp những sáng tạo, văn minh của nhân loại nên đã không kế thừa được tri thức văn minh mới. Truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc khi không tiếp thu được những nhân tố mới đã trở nên bất lực trước các thử thách của thời đại. Tất cả tạo thành sức chây ỳ, bảo thủ, cản trở tính năng động, sáng tạo của con người.
2. Con người Việt Nam từ khi đổi mới đến nay:
Chặng đường đổi mới vừa qua là một giai đoạn có ý nghĩa hết sực quan trọng trong tiến trình phát triển của đất nước.
Sự chuyển tiếp từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường đã giải phóng được sức sản xuất. Nền kinh tế phát triển mạnh mẽ và đã tiếp cận được với công nghệ sản xuất tiến tiến của các nước trên thế giới. Đại bộ phận nhân dân có đời sống vật chất và tinh thần được cải thiện, trình độ dân trí và mức hưởng thụ văn hoá khá hơn trước. Người lao động phát huy được quyền làm chủ và tính năng động, sáng tạo trong các hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội. Chính sách xã hội ngày càng được hoàn thiện và hướng về con người, tạo ra những động lực mạnh mẽ để phát triển đất nước. Lòng tin của dân đối với Đảng và chế độ ngày càng được cải thiện.
Về thể lực và sức khoẻ: tuy Việt Nam về mặt thu nhập bình quân đầu người thuộc nhóm thấp nhất thế giới nhưng về mặt sức khoẻ đạt loại trung bình. Hơn ai hết, chúng ta hiểu rằng, sự phát triển về mặt thể lực, sức khoẻ là cơ sở để phát triển toàn diện con người, sự lành mạnh về thể chất và tâm hồn là điều kiện quan trọng cho sự phát triển hài hoà các phẩm chất, năng lực của con người.
Về sự phát triển trí tuệ của con người: Được thể hiện qua trình độ học vấn, kiến thức văn hoá, khoa học kỹ thuật, khoa học nhân văn, kỹ năng, …không ngừng được nâng cao. Tuy nhiên, sự phát triển về mặt trí tuệ của con người Việt Nam cũng đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết như trí lực đã phát triển song không đều và chất lượng chưa cao, mức chênh lệch về trình độ học vấn giữa thành thị và nông thôn ngày càng lớn, cán bộ khoa học kỹ thuật, khoa học nhân văn đủ sức đắp ứng yêu cầu của thực tiễn đặt ra không nhiều…Nhìn chung, sau những năm đổi mới, sự đầu tư vào giáo dục, đào tạo ngày càng nhiều. Sự cạnh tranh về việc làm trong nền kinh tế thị trường ngày càng căng thẳng, xã hội đánh giá ngày càng cao giá trị của lao động trí óc. Con người ngày càng năng động, nhạy bén nắm bắt cái mới, có nhiều cách làm sáng tạo để giải quyết các vấn đề đặt ra, dám nghĩ, dám làm, dám chiụ trách nhiệm.
Về lý tưởng đạo đức và cách mạng: con người Việt Nam luôn chăm lo giữ gìn phẩm chất, đạo đực cách mạng, sống trong sách, thuỷ chung, đoàn kết. Tuy nhiên, xu thế mở cửa, hội nhập giao lưu với bên ngoài đã làm xuất hiện xu hướng xem nặng về giá trị vật chất, xem nhẹ giá trị tinh thần; xem nặng giá trị hiện đại, ngoại lai, xem nhẹ giá trị truyền thống, thuần phòng mỹ tục của dân tộc…đã ảnh hưởng nặng nề lên một bộ phận dân cư, trong đó có một số cán bộ, đảng viên, công chức nhà nước bị thoái hoá, biến chất dẫn đến tình trạng tham ô, tham nhũng gây mất dân chủ…Điều này đã ảnh hưởng đến uy tín của Đảng, giảm sút lòng tin của nhân dân vào chế độ.
Trước thực trạng trên, để đáp ứng các yêu cầu của sự nghiệp CNH-HĐH, việc xây dựng con người Việt Nam cần giải quyết các vấn đề sau:
Thứ nhất: Cơ cấu lao động còn bất hợp lý và lạc hậu về nhiều mặt. Sự mất cân đối giữa các ngành còn lớn, phân bố giữa các miền, các vùng không đều. Cơ cấu lao động ở nông thôn còn lạc hậu và quá trình chuyển dịch diễn ra rất chậm. Lực lượng lao động nông thôn tăng nhanh trong khi diện tích đất canh tác giảm xuống. Thị trường lao động diến biến phức tạp, luôn mất cân đối giữa cung và cầu do chưa đáp ứng được các điều kiện công việc thực tế; chưa có sự quản lý chặt chẽ thị trường này, chưa giải phóng hết tiềm năng lao động.
Thứ hai: Trình độ học vấn và trình độ chuyên môn còn thấp. Đặc biệt là việc thiếu nghiêm trọng lao động có tay nghề kỹ thuật, cán bộ có trình độ chuyên môn cao, cán bộ quản lý có kinh nghiệm; tình trạng chảy máu chất xám.
Thứ ba: Chính sách xã hội còn chưa hợp lý. Khi chuyển sang cơ chế thị trường với nhiều thành phần kinh tế thì các chính sách xã hội không thay đổi kịp. Nhu cầu, lợi ích của các tầng lớp nhân dân, sự quản lý của nhà nước, sự thay đổi cơ cấu xã hội…làm cho các chính sách xã hội bị động, lúng túng.
Thứ tư: Quyền dân chủ của con người còn nhiều vấn đề phải giải quyết. Hiện tượng mất dân chủ xảy ra không chỉ ở cấp trên mà ở cả cơ sở. Diễn ra tình trạng phân tán, cục bộ, kỷ luật lỏng lẻo, phép nước không nghiêm không những chưa bị ngăn chặn mà có nơi, có lúc, có việc lại càng trở nên trầm trọng hơn.
Con người Việt Nam trong sự nghiệp CNH-HĐH phải khắc phục được những hạn chế của lối sống, sinh hoạt, tác phong lạc hậu, hình thành con người mới với những chuẩn mực giá trị của văn hoá công nghiệp tiên tiến.
Ngày nay, cùng với quá trình đổi mới toàn diện đất nước và tiến hành đẩy mạnh CNH-HĐH, việc xây dựng con người Việt Nam toàn diện đã trở thành một yêu cầu cấp bách. Bởi vì con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực, vừa là sản phẩm, vừa là chủ thể của qúa trình CNH-HĐH. Xuất phát từ những quan điểm đúng đắn về con người, phát huy nguồn lực con người là vấn đề chiến lược. Vấn đề là phải xây dựng con người Việt Nam hiện đại như thế nào để không rơi vào ảo tưởng, để tiền hành có hiệu quả và đưa sự ngiệp CNH-HĐH đến thành công.
III. Các giải pháp xây dựng con người Việt Nam trong quá trình CNH – HĐH.
1. Phương hướng xây dựng con người Việt Nam trong của quá trình CNH – HĐH.
Thứ nhất, coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng CNXH. Đây là quan điểm có tính chủ đạo trong quá trình xây dựng con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu đẩy mạng CNH-HĐH theo định hướng XHCN ở nước ta hiện nay. Mục tiêu của CNH-HĐH thực chất là sự phát triển vì con người, vì cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho quần chúng nhân dân. Mọi sự phát triển của xã hội ta trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá đều do con người Việt Nam hiện đại thực hiện và đều vì sự phát triển toàn diện của con người Việt Nam. Sự nghiệp này chỉ có thể thắng thế khi phát huy cao độ nguồn lực con người trên cơ sở hình thành và phát triển những thế hệ con người hiện đại.
Tiến hành CNH-HĐH khi nước ta vấn là một nước nông nghiệp lạc hậu, chậm phát triển, chúng ta phải thực hiện một cuộc cách mạng toàn diện và sâu sắc trong tất cả các lĩnh vực của đời sống. Những ưu việt của CNH-HĐH không có ai đưa đến cho chúng ta cũng không thể tự nhiên mà có. Đó phải là kết quả của những nỗ lực vượt bậc và bền bỉ của toàn dân ta, với những con người phát triển toàn diện cả về trí lực và thể lực, về khả năng lao động, về tính tích cực chính trị, xã hội, về phẩm chất, đạo đức.
Thứ hai, đầu tư cho con người phải chiếm vị trí ưu tiên. Xây dựng CNH-HĐH theo kiểu rút ngắn thời gian, vừa có những bước nhảy vot, vừa có những bước tuần tự nhất thiết phải ưu tiên phát triển con người. Đó là chiến lược kết hợp hài hoà giữa phát triển tự do cá nhân với việc thiết lập mối quan hệ tốt đẹp, mang bản sắc văn háo và tính nhân văn giữa người với người trong cộng đồng xã hội. Mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và nhà nước đều phải nhằm quán triệt tư tưởng chăm lo, bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người.
Từ một nước nông nghiệp còn nghèo nàn, tiến lên CNH-HĐH không chỉ dựa vào nguồn lực tự nhiên vốn có của đất nước mà trước hết phải tính đến việc khai thác khả năng của đội ngũ những người lao động - nguồn lực quan trọng nhất mà ta đang có. Tuy nhiên, nguồn lực này mới chỉ ở dạng tiềm năng, muốn khai thác một cách có hiệu quả thì trước hết nó phải trở thành mục tiêu đã. Phát triển nguồn lực con nười, tạo ra năng lực nội sinh, làm cho họ trở thành những người lao động vừa hồng, vừa chuyên, và đến lượt mình, họ sẽ là chủ thể sáng tạo của quá trình CNH-HĐH.
Thứ ba, gắn chiến lược phát triển con người với chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Khi xác định con người Việt Nam hiện đại là động lưc, hơn nữa là động lực chủ yếu nhất của sự nghiệp CNH-HĐH, trước hết ta cần thấy rằng trong các yếu tố của lực lượng sản xuất xã hội thì đối tượng lao động (như tài nguyên thiên nhiên, nguồn nguyên liệu không thể thiếu trong sản xuất) không phải là yếu tố vô hạn. Con người càng phát triển sản xuất, khả năng khai thác tự nhiên càng cao, hiệu quả khai thác của các công cụ lao động càng lớn thì tài nguyên thiên nhiên càng mau chóng cạn đi. Việc cải thiện môi tường sống, tự tái tạo lại tài nguyên thiên nhiên phụ thuộc vào ý thức bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường sống và sự khôn ngoan của con người. Khả năng lao động của con người là vô hạn, năng lực của con người không bao giờ cạn kịêt. Con người càng phát triển sản xuất, càng tiến hành lao động thì kỹ thuật của con người ngày càng tăng, năng lực hoạt động của con người ngày càng có hiệu quả
2. Giải pháp xây dựng con người Việt Nam trong quá trình CNH – HĐH:
2.1. Tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục, đào tạo, đáp ứng yêu cầu CNH – HĐH.
Trong thời đại ngày nay, tất cả các quốc gia đều nhận thức được rằng tri thức là sức mạnh, tri thức là sự giàu có.
Sự nghiệp đổi mới giáo dục, đào tạo ở nước ta trong những năm qua đã làm được nhiệm vụ nâng cao dân trí, đào tạo đội ngũ lao động có trình độ văn hoá và kỹ năng nghề nghiệp cao phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế xã hội, đã tạo ra được một số nhân tố mới. Các loại hình trường lớp, hình thức đào tạo ngày càng đa dạng. Tạo thêm nhiều cơ hội học tập cho mọi đối tượng, đặc biệt là đội ngũ lao động trẻ, đội ngũ giáo viên được đào tạo chính quy, tâm huyết vớinghề nghiệp, có trách nhiệm trong công tác giảng dạy. Cơ sở vật chất, kỹ thuật đã không ngừng được tăng cường. Hợp tác quốc tế về giáo dục, đào tạo đã được mở rộng. Những thành tựu mà sự nghiệp giáo dục, đào tạo đạt được trước hết do đường lối đổi mới của Đảng và nhà nước ta. Bắt đầu từ Nghị quyết Đại hội VII, Đảng ta đã coi “giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu” cho đến đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, khi thông qua “Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2001-2010” Đảng đã chỉ rõ ”Đáp ứng yêu cầu về con người và nguồn nhân lực là yếu tố quyết định sự phát triển của đất nước trong thời kỳ CNH-HĐH, cần tạo chuyển biến cơ bản, toàn diện về giáo dục và đào tạo”.
Thành tựu của sự nghiệp đào tạo trong những năm qua là không thể phủ nhận, tuy nhiên vẫn cón những yếu kém. Chất lượng và hiệu quả còn thấp, quy mô đào tạo chuyên nghiệp còn nhỏ, manh mún, chưa đáp ứng được đòi hỏi này càng cao về nguồn lực con người trong công cuộc đổi mới. Cơ cấu ngành nghề không cân đối, đào tạo và sử dụng chưa hình thành một cấu trúc chặt chẽ và do vậy đã dân đến hiện tượng chôi nôỉ chất xám và chảy máu chất xám. Đầu ra của đào tạo thì thừa, đầu vào của sử dụng thì thiếu, giáo dục trong nhà trường tách rời với thực tế. Lao động ở thành thị dư thừa trong khi ở vùng núi, vùng sâu, xa đang thiếu giáo viên, cán bộ khoa học kỹ thuật, cán bộ quản lý. Những tiêu cực của cơ chế thị trường làm cho một bộ phận có biểu hiện suy thoái về đạo đức, mờ nhạt về lý tưởng…Những nguyên nhân của tình trạng trên là:
Thứ nhất, quy mô giáo dục, đào tạo được mở rộng nhưng thiếu định hướng về chiều sâu, thiếu quy hoạch ngành nghề đào tạo cho các trường, thiếu sự chỉ đạo đồng bộ về nội dung, chương trình đào tạo.
Thứ hai, phương pháp đào tạo chậm đổi mới, chưa phát huy được tính chủ động, sáng tạo của học viên.
Thứ ba, nội dung đào tạo chưa gắn chặt với thực tế lao động sản xuất.
Thứ tư, chưa có chính sách khuyến khích cụ thể đối với giáo viên để họ nâng cao trình độ.
Thứ năm, cơ sở vật chất kỹ thuật còn thiếu, lạc hậu và không đồng bộ.
Các giải pháp cụ thể cho vấn đề này là:
Kiên quyết và nhanh chóng tăng nguồn đầu tư Ngân sách cho giáo dục, đào tạo.
Thực hiện xã hội hoá giáo dục, đào tạo, giáo dục, đào tạo là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân. Việc đào tạo và đào tạo lại người lao động phải được coi là nhiệm vụ cấp thiết trong từng ngành, từng vùng và từng địa phương.
Giáo dục phải được phát triển cả về quy mô và chất lượng, phải được đổi mới cả về nội dung lẫn phương pháp.
Tăng cường sự lãnh đạo và giám sát của Đảng và các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền đối với giáo dục và đào tạo.
2.2. Nâng cao chất lượng và hiệu quả sử dụng đội ngũ cán bộ khoa học, công nghệ.
Để có được đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ có chất lượng cao, trước hết chúng ta phải tạo ra một môi trường thuận lợi cho đội ngũ cán bộ. Đó là sáng tạo, cải tiến và áp dụng những thành tựu vào thực tiễn sản xuất, quản lý các quá trình xã hội. Quá đó, các cán bộ tự nâng cao chất lượng, có điều kiện trở thành những chuyên gia đầu ngành, đáp ứng được đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp CNH-HĐH. Cần phải đầu tư đúng mức và hợp lý vào công tác nghiên cứu khoa học, cho việc đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ, nâng cao đời sống cả vật chất lẫn tinh thần cho đội ngũ cán bộ làm công tác nghiên cứu và ứng dụng khoa học kỹ thuật. Không thể có được sự phát triển của khoa học và công nghệ cũng như không thể có được đội ngũ cán bộ có chất lượng cao nếu họ không đựơc đầu tư hoặc đầu tư không đúng mức. Đối với cán bộ khoa học, nhu cầu vật chất, kinh tế cũng rất cần nhưng họ còn quan tâm hơn đến lợi ích tinh thần, nhu cầu được thừa nhận rộng rãi, được động viên, khen thưởng kịp thời. Đây cũng là một động lực không nhỏ thúc đẩy họ hoạt động sáng tạo, nâng cao chất lượng và hiệu quả làm việc.
Việc xây dựng một chính sách hợp lý trước hết là chính sách lương thoả đáng, cần phải được tiến hành nhanh chóng. Đi liền với biện pháp này là chế độ thưởng, trợ cấp và phụ cấp cho các công trình khoa học và công nghệ có giá trị của họ. Cùng với biện pháp đó, phải xây dựng và sớm thực hiện quy chế đảm bảo dân chủ, phát huy tinh thần sáng tạo, tăng cường đoàn kết, ý thức trách nhiệm của các nhà khoa học trong hoạt động nghiên cứu và triển khai.
2.3. Xây dựng con người Việt Nam kết hợp với quá trình đổi mới kinh tế xã hội.
Kết hợp nâng cao đời sống vật chất và đời sống tinh thần cho nhân dân. Để con người đáp ứng được yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thì con người ấy phải có thể lực tốt. Muốn vậy phải không ngừng phát triển sản xuất, xoá đói giảm nghèo, cải thiện điều kiện ăn ở, học hành, chữa bệnh, đi lại… Trước mắt cần tổ chức tốt đời sống xã hội trên từng địa bàn để trong điều kiện thu nhập bình quân đầu người còn thấp vẫn tạo được một cuộc sống khá hơn cho nhân dân. Đẩy mạnh xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc cũng là một giải pháp cơ bản góp phần hoàn thiện con người. Xã hội càng hiện đại, văn minh thì nhu cầu tinh thần, văn hoá càng đòi hỏi phải được đáp ứng.
Kết hợp phát triển kinh tế với việc giải quyết tốt vấn đề công bằng xã hội. Công bằng không chỉ là mục tiêu cần đạt tới mà nó còn là cơ sở, là điều kiện để mọi người phát triển tốt tài năng của mình. Hiện nay vấn đề công bằng là một vấn đề đang nổi lên cần phải giải quyết. Trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường đương nhiên có phân hoá giàu nghèo, nhưng ở nước ta thời gian qua, quá trình phân hoá đó diễn ra quá mạnh mẽ, gây bất bình trong nhân._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35526.doc