Vấn đề con người - Nguồn lực con người trong quá trình xây dựng nền kinh tế mới

MỤC LỤC A – GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI -------------------------------------------------------------------- 4 B – NỘI DUNG CHÍNH ----------------------------------------------------------------------- 6 I. Cơ sở của việc nghiên cứu --------------------------------------------------------- 6 1. Cơ sở lý luận ------------------------------------------------------------------ 6 1.1. Bản chất con người ------------------------------------------------ 6 1.2. Nguồn lực con người ----------------

doc26 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1525 | Lượt tải: 3download
Tóm tắt tài liệu Vấn đề con người - Nguồn lực con người trong quá trình xây dựng nền kinh tế mới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
------------------------------ 11 2. Cơ sở thực tế ------------------------------------------------------------------ 14 II. Thực trạng các vấn đề nghiên cứu ---------------------------------------------- 14 1. Truyền thống con người Việt Nam --------------------------------------- 14 1.1. Tích cực ------------------------------------------------------------- 15 1.2. Hạn chế -------------------------------------------------------------- 16 1.3. Nguyên nhân của thực trạng ------------------------------------- 17 2. Nhân cách con người Việt Nam ------------------------------------------- 18 2.1. Tích cực ------------------------------------------------------------- 18 2.2. Hạn chế -------------------------------------------------------------- 19 2.3. Nguyên nhân của thực trạng ------------------------------------- 20 3. Nguồn lực con người -------------------------------------------------------- 20 3.1. Tích cực ------------------------------------------------------------- 21 3.2. Hạn chế -------------------------------------------------------------- 22 3.3. Nguyên nhân của thực trạng ------------------------------------- 23 III. Những giải pháp để phát huy nguồn lực con người ------------------------ 24 1. Trên lĩnh vực kinh tế -------------------------------------------------------- 24 2. Trên lĩnh vực chính trị ------------------------------------------------------ 25 3. Trên lĩnh vực văn hóa tư tưởng ------------------------------------------- 26 C – KẾT LUẬN --------------------------------------------------------------------------------- 27 D – TÀI LIỆU THAM KHẢO --------------------------------------------------------------- 28 A – GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI Xuất phát từ thế giới quan duy vật về lịch sử, C. Mác và Ph. Ăngghen cho rằng: mọi sự biến đổi của các chế độ xã hội trong lịch sử đều là quá trình phát triển của lịch sử tự nhiên. Đó là sự chi phối của quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Vận dụng lí luận của C. Mác và Ph. Ăngghen vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga trước đây, V.I. Lênin đã phát triển lí luận về thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa là tất yếu khách quan đối với tất cả các nước muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, ngay cả đối với các nước có nền kinh tế phát triển cao nhưng cần phải cải tạo và xây dựng quan hệ sản xuất mới, xây dựng nền văn hóa mới. Đối với nước ta, một nước nông nghiệp lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa thì lại càng phải trải qua một thời kì quá độ lâu dài. Nước ta bắt đầu thời kì quá độ từ năm 1954 ở miền Bắc và từ 1975 trên phạm vi cả nước sau khi đất nước độc lập. Theo chủ tịch Hồ Chí Minh, “Nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật chất và kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội,… tiếp dần lên chủ nghĩa xã hội, có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hóa và khoa học tiên tiến. Trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới, mà xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt lâu dài”. Do đó toàn đảng, toàn dân ta trong những năm qua đã đẩy nhanh quá trình công nghiêp hóa - hiện đại hóa, từ sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, ta đã kịp thời có những sự chuyển đổi từ Đại hội VI của Đảng (1986), sau đó đến Đại hội VII, VIII, IX ta đã tiếp tục xây dựng nền kinh tế mới – nền kinh tế thị trường có sự quản lí điều tiết của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình đổi mới đất nước nhằm nâng cao đời sống vật chất tinh thần của người dân, con người chính là mục tiêu của sự đổi mới và là động lực cho sự phát triển của nền kinh tế đất nước. Cùng với thời gian, con người ngày càng phát huy được vai trò của mình với tư cách là người chủ xã hội. Việt Nam là một nước kém phát triển, muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội cần phát huy có hiệu quả nguồn lực con người của đất nước. Nghiên cứu về vấn đề con người có rất nhiều mặt, trong giới hạn bài viết này xin được nghiên cứu con người và nguồn lực con người trên các phương diện: Truyền thống con người Việt Nam hiện nay Nhân cách con người Việt Nam hiện nay Nguồn lực con người Trên cơ sở nghiên cứu ba vấn đề trên ta thấy được vai trò của con người và nguồn lực con người trong quá trình xây dựng nền kinh tế mới. B – NỘI DUNG CHÍNH Cơ sở của việc nghiên cứu Cơ sở lí luận Bản chất con người Những vấn đề triết học về con người là một nôi dung lớn trong lịch sử triết học nhân loại. Tùy theo điều kiện lịch sử của mỗi thời đại mà nổi trội lên vấn đề này hay vấn đề kia. Đồng thời, tùy theo giác ngộ tiếp cận khác nhau mà các trường phái triết học, các nhà triết học trong lịch sử có những phát hiện, đóng góp khác nhau trong việc lí giải về con người. Mặt khác, trong khi giải quyết những vấn đề trên, mỗi nhà triết học, trường phái triết học có thể lại đứng trên lập trường thế giới quan, phương pháp luận khác nhau: duy vật hoặc duy tâm, biện chứng hoặc siêu hình, … Triết học phương Đông tiêu biểu là nền triết học Trung Hoa cổ đại, vấn đề bản tính con người là vấn đề được quan tâm hàng đầu. Giải quyết vấn đề này, các nhà tư tưởng của Nho gia và Pháp gia đã tiếp cận từ giác độ hoạt động thực tiễn chính trị, đạo đức của xã hội và đi đến kết luận bản tính con người là thiện (Nho gia) và bản tính con người là bất thiện (Pháp gia). Các nhà tư tưởng Đạo gia, ngay từ Lão tử thời Xuân Thu, lại tiếp cận giải quyết vấn đề con người từ giác độ khác và đi đến kết luận bản tính Tự Nhiên của con người. Còn các trường phái triết học Ấn Độ mà tiêu biểu là trường phái Đạo Phật đã kết luận về bản tính vô ngã, vô thường và tính hướng thiện của con người trên con đường truy tìm sự giác ngộ. Quan niệm về con người của triết học Phương Tây có nhiều điểm khác với nền triết học phương Đông. Nhìn chung, các nhà triết học đứng trên lập trường duy tâm chú trọng giác độ hoạt động lí tính của con người. Tiêu biểu cho giác độ tiếp cận này là quan điểm của Platon ở thời cổ đại Hy Lạp (ông coi bản chất con người là bản chất bất tử của linh hồn thuộc thế giới ý niệm tuyệt đối), Đêcáctơ trong nền triết học Pháp thời cận đại (ông cho bản chất của con người là bản chất phi kinh nghiệm của lí tính) và Hêghen trong nền triết học cổ điển Đức (ông cho rằng bản chất con người đó là lí tính tuyệt đối) … Đối lập với các nhà triết học duy tâm, thì các nhà triết học duy vật đã lựa chọn giác độ khoa học tự nhiên để lí giải bản chất con người và các vấn đề có liên quan. Ngay từ thời cổ đại, các nhà triết học duy vật đã từng đưa ra quan niệm về bản chất vật chất tự nhiên của con người, coi con người cũng như vạn vật tự nhiên không có gì thần bí, đều được cấu tạo nên từ vật chất. Tiêu biểu là quan niệm của Đêmôcrít về bản tính vật chất nguyên tử cấu tạo nên thể xác và linh hồn con người. Những quan niệm duy vật như vậy đã tiếp tục phát triển trong nền triết học Phục Hưng và Cận Đại mà tiêu biểu là các nhà duy vật nước Anh và Pháp thế kỉ XVIII, nó cũng là những tiền đề lí luận của chủ nghĩa duy vật nhân bản của Phoiơbắc. Ông đã tiến một bước đáng kể về nhận thức của con người. Ông khẳng định rằng: ý thức cũng như tư duy của con người chỉ là sản phẩm của tinh thần, mà chính tinh thần là sản phẩm tối cao của vật chất. Song khi xem xét con người, ông lại tách con người ra khỏi mối quan hệ nhất định của họ, không đặt họ trong những điều kiện sinh hoạt nhất định. Ông chỉ coi con người là “đối tượng cảm tính” mà không coi con người là hoạt động cảm tính. Nhìn chung các quan điểm triết học trước Mác và ngoài Mác-xít còn có một hạn chế cơ bản là phiến diện trong phương pháp tiếp cận lí giải các vấn đề triết học về con người. Do vậy trong thực tế lịch sử đã tồn tại lâu dài quan niệm trừu tượng về bản chất con người và những quan niệm phi thực tiễn trong lí giải nhân sinh, xã hội cũng như những phương pháp hiện thực nhằm giải phóng con người. Kế thừa những quan điểm trước đó và khi phê phán quan điểm của Phoiơbắc, Mác đã khái quát bản chất con người qua câu nói : “Phoiơbắc hòa tan bản chất tôn giáo vào bản chất con người. Nhưng bản chất con người không phải là cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa các quan hệ xã hội ”. Mác đã đưa ra một quan niệm hoàn chỉnh về khái niệm con người, bản chất con người, ông chỉ rõ hai mặt của con người là mặt sinh học và mặt xã hội đặt trong mối quan hệ giữa chúng. Bản chất sinh học của con người Mác xem xét con người với tư cách là cá nhân sống, Mác viết: “vì vậy điều cụ thể đầu tiên phải xác định là tổ chức cơ thể của những cá nhân ấy và mối quan hệ mà tổ chức cơ thể ấy tạo ra giữa họ và phần còn lại của giới tự nhiên”. Trước hết, Mác thừa nhận con người là một động vật cao cấp nhất. Cũng như mọi động vật khác, con người là bộ phận của tự nhiên hay nói cách khác, giới tự nhiên là thân thể vô cơ của con người nên con người chịu sự chi phối của các quy luật khách quan. Trong đó có những quy luật sinh học (đồng hóa – dị hóa, biến dị - di truyền, tương quan giữa cơ thể và môi trường…). Và cùng điều kiện khách quan đã tạo nên những nhu cầu sinh học của con người như ăn, ngủ, giao tiếp, nhận thức, duy trì nòi giống … Để thích nghi và tồn tại được, cũng như bao loài vật khác con người cũng phải đấu tranh sinh tồn. Từ đó đã định ra phương hướng và mục đích hoạt động của con người nhằm phục vụ lợi ích cho mình. Tuy nhiên, Mác không thừa nhận quan điểm cho rằng: cái duy nhất tạo nên bản chất con người là đặc tính sinh học và bản năng sinh vật của con người. Con người có đầy đủ các đặc trưng của sinh vật tuy nhiên cũng lại có nhiều điểm phân biết với các sinh vật khác. Trước Mác cũng đã có nhiều nhà tư tưởng lớn đã có những tiêu chí khác nhau phân biệt giữa con người với các động vật khác như: con người khác con vật ở chỗ con người biết sử dụng công cụ lao động (Phrankim) Arixtốt đã gọi con người là “một động vật có tính xã hội”, Pascal thì nhấn mạnh đặc điểm của con người và sức mạnh của con người là ở chỗ con người biết suy nghĩ. Các nhận định đó đều đúng khi nêu lên một khía cạnh nào đó của con người tuy nhiên lại phiến diện vì không nói lên được nguồn gốc của những đặc điểm ấy và mối quan hệ giữa chúng với nhau. Với phép biện chứng duy vật, Mác đã chỉ ra được vai trò của lao động tạo ra của cải vật chất “có thể phân biệt con người với súc vật, bằng ý thức, bằng tôn giáo, nói chung bằng bất cứ cái gì cũng được. Bản thân con người bắt đầu bằng sự tự phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình – đó là một bước tiến do tổ chức cơ thể của con người quy định. Sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình, như thế con người đã gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình”. Thông qua hoạt động sản xuất vật chất, con người đã làm thay đổi, cải biến tự nhiên (con người chỉ sản xuất ra bản thân nó còn con người tái sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên). Kết luận: Yếu tố sinh học trong con người là điều kiện đầu tiên quy định sự tồn tại của con người và là tiền đề cho việc thể hiện bản chất xã hội của con người. Bản chất xã hội của con người Con người là tổng hòa những quan hệ xã hội Con người là chủ thể của các mối quan hệ xã hội. Con người vượt lên thế giới loài vật trên cả ba phương diện khác nhau: quan hệ với tự nhiên, quan hệ với xã hội và quan hệ với chính bản thân con người. Cả ba mối quan hệ đó, suy đến cùng đều mang tính xã hôi. Trong đó quan hệ xã hội giữa người với người là quan hệ bản chất, bao trùm tất cả các mối quan hệ khác và mọi hoạt động trong chừng mực liên quan đến con người, mà quan hệ đầu tiên là quan hệ sản xuất. Vậy con người có tính xã hội, được biểu hiện trước hết trong hoạt động sản xuất vật chất. Trong hoạt động sản xuất vật chất con người không thể tách khỏi xã hội. Thông qua hoạt động lao động sản xuất, con người sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần để phục vụ cho đời sống của mình, đồng thời hình thành và phát triển ngôn ngữ. Ngôn ngữ chính là cái vỏ vật chất của tư duy và tư duy cũng chính là điểm phân biệt con người và các loài động vật khác. Tư duy của con người phát triển trong hoạt động và giao tiếp xã hội mà trước hết là hoạt động sản xuất. Bởi vậy, lao động là yếu tố quyết định hình thành bản chất xã hội của con người, đồng thời hình thành nên nhân cách cá nhân trong cộng đồng xã hội. Con người là sản phẩm của các mối quan hệ xã hội C. Mác đã nêu luận đề của mình trong tác phẩm Luận cương về Phoiơbắc: “Bản chất của con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất của con người là tổng hòa những quan hệ xã hội ”. Luận đề trên đã khẳng định: không có con người trừu tượng thoát li mọi điều kiện, hoàn cảnh lịch sử xã hội. Con người luôn luôn cụ thể, xác định, sống trong một điều kiện lịch sử cụ thể nhất định, một thời đại nhất định. Trong điều kiện lịch sử đó, bằng hoạt động thực tiễn của mình, con người đã tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển cả về thể lực và tư duy trí tuệ. Chỉ trong mối quan hệ đó (như quan hệ giai cấp, dân tộc, thời đại, quan hệ chính trị, kinh tế, quan hệ cá nhân, gia đình, xã hội…) con người mới bộc lộ bản chất xã hội của mình. Từ đó, con người có các nhu cầu xã hội được đáp ứng trên nền tảng đáp ứng nhu cầu sinh học của con người. Kết luận: Mặt thứ hai của bản chất con người đó là tổng hòa của những quan hệ xã hội, giúp cho chúng ta nhận thức đúng đắn, tránh khỏi cách hiểu sai lệch về mặt tự nhiên - cái sinh vật ở con người. Con người là thực thể thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội Mặt xã hội Mặt sinh học Từ những quan niệm trên, chúng ta có thể khẳng định rằng giữa bản chất sinh học và bản chất xã hội của con người là một sự thống nhất không tách rời. Mặt sinh học là cơ sở tất yếu tự nhiên của con người, còn mặt xã hội là đặc trưng, bản chất để phân biệt con người với loài vật. Nhu cầu sinh học phải được “nhân hóa” để mang giá trị văn minh của con người và đến lượt nó, nhu cầu xã hội không thể thoát li khỏi tiền đề của nhu cầu sinh học. Kết luận: Hai mặt trên thống nhất với nhau, hòa quyện vào nhau để tạo thành CON NGƯỜI, con người tự nhiên – xã hội. Nguồn lực con người Con người sáng tạo ra lịch sử của mình và cũng là sản phẩm của lịch sử. C. Mác khẳng định: “Cái học thuyết duy vật chủ nghĩa cho rằng con người là sản phẩm của những hoàn cảnh và của giáo dục… Cái học thuyết ấy quên rằng chính những con người làm thay đổi hoàn cảnh và bản thân nàh giáo dục cũng cần phải được giáo dục ”. Trong tác phẩm Biện chứng của tự nhiên Ph. Ăngghen viết: “Con người càng xa con vật, hiểu theo nghĩa hẹp của từ này bào nhiêu thì con người lại càng tự mình làm ra lịch sử của mình một cách có ý thức bấy nhiêu”. Như vậy, với tư cách là một thực thể của xã hội, con người tác động vào tự nhiên, cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự phát triển của lịch sử xã hội. Không có con người trừu tượng, chỉ có con người cụ thể trong mỗi giai đoạn phát triển nhất định của xã hội. Mặc dù, con người sáng tạo ra lich sử của mình, song vài trò quyết định sự phát triển xã hội là thuộc về quần chúng nhân dân hay các cá nhân có phần đặc biệt. Tư tưởng tôn giáo cho rằng mọi sự biến đổi trong xã hội là do ý chí của đấng tối cao, là do “mệnh trời”, ý chí đó là do cá nhân thực hiện. Chủ nghĩa duy tâm cho rằng lịch sử nhân loại là lịch sử của các bậc vua chúa, anh hùng hào kiệt, thiên tài lỗi lạc. Còn quần chúng nhân dân chỉ là lực lượng tiêu cực, là “phương tiện” mà các vĩ nhân cần đến để đạt mục đích của mình. Những nhà tư tưởng đề cao vai trò của quần chúng nhân dân nhưng không nhận thức được một cách khoa học vai trò đó. Có người đề cao vai trò của quần chúng nhân dân nhưng lại phủ nhận hoàn toàn vai trò của cá nhân đặc biệt. Chủ nghĩa duy vật trước Mác tuy không tin vào Thượng Đế, thần linh nhưng lại cho rằng: nhân tố quyết định sự phát triển của xã hội là tư tưởng, đạo đức, là các vĩ nhân sớm nhận thức được chân lý vĩnh cửu. Còn chủ nghĩa Mác – Lênin đã chứng minh một cách khoa học vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử và xác định đúng đắn mối quan hệ giữa vai trò cá nhân điển hình là lãnh tụ với quần chúng nhân dân trong lịch sử phát triển cảu xã hội. Quần chúng nhân dân là chủ thể sáng tạo chân chính ra lịch sử, được thể hiện ở các mặt: Quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội, trực tiếp sản xuất ra của của cải vật chất, là cơ sở của sự tồn tại và sự phát triển của của xã hội. Con người muốn tồn tại thì phải có những điều kiện vật chất hết sức cần thiết đáp ứng nhu cầu ăn, mặc, ở… mà những nhu cầu đó chỉ có thể đáp ứng thông qua sản xuất. Lực lượng sản xuất cơ bản là đông đảo quần chúng nhân dân lao động gồm lao động chân tay và lao động trí óc. Thực tiễn sản xuất là cơ sở và động lực của sự phát triển khoa học kĩ thuật và khoa học kĩ thuật làm tăng năng suất lao động của quần chúng nhân dân lao động. Điều đó khẳng định rằng, hoạt động sản xuất của quần chúng nhân dân là điều kiện cơ bản đề quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội. Quần chúng nhân dân là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội Trong xã hội có giai cấp mâu thuẫn giữa LLSX và QHSX biểu hiện thành mâu thuẫn giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị. Cách mạng xã hội sẽ xảy ra khi QHXH không còn phù hợp với LLSX để xoá bỏ QHSX cũ thiết lập QHSX mới phù hợp với sự phát triển của LLSX mới. Quần chúng nhân dân luôn là lực lượng cơ bản và quyết định thắng lợi của cách mạng. Đó thực sự là sự nghiệp của quần chúng nhân dân chứ không phải của một vài cá nhân. Quần chúng nhân dân có vai trò to lớn, không thể thay thế trong sản xuất tinh thần. Hồ Chí Minh nhận định “ Quần chúng là những người sáng tạo, công nông là những người sáng tạo. Nhưng, quần chúng không phải chỉ sáng tạo ra những của cải vật chất cho xã hội. Quần chúng còn là người sáng tác nữa...Những sáng tác ấy là những hòn ngọc quý”. Vậy quần chúng nhân dân đóng vai trò quyết định trong sự phát triển lịch sử, vai trò đó được phát huy cao độ một khi đông đảo quần chúng thoát khỏi sự trói buộc của những tư tưởng phản động, phản khoa học, những tập quán còn lạc hậu và được giác ngộ những tư tưởng khoa học và cách mạng. Theo quan điểm Mác- Lênin vai trò của quần chúng và vai trò của cá nhân trong lịch sử không tách rời nhau trái lại có quan hệ khăng khít với nhau. Cá nhân ưu tú lãnh tụ kiệt xuất là sản phẩm là con đẻ của phong trào quần chúng nên sức mạnh của họ, trí tuệ của họ bắt nguồn từ quần chúng nhân dân. Lênin viết “ Trong lịch sử, chưa hề có một giai cấp nào giành được thống trị, nếu nó không đào tạo ra được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị những đại biểu tiên phong cúa đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào ”. Chủ nghĩa Mác- Lênin đánh giá rất cao vai trò của cá nhân anh hùng của lãnh tụ trong sự phất triển của lịch sử nhưng kiên quyết chống lại tề sùng bái cá nhân. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác- Lênin luôn coi sùng bái cá nhân là hiện tượng hoàn toàn xa lạ với hệ tư tưởng của giai cấp vô sản. Cơ sở thực tế Nước ta đang tiến hành quá trình xây dựng nền kinh tế mới kinh tế thị trường có sự quản lí, điều tiết của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong nền kinh tế ấy thì vấn đề con người càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Con người là mục tiêu đồng thời cũng là động lực của sự phát triển kinh tế-xã hội. Là chủ thể sáng tạo nên lịch sử, con người đã thỏa mãn nhu cầu của mình bằng cách góp phần đưa xã hội đi lên. Tiềm năng phong phú đa dạng của xã hội loài người, là nguồn tài nguyên vô tận, quý báu nhấtvà ngày càng phát triển cùng với sự phát triển của nền văn minh nhân loại. Trong nền kinh tế thị trường thì động lực con người càng thể hiện rõ hơn trong nền sản xuất hàng hóa-nền sản xuất có sự ứng dụng rộng rãi của các tiến bộ khoa học - kỹ thuật. Sau chiến tranh, với nền kinh tế bao cấp, nước ta đã rơi vào tình trạng trì trệ kém phát triển. Từ thực trạng đó, tại Đại hội VI Đảng cộng sản Việt Nam đã nhìn lại chặng đường đã qua và đã có những bước đi mới đó là chuyển đổi cơ cấu kinh tế sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Với sự thay đổi đó thì vấn đề con người được quan tâm chú trọng nhiều hơn và có nhiều cơ hội để phát huy vai trò của mình trong sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Thực trạng các vấn đề nghiên cứu Truyền thống con người Việt Nam Giá trị đạo đức truyền thống là tiền đề cơ bản để tạo dựng nên đạo đức lành mạnh của xã hội, góp phần giữ gìn và nâng cao bản sắc văn hóa dân tộc phát huy mặt tích cực và hạn chế đến mức thấp nhất mặt trái của thị trường. Mặt tích cực Tiếp tục kế thừa và phát huy truyền thống của con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Con người Việt Nam có truyền thống yêu nước từ bao đời nay, như Lênin đã viết chủ nghĩa yêu nước là “… một trong những tình cảm sâu sắc nhất được củng cố qua hàng trăm năm, hàng ngàn năm của các tổ quốc biệt lập”. Yêu nước đối với mỗi người dân Việt Nam là đặt lợi ích của Tổ quốc và nhân dân lên hàng đầu, chăm lo xây dựng đất nước, kiên quyết đấu tranh chống đô hộ và xâm lược, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Lòng yêu nước là động lực tinh thần to lớn, có sức cổ vũ mạnh mẽ nhân dân ta trong sự nghiệp xây dựng đất nước hiện nay. Có thể nói lòng yêu nước, thương người là giá trị định hướng của các giá trị đạo đức, tinh thần truyền thống Việt Nam, là cơ sở chủ nghĩa anh hùng, là tinh thần đoàn kết… của nhân dân ta. Người Việt Nam ta còn có truyền thống hiếu học từ ngàn xưa. Mặc dù nước ta còn nghèo nàn lạc hậu nhưng không vì thế mà truyền thống hiếu học của ta bị giảm sút. Ngược lại, chúng ta đã thể hiện tài năng, hiểu biết, kiến thức của mình trên mọi lĩnh vực trong khu vực và trên thế giới. Gắn với truyền thống hiếu học còn có truyền thống tôn sư trọng đạo. Nước ta có ngày 20/11 hàng năm là ngày nhà giáo Việt Nam để thể hiện lòng biết ơn đối với các thầy cô giáo đã có công dạy dỗ chúng ta nên người. Cùng với đó, là các mối quan hệ cộng động như quan hệ gia đình, họ hàng, làng xóm tiếp tục được phát triển và ngày càng tốt đẹp. Đây là nét đẹp văn hóa của dân tộc ta và là khuynh hướng chủ đạo chi phối tâm thức và hành vi của người Việt Nam hiện nay. Bên cạnh những giá trị truyền thống đó thì trong điều kiện kinh tế mới hiện nay, nó đã được kế thừa và phát huy một cách tích cực theo hướng hiện đại hóa phù hợp và đáp ứng mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Hạn chế Cuộc sống theo cơ chế thị trường “có những tác động tiêu cực mâu thuẫn với bản chất của chủ nghĩa xã hội ” (Đảng cộng sản Việt Nam) làm cho nhiều giá trị truyền thống cũng được thay đổi theo hướng đó, dần làm mất đi bản sắc dân tộc. Hiện tượng suy thoái về đạo đức do ham muốn làm giàu bằng mọi giá đã dẫn tới một số người đến với những hành vi vi phạm lợi ích của cộng đồng như tham nhũng, làm ăn bất lương (buôn lậu, làm hàng giả…) và sa vào các tệ nạn xã hội khác (trộm cướp, cờ bạc…) làm thiệt hại lớn cho nhà nước. Những tệ nạn xã hội trước đây chỉ diễn ra tự phát với quy mô nhỏ thì nay có nguy cơ lan rộng và mang tính tội phạm có tổ chức cao với hình thức tinh vi hơn và quy mô không chỉ giới hạn ở một quốc gia mà là xuyên quốc gia. Bên cạnh đó, các di sản văn hóa dân tộc cũng không được quan tâm đúng mức. Theo số liệu thống kê những năm gần đây cho thấy: Số người thăm viếng các công trình văn hóa, di tích lịch sử của quê hương đất nước chiếm tỉ lệ rất nhỏ (khoảng dưới 10%) và đối với các loại hình nghệ thuật truyền thống, số người ham thích cũng ở mức hạn chế (chèo khoảng 18,59%, tuồng khoảng 6,8% ...). Xã hội phát triển đi liền với nó là những quan niệm về đạo đức mới cũng ngày càng phát triển, con người mới nhìn xã hội theo cách riêng của họ mà đôi khi xem nhẹ giá trị truyền thống. Nền giáo dục của nước ta hiện nay đang phát triển mạnh. Việc tiến hành phổ cập tiểu học đã giải quyết được hơn 90% nạn mù chữ ở nước ta. Bên cạnh những thành tựu mà ta đã đạt được về mặt giáo dục nhưng vẫn còn có những chính sách giáo dục còn chưa thực sự đúng đắn. Chúng ta coi trọng về mặt tự nhiên nhiều hơn về mặt xã hội, nên sự hiểu biết về mặt dân tộc, về các giá trị truyền thống khác của dân tộc của học sinh, sinh viên còn rất hạn hẹp. Một tình trạng khá phổ biến ở đây là có rất nhiều học sinh, sinh viên tốt nghiệp ra trường loại khá giỏi nhưng vấn đề truyền thống dân tộc, lịch sử dân tộc lại không biết một chút gì. Điển hình, trong kì thi tuyển sinh đại học, cao đẳng năm 2006, có một số lượng không nhỏ thí sinh bị điểm 0 đối với các môn lịch sử, địa lý, có khá nhiều những bài văn được đánh giá là “văn lạ”. Những thực trạng trên đây là một thách thức lớn đối với sự nghiệp Đổi mới, công nghiệp hóa – hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nguyên nhân của thực trạng Con người sống trong nền kinh tế thị trường coi nặng vật chất hơn tinh thần. Nền kinh tế mới luôn có sự cạnh tranh quyết liệt, để có thể tồn tại và phát triển được con người đã dần hình thành nên một nét mới, đó là xem nặng giá trị vật chất, giá trị tinh thần cũng được quy đổi về giá trị vật chất. Hơn nữa, mặt trái của hội nhập quốc tế đó là: trong khi các nước trên thế giới đang tăng cường giao lưu trao đổi văn hóa, sự mở rộng quan hệ quốc tế, bên cạnh những nét đẹp, nét mới đáng học hỏi của các bạn thì còn có những luồng văn hóa xấu xâm nhập vào nước ta bằng những con đường khác nhau. Nhất là giới trẻ đã làm cho quan niệm sống của họ thay đổi và hình thành nên quan niệm sống mới. Mặt khác, sự thờ ơ, thiếu quan tâm của mọi người đến các giá trị truyền thống làm cho nó dần dần bị mai một đi theo sự phát triển của xã hội. Như vậy, những giá trị truyền thống tốt đẹp của nhân dân ta từ trước tới nay vẫn đang được phát huy. Tuy nhiên do nhiều nguyên nhân khác nhau mà những mặt tiêu cực có xu hướng tăng lên. Nhân cách con người Việt Nam Nhân cách là khái niệm chỉ bản sắc độc đáo, riêng biệt của mỗi cá nhân. Nhân cách là sự tổng hợp các yếu tố sinh học, tâm lý, xã hội tạo nên mỗi đặc trưng riêng của mỗi cá nhân. Nhân cách đóng vai trò chủ thể tự ý thức, tự đánh giá, tự khẳng định và tự điều chỉnh mọi hành vi của mình. Mặt tích cực Nhân cách khẳng định lòng yêu nước, ý thức bảo vệ Tổ quốc của con người Việt Nam hình thành và phát triển trên cơ sở lịch sử vững chắc, được tôi luyện trong đấu tranh dựng nước và giữ nước hàng ngàn năm. Từ khi có Đảng lãnh đạo thì lòng yêu nước và ý thức bảo vệ Tổ quốc ngày càng cao biến thành sức mạnh to lớn chiến thắng hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, ngày nay nó góp phần xây dựng đất nước giàu mạnh theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhân cách làm cho con người xác định đúng đắn về lẽ sống, lối sống, nếp sống nghĩa là biết sống lương thiện, tử tế, có trách nhiệm với chính bản thân mình và xã hội. Khi đời sống vật chất và các yêu cầu về ăn mặc được nâng cao thì con người lại nâng cao trình độ học vấn của mình để tăng thêm sự hiểu biết. Con người bây giờ nhìn nhận một vấn đề cũng khá đầy đủ các tri thức cần thiết, đồng thời hình thành nên một kiểu nhân cách mới, không phủ nhận quá khứ dân tộc mà nhìn cuộc sống hiện nay với con mắt riêng của thế hệ mình. Bác Hồ đã viết: “Nước độc lập mà dân không được hạnh phúc thì độc lập ấy có ý nghĩa gì?”. Vì thế, thế hệ trẻ hiện nay đang tiếp bước cha ông ta, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Ngoài ra, họ còn hăng hái học tập, thi đua, tham gia vào quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa để phát triển kinh tế đất nước. Sự hình thành nhân cách là hiên tượng tất nhiên, hợp với quy luật của lịch sử. Chính nền kinh tế thị trường đã thúc đẩy việc hình thành nhân cách, đòi hỏi con người phải năng động sáng tạo hơn, tự mình phải làm chủ được mình, tự quyết định vận mệnh của mình, từ đó góp phần quyết định vận mệnh của đất nước. Hạn chế Bên cạnh những mặt tích cực trong nhân cách con người Việt Nam hiện nay song vẫn còn tồn tại những mặt hạn chế. Đó là : Xu thế của con người Việt Nam hiện nay là động cơ vật chất lấn át nhu cầu đạo đức và chính trị. Con người ngày nay không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của mình. Vì lòng tham, nhiều người đã đi quá giới hạn cho phép. Vì địa vị xã hội, vì sự giàu có, đôi khi họ đã đi “đường tắt” mà không tự nâng cao trình độ của mình. Mối quan hệ giữa người với người bị chi phối bởi đồng tiền và lợi ích vật chất, làm cho mối quan hệ gia đình, bạn bè … được giải quyết bằng tiền bạc hay các giá trị vật chất khác. Lối sống thực dụng vừa là nguyên nhân vừa là hậu quả của sự xung đột giữa các thế hệ, các thành viên trong gia đình và các tầng lớp trong xã hội. Nhân cách con người trong giáo dục đạo đức bị buông lỏng, kém hiệu quả. Tình trạng thanh thiếu niên phạm pháp ngày càng gia tăng và có xu hướng phát triển mạng mẽ. Sự suy đồi về lối sống tạo nên sự li tán gia đình, con cái có chiều hướng tăng lên, đó là một trong những tác động làm tăng tỉ lệ phạm tội ở phụ nữ và trẻ em. Những hành vi lệch chuẩn phổ biến hơn đồng thời những chuẩn mực đạo đức cũng có những thay đổi nhất định. Chính những thay đổi này trong ý thức, đã góp phần tác động trực tiếp đến tình hình trật tự an toàn xã hội ở nước ta khi chuyển sang nền kinh tế thị trường. Bên cạnh đó, tình trạng thi hành pháp luật không nghiêm, thiếu đồng bộ trong các cơ quan thực thi pháp luật đã góp phần tạo nên tâm lý coi thường pháp luật của người dân. Tính nghiêm minh của pháp luật không được đảm bảo nên nhiều kẻ phạm tội vẫn sống nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật, khuyến khích phạm tộ hoặc lôi kéo người khác phạm tội. Mù quáng trước tiền bạc, không ít người đã mất đi lý tưởng, ước mơ và nhân cách của chính bản thân mình. Nguyên nhân của thực trạng Nước ta đang trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội giữa cái cũ và cái mới chưa có sự phân chia rõ ràng, con người cũ và con người mới còn tồn tại nhiều mâu thuẫn, đấu tranh giữa cái cũ và cái mới là cả một quá trình lâu dài. Và đôi khi con người ta xác định sai lệch những chuẩn mực về lẽ sống, về quan niệm sống dẫn đến những hành vi lệch lạc, trái với đạo đức của con người. Mặt trái của cơ chế thị trường và hội nhập mang lại, nếu mỗi người không tự cố gắng, không biết giữ mình thì sẽ ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35975.doc
Tài liệu liên quan