Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Không phải ngẫu nhiên mà năm 2002 được Liên hợp quốc chọn là năm quốc tế về miền núi. Qua thực tế và qua hàng loạt Hội nghị quốc tế về môi trường từ năm 1972 đến nay, đặc biệt là Hội nghị Môi trường Quốc tế lần thứ nhất tại Stốckhôm năm 1972, Hội nghị thượng đỉnh về Trái Đất tại Rio De Janeiro năm 1992 và ở Johan Nesburg (Nam Phi) năm 2002, nhân loại đã phải chứng kiến biết bao thảm họa về môi trường do chính mình gây ra. Một trong những nguyên nhân quan trọ
79 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1496 | Lượt tải: 5
Tóm tắt tài liệu Vấn đề bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng núi Đông Bắc nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng gây nên các cuộc khủng hoảng sinh thái cục bộ và đang đe dọa một cuộc khủng hoảng sinh thái toàn cầu là sự khai thác và sử dụng một cách vô ý thức, bừa bãi, lãng phí các nguồn tài nguyên thiên nhiên và môi trường, đặc biệt là sự lãng quên các giá trị văn hóa sinh thái ở vùng rừng núi - nơi được coi là "lá phổi", là "mái nhà" của thế giới sống. Qua đó, có thể thấy rằng, tự nhiên nói chung, đặc biệt là những nơi khởi nguồn của những dòng sông, của những cánh rừng bạt ngàn, những dãy núi trùng điệp, những thảo nguyên mênh mông đang có những vấn đề gay cấn và nan giải, đòi hỏi phải có sự quan tâm nghiên cứu và giải quyết. Do đó, vấn đề môi trường sinh thái nhân văn, đặc biệt là vấn đề môi trường ở các vùng núi đã trở thành vấn đề cấp bách mang tính toàn cầu, được cả nhân loại quan tâm vì sự sinh tồn của chính con người.
Vì sự tồn tại và phát triển của mình, con người phải quan hệ với tự nhiên và quan hệ với nhau; trong quá trình đó, những giá trị văn hóa sinh thái cũng dần dần được hình thành. Nghĩa là những giá trị văn hóa sinh thái gắn liền với mối quan hệ giữa con người và môi trường thiên nhiên. Vì vậy, trong quá trình bảo tồn và phát triển các giá trị văn hóa sinh thái, cần phải tính đến các yếu tố của môi trường tự nhiên và mối quan hệ, sự tác động giữa con người với tự nhiên mà kết quả của chúng được biểu hiện trong các giá trị văn hóa sinh thái. Do đó, vấn đề môi trường tự nhiên hiện nay không chỉ đơn giản là vấn đề sinh học, sinh thái học thuần túy, mà thực chất nó còn là vấn đề văn hóa và lối sống của con người, vấn đề văn hóa sinh thái nhân văn.
ở nước ta hiện nay, những vùng có điều kiện tự nhiên đa dạng như vùng rừng rậm, vùng núi cao, …đều là những vùng sâu, vùng xa, trình độ phát triển về mọi mặt nói chung còn rất hạn chế so với mặt bằng chung của cả nước. Những giá trị văn hóa sinh thái truyền thống được hình thành và phát triển từ nhiều đời nay của những khu vực này đang chịu sự tác động mạnh mẽ của kinh tế thị trường, của khoa học, công nghệ hiện đại, của sự hội nhập,... đang có những biến đổi theo cả xu hướng tích cực lẫn tiêu cực, tuy nhiên theo xu hướng tiêu cực vẫn nhiều hơn. Điều này do trình độ nhận thức của người dân còn thấp, các điều kiện thiên nhiên phức tạp, xa xôi, cách trở, kinh tế - xã hội còn lạc hậu,…của vùng này tạo nên. do vậy, việc bảo tồn và phát huy những mặt tích cực, còn phù hợp của các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở các vùng này đang được đặt ra hết sức cấp thiết nhằm phục vụ cho mục tiêu phát triển bền vững của đất nước, mà trước tiên là phát triển bền vững các vùng đặc biệt này. Vấn đề này luôn được Đảng và Nhà nước ta hết sức quan tâm, và khẳng định: "tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái" [12, tr. 72](*) Từ đây: - Số đầu là số thứ tự trong danh mục tài liệu tham khảo.
- Số cuối là số trang của tài liệu tham khảo.
.
Khu vực miền núi Đông Bắc nước ta là một vùng có nhiều dân tộc khác nhau cùng sinh sống, do đó ở đây, trải qua nhiều thế hệ đã hình thành nên một vùng văn hóa đặc thù và đa dạng. Vùng này có vị trí địa lý và môi trường tự nhiên rất đặc biệt, là nơi khởi nguồn cung cấp nước cho các con sông chính của đồng bằng Bắc bộ. Nơi đây còn có rừng rậm, núi cao nên được coi là "lá phổi", là "mái nhà" của cả nước. Do đó, việc nghiên cứu và bảo vệ, phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng này là một đóng góp không nhỏ vào quá trình xây dựng và phát triển bền vững của đất nước. Trong khi đó, việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng núi Đông Bắc nước ta hiện nay còn nhiều hạn chế do các điều kiện kinh tế, xã hội và sự nhận thức của con người ở đây còn nhiều bất cập so với yêu cầu đặt ra. Vì vậy, vấn đề bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng này hiện nay đang là vấn đề cấp bách cần được nghiên cứu cả trên bình diện lý luận lẫn thực tiễn.
Chính vì những lý do trên mà chúng tôi đã chọn đề tài "Vấn đề bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng núi Đông Bắc nước ta hiện nay" làm đề tài luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề xây dựng, phát triển văn hóa luôn được Đảng ta chú ý ngang tầm với những vấn đề phát triển kinh tế - xã hội và đã xác định: văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Trong xu thế hội nhập và toàn cầu hóa hiện nay, Đảng ta đã tiếp tục khẳng định phải giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc, chúng ta "hòa nhập" nhưng không "hòa tan". Và điều này đã được bàn đến rất cụ thể trong Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương khóa VIII. Mặt khác, trước nguy cơ cạn kiệt các nguồn tài nguyên thiên nhiên và ô nhiễm nặng nề môi trường sống hiện nay, cũng như nhu cầu cấp thiết của phát triển bền vững, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (15-11-2004). Với mục tiêu chung là tìm ra con đường để nước ta phát triển nhanh và phát triển bền vững, đã có nhiều công trình nghiên cứu đến những vấn đề văn hóa và vấn đề sinh thái ở nước ta hiện nay như:
Về văn hóa nói chung có các công trình: "Văn hóa và đổi mới" (Nxb Chính trị quốc gia, H, 1994) của cố vấn Phạm Văn Đồng, trong đó tác giả đã đề cập đến văn hóa một cách có hệ thống và nêu lên được mối quan hệ giữa văn hóa và đổi mới; "Sự chuyển đổi các giá trị trong văn hóa Việt Nam" (GS.TS Đỗ Huy, PGS. Trường Lưu, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1989); "Chân - thiện - mỹ sự thống nhất và đa dạng trong văn hóa nghệ thuật" (Đỗ Huy, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1994); "Tìm hiểu giá trị văn hóa truyền thống trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa" (GS.TS. Nguyễn Trọng Chuẩn - TS. Phạm Văn Đức - TS. Hồ Sĩ Quý, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001);... Nhìn chung, các công trình này nghiên cứu văn hóa dưới góc độ lý luận chung và đã đạt được những thành công to lớn trong việc nghiên cứu khái niệm, cấu trúc, giá trị, vai trò, hình thức biểu hiện của văn hóa.
Dưới góc độ văn hóa các dân tộc ít người, có các công trình: "Văn hóa truyền thống Tày Nùng" (Hoàng Quyết, Ma Khánh Bằng, Hoàng Huy Phách, TS. Cung Văn Lược, PGS. Vương Toàn, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 1993); "Văn hóa truyền thống các dân tộc Hà Giang" (Hùng Đình Quý, Sở Văn hóa - Thông tin Hà Giang xuất bản, 1994); "Văn hóa dân tộc H mông Hà Giang" (PSG. Trường Lưu và Hùng Đình Quý, Sở Văn hóa - Thông tin - Thể thao Hà Giang xuất bản, 1996); "Văn hóa truyền thống người Dao ở Hà Giang" (Phạm Quang Hoan và Hùng Đình Quý, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 1999); "Văn hóa các dân tộc Việt Nam thống nhất mà đa dạng" (Nông Quốc Chấn - Huỳnh Khái Vinh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002),... Các công trình trên về cơ bản chỉ nghiên cứu văn hóa của một số dân tộc ít người tương đối điển hình trong cộng đồng các dân tộc thiểu số ở nước ta như: Tày, Nùng, Dao, Mông, Thái, Ê đê,... vẫn còn văn hóa của nhiều dân tộc thiểu số khác chưa được nghiên cứu và công bố rộng rãi.
Vấn đề sinh thái và môi trường đã có một số công trình đề cập đến như: "Môi trường sinh thái - Vấn đề và giải pháp" (Phạm Thị Ngọc Trầm, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1997); "Xã hội học môi trường" (Vũ Cao Đàm, Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, 2002); cuốn "Sinh thái học và môi trường" (Bộ Giáo dục và Đào tạo, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2002),... Nhìn chung, qua các công trình nêu trên, vấn đề sinh thái và môi trường đã được khai thác có hệ thống, nhất là những cảnh báo từ môi trường và các tương tác của nó đến sự phát triển đã được đề cập tương đối rõ nét.
Vấn đề văn hóa sinh thái mới chỉ được quan tâm trong thời gian gần đây, khi mà thực trạng môi trường sống đang có nhiều vấn đề có liên quan đến văn hóa, lối sống... Nghiên cứu về vấn đề này, có thể kể ra một số công trình như: "Văn hóa sinh thái - nhân văn" (Trần Lê Bảo (chủ biên), Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 2001); "Văn hóa ứng xử của người Hà Nội với môi trường thiên nhiên" (Nguyễn Viết Chức (chủ biên), Nxb Văn hóa - Thông tin, 2002); "Kỷ yếu diễn đàn phát triển bền vững miền núi Việt Nam" (ủy ban dân tộc, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, 2003); "Một số vấn đề về bảo vệ môi trường vùng dân tộc và miền núi" (ủy ban dân tộc, Nxb Thống kê, Hà Nội, 2003); "Những giá trị văn hóa sinh thái nhân văn Hồ Chí Minh" (Phạm Thị Ngọc Trầm, Tạp chí Triết học, số 12, 2003); "Về cách tiếp cận triết học - xã hội đối với hiện trạng môi trường sinh thái nhân văn ở Việt Nam: các vấn đề, nguyên nhân và giải pháp" (Phạm Thị Ngọc Trầm, Tạp chí Triết học, số 6, 2004); ngoài ra cũng có một số luận án tiến sĩ triết học đã bước đầu đi vào nghiên cứu văn hóa sinh thái như: "Mối quan hệ giữa thích nghi và biến đổi môi trường tự nhiên của con người trong quá trình hoạt động sống" Luận án tiến sĩ của Đỗ Thị Ngọc Lan bảo vệ năm 1995, với nội dung chủ yếu bàn về mối quan hệ giữa thích nghi và biến đổi môi trường tự nhiên của con người trong quá trình hoạt động sống, cụ thể là trong quá trình lao động, và sự phát triển lâu bền với mối quan hệ thích nghi và cải tạo môi trường tự nhiên; "Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường cho sự phát triển lâu bền" Luận án tiến sĩ của Bùi Văn Dũng bảo vệ năm 1999, với nội dung chủ yếu bàn về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường, và đưa ra một số giải pháp để kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường cho sự phát triển lâu bền ở Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa; luận án "Xây dựng ý thức sinh thái - yếu tố bảo đảm cho sự phát triển lâu bền" của Phạm Văn Boong bảo vệ năm 2001, với nội dung chủ yếu bàn về vai trò của ý thức sinh thái đối với sự phát triển lâu bền và vấn đề xây dựng ý thức sinh thái trong điều kiện phát triển mới của thời đại;... Nhìn chung, các công trình này mới chỉ đề cập đến văn hóa sinh thái ở dưới một số góc độ khác nhau, mức độ khái quát tổng thể về nội dung giá trị văn hóa sinh thái vẫn chưa rõ nét. Nó chỉ được đề cập đến như là một nội dung nằm trong toàn bộ vấn đề văn hóa hoặc sinh thái nói chung, và nằm rải rác trong nhiều công trình nghiên cứu khác nhau.
Về công tác bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa, đặc biệt là các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở trong cả nước nói chung cũng như ở vùng núi Đông Bắc nói riêng trong thời gian qua hầu như chưa được nghiên cứu đến mà mới chỉ được đề cập chung trong công tác bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống nói chung. ở đây có thể kể đến một số công trình đã công bố có liên quan tới vấn đề này như: "Phát triển văn hóa, giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc kết hợp với tinh hoa nhân loại" (Phạm Minh Hạc, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1996); "Sáng tạo và bảo tồn giá trị văn hóa, văn nghệ các dân tộc thiểu số Việt Nam" (Hội Văn học - Nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam, in tại trường Trung học Kỹ thuật In, Hà Nội, 1998); "Tính đa dạng của văn hóa Việt Nam: những tiếp cận về sự bảo tồn" (Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, Hà Nội, 2002).
Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng núi Đông Bắc nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay. Vì vậy, luận văn không trùng lặp với bất kỳ luận văn, công trình nào đã được công bố. Những tài liệu trên chỉ có tác dụng tham khảo cho việc nghiên cứu đề tài của tác giả luận văn.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Mục đích của luận văn là nghiên cứu một số giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng núi Đông Bắc nước ta; chỉ ra sự cần thiết và một số giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy mặt tích cực, còn phù hợp của các giá trị đó trong điều kiện đổi mới hiện nay, hướng đến mục tiêu phát triển bền vững của đất nước nói chung và của vùng đất đặc biệt này nói riêng.
- Với mục đích đó, luận văn có những nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, làm rõ khái niệm "giá trị văn hóa sinh thái truyền thống" và xác định một số giá trị văn hóa sinh thái truyền thống của vùng núi Đông Bắc nước ta.
Thứ hai, làm rõ thực trạng của việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng núi Đông Bắc: những kết quả đã đạt được và những vấn đề cần khắc phục, bổ sung.
Thứ ba, chỉ ra những nguyên nhân chủ yếu của thực trạng. từ đó, bước đầu đề xuất một số phương hướng và giải pháp để bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng núi Đông Bắc nước ta hiện nay nhằm hướng tới mục tiêu phát triển bền vững.
- Về giới hạn nghiên cứu đề tài:
Đây là một đề tài rộng có liên quan đến nhiều ngành khoa học. ở đây luận văn chỉ giải quyết vấn đề dưới góc độ chuyên ngành triết học. Trên cơ sở lý luận chung về văn hóa, chúng tôi xem xét vấn đề văn hóa sinh thái từ cách tiếp cận giá trị.
Khu vực miền núi Đông Bắc nước ta về mặt phân giới địa lý chỉ mang tính tương đối và ở khu vực này có rất nhiều dân tộc khác nhau cùng sinh sống, nên văn hóa sinh thái truyền thống của các dân tộc ở đây rất đa dạng, phong phú. Trong phạm vi của luận văn này chỉ có thể đi sâu vào nghiên cứu những giá trị văn hóa sinh thái truyền thống của một số dân tộc tiêu biểu như: Tày, Nùng, Dao, Mông vì đây là những dân tộc chiếm tỷ lệ cao trong tổng số dân cư của vùng, văn hóa sinh thái của họ hiện nay còn lưu giữ lại được nhiều giá trị truyền thống, họ lại đại diện cho các tộc người sinh sống ở cả ba vị trí thung lũng, lưng núi và trên núi cao, nên các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống của họ mang tính đặc trưng chung cho giá trị văn hóa sinh thái truyền thống cả vùng núi Đông Bắc.
Do điều kiện về lịch sử và địa lý của nước ta và tính chất giao thoa mạnh mẽ của văn hóa, nên những đặc trưng về văn hóa sinh thái ở vùng này không độc lập, riêng rẽ với văn hóa sinh thái của các vùng khác mà chỉ mang tính tương đối.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu và trình bày của luận văn dựa trên cơ sở lý luận và các nguyên tắc phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam có liên quan đến đề tài. Luận văn còn kế thừa, tiếp thu có chọn lọc những tư tưởng của một số công trình nghiên cứu khoa học đi trước như các bài viết, các luận án, luận văn, các tư liệu điều tra, khảo sát,... có liên quan đến nội dung được đề cập trong luận văn.
Về mặt phương pháp, luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, các phương pháp phân tích và tổng hợp, thống kê, đối chiếu và so sánh, lôgic và lịch sử... với quan điểm phải có sự kết hợp, thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong nghiên cứu cũng như trong trình bày.
5. Đóng góp của luận văn
- Luận văn trình bày một cách tương đối rõ ràng về "giá trị văn hóa sinh thái truyền thống" và bước đầu chỉ ra được một số giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng núi Đông Bắc nước ta. Từ đó, luận văn góp phần nâng cao nhận thức trong việc giải quyết vấn đề "sinh thái" - một vấn đề cấp bách không chỉ đối với vùng núi Đông Bắc mà còn đối với cả nước nói riêng cũng như đối với toàn cầu nói chung.
- Thông qua việc phân tích thực trạng bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng núi Đông Bắc, luận văn đã chỉ ra được những nhân tố chủ yếu có ảnh hưởng tới công việc này và chỉ ra được một số nguyên nhân dẫn tới thực trạng trên.
- Luận văn bước đầu nêu lên một số phương hướng và giải pháp để bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng núi Đông Bắc gắn với sự phát triển bền vững của vùng này cũng như của cả nước.
6. ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Luận văn góp phần củng cố nhận thức lý luận về văn hóa sinh thái, nhất là các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống. Từ đó, góp phần nâng cao sự nhận thức đúng đắn về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên, tạo cho con người có một thái độ đúng đắn, hợp quy luật trong quá trình khai thác và sử dụng tự nhiên. Luận văn còn có thể sử dụng vào việc nghiên cứu những vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc ở miền núi nước ta trong giai đoạn hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục các tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 2 chương, 4 tiết.
Chương 1: Các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng núi Đông Bắc nước ta
1.1. Giá trị văn hóa sinh thái - một số vấn đề lý luận
1.1.1. Khái niệm văn hóa sinh thái và những đặc trưng của giá trị văn hóa sinh thái
Văn hóa là một khái niệm rộng, nó được xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau. Hiểu theo nghĩa khái quát:
Văn hóa là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình hoạt động sống và làm nên lịch sử, được lưu giữ và truyền thụ từ thế hệ này sang thế hệ khác, nhằm duy trì và phát triển cuộc sống của cộng đồng người ở các mức độ tổ chức xã hội khác nhau, hướng đến cái đúng, cái tốt, cái đẹp (Chân - Thiện - Mỹ) [44, tr. 14].
Còn sinh thái có nghĩa là nhà ở, nơi cư trú, nơi sinh sống của các sinh vật từ bé nhất đến lớn nhất. Vì vậy, môi trường sinh thái chính là môi trường sống hay là cái nhà ở của sinh vật, bao gồm tất cả các điều kiện xung quanh có liên quan đến sự sống của sinh thể. Nó gồm có hai loại: môi trường sinh thái tự nhiên là môi trường của mối quan hệ giữa sinh thể với các điều kiện tự nhiên và môi trường sinh thái nhân văn hay môi trường tự nhiên - người hóa (môi trường của mối quan hệ giữa con người và xã hội với những điều kiện tự nhiên).
Từ đó, có thể hiểu:
Văn hóa sinh thái nói chung là tất cả các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình tác động và biến đổi giới tự nhiên nhằm tạo ra cho mình một môi trường sống tốt đẹp hơn, trong lành hơn và hài hòa hơn với tự nhiên, hướng đến cái đúng, cái tốt, cái đẹp vì sự phát triển lâu bền của xã hội. Đó có thể là những giá trị vật chất - những tạo phẩm văn hóa như các công trình kiến trúc, các đền chùa, miếu mạo, các cảnh quan nhân tạo,... phù hợp và hài hòa với thiên nhiên, tôn tạo thêm vẻ đẹp vốn có của thiên nhiên,... là những giá trị tinh thần như tình yêu đối với thiên nhiên, đối với quê hương, đất nước và cả những giá trị về lối sống, nếp sống như những thói quen, tập quán, cách ứng xử tốt với thiên nhiên, tôn trọng và bảo vệ thiên nhiên [2, tr. 196].
Với định nghĩa khái quát này, quan niệm về văn hóa sinh thái được hiểu:
Văn hóa sinh thái trước hết được con người sáng tạo ra trong quá trình tác động và cải biến giới tự nhiên: con người muốn tồn tại và phát triển thì không còn cách nào khác là phải có sự liên hệ, tác động vào giới tự nhiên để tạo ra những của cải vật chất cần thiết đáp ứng những nhu cầu ăn, ở, mặc,... tối thiểu của mình. Chính trong quá trình tác động vào giới tự nhiên, con người đã không ngừng cải biến tự nhiên theo mục đích có lợi nhất cho mình. Từ đó, con người đã sáng tạo ra các dạng vật chất và tinh thần khác nhau. Các dạng này, một mặt nhằm đảm bảo sự sinh tồn và phát triển của loài người; mặt khác, nó còn thể hiện sự hiểu biết về tự nhiên, cách ứng xử với tự nhiên và trình độ chinh phục tự nhiên của con người ở từng thời kỳ nhất định. Chính mặt thứ hai này đã được thể hiện trong giá trị văn hóa sinh thái.
Những giá trị văn hóa sinh thái không phải là toàn bộ những gì con người sáng tạo ra trong quá trình tác động và cải biến giới tự nhiên, mà nó chỉ là những cái góp phần tạo ra cho con người một môi trường sống tốt đẹp hơn, trong lành hơn và hài hòa hơn với tự nhiên được lưu giữ và được truyền lại qua các thế hệ cho đến ngày nay. Trong lịch sử đã từng xuất hiện những quan niệm khác nhau, thậm chí đối lập nhau trong cách ứng xử của con người đối với tự nhiên. Có quan niệm cho rằng, con người là "chúa tể của vạn vật" trong vũ trụ nên con người hoàn toàn có quyền khai thác tự nhiên một cách không có giới hạn, con người thống trị tự nhiên như một dân tộc này thống trị một dân tộc khác mà không cần tuân theo các quy luật của tự nhiên. Quan niệm này đã từng thống trị trong triết học phương Tây, điều này đã dẫn tới mâu thuẫn ngày càng gay gắt giữa con người và tự nhiên. Thực tế ở các nước phát triển về mặt công nghiệp phương Tây đã cho thấy đời sống kinh tế càng phát triển, của cải vật chất làm ra càng nhiều thì tự nhiên càng bị tàn phá, tài nguyên thiên nhiên bị cạn kiệt và môi trường bị ô nhiễm nặng nề. Do đó, xét trên bình diện những giá trị văn hóa sinh thái thì những gì mà họ đạt được không chỉ là giá trị mà còn có những phản giá trị. Sở dĩ có hiện tượng như vậy vì con người không hiểu được rằng: "Không nên quá tự hào về những lần thắng lợi của chúng ta đối với tự nhiên. Bởi vì, cứ mỗi lần ta đạt được một thắng lợi là một lần giới tự nhiên trả thù lại chúng ta" [30, tr. 654]. Ngược lại, có quan niệm lại cho rằng, giữa con người và tự nhiên phải có mối quan hệ hòa hợp với nhau, con người phải coi mình cũng là một bộ phận của giới tự nhiên và giới tự nhiên chính là thân thể vô cơ của con người (C. Mác). Vì vậy:
Chúng ta hoàn toàn không thống trị được giới tự nhiên như một kẻ xâm lược thống trị một dân tộc khác, như một người sống bên ngoài tự nhiên, mà trái lại, bản thân chúng ta, với cả xương thịt, máu mủ và đầu óc chúng ta, là thuộc về giới tự nhiên. Chúng ta nằm trong lòng giới tự nhiên, và tất cả sự thống trị của chúng ta đối với tự nhiên là ở chỗ chúng ta, khác với tất cả các sinh vật khác, là chúng ta nhận thức được quy luật của giới tự nhiên và có thể sử dụng được những quy luật đó một cách chính xác [30, tr. 655].
Điều này đã dẫn tới giữa con người và tự nhiên có sự gắn bó chặt chẽ, hài hòa, con người và tự nhiên cùng tồn tại và phát triển. Một khi con người sống hài hòa, thân thiện với môi trường tự nhiên, tuy vẫn khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên và môi trường, nhưng không làm tổn thương nặng nề đến nó, thì những gì mà con người đạt được trong quá trình đó mới được coi là giá trị văn hóa sinh thái.
Bởi vậy, giá trị văn hóa sinh thái có thể được hiểu là tất cả những gì mà con người đạt được (cả vật chất lẫn tinh thần) trong quan hệ tác động lên tự nhiên nhằm thỏa mãn nhu cầu và phục vụ cho lợi ích của con người và xã hội nhưng không dẫn đến phá hoại sự cân bằng của hệ sinh thái, bảo đảm cùng tồn tại hài hòa, thân thiện giữa con người (xã hội) với tự nhiên.
Các giá trị văn hóa sinh thái được thể hiện ở nhiều hình thức khác nhau từ các dạng vật thể như: kiến trúc, trang phục,... đến các dạng phi vật thể như: lối sống, phong tục, tập quán, nghệ thuật,... được hình thành trong quá trình tác động và cải biến tự nhiên của con người.
Bản chất của giá trị văn hóa sinh thái là phải hướng đến cái đúng, cái tốt, cái đẹp (Chân - Thiện - Mỹ) trong mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, đảm bảo cho sự phát triển bền vững của xã hội.
Các công trình nghiên cứu về giá trị của GS. Trần Văn Giàu và GS. Phạm Minh Hạc đều quan niệm: giá trị là tính có nghĩa tích cực, tốt đẹp, đáng quý, có ích của các đối tượng đối với các chủ thể. Như vậy, giá trị chỉ là những thuộc tính chính diện (mặt tích cực trong ý nghĩa) chứ không phải bất kỳ thuộc tính nào. Giá trị gắn liền với cái đúng, cái tốt, cái hay, cái đẹp. Bất kỳ sự vật nào cũng có thể được coi là "có giá trị" nếu nó được các thành viên xã hội thừa nhận và xem xét như một biểu tượng trong đời sống tinh thần của họ và cần đến nó như một nhu cầu thực thụ.
Từ quan niệm trên, có thể hiểu: giá trị văn hóa sinh thái chính là những cái tốt, cái đẹp, cái đúng, cái hợp lý mà con người sáng tạo ra và đã được thử thách trong thực tiễn cải tạo và hòa nhập với tự nhiên của mỗi cộng đồng người. Do đó, bản thân giá trị văn hóa sinh thái vừa mang tính khách quan, lại vừa mang tính chủ quan. Tính khách quan của giá trị văn hóa sinh thái được thể hiện rõ nhất ở tính hợp lý của nó được cả cộng đồng người thừa nhận và tuân theo trong quá trình tác động và biến đổi giới tự nhiên của mình, ở các giá trị phổ quát về cái đúng, cái tốt, cái đẹp đối với tự nhiên đã được kinh nghiệm toàn nhân loại chấp nhận. Song, các giá trị văn hóa sinh thái còn mang tính dân tộc, tính giai cấp và tính thời đại nên trong một phạm vi nhất định, giá trị văn hóa sinh thái còn mang tính chủ quan. Trong thực tế đã có những hiện tượng đối với dân tộc, giai cấp và ở một thời đại nhất định được coi là giá trị văn hóa sinh thái, thì vẫn những hiện tượng đó, nhưng đối với dân tộc, giai cấp và ở thời đại khác lại bị coi là phản giá trị văn hóa sinh thái, là cái cổ hủ, lạc hậu, lỗi thời cần xóa bỏ. Trong lịch sử loài người đã xảy ra rất nhiều hiện tượng như vậy, ví dụ như, tình trạng du canh du cư trong canh tác ruộng đất nông nghiệp. ở thời kỳ cổ đại do dân số còn ít, rừng nguyên sinh còn rất nhiều và do khoa học chưa phát triển nên hình thức du canh du cư còn mang tính hợp lý và phù hợp với thời đại lúc đó, vì đây là một biện pháp hữu hiệu để cải tạo đất đai nhằm bù đắp lại độ màu mỡ cho đất đai trong điều kiện con người chưa có khả năng sản xuất và sử dụng phân bón và các hợp chất vi sinh khác để cải tạo đất. Lúc đó, hình thức du canh du cư là một phương thức thích ứng của con người với tự nhiên và nó có giá trị nhất định. Nhưng ở thời kỳ hiện nay, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ và với tình trạng rừng bị tàn phá nặng nề thì hình thức du canh du cư đã trở nên lạc hậu, đó là một sự phản giá trị văn hóa sinh thái mà con người cần phải loại bỏ.
Để sinh tồn, con người ở thời đại nào cũng đều phải có sự gắn bó chặt chẽ với tự nhiên, tác động và cải biến tự nhiên theo mục đích, nhu cầu của mình. Vì vậy, có các giá trị văn hóa sinh thái đã được con người sáng tạo ra từ lâu đời và được chuyển giao từ thế hệ này sang thế hệ khác, nó đã trở thành các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống. Nhưng cũng cần nhận thức được rằng, không phải giá trị văn hóa sinh thái nào đã từng tồn tại trong quá khứ thì đến thời kỳ sau đều trở thành giá trị văn hóa sinh thái truyền thống, bởi vì giá trị văn hóa sinh thái còn mang tính chủ quan và nếu xét theo quan điểm lịch sử - cụ thể thì trong truyền thống có cả những mặt tích cực, tiến bộ lẫn những mặt tiêu cực, lạc hậu. Do đó, giá trị văn hóa sinh thái truyền thống phải là những giá trị tương đối ổn định, tốt đẹp, biểu hiện được bản sắc riêng của dân tộc trong cách xứng xử của con người đối với tự nhiên và cần phải truyền lại cho các thế hệ sau những gì cần phải bảo vệ và phát triển. Chính vì vậy, giá trị văn hóa sinh thái truyền thống có những đặc trưng sau:
Một là, nó phải mang tính sáng tạo của con người trong quá trình tác động và cải biến giới tự nhiên: nói đến văn hóa nói chung cũng như văn hóa sinh thái nói riêng, không thể không nói đến cái cốt lõi nhất của nó đó là tính sáng tạo. Con người hơn hẳn con vật ở chỗ con người có ý thức, có tư duy. Hoạt động của con người trong quá trình tác động vào giới tự nhiên là hoạt động có mục đích, nó khác hẳn với hoạt động mang tính bản năng của loài vật. Để cải biến giới tự nhiên theo mục đích của mình, loài người nhờ có tư duy đã không ngừng sáng tạo ra các giá trị vật chất và tinh thần mang đậm dấu ấn và tính chủ quan của chính con người. Như vậy, trong thế giới muôn loài của vũ trụ, chỉ duy nhất loài người là có khả năng sáng tạo trong quan hệ với tự nhiên nhằm tạo ra sự thích ứng cao nhất với tự nhiên vì lợi ích của chính mình. Chính sự sáng tạo đó đã tạo ra những giá trị văn hóa sinh thái của con người.
Hai là, nó phải thể hiện tính nhân văn của con người trong cách ứng xử với tự nhiên: trong quan hệ với tự nhiên, tính nhân văn được thể hiện trước hết ở tình yêu đối với thiên nhiên, cụ thể là tình yêu đối với quê hương - nơi "chôn rau cắt rốn" của mỗi con người, đối với cây đa, bến nước đầu làng, đối với núi rừng, đồng ruộng bao la... Từ tình yêu đó, con người đã sống hòa hợp với tự nhiên, coi sự sống còn của tự nhiên như chính sự sinh tồn của mình. Trong quá trình khai thác và cải tạo tự nhiên, con người luôn phải có một điểm dừng, tuyệt đối không được coi tự nhiên là vốn trời ban cho ta một cách vô tận. Bên cạnh việc khai thác tự nhiên, con người luôn phải có ý thức bảo vệ và tái tạo lại môi trường tự nhiên vì cuộc sống của chính mình cũng như của giới tự nhiên. Cũng cần phải nhận thức được rằng, nhân văn và sáng tạo trong văn hóa sinh thái là hai mặt có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Nếu thiếu một mặt nào hoặc quá nhấn mạnh một mặt nào trong hai mặt đó đều dẫn tới xã hội sẽ mất đi sự cân đối cần thiết giữa cái cơ sở vật chất - kỹ thuật và ý nghĩa cao quý của con người. Đây là một vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng trong thời đại ngày nay khi mà cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại đang để lại nhiều hậu quả nghiêm trọng ảnh hưởng tới môi trường sinh thái.
Ba là, nó phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa các giá trị chân - thiện - mỹ trong mối quan hệ giữa con người và tự nhiên:
Cái chân trong văn hóa sinh thái được hiểu như là cái đúng, cái được kiểm soát bằng lý trí, bằng khoa học, bằng pháp luật và bằng các quy luật của tự nhiên. Nó được biểu hiện ở sự thực hiện nghiêm túc, tự giác các điều kiện bảo vệ môi trường được xây dựng trên nền tảng các quy luật của giới tự nhiên. Cái chân trong văn hóa sinh thái còn là cái thực dụng trong quan hệ của con người với tự nhiên. Nó được biểu hiện ở sự tận dụng những lợi thế của tự nhiên để phục vụ cho cuộc sống con người một cách tự giác, phù hợp với các quy luật của tự nhiên.
Cái thiện trong văn hóa sinh thái được hiểu đó chính là tình yêu, sự tôn trọng và bảo vệ các điều kiện thiên nhiên cần cho sự sống, không gây ô nhiễm môi trường, không phá hoại cảnh quan, không khai thác, sử dụng đến cạn kiệt các nguồn tài nguyên thiên nhiên, là cách ứng xử thân thiện với môi trường thiên nhiên;...
Cái mỹ trong văn hóa sinh thái được hiểu đó chính là tôn trọng vẻ đẹp, là sự kết hợp khéo léo và hài hòa giữa các vật thể văn hóa với vẻ đẹp vốn có của thiên nhiên, nói theo C. Mác là cải tạo thiên nhiên theo quy luật của cái đẹp.
Bản thân giá trị văn hóa sinh thái truyền thống phải hội tụ được cả ba cái chân - thiện - mỹ, và giữa ba cái này phải có sự thống nhất biện chứng không tách rời nhau. Vì vậy, trong giá trị văn hóa sinh thái truyền thống, người ta chỉ có thể tính đến tính ưu tiên tùy thuộc vào từng điều kiện cụ thể chứ không thể duy nhất hóa hay tuyệt đối hóa một cái nào cả. Đây là một vấn đề có ý nghĩa to lớn trong thời đại hiện nay khi mà cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại đan._.g diễn ra với tốc độ nhanh chóng và con người do mải chạy theo "chủ nghĩa thực dụng" đã bỏ qua những giá trị cơ bản của văn hóa sinh thái. Với quan điểm này đã đặt ra một yêu cầu cho toàn nhân loại trong việc ứng dụng khoa học - công nghệ vào quá trình tác động và cải tạo tự nhiên là phải đảm bảo được sự kết hợp hài hòa cả ba yếu tố chân - thiện - mỹ để xây dựng được một nền văn hóa sinh thái lành mạnh, phát triển có những giá trị văn hóa sinh thái đúng đắn và cao quý góp phần thúc đẩy sự phát triển của cả con người và tự nhiên.
Bốn là, nó phải mang tính bản sắc riêng của dân tộc trong cách ứng xử của con người đối với tự nhiên: bản sắc dân tộc trong văn hóa sinh thái bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm tác động và cải biến giới tự nhiên của cộng đồng các dân tộc đang sinh sống. Đó chính là lòng yêu thiên nhiên; tư tưởng hòa hợp giữa con người và tự nhiên; sự nghiêm túc, tự giác tuân theo các quy luật của giới tự nhiên; sự sáng tạo ra một phương thức sống thích ứng với sự tồn tại, phát triển của tự nhiên,...
Năm là, nó là những giá trị mang tính trường tồn, đã tồn tại từ lâu đời trong cách ứng xử của con người đối với tự nhiên: nhiều giá trị văn hóa sinh thái được hình thành từ lâu, trải qua thử thách của thời gian, của cuộc sống xã hội trên nhiều chặng đường lịch sử đã trở thành những giá trị trường tồn. Nó được truyền lại và kế thừa từ thế hệ này sang thế hệ khác, mặc dù cuộc sống xã hội có những biến động, nhưng những giá trị trường tồn đó vẫn có sức sống lâu bền với thời gian, nó đã ăn sâu vào tiềm thức một dân tộc, một cộng đồng và vẫn có tác dụng nhất định mang tính định hướng cho con người trong quan hệ với tự nhiên. Nhờ có những giá trị mang tính trường tồn mà giá trị văn hóa sinh thái là một dòng chảy liên tục, không bị đứt quãng bởi vì bên cạnh những giá trị văn hóa sinh thái mới còn luôn có mặt những giá trị văn hóa sinh thái truyền thống với tính tương đối ổn định đã bổ sung và đan xen lẫn nhau làm cho các giá trị văn hóa sinh thái có sự kết hợp chặt chẽ giữa hiện đại và truyền thống. Tuy nhiên, giá trị văn hóa sinh thái còn mang tính thời đại, nó luôn vận động không ngừng cùng với cuộc sống. Cho nên các giá trị trường tồn dù cao đẹp đến đâu đi nữa thì cũng không thể đáp ứng được đầy đủ yêu cầu của cuộc sống mới đang đổi thay từng ngày, nó cũng phải được phát triển cho phù hợp với thời đại mới. Vì vậy, các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống đã được truyền lại và kế thừa từ đời này sang đời khác theo tinh thần vừa lặp lại với một tần số nhất định vừa được cải tiến từng bước, từng lúc, từng nơi.
1.1.2. Các hình thức biểu hiện chủ yếu của giá trị văn hóa sinh thái
Giá trị văn hóa sinh thái thường được biểu hiện ra bên ngoài dưới các hình thức chủ yếu sau:
Trong văn hóa sinh thái vật thể
- Kiến trúc:
Tất cả các công trình kiến trúc như đền đài, cung điện, công trình lịch sử, nhà ở,... đều thể hiện rõ nét cái chân, cái mỹ trong đó, bởi vì trong quá trình xây dựng, con người luôn tính toán phải làm sao phù hợp được với điều kiện tự nhiên và môi trường xung quanh để đem lại hiệu quả cao nhất cho con người trong khi sử dụng. Khi thiết kế và xây dựng các công trình kiến trúc, con người bao giờ cũng phải chú ý đến một số điểm cơ bản như: đặt hướng chính, hình dáng tổng thể, thiết kế xung quanh, trang trí nội thất, kết cấu vật liệu,... sao cho phù hợp với điều kiện địa lý, mặt bằng xây dựng, điều kiện về khí hậu, ánh sáng,... và còn phải tạo ra được sự tương xứng cân đối, hài hòa giữa các công trình đó với cảnh quan xung quanh như một chỉnh thể thống nhất. Những công trình này không những phải đúng, bền về nội dung mà còn phải đẹp, hài hòa về hình thức. Bên cạnh đó, nó còn thể hiện được sự tôn trọng đối với các điều kiện sống của con người, góp phần nâng cao chất lượng sống của con người về mọi mặt.
- Trang phục:
Có thể nói trang phục là một trong những hình thức biểu hiện rõ nhất của văn hóa sinh thái. Thông qua các trang phục của con người, cái chân, cái mỹ bộc lộ rõ nét. Từ quần áo đến những đồ dùng kèm theo như khăn cuốn, thắt lưng,... một mặt, nó đã thể hiện được sự hiểu biết về môi trường và khả năng vận dụng những điều kiện cụ thể của môi trường vào công việc thiết kế trang phục của con người sao cho vừa phù hợp với hoàn cảnh vừa tạo điều kiện tốt nhất, thoải mái, dễ chịu nhất trong sinh hoạt hàng ngày cũng như trong các hoạt động khác nhau của họ; mặt khác, nó còn thể hiện rõ năng khiếu thẩm mỹ, sự sáng tạo và sự khéo léo của con người trong quá trình vươn tới cái đẹp, cái hài hòa giữa con người và tự nhiên. Trang phục không chỉ thể hiện được cái đẹp về hình thức bên ngoài, mà nó còn thể hiện được cái đẹp trong tâm hồn của mỗi con người. Thông qua kiểu cách, hình dáng, chất liệu màu sắc... của trang phục nó phản ánh khả năng thích ứng của con người đối với tự nhiên và phản ánh tình yêu thiên nhiên, cảm xúc trước vẻ đẹp thiên nhiên để từ đó tạo ra được sự cân đối, hài hòa giữa trang phục và tự nhiên.
- Dược liệu chữa bệnh:
Việt Nam là một quốc gia đa dạng sinh học, có thảm động, thực vật rất phong phú. Đây chính là nguồn dược liệu rất phong phú, đa dạng. Với trí óc thông minh, tinh thần ham học hỏi và do yêu cầu của sự sinh tồn, con người Việt Nam từ xa xưa đã biết sử dụng nguồn dược liệu này vào công việc chữa bệnh cũng như trong một số lĩnh vực hoạt động khác của mình. Thông qua một quá trình nghiên cứu và thử nghiệm trong thực tiễn, con người đã dần dần phát hiện ra ngày càng nhiều tính năng, công dụng của nhiều loại động, thực vật khác nhau, và từ đó con người đã biết sử dụng những động, thực vật này vào trong lĩnh vực y học để bảo vệ và chăm sóc sức khỏe cộng đồng. Trong dược liệu, bên cạnh những dược liệu quý để chữa bệnh còn có cả những độc dược nguy hại đến tính mạng con người. Vì vậy, với tính thiện của mình, con người tuyệt đối không được dùng độc dược để đe dọa, cướp đi sinh mạng của đồng loại, gây ra thảm họa cho toàn cầu. Con người cũng phải nhận thức được rằng, nguồn dược liệu không phải là vô tận nên bên cạnh việc khai thác, sử dụng nó một cách hợp lý, con người phải có ý thức tái tạo lại những dược liệu đó trong chừng mực khả năng có thể của mình vì một sự phát triển bền vững cho những thế hệ mai sau.
- ẩm thực:
Văn hóa ẩm thực của các dân tộc, các vùng dân cư khác nhau có đặc trưng khác nhau, qua đó nó thể hiện rõ nét cái chân, cái mỹ của mỗi dân tộc. Nó phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên, hoàn cảnh kinh tế - xã hội cụ thể và phong tục, tập quán của từng nơi. Đa số các nguyên liệu phục vụ cho việc chế biến ăn, uống đều là những dạng vật chất của tự nhiên. Mặc dù cùng các nguyên liệu như vậy, nhưng cách thức chế biến của con người lại không giống nhau. Sở dĩ có hiện tượng như vậy vì cư dân sống ở trong những điều kiện tự nhiên khác nhau thì nhu cầu năng lượng và điều kiện chế biến sẽ khác nhau. Điều này đã thể hiện rõ sự thích ứng của con người đối với hoàn cảnh tự nhiên cụ thể nhằm đảm bảo sự tốt nhất và sự thuận tiện nhất trong sinh hoạt hàng ngày. Hơn nữa, con người còn biết sử dụng những vật phẩm có sẵn trong tự nhiên phục vụ cho công việc nấu ăn nhằm tăng thêm tính hấp dẫn, vẻ đẹp thẩm mỹ trong nghệ thuật ăn uống. Đây cũng là một nét đặc trưng của văn hóa ẩm thực, một biểu hiện rõ nét của văn hóa sinh thái. Con người muốn tồn tại và phát triển thì trước hết phải thỏa mãn những nhu cầu về ăn, ở, mặc,... nhưng do dân số tăng nhanh và do sự bừa bãi trong việc ứng dụng những thành tựu của khoa học - công nghệ hiện đại đã dẫn tới tình trạng thiếu hụt và ô nhiễm lương thực, thực phẩm ở phạm vi toàn cầu. Từ đó đặt ra một vấn đề cấp bách là con người phải tìm mọi cách khắc phục, nói cách khác là phải phát huy tính thiện của mình trong ẩm thực.
- Các đồ dùng trong sinh hoạt và sản xuất:
Để thỏa mãn các nhu cầu của con người trong sinh hoạt và sản xuất, nhất thiết phải có những vật dụng nhất định với tư cách là công cụ lao động. Công cụ lao động cũng là một nhân tố không thể thiếu trong hoạt động cải tạo tự nhiên của con người, và trình độ của công cụ lao động sẽ góp phần quyết định hiệu quả của hoạt động đó. Theo lý thuyết, chính sự phát triển của khoa học - công nghệ sẽ quyết định trình độ của công cụ lao động, nhưng trong thực tế, có khi lại không phải như vậy. Trình độ và đặc biệt là cấu trúc, hình dáng của các công cụ lao động lại còn phụ thuộc vào hoàn cảnh tự nhiên cụ thể. Con người ngoài sự vận dụng thành tựu của khoa học công nghệ, còn phải chú ý tới điều kiện tự nhiên của nơi mình sinh sống để từ đó tạo ra được những công cụ lao động phù hợp, có như vậy mới đạt được hiệu quả cao nhất trong thực tiễn. Ngoài tính thực dụng, con người với tư duy sáng tạo của mình, còn chú ý đến tính thẩm mỹ trong việc chế tạo ra các đồ dùng trong sinh hoạt và sản xuất. Các vật dụng này không những phải có ích lợi lớn mà còn phải có cả tính hài hòa cao, và đặc biệt nó không được gây ra ô nhiễm môi trường cũng như phá hoại cảnh quan xung quanh.
Trong văn hóa sinh thái phi vật thể
- Đạo đức sinh thái
Đạo đức sinh thái là quan niệm và cách thức ứng xử của con người và xã hội loài người đối với giới tự nhiên nhằm bảo đảm sự cùng tồn tại và phát triển của tự nhiên và xã hội. Đạo đức sinh thái biểu hiện cái thiện, nó giữ vai trò điều chỉnh các mối quan hệ của con người đối với tự nhiên, và do tự nhiên bao giờ cũng là khách thể trong mối quan hệ giữa con người và tự nhiên nên không có chiều ngược lại.
Về mặt cấu trúc, đạo đức sinh thái cũng bao gồm phần lý luận và phần thực tiễn, đó là ý thức, quan niệm, tư tưởng, tình cảm của con người đối với thiên nhiên, là những nguyên lý, nguyên tắc, chuẩn mực quy định, điều chỉnh hành vi của con người trong quá trình biến đổi và cải tạo thiên nhiên phục vụ cho sự sống của con người, sự tồn tại và phát triển của xã hội.
Về mặt nguồn gốc, tuy đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, nhưng nó lại có nguồn gốc sâu xa từ trong cơ sở tồn tại của xã hội - đó là lợi ích. Giữa đạo đức và lợi ích có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau. Do đó, đạo đức sinh thái muốn đảm bảo tính đúng đắn và lành mạnh phải bắt nguồn từ lợi ích của cả tự nhiên và con người, phải đảm bảo sự sống, sự cùng tồn tại và phát triển của cả xã hội và tự nhiên trong tính chỉnh thể toàn vẹn của hệ thống "tự nhiên - con người - xã hội". Điều này đã đặt ra yêu cầu cho quan hệ giữa con người với tự nhiên là con người không được chỉ quan tâm đến lợi ích của mình mà quên đi lợi ích của tự nhiên, vi phạm tới lợi ích của tự nhiên, vi phạm các quy luật của tự nhiên vì như vậy là con người đã vi phạm đạo đức sinh thái.
- Lối sống, thói quen, phong tục, tập quán của con người đối với tự nhiên
Lối sống, nếp sống là một trong những biểu hiện quan trọng nhất của nền văn hóa và trình độ phát triển của xã hội. Lối sống văn hóa sinh thái của người dân là một trong những biểu hiện tập trung nhất của tính nhân văn và sinh thái, hướng đến các giá trị chân, thiện, mỹ trong các mối quan hệ giữa con người và tự nhiên.
Lối sống văn hóa sinh thái có thể hiểu đó là tình yêu đối với thiên nhiên, sống hòa hợp với thiên nhiên, nương nhờ và tận dụng thiên nhiên, luôn tôn tạo và bảo vệ vẻ đẹp và sự trong sạch của thiên nhiên, được thể hiện từ trong lối tư duy sinh thái đến những hành vi ứng xử cụ thể của con người đối với thiên nhiên.
Để có lối sống sinh thái lành mạnh, con người trước hết trong suy nghĩ, tư tưởng của mình phải có quan điểm đúng về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên, đó là quan điểm "Thiên - Nhân hợp nhất", con người phải có ý thức sống hòa mình với tự nhiên, không chấp nhận tư tưởng coi con người là trung tâm của vũ trụ, có quyền uy tối cao đối với tự nhiên và được phép khai thác tự nhiên một cách bừa bãi.
Trên cơ sở có quan điểm đúng đối với tự nhiên, con người sẽ có những hành vi ứng xử đúng đắn đối với tự nhiên. Trong hoạt động thực tiễn của mình, con người lúc nào cũng phải tôn trọng vẻ đẹp của tự nhiên cũng như những quy luật vốn có của nó. Mọi hành vi của con người ngoài việc tính đến hiệu quả kinh tế - xã hội còn phải chú ý tới hiệu quả về mặt sinh thái, việc phát triển kinh tế - xã hội phải đi liền với việc nâng cao chất lượng môi trường sống. Vì vậy, con người có lối sống sinh thái không chỉ dừng lại ở việc mọi hành vi phải nhằm bảo vệ môi trường tự nhiên mà còn thể hiện ở khả năng tái tạo, mở rộng và nâng cao chất lượng cũng như vẻ đẹp của nó.
Cùng với lối sống, nếp nghĩ, các phong tục tập quán cũng là một biểu hiện của văn hóa sinh thái. Mặc dù chỉ là một sự cưỡng chế mặc nhiên không thành văn nhưng sức mạnh của phong tục, tập quán rất lớn vì nó gắn liền với lối sống của cộng đồng và ăn sâu vào tiềm thức của mọi người. Cái được coi là phong tục, tập quán, thói quen, trước hết cũng phải gắn liền và phù hợp với những điều kiện tự nhiên, hay có thể nói do điều kiện tự nhiên quy định và được dư luận xã hội bảo vệ.
Thông qua những điều hạn chế, cấm kỵ, không được làm của con người đối với tự nhiên, cũng như những quy định chung cho con người trong quan hệ với tự nhiên mang tính khuôn thước của cộng đồng, các phong tục tập quán đã góp phần định hướng cho các ứng xử, hành vi của mọi thành viên trong cộng đồng mang đậm tính sinh thái. Chính những phong tục, tập quán này một mặt thể hiện rõ nội dung của văn hóa sinh thái, mặt khác còn góp phần tích cực vào việc nâng cao ý thức sinh thái cho mọi người.
- Các tác phẩm văn học và các hình thức nghệ thuật
Có thể khẳng định rằng, văn hóa nghệ thuật là một hình thức biểu hiện tiêu biểu, điển hình, rõ nét của văn hóa. Chính vì vậy, đôi khi có người còn đồng nhất văn hóa với văn học, nghệ thuật.
Thông qua các tác phẩm văn học, nhất là văn học dân gian, đã phản ánh rất rõ những tâm tư, tình cảm cũng như cách ứng xử của con người đối với tự nhiên, qua đó bộc lộ luôn các giá trị chân, thiện, mỹ. Từ ca dao, tục ngữ, các truyện cổ tích, huyền thoại, các loại thơ ca cho đến các loại truyện đã được ghi chép lại đều thể hiện sự hiểu biết của con người về tự nhiên, khả năng chinh phục tự nhiên của con người. Thông qua các áng thơ văn đầy xúc động của con người về tự nhiên đã thể hiện tâm hồn yêu thiên nhiên, sự xúc cảm của con người trước vẻ đẹp thơ mộng hay hùng vĩ của tự nhiên. Bằng các tác phẩm văn học còn thể hiện nhân sinh quan và những triết lý sâu sắc của con người trong quan hệ với thiên nhiên.
Các hình thức nghệ thuật với sự phong phú, đa dạng của mình đã thể hiện rất rõ những giá trị chân, thiện, mỹ trong quan hệ của con người với tự nhiên. Với các hình thức biểu hiện sinh động, nghệ thuật đã đem lại cho con người những hiểu biết về các quy luật của tự nhiên và khuyên người ta nếu muốn tồn tại và phát triển thì nhất định phải tuân theo những quy luật đó, phải hòa đồng chứ không được đối lập với tự nhiên. Nó dạy con người phải biết tận dụng những giá trị sử dụng của tự nhiên một cách hợp lý nhằm đem lại hiệu quả cao nhất. Thông qua nghệ thuật, triết lý cái thiện nhất định sẽ chiến thắng cái ác đã được khẳng định rất rõ. Với chức năng giáo dục của mình, nó luôn hướng con người tới cái thiện, góp phần tạo ra sự lành mạnh trong tâm hồn mọi người. Đặc biệt, nghệ thuật còn là một loại hình biểu hiện rõ nét nhất về tính thẩm mỹ của con người. Nghệ thuật chính là mảnh đất để con người có điều kiện thể hiện và nuôi trồng những ước mơ cao đẹp, tâm hồn nhạy cảm và khả năng sáng tạo của mình trước tự nhiên.
- Các tín ngưỡng và lễ hội dân gian
Dưới ảnh hưởng của tín ngưỡng đa thần, con người có quan niệm rằng mọi vật trong tự nhiên từ nguồn nước, cây cỏ, rừng núi đến đất đai,... đều có linh hồn, được các vị thần cai quản. Vì vậy, con người phải sống hòa hợp với tự nhiên, có quan hệ chặt chẽ với tự nhiên, không được làm hại tới tự nhiên. Mặc dù tín ngưỡng dân gian có những tiêu cực, nhưng bên cạnh đó, nó cũng có yếu tố tích cực trong việc hình thành các giá trị văn hóa sinh thái, bởi vì, nó chính là cơ sở để tạo ra tình yêu của con người đối với tự nhiên, nó góp phần ngăn chặn những hiện tượng khai thác tự nhiên bừa bãi, bóc lột tự nhiên một cách tàn nhẫn của con người.
Tín ngưỡng luôn đi liền với lễ hội dân gian. Trong cuộc sống thường ngày của con người đã tồn tại rất nhiều lễ hội khác nhau với nội dung phản ánh tâm tư, tình cảm và sự nhận thức của con người đối với tự nhiên. Thông qua các lễ hội rước nước, lễ hội rước và dâng lễ vật cúng thần nông, lễ hội xuống đồng, đã thể hiện sự tôn trọng tự nhiên, hòa đồng với tự nhiên của con người. Đồng thời nó còn thể hiện tư tưởng nhân văn sâu sắc của con người đối với tự nhiên.
Như vậy, trong mỗi hình thức biểu hiện cụ thể của văn hóa sinh thái đều có chứa những giá trị chân, thiện, mỹ. Các giá trị văn hóa sinh thái này được lưu giữ từ thế hệ này sang thế khác, giúp cho con người sống ngày càng gắn bó hơn với điều kiện sinh thái từng vùng, miền. Cùng với thời gian, những giá trị đó được khẳng định và tạo nên bản sắc văn hóa đặc trưng của từng vùng.
1.2. Một số giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng núi Đông Bắc nước ta
1.2.1. Đặc điểm tự nhiên và điều kiện kinh tế - xã hội vùng núi Đông Bắc nước ta - Tiền đề và cơ sở hình thành các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng này
Nhiệm vụ tiếp theo của luận văn là xác định một số giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng núi Đông Bắc và thông qua các hình thức biểu hiện của chúng để chỉ ra các giá trị chân, thiện, mỹ. Muốn vậy, trước hết cần phải chỉ ra nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc kinh tế - xã hội đã hình thành nên những giá trị văn hóa sinh thái vùng núi Đông Bắc; sau đó, chỉ ra những giá trị đó là gì? Biểu hiện của nó ra sao?
1.2.1.1. Những đặc điểm tự nhiên ở vùng núi Đông Bắc nước ta
Khu vực vùng núi Đông Bắc nước ta gồm 11 tỉnh: Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái, Phú Thọ, Bắc Giang, Quảng Ninh. Tổng diện tích tự nhiên là 67.000 km2, chiếm 20% diện tích cả nước. Đây là khu vực có vị trí địa lý - tự nhiên quan trọng, có ảnh hưởng, tác động đến sự phát triển của môi trường và văn hóa sinh thái của cả nước.
Vùng này có điều kiện tự nhiên rất phức tạp và khá đặc biệt, với độ cao trung bình gần 1.000 m so với mặt nước biển bao gồm nhiều núi cao xen lẫn các thung lũng và địa hình lại thấp dần từ Tây sang Đông, từ Bắc xuống Nam nên ở đây chủ yếu là núi có độ cao và sườn dốc lớn. Từ đó, đã tạo ra nhiều dạng khí hậu khác nhau trong một phạm vi địa lý nhỏ hẹp giữa đỉnh núi, chân núi và thung lũng. Cũng do cấu tạo địa hình và vị trí địa lý vùng này, đã tạo nên một hệ thống khí hậu hai mùa rõ rệt với sự chênh lệch nhiệt độ giữa hai mùa rất lớn: mùa đông, nhiệt độ trung bình 8 - 150c, có nơi 00c; ngược lại, mùa hè nhiệt độ trung bình 22 - 350c. Với mức dao động lớn trong ngày, trong mùa, trong năm mà khí hậu vùng này đã trở thành nhân tố chủ chốt trong việc tạo ra sự thích nghi của con người với môi trường ở đây, nơi có sự khác biệt so với các vùng khác. Sống trong môi trường có khí hậu khắc nghiệt như vậy, để tồn tại bắt buộc con người phải có một cách thích ứng phù hợp với tự nhiên trong sinh hoạt cũng như trong sản xuất. Từ đó, đã tạo ra những giá trị văn hóa sinh thái có nét đặc trưng riêng của vùng. Cũng do có địa hình dốc như vậy và đặc biệt ở một số vùng đa số là núi đá nên ở đây còn có một phương thức sử dụng đất và nước khác hẳn với vùng xuôi. Con người ở đây chỉ có thể canh tác đất đai và sử dụng nước theo kiểu phụ thuộc vào tự nhiên, hầu như không có sự "cải biến" làm thay đổi căn bản tự nhiên như ở vùng đồng bằng. Đó cũng là một yếu tố để tạo ra những giá trị văn hóa sinh thái vùng này có những biểu hiện khác biệt so với vùng xuôi.
Vùng núi Đông Bắc nước ta còn là vùng sinh thủy của nhiều con sông lớn như sông Lô, sông Chảy, sông Gâm,... Trong khi đó, vùng này lại có mưa nhiều và chỉ tập trung trong vài tháng (lượng mưa trên 1.500 mm) nên hàng năm thường xuyên xảy ra lũ lụt và hạn hán. Sống trong môi trường như vậy, bắt buộc con người nơi đây phải thích nghi và tìm mọi cách khắc phục đến mức tối đa những thiên tai đó.
Khu vực miền núi Đông Bắc chứa rất nhiều tài nguyên khoáng sản cần cho sản xuất và đời sống con người như: mỏ thiếc ở Cao Bằng, mỏ than ở Quảng Ninh, mỏ apatít ở Lào Cai, mỏ sắt ở Thái Nguyên, mỏ chì kẽm ở Tuyên Quang,... Do sự phát triển của các ngành công nghiệp và do sự tác động của cơ chế thị trường, nên ở một số nơi trong vùng, con người đã và đang khai thác một cách không có kế hoạch các nguồn tài nguyên đó, gây ảnh hưởng không tốt đến môi trường và sinh thái. Đây là nguy cơ ảnh hưởng tới các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống đã có từ lâu đời ở vùng này.
Vùng núi Đông Bắc còn là nơi rất giàu tài nguyên rừng. Đó là nơi tập trung lớn tính đa dạng sinh học, các loài động, thực vật rất phong phú nên đã góp phần quan trọng vào quá trình tạo ra sự cân bằng sinh thái, tạo ra được một chu trình sinh học hoàn chỉnh để duy trì và nâng cao chất lượng sống cho con người. Sống trong điều kiện núi rừng bao la với thảm động, thực vật đa dạng, con người nơi đây từ xa xưa đã biết sử dụng những sản vật của rừng để phục vụ cho các nhu cầu trong cuộc sống hàng ngày của mình từ nhu cầu ăn, ở, mặc đến nhu cầu chữa bệnh, thậm chí cả nhu cầu giải trí,... Nhờ đó, các giá trị văn hóa sinh thái nơi đây đã được hình thành từ lâu đời và được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác dưới hình thức những kinh nghiệm trong cách ứng xử và cải biến tự nhiên. Rừng ở vùng núi Đông Bắc còn đóng vai trò phòng hộ như phục hồi và cải tạo đất, điều tiết nguồn nước và hạn chế lũ lụt, hạn hán, bảo tồn được nguồn nước ngầm, cải tạo khí hậu. Vì vậy, rừng ở đây có vai trò rất quan trọng trong công tác bảo vệ môi trường không những cho vùng này mà còn cho cả nước. Do đó, việc bảo tồn thái độ ứng xử đúng đắn của con người đối với rừng ở vùng này là một vấn đề hết sức quan trọng và cần được duy trì thường xuyên.
1.2.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội ở vùng núi Đông Bắc nước ta
Vùng núi Đông Bắc nước ta từ ngàn đời xưa đã tồn tại nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, canh tác nương rẫy là chủ yếu. Do đặc trưng của sản xuất nông nghiệp, con người thường sống gắn bó và nương nhờ hoàn toàn vào tự nhiên. Vì vậy, người dân ở đây từ xa xưa đã coi tự nhiên là "vị cứu tinh" cho sự sinh tồn của chính họ. Tự nhiên cung cấp những vật chất cần thiết cho quá trình sản xuất và sinh hoạt hàng ngày của con người, đồng thời tự nhiên còn cung cấp cho con người những điều kiện không thể thiếu để duy trì sự sống như: nước, không khí, v.v... Qua thực tế cuộc sống, người dân vùng này hiểu được rằng, muốn tồn tại thì không còn cách nào khác là họ phải sống hòa hợp với tự nhiên, mặc dù đối với họ, đó chỉ là sự hòa hợp được hình thành một cách tự phát.
Cũng do sống trong nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, nên sự nhận thức và vận dụng các quy luật của tự nhiên vào trong hoạt động thực tiễn một cách tự giác của con người vùng này trước đây hầu như không có. Đối với họ, tự nhiên vừa gần gũi thân thuộc, lại vừa ẩn chứa những điều khó hiểu. Đứng trước các hiện tượng của tự nhiên, họ chưa có đủ khả năng và trình độ để giải thích nó một cách thỏa đáng. Chính điều này đã làm cho con người nơi đây không còn cách nào khác là phải lệ thuộc hoàn toàn vào tự nhiên, trông chờ vào tự nhiên một cách bị động mà chưa có sự cải tạo tự nhiên một cách chủ động, tích cực.
Mặt khác, trước đây người dân vùng núi Đông Bắc chỉ dựa vào hoạt động kinh tế sản xuất nông nghiệp, công nghiệp chưa có sự hiện diện đã làm cho môi trường ở đây vào thời kỳ đó hầu như không có hiện tượng ô nhiễm môi trường, không có những hiện tượng khai thác và tàn phá tài nguyên thiên nhiên một cách bừa bãi nhằm phục vụ cho sự phát triển của công nghiệp. Đây cũng chính là điểm mạnh về mặt sinh thái của vùng này và nó còn là cơ sở để cho vùng núi Đông Bắc có những giá trị văn hóa sinh thái truyền thống nhất định được hình thành.
Bên cạnh đó, do ảnh hưởng của vũ trụ quan truyền thống nên đồng bào ở đây đều cho rằng, mọi thứ trong tự nhiên như nguồn nước, cây cỏ, đất đai, rừng,... đều có những "linh hồn" và được các vị thần cai quản, con người không được phép xâm hại. Vì vậy, quan điểm "Thiên - Nhân hòa hợp" đã được mọi người ở đây tuân theo một cách tuyệt đối như một lẽ tự nhiên.
Mặc dù tổng diện tích tự nhiên chiếm 20% diện tích cả nước nhưng dân số ở vùng núi Đông Bắc hiện nay chỉ chiếm khoảng 10% tổng số dân cư và trước đây tỷ lệ dân số còn thấp hơn nhiều. Đây cũng là nguyên nhân để các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống vùng này được hình thành với những biểu hiện riêng của nó. Do sống trong điều kiện mật độ dân cư thưa thớt, nên sự liên kết chặt chẽ giữa các cư dân để cùng cải tạo tự nhiên vùng này gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, người dân ở đây lại càng phải có mối quan hệ chặt chẽ với tự nhiên nhiều hơn, mức độ phụ thuộc và hòa hợp với tự nhiên của họ đòi hỏi phải cao hơn so với vùng đồng bằng.
Vùng núi Đông Bắc nước ta từ xưa đến nay còn là nơi sinh sống của nhiều dân tộc thiểu số và dân tộc thiểu số chiếm tỷ lệ rất cao trong tổng số dân cư của vùng. Trong khi đó, trình độ văn hóa và khả năng nhận thức của đồng bào dân tộc thiểu số nói chung còn hạn chế so với người Kinh. Đa số người dân vùng này trước đây bị rơi vào tình trạng mù chữ, họ không hiểu được những kiến thức cơ bản về tự nhiên cũng như về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên. Họ hầu như bị tự nhiên chinh phục. Sống trong điều kiện như vậy, trong quan hệ với tự nhiên của con người nơi đây có những nét riêng biệt với những biểu hiện cụ thể của nó.
Thời gian gần đây, với sự xuất hiện và phát triển của nền kinh tế hàng hóa ở vùng núi Đông Bắc đã làm cho nhận thức và hành động thực tiễn của con người ở vùng này có sự biến động rõ rệt. Song hành với nền kinh tế hàng hóa là sự xâm nhập của văn hóa bên ngoài. Do bị choáng ngợp trước các nền văn hóa phát triển hơn, và do trình độ dân trí ở đây còn hạn chế nên nhiều giá trị văn hóa truyền thống, trong đó có các giá trị văn hóa sinh thái vùng đã bị chính con người địa phương chối bỏ; mặt khác, tốc độ gia tăng dân số ở đây cao hơn so với bình quân cả nước; đó là những nguyên nhân cơ bản dẫn tới tình trạng đói nghèo và tình trạng phá hoại môi trường của đồng bào miền núi.
1.2.2. Nội dung một số giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng núi Đông Bắc nước ta
Do đặc điểm tự nhiên và điều kiện kinh tế - xã hội ở vùng núi Đông Bắc nước ta có những điểm khác biệt so với các vùng khác nên trong cách ứng xử của con người ở đây đối với tự nhiên cũng có những điểm riêng biệt. Từ đó, đã tạo ra một số giá trị văn hóa sinh thái truyền thống vùng này vừa có những nét chung của giá trị văn hóa sinh thái truyền thống trong cả nước lại vừa có những nét riêng đặc trưng cho văn hóa sinh thái của vùng với những biểu hiện cụ thể của nó.
Có thể thấy rằng, trong quan hệ với tự nhiên, con người Việt Nam nói chung cũng như ở vùng núi Đông Bắc nói riêng có một nét truyền thống tiêu biểu đó chính là quan niệm "Thiên - Nhân hòa hợp". Đối với đồng bào vùng núi Đông Bắc, quan niệm này càng được tuân theo một cách tuyệt đối do những điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội của vùng quy định. Quan niệm "Thiên - Nhân hòa hợp" ở vùng này đã thấm sâu từ trong tư tưởng, tình cảm đến hoạt động thực tiễn của người dân nơi đây từ bao đời nay. Nó được thể hiện thành ba loại giá trị văn hóa sinh thái truyền thống chủ yếu sau:
- Tư tưởng sống hòa hợp với tự nhiên (tư tưởng).
- Lòng yêu thiên nhiên của con người (tình cảm).
- Con người luôn tìm cách hòa hợp với môi trường tự nhiên trong sinh hoạt và sản xuất (hoạt động thực tiễn).
1.2.2.1. Tư tưởng sống hòa hợp với tự nhiên
Tư tưởng sống hòa hợp với thiên nhiên là một giá trị ưu trội, đặc trưng của văn hóa phương Đông, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, tư tưởng sống hòa hợp với thiên nhiên của đồng bào các dân tộc vùng núi Đông Bắc nước ta cũng có những nét đặc thù riêng, phù hợp với các điều kiện thiên nhiên và kinh tế - xã hội của vùng.
Để tồn tại và phát triển, con người và xã hội loài người cần được cung cấp một lượng vật chất nhất định. Để có được lượng vật chất này, con người phải khai thác, cải biến, "nhào nặn" tự nhiên, nghĩa là con người phải có sự liên hệ, tác động trực tiếp tới tự nhiên. Trong quá trình tác động qua lại với tự nhiên, tùy thuộc vào trình độ nhận thức của mỗi con người, vào điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội của mỗi dân tộc mà thái độ đối xử của con người đối với tự nhiên có sự khác nhau: con người hoặc sống hòa đồng với tự nhiên, thuận theo tự nhiên, coi tự nhiên như người bạn của mình; hoặc sống đối lập với tự nhiên, khai thác tự nhiên một cách bừa bãi, coi tự nhiên như nô lệ của mình. ở khu vực miền núi Đông Bắc nước ta, từ ngàn đời, con người luôn có tư tưởng sống hòa hợp với tự nhiên, nương nhờ tự nhiên và thuận theo tự nhiên. Sở dĩ con người nơi đây có tư tưởng sống như vậy, bởi vì:
- Do điều kiện tự nhiên ở đây tương đối khắc nghiệt: khí hậu chênh lệch hai mùa rất lớn, địa hình bị chia cắt mạnh bởi các dãy núi cao, có độ dốc lớn, xen giữa các dãy núi là khá nhiều sông, suối. Điều này cản trở việc cải biến tự nhiên theo ý muốn chủ quan của con người. Mặt khác, đứng trước tự nhiên hùng vĩ, với núi rừng trùng điệp như vậy, con người cảm thấy mình bị nhỏ bé trước tự nhiên, do đó, đã bị tự nhiên chinh phục. Sống trong hoàn cảnh và với tâm lý như vậy, con người không còn cách nào khác là phải tuân theo tự nhiên, coi tự nhiên như người bạn của mình, như một phần cuộc sống của mình.
- Điểm xuất phát trong sản xuất của con người ở đây từ đời xưa đến nay về cơ bản là tồn tại nền sản xuất nông nghiệp với hình thức canh tác nương rẫy là chủ yếu. Một trong những đặc điểm của sản xuất nông nghiệp, nhất là trong trồng trọt, đó là sự phụ thuộc vào các điều kiện tự nhiên, trước hết là đất đai canh tác và nguồn nước tưới tiêu phục vụ cho sản xuất. Để hoạt động trồng trọt đạt được hiệu quả cao, bắt buộc con người phải quan tâm tới những điều kiện của tự nhiên có ảnh hưởng tới sản xuất như: khí hậu, thời tiết, thời vụ,... nghĩa là con người phải quan hệ chặt chẽ với tự nhiên, phải quan sát tự nhiên thật kỹ lưỡng để rút ra những kinh nghiệm cần thiết trong cách ứng xử với tự nhiên. Chính điều này làm cho con người nơi đây có sự gắn bó chặt chẽ với tự nhiên và hòa hợp với tự nhiên hơn.
- Nền kinh tế ở vùng núi Đông Bắc nước ta còn thấp kém, đời sống của con người còn nhiều khó kh._. thắng trong trận chiến đấu phát triển kinh tế mà để mất đi hay thậm chí hủy hoại trí tuệ và các giá trị, các truyền thống của quá khứ để lại cho chúng ta thông qua các nền văn hóa sống động của chúng ta,... đó chỉ là thắng lợi rỗng tuếch [51, tr. 18].
Dân cư ở đây cũng chưa hiểu đúng về nội dung của bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống: hoặc cho rằng, phải giữ nguyên các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống mà không có sự phát huy, phát triển trong điều kiện thời đại mới; hoặc cho rằng, phải xóa bỏ hoàn toàn những giá trị văn hóa sinh thái truyền thống trước đây vì nó đã lỗi thời, lạc hậu và xây dựng một nền văn hóa sinh thái mới hoàn toàn. Cả hai quan điểm này đều chứng tỏ dân cư ở đây có cách nhìn siêu hình đối với việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống của vùng.
Trong thời gian qua, việc thực hiện kế hoạch hóa gia đình ở đây chưa được tốt, mức độ gia tăng dân số ở vùng này còn cao. Từ đó, để đảm bảo cuộc sống bắt buộc dân cư địa phương không còn cách nào khác là phải tăng cường khai thác tự nhiên hơn nữa. Đó là nguồn gốc dẫn tới mối quan hệ giữa con người ở vùng này với tự nhiên đã có sự xung đột, đối lập nhau chứ không hòa hợp với nhau như trước đây. Các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống của vùng đã bị xâm phạm khá rõ.
Hiện nay tình trạng du canh, du cư vẫn còn tồn tại ở một số nơi vùng sâu, vùng xa mà những nơi này lại chính là đầu nguồn của một số con sông lớn ở miền bắc nước ta. Với cuộc sống du canh, du cư, tất yếu con người ở những nơi này sẽ không tránh khỏi tình trạng đốt phá rừng để trồng, cấy. Sự kết hợp hài hòa giữa con người và tự nhiên bị phá vỡ, thêm vào đó trình độ dân trí của dân cư ở vùng này cũng rất thấp, thậm chí còn nhiều người mù chữ, họ không hiểu được sự cần thiết phải bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống. Đây chính là một trong những nguyên nhân dẫn tới tình trạng bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống của vùng núi Đông Bắc còn những hạn chế nhất định cần phải nhanh chóng khắc phục.
Vậy để khắc phục những tồn tại trong bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng núi Đông Bắc nước ta hiện nay cần phải có cách giải quyết cụ thể như thế nào?
2.2. Giải pháp bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng núi Đông Bắc nước ta hiện nay
2.2.1. Các nguyên tắc chung của việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng núi Đông Bắc nước ta hiện nay
Việc đề ra các giải pháp phải nhằm giải quyết những nguyên nhân gây ra tình trạng trì trệ, hạn chế trong bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng núi Đông Bắc nước ta hiện nay và phải dựa trên một số nguyên tắc cơ bản nhất định. Những nguyên tắc này vừa đáp ứng những đòi hỏi chung của sự phát triển của đất nước, vừa phù hợp với điều kiện cụ thể của vùng. Đồng thời các giải pháp này dù dưới hình thức nào thì đều do chính con người vùng này quyết định là cơ bản, do đó theo chúng tôi, để xây dựng được các giải pháp cụ thể, cần phải đảm bảo một số nguyên tắc chung như sau:
Thứ nhất là, đảm bảo nguyên tắc về sự thống nhất giữa tự nhiên - xã hội- con người.
Theo quan điểm duy vật biện chứng, tuy thế giới cực kỳ phức tạp và đa dạng, được cấu thành từ nhiều yếu tố, song, suy đến cùng có ba yếu tố cơ bản: giới tự nhiên, con người và xã hội loài người. Ba yếu tố đó tồn tại thống nhất với nhau trong một hệ thống "thiên nhiên - con người - xã hội", bởi vì, chúng đều là những dạng thức khác nhau, những trạng thái, những đặc tính và những quan hệ khác nhau của vật chất đang vận động vĩnh viễn và phát triển không ngừng trong không gian và theo thời gian. Chính tự nhiên là tiền đề cho sự xuất hiện, tồn tại và phát triển của con người. Còn con người sống trong môi trường tự nhiên như một sinh vật, chính con người là kẻ điều tiết và kiểm tra các mối quan hệ giữa con người và tự nhiên. Nhờ đó, giúp con người có cơ sở khoa học để khắc phục những mâu thuẫn trong mối quan hệ giữa con người với tự nhiên. Nó cho con người thấy rằng, khi giải quyết vấn đề môi trường phải được đặt trong một chỉnh thể hệ thống các mối quan hệ giữa con người - xã hội - tự nhiên.
Mặt khác, quan hệ giữa con người và tự nhiên phụ thuộc vào trình độ phát triển của xã hội, xã hội phát triển giúp con người có cơ sở khoa học để tạo ra mối quan hệ hài hòa giữa con người với tự nhiên thông qua trước hết việc con người giải quyết những mâu thuẫn của chính con người với con người chứ không thể chỉ dựa vào trình độ phát triển cao của khoa học, công nghệ. Cũng nhờ đó mà vai trò chủ thể tích cực của con người trong việc điều khiển mối quan hệ giữa con người - xã hội và tự nhiên được phát huy. Chỉ có con người với sự hoạt động có ý thức mới có khả năng làm biến đổi giới tự nhiên theo mục đích của mình. Trong thực tế, con người nhiều khi do hoạt động tự phát của mình đối với tự nhiên đã để lại cho môi trường tự nhiên nhiều hậu quả tiêu cực, nặng nề đúng như C.Mác đã từng nhắc nhở: văn hóa nếu phát triển một cách tự phát, không được hướng dẫn một cách tự giác thì nó sẽ để lại đằng sau những hoang mạc. Nguyên lý này đã yêu cầu con người trong hoạt động cải tạo tự nhiên phải hành động một cách có ý thức để tránh sự trả thù của tự nhiên bởi vì, cứ mỗi lần ta đạt được một thắng lợi đối với giới tự nhiên là một lần giới tự nhiên trả thù lại chúng ta.
Thứ hai là, đảm bảo nguyên tắc cho sự phát triển bền vững của vùng và của đất nước.
Hội nghị Môi trường thế giới họp ở Rio (Braxin) năm 1992 đã đặt ra vấn đề về sự phát triển bền vững và xác định: nhiệm vụ của toàn nhân loại là phải bảo vệ trái đất như bảo vệ ngôi nhà của mình. Từ đó, các nước đã bắt đầu chính thức đưa vấn đề phát triển bền vững vào môi trường. Nguyên lý này đã yêu cầu con người trong quá trình khai thác tự nhiên không được phá hoại cơ hội của thế hệ sau, của sự phát triển xã hội.
Thứ ba là, Phù hợp với điều kiện đổi mới của đất nước và của khu vực.
Cùng với sự phát triển của thời đại, cả nước ta nói chung và khu vực vùng núi Đông Bắc nói riêng cũng đang từng ngày đổi mới và phát triển không ngừng. Từ thực tiễn phát triển và thực hiện đổi mới của các nước trên thế giới và nhất là các nước trong khu vực châu á ở thời gian vừa qua đã để lại cho nhân loại một bài học quý giá, đó là: để quá trình đổi mới và phát triển đất nước đạt được kết quả thì các quốc gia không được coi nhẹ vấn đề môi trường, phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa mục tiêu kinh tế với mục tiêu sinh thái. Nguyên lý này đã yêu cầu con người trong quá trình khai thác và sử dụng tự nhiên vì mục đích phát triển kinh tế phải tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển và đổi mới của đất nước.
2.2.2. Một số giải pháp bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng núi Đông Bắc nước ta hiện nay
Trên cơ sở tuân theo các nguyên tắc cơ bản trên, theo chúng tôi cần tiến hành một số giải pháp chủ yếu sau để có thể khắc phục những yếu kém trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng núi Đông Bắc nước ta, và từ đó, thúc đẩy việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống vùng này đạt hiệu quả cao hơn nữa.
Một là, phải nâng cao trình độ của "quan trí" và "dân trí" trong vùng đối với việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống của vùng. Với việc thực hiện giải pháp này sẽ góp phần khắc phục được một số nguyên nhân gây nên những tồn tại nhất định trong quá trình thực hiện công việc đó, bởi vì:
Trước hết, nó nâng cao được sự nhận thức của con người nhất là của các nhà quản lý trong vùng về vị trí, vai trò và tầm quan trọng của việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống của vùng. Từ đó, giúp các nhà quản lý có thái độ đúng đắn trong hoạch định chính sách cũng như trong chỉ đạo thực hiện công việc này. Nó cho phép họ thoát khỏi tư tưởng coi nhẹ việc làm này so với việc phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Hơn nữa, nó còn tạo điều kiện nâng cao sự hiểu biết của mọi người trong vùng về các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống, giúp họ phân biệt được các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống đích thực với những cái lạc hậu, lỗi thời, không còn phù hợp với điều kiện mới. Từ đó, giúp cho việc thẩm định, đánh giá các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống của vùng này được chuẩn xác hơn, góp phần thúc đẩy chất lượng và hiệu quả của công việc bảo tồn và phát huy các giá trị đó ngày càng được tốt hơn.
Mặt khác, với việc nâng cao trình độ dân trí trong vùng còn dẫn tới kết quả làm cho con người ở đây có sự nhận thức đúng đắn về nội dung của bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống, giúp họ tránh được cách nhìn siêu hình đối với công việc này, tránh được sự cực đoan, thái quá trong bảo tồn và phát huy các giá trị đó.
Để thực hiện tốt giải pháp trên, cần phải tiến hành một số công việc cụ thể sau:
- Nâng cao trình độ nhận thức và năng lực chỉ đạo trong hoạt động thực tiễn của các nhà quản lý, nhất là các nhà quản lý trong lĩnh vực văn hóa, môi trường của vùng vì họ là những người trực tiếp lãnh đạo việc thực hiện công việc đó, nên năng lực của họ sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả của công việc.
- Nâng cao trình độ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ làm công tác bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống. Trong đó, đặc biệt chú ý nâng cao trình độ cho những cán bộ là người bản địa vì họ là người hiểu rõ nhất những giá trị đó.
- Cần phát triển công tác giáo dục và mở rộng hệ thống tuyên truyền để nâng cao trình độ dân trí cho dân cư địa phương nhất là dân cư ở vùng sâu, vùng xa, giúp họ có nhận thức đúng đắn về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên, về vị trí, vai trò của con người trong hệ thống con người - xã hội - tự nhiên - đây chính là cơ sở chung để giải quyết mọi vấn đề sinh thái.
Hai là, phát triển kinh tế, thực hiện xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống cho đồng bào trong vùng, chủ yếu là phát triển những ngành, nghề phù hợp với các điều kiện phát triển bền vững - đây chính là cơ sở kinh tế để bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng này đạt được hiệu quả cao nhất, bởi vì, với giải pháp này sẽ cho phép khắc phục được tình trạng kinh tế - xã hội tập kém lạc hậu vốn đã tồn tại từ bao đời nay. Khi vùng này thoát khỏi đói nghèo thì một mặt, sẽ tạo điều kiện để dân cư trong vùng có cơ hội được học hành, nâng cao trình độ dân trí,nâng cao sự hiểu biết về vai trò và nội dung của việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống; mặt khác, nó sẽ tạo ra những tiền đề vật chất cần thiết góp phần giải quyết những tiêu cực trong mối quan hệ của con người nơi đây với tự nhiên - những cái làm cho các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống của vùng có nguy cơ bị mai một như: tình trạng đốt phát rừng bừa bãi, khai thác tài nguyên thiên nhiên một cách vô độ,...
Để thực hiện tốt giải pháp trên, cần phải tiến hành một số việc sau đây:
- Xóa bỏ hình thức sản xuất tự cấp, tự túc vốn đã tồn tại ở đây từ lâu đời, tạo điều kiện để kinh tế thị trường phát triển. Qua đó, tạo ra động lực để thúc đẩy kinh tế vùng này phát triển, thoát khỏi tình trạng đói nghèo, lạc hậu. Tuy nhiên, cũng phải có biện pháp khắc phục mặt trái của nền kinh tế thị trường đã gây ra sự biến đổi mang tính tiêu cực của các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống vùng này.
- Xóa bỏ sự độc canh trong sản xuất nông nghiệp ở vùng núi Đông Bắc, nhất là ở những nơi vùng sâu, vùng xa. Xây dựng được một cơ cấu kinh tế phù với điều kiện của vùng. Ngoài sản xuất cây lương thực, ở đây còn có thể phát triển một số ngành như: trồng các cây công nghiệp (quế, hồi,..), trồng rừng để cung cấp nguyên liệu cho một số ngành sản xuất công nghiệp,...
- Giúp đỡ vốn, khoa học công nghệ cho dân cư trong vùng để họ có điều kiện về kinh tế và kỹ thuật nâng cao năng suất và chất lượng sản xuất. Từ đó góp phần cải thiện và nâng cao đời sống của dân cư trong vùng.
- Kiên quyết xóa bỏ tình trạng du canh du, cư tự do, kể cả đi và đến ở một số nơi vùng sâu, vùng xa.
Ba là, nâng cao chất lượng công tác thẩm định các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng núi Đông Bắc nước ta. Đây là một trong những giải pháp có ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả của công tác bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng núi Đông Bắc nước ta, bởi vì, nếu việc thẩm định các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống được thực hiện tốt thì sẽ cho phép chúng ta xác định đúng được đối tượng cần phải bảo tồn và phát huy. Từ đó, sẽ cho phép khắc phục được những sai lầm, cực đoan trong công tác này. Nó giúp chúng ta giữ lại những giá trị văn hóa sinh thái truyền thống đích thực, còn phù hợp, đồng thời loại bỏ những cái đã trở nên cổ hủ, lạc hậu, không còn phù hợp với điều kiện hiện nay một cách chính xác nhất.
Để thực hiện tốt giải pháp trên, cần phải tiến hành một số việc sau đây:
- Đầu tư đầy đủ tiền đề vật chất, những trang thiết bị có trình độ kỹ thuật cao để phục vụ tốt hơn cho công việc thẩm định các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng này.
- Nâng cao năng lực chuyên môn và kinh nghiệm thực tế cho đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác thẩm định các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng núi Đông Bắc nước ta.
Bốn là, cần phải đầu tư cho việc cải tạo và nâng cấp cơ sở hạ tầng vật chất ở vùng núi Đông Bắc, bởi vì:
Trước hết, nó góp phần khắc phục được tình trạng đói nghèo, lạc hậu đã từng đeo bám đời sống con người vùng này từ ngàn đời nay. Khi cơ sở hạ tầng vật chất của vùng được hoàn thiện cũng có nghĩa là nó đã tạo ra được một môi trường thuận lợi cho quá trình sản xuất ở đây phát triển. Điều này làm cho nền kinh tế ở vùng núi Đông Bắc có một sự khởi sắc, đổi mới và phát triển không ngừng.
Bên cạnh đó, nó còn tạo điều kiện cho việc mở rộng giao lưu giữa vùng này với các vùng khác. Qua đó, tạo điều kiện cho dân cư ở đây tiếp cận được những thành tựu khoa học hiện đại, nâng cao trình độ dân trí dẫn tới họ có cách thức khai thác và sử dụng hợp lý, tiết kiệm và có hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ và không ngừng nâng cao chất lượng môi trường sống của vùng như: thực hiện công nghệ khép kín, thay công nghệ cũ bằng những công nghệ cao, công nghệ sạch,...
Để thực hiện giải pháp trên, cần phải tiến hành một số công việc cụ thể sau:
- Ưu tiên đầu tư vốn và trang, thiết bị cho công việc cải tạo và nâng cấp cơ sở hạ tầng vật chất ở vùng này. Ngoài nguồn vốn ngân sách nhà nước còn có thể huy động cả các nguồn vốn khác ở trong và ngoài nước.
- Thực hiện các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng vật chất cho khu vực miền núi Đông Bắc phải vừa phù hợp với điều kiện tự nhiên của vùng, vừa góp phần thúc đẩy sự phát triển chung của đất nước. Trong quá trình đó, phải quản lý và giám sát chặt chẽ các quy trình xây dựng và thẩm định của các công trình.
Năm là, trong thời gian tới phải làm tốt công tác kế hoạch hóa gia đình dưới mọi hình thức từ tuyên truyền, giáo dục đến xử phạt hành chính để giảm tỷ lệ gia tăng dân số ở vùng này xuống mức phù hợp với mục tiêu chung của cả nước. Việc thực hiện giải pháp này là một trong những nhân tố quan trọng góp phần thúc đẩy công tác bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng núi Đông Bắc được thực hiện có hiệu quả hơn, bởi vì:
Chính việc gia tăng dân số nhanh là một nguyên nhân dẫn đến tình trạng đói nghèo, lạc hậu ở vùng này trong thời gian vừa qua. Vì vậy, nếu chúng ta làm tốt công tác kế hoạch hóa gia đình, giảm được tốc độ gia tăng dân số thì sẽ góp phần không nhỏ vào việc thực hiện xóa đói, giảm nghèo, làm cho nền kinh tế ở đây phát triển. Từ đó, sẽ có cơ sở kinh tế để các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống vùng này được bảo tồn và ngày càng được phát huy hơn nữa.
Tỷ lệ gia tăng dân số giảm còn góp phần cải thiện được tình trạng khai thác tài nguyên thiên nhiên một cách bừa bãi, tình trạng ô nhiễm môi trường sinh thái do mật độ dân số tăng nhanh trong vùng như hiện nay.
Để thực hiện tốt giải pháp trên, cần tiến hành một số công việc sau:
- Mở rộng công tác tuyên truyền về kế hoạch hóa gia đình nhằm làm cho dân cư trong khu vực thấy được mức độ ảnh hưởng của dân số đến đời sống kinh tế và vấn đề môi trường sinh thái.
- Có sự đầu tư thỏa đáng cho công tác kế hoạch hóa gia đình, nhất là đối với khu vực vùng sâu, vùng xa từ đội ngũ cán bộ đến phương tiện thực hiện công việc này.
Trên đây là một số giải pháp chủ yếu (chứ không phải là duy nhất) cho việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng núi Đông Bắc nước ta. Cùng với thời gian, các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống cũng có sự thay đổi nhất định. Nó có thể được bảo tồn, giữ nguyên, hoặc được phát huy, phát triển, hay đã trở thành những cái cổ hủ, lạc hậu, lỗi thời cần phải xóa bỏ. Chính vì vậy, các giải pháp đưa ra cũng chỉ mang tính định hướng, nó cần phải được bổ sung thường xuyên để phù hợp với điều kiện phát triển mới. Tuy nhiên, giải pháp đưa ra bao giờ cũng phải tuân theo quan điểm của triết học Mác - Lênin, đó là: tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, và ý thức xã hội cũng có tính độc lập tương đối so với tồn tại xã hội.
Kết luận chương 2
Được sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước, vùng núi Đông Bắc nước ta đã thu được một số thành tựu quan trọng trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống của vùng, các giá trị chân, thiện, mỹ vẫn thể hiện rõ nét trong đời sống mới của con người nơi đây. Dưới sự tác động của kinh tế thị trường nó cũng có những biến tướng tiêu cực và còn tồn tại một số cái cổ hủ, lạc hậu không còn phù hợp với thời kỳ cách mạng mới; còn tồn tại những hạn chế này vừa do những nguyên nhân chủ quan vừa do những nguyên nhân khách quan khác nhau. Muốn khắc phục được những hạn chế đó phải dựa trên các giải pháp và các nguyên tắc chung của cả nước, trên cơ sở đó mới khắc phục những hạn chế cụ thể, đặc thù của vùng này như điều kiện địa lý phức tạp, khí hậu khắc nghiệt, trình độ hiểu biết về khoa học, công nghệ của đại bộ phận dân cư còn rất thấp, kinh tế - xã hội kém phát triển, v.v... và đưa ra giải pháp để bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống của vùng một cách hiệu quả.
kết luận
Văn hóa sinh thái là một bộ phận của văn hóa nói chung - của "giới tự nhiên thứ hai" do con người sáng tạo ra. Trong quá trình sinh tồn của mình, con người bắt buộc phải có quan hệ với tự nhiên, phải cải tạo và biến đổi nó nhằm phục vụ cho những nhu cầu thiết yếu của mình. Thông qua quá trình tác động vào tự nhiên, con người đã dần dần khám phá ra những quy luật vốn có của nó. Nhờ đó, con người đã đóng vai trò tích cực trong mối quan hệ đối với tự nhiên, con người không còn bị lệ thuộc một cách thụ động vào tự nhiên như ở thời kỳ sơ khai nữa. Đồng thời, trong quá trình tác động và làm biến đổi giới tự nhiên để tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần, con người đã ứng xử trong sáng, lành mạnh và hài hòa với tự nhiên, tạo ra được những cái đúng, cái tốt, cái đẹp trong quan hệ với tự nhiên. Tất cả những giá trị mà con người có được trong cách ứng xử đó chính là biểu hiện những giá trị của văn hóa sinh thái. Như vậy, vấn đề văn hóa sinh thái có mối quan hệ chặt chẽ với vấn đề môi trường. Hiện nay, vấn đề môi trường và tự nhiên đang đứng trước nguy cơ: sinh thái bị hủy diệt, môi trường bị ô nhiễm, tầng ôzôn bị thủng, rừng bị tàn phá, đất đai bị xói mòn, tài nguyên thiên nhiên bị cạn kiệt,... Đây chính là cái giá mà con người phải trả cho những hành vi "chinh phục" tự nhiên không có giới hạn của mình. Do vậy, vấn đề văn hóa sinh thái đã trở thành vấn đề cấp bách và đang được cả loài người quan tâm.
Khu vực miền núi Đông Bắc nước ta có điều kiện tự nhiên khắc nghiệt và kinh tế - xã hội lạc hậu, qua đó đã hình thành một vùng văn hóa sinh thái có những giá trị truyền thống mang bản sắc riêng. Trong đó mang đậm nét nhân văn của con người đối với tự nhiên. Con người ở đây từ lâu đời đã có truyền thống sống hài hòa với tự nhiên; có tình yêu vô bờ đối với thiên nhiên; có lối sống luôn tìm cách thích ứng với tự nhiên trong mọi hoạt động sống. Đó cũng chính là những giá trị văn hóa sinh thái truyền thống của vùng.
Hiện nay, do ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường và của các nền văn hóa khác, các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống vùng này đang có những biến đổi sâu sắc. Bên cạnh việc tiếp thu được những mặt tiến bộ, hiện đại của những nền văn hóa khác, các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở đây cũng đang có những biến đổi theo hướng tiêu cực, nhiều giá trị văn hóa sinh thái truyền thống tốt đẹp đã bị lai căng, thậm chí còn bị mai một, bị chính con người bản địa - những người sáng tạo ra nó quay lưng lại. Vì vậy, vấn đề bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống vùng này là một vấn đề mang tính cấp thiết cả về lý luận lẫn thực tiễn.
Cũng cần phải hiểu rằng, các giá trị văn hóa sinh thái được con người sáng tạo ra dựa trên một phương thức sống thích ứng với tự nhiên nên bảo tồn các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống không có nghĩa là giữ lại một cách nguyên xi tất cả những giá trị đang có mà chỉ giữ lại những cái vẫn còn giá trị và phù hợp với điều kiện cụ thể hiện nay, thậm chí có cái phải phát huy cho phù hợp với hoàn cảnh mới. Còn những cái đã lạc hậu, lỗi thời, không còn phù hợp với điều kiện hiện nay, những cái đã bị coi là hủ tục thì cần phải kiên quyết xóa bỏ. Mặt khác, bảo tồn và phát huy cũng không đồng nghĩa với "khép kín" mà vẫn phải mở rộng giao lưu với các nền văn hóa khác trên cơ sở "hòa nhập" nhưng không được "hòa tan".
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự chỉ đạo thực hiện của Nhà nước mà trực tiếp là của các cấp, ban, ngành có liên quan, việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng núi Đông Bắc nước ta đã đạt được những thành tựu đáng kể. Để có được những thành tựu đó, ngoài sự tham gia của các cơ quan, tổ chức làm công tác này, còn có sự tham gia của chính những người dân trong vùng với lòng tự hào dân tộc, ý thức bảo vệ môi trường sinh thái và sự hiểu biết của họ về giới tự nhiên ngày càng được nâng cao hơn.
Song, bên cạnh đó, việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng núi Đông Bắc nước ta vẫn còn tồn tại những hạn chế, yếu kém nhất định. Nhiều khi thực hiện công việc này vẫn còn mang tính hình thức, hiệu quả đạt được trong thực tế chưa cao. Sở dĩ có những tồn tại đó là do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau mà trong thời gian tới chúng ta cần phải khắc phục.
Để việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng núi Đông Bắc nước ta hiện nay đạt được kết quả tốt hơn, cần phải có những giải pháp cụ thể, mang tính thiết thực và phù hợp với hoàn cảnh mới. Muốn vậy, việc đề ra và thực hiện những giải pháp đó một mặt phải cho phép khắc phục được những nguyên nhân gây nên tình trạng bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống ở vùng này còn có hạn chế nhất định; mặt khác, nó còn phải dựa trên những nguyên lý cơ bản với tư cách là cơ sở triết học - xã hội của mối quan hệ giữa con người, xã hội và tự nhiên. Với việc tuân theo những yêu cầu này, chúng ta nhất định sẽ thực hiện tốt việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống của vùng này nói riêng cũng như các giá trị văn hóa sinh thái truyền thống của cả nước nói chung.
Danh mục các công trình đã được công bố của tác giả có liên quan đến đề tài luận văn
Trần Thị Hồng Loan (2002), "Văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam dưới tác động của kinh tế thị trường", Văn hóa các dân tộc, (3), tr. 41-44.
Trần Thị Hồng Loan (2002), "Một số vấn đề về văn hóa sinh thái ở miền núi phía Bắc nước ta hiện nay", Triết học, (5), tr. 58- 61.
danh mục Tài liệu tham khảo
Ban Chấp hành Trung ương (2004), Nghị quyết của Bộ Chính trị về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Hà Nội.
Trần Lê Bảo (Chủ biên), Nguyễn Xuân Kính, Vũ Minh Tâm, Phạm Thị Ngọc Trầm (2001), Văn hóa sinh thái - nhân văn, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
Phạm Văn Boong (2001), Xây dựng ý thức sinh thái - yếu tố bảo đảm cho sự phát triển lâu bền, Luận án tiến sĩ Triết học, Viện Triết học, Hà Nội.
Nông Quốc Chấn - Huỳnh Khái Vinh (2002), Văn hóa các dân tộc Việt Nam thống nhất mà đa dạng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Nguyễn Trọng Chuẩn (1998), "Vấn đề khai thác giá trị truyền thống vì mục tiêu phát triển", Triết học, (2), tr. 16-19.
Nguyễn Trọng Chuẩn - Phạm Văn Đức - Hồ Sĩ Quý (đồng Chủ biên) (2001), Tìm hiểu giá trị văn hóa truyền thống trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Nguyễn Trọng Chuẩn (2002), Một số vấn đề về triết học - con người - xã hội, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
Nguyễn Viết Chức (Chủ biên), Đỗ Huy, Huỳnh Khái Vinh, Phạm Thị Ngọc Trầm (2002), Văn hóa ứng xử của người Hà Nội với môi trường thiên nhiên, Viện Văn hóa và Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
Bùi Văn Dũng (1999), Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường cho sự phát triển lâu bền, Luận án tiến sĩ Triết học, Viện Triết học, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Phạm Văn Đồng (1994), Văn hóa và đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
V.K. Gac-đa-nôp (1962), Lê-nin với việc bảo vệ di sản văn hóa, xây dựng bảo tàng, Nxb Văn hóa - Nghệ thuật, Hà Nội.
Phạm Minh Hạc (1996), Phát triển văn hóa, giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc kết hợp với tinh hoa nhân loại, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
Hiến pháp năm 1992 (1992), Nxb Sự thật, Hà Nội.
Phạm Quang Hoan - Hùng Đình Quý (1999), Văn hóa truyền thống người Dao ở Hà Giang, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
Hội Văn học - Nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam (1998), Sáng tạo và bảo tồn giá trị văn hóa, văn nghệ các dân tộc thiểu số Việt Nam, in tại Trường Trung học Kỹ thuật In, Hà Nội.
Đỗ Huy - Trường Lưu (1993), Sự chuyển đổi các giá trị trong văn hóa Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
Đỗ Huy (1994), Chân - thiện - mỹ sự thống nhất và đa dạng trong văn hóa nghệ thuật, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
Đỗ Huy (2001), Xây dựng môi trường văn hóa ở nước ta hiện nay - Từ góc nhìn giá trị học, Viện Văn hóa và Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
Nguyễn Văn Huyên (1999), "Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và vấn đề giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc", Triết học (1), tr. 5 - 8.
Đinh Gia Khánh - Cù Huy Cận (1995), Các vùng văn hóa Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội.
Nguyễn Xuân Kính (2003), Con người, Môi trường và Văn hóa, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
Đỗ Thị Ngọc Lan (1995), Mối quan hệ giữa thích nghi và biến đổi môi trường tự nhiên của con người trong quá trình hoạt động sống, Luận án phó tiến sĩ khoa học Triết học, Viện Triết học, Hà Nội.
Đinh Xuân Lâm - Bùi Đình Phong (1998), Hồ Chí Minh văn hóa và đổi mới, Nxb Lao động, Hà Nội.
Trường Lưu (1999), Văn hóa - một số vấn đề lý luận, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
C. Mác và Ph. Ăngghen (1993), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
C. Mác và Ph. Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
C.Mác và Ph.Ăngghen (2000), Toàn tập, Tập 42, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Nguyễn Xuân Nguyên (1996), "Một số quan hệ tác động đến diện tích đất trống đồi trọc tại các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam", Nghiên cứu kinh tế, (221), tr. 19-26.
Hùng Đình Quý (1994), Văn hóa truyền thống các dân tộc Hà Giang, Sở Văn hóa - Thông tin Hà Giang xuất bản.
Hồ Sĩ Quý (1999), Tìm hiểu về văn hóa và văn minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Tập thể tác giả Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (1993), Văn hóa xã hội chủ nghĩa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Tập thể tác giả (1995), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia, Trường Đại học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh xuất bản.
Lê Ngọc Thắng - Lâm Bá Nam (1990), Bản sắc Văn hóa các dân tộc Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
Ngô Đức Thịnh (1993), Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
Chu Khắc Thuật - Nguyễn Văn Thủ (1998), Văn hóa, lối sống với môi trường, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
Nguyễn Hữu Tiến (1997), "Di cư tự do: Thực trạng và kiến nghị", Tạp chí Cộng sản (7), tr. 55-59.
Lại Văn Toàn (1999), Truyền thống và hiện đại trong Văn hóa, Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, Hà Nội.
Phạm Thị Ngọc Trầm (1997), Môi trường sinh thái - Vấn đề và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Phạm Thị Ngọc Trầm (2002), "Vấn đề xây dựng đạo đức sinh thái trong điều kiện kinh tế thị trường", Triết học, (12), tr. 14-19.
Phạm Thị Ngọc Trầm (2003), "Những giá trị văn hóa sinh thái nhân văn Hồ Chí Minh", Triết học, (12), tr. 14-19.
Phạm Thị Ngọc Trầm (2004), "Về cách tiếp cận Triết học - xã hội đối với hiện trạng môi trường sinh thái nhân văn ở Việt Nam: các vấn đề, nguyên nhân và giải pháp", Triết học, (6), tr. 23-31.
Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia (2002), Tính đa dạng của văn hóa Việt Nam: Những tiếp cận về sự bảo tồn, Hà Nội.
Nguyễn Văn Tuyên (1998), Sinh thái và môi trường, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
Từ điển triết học (1986), Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
ủy ban dân tộc (2003), Kỷ yếu diễn đàn phát triển bền vững miền núi Việt Nam, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
ủy ban dân tộc (2003), Một số vấn đề về bảo vệ môi trường vùng dân tộc và miền núi, Nxb Thống kê, Hà Nội.
ủy ban quốc gia về Thập kỷ quốc tế phát triển văn hóa - ủy ban quốc gia UNESCO của Việt Nam - Viện Khoa học Xã hội Việt Nam - Vũ Khiêu - Phạm Xuân Nam - Hoàng Trinh (1993), Phương pháp luận về vai trò của văn hóa trong phát triển, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
Huỳnh Khái Vinh (2000), Phát triển văn hóa, phát triển con người, Viện Văn hóa và Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
Huỳnh Khái Vinh (2001), Một số vấn đề về lối sống, đạo đức, chuẩn giá trị xã hội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA2568.doc