Vai trò & ý nghĩa của Bảo hiểm xã hội Việt Nam

Mục lục A. lời nói đầu Trong suốt quá trình hình thành và phát triển của mình, con người luôn phải đối phó với những hiểm hoạ khôn lường của thiên nhiên và những tổng thất xảy ra bất ngờ trong quá trình vận hành, điều khiển phương tiện máy móc, kĩ thuật đo chính của người sáng, chế tạo. Phòng ngừa rủi ro tai nạn là hết sức quan trọng, nhưng thế nào khắc phục hậu quả rủi ro, tai nạn để sản xuất phát triển bình thường, cuộc sống được ổn định ngày càng phát triển lại mối quan tâm của các cấp, các

doc13 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1638 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Vai trò & ý nghĩa của Bảo hiểm xã hội Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ngành và mọi tầng lớp dân cư. Một trong những phương thức hữu hiệu nhất đã được nhân loại nghiên cứu, đúc kết và tiến hành là bảo hiểm. Từ những thực tế trên ngành Bảo hiểm Việt Nam đã ra đời. Vì vậy, em đã chọn tiểu luận với nội dung "Vai trò và ý nghĩa của BHXH Việt Nam" để nghiên cứu. b. nội dung I. Nội dung, và ý nghĩa 1. Tầm quan trọng của BHXH Hoạt động bảo hiểm là việc hình thành các quỹ tài chính để bù đắp những thiệt hại do thiên tai, tai nạn bất ngờ gây ra. Trong những trường hợp này, các cá nhân có thể dùng khoản tiền tiết kiệm của mình, Nhà nước có thể dùng khoản dùng khoản dự trữ quốc gia để bù đắp. Nhưng không phải cá nhân nào cũng đủ khả năng tài chính để tích luỹ và giải quyết những tổn thất lớn, còn Nhà nước thì không thể trợ cấp cho từng cá nhân nếu thiệt hại chỉ là những thiệt hại nhỏ. Cho nên, khi nền kinh tế đã phát triển đến một trình độ cao (kinh tế hàng hoá) hoạt động bảo hiểm đã trở thành một lĩnh vực dịch vụ - dịch vụ tài chính chuyên nghiệp, mang tính kinh doanh. Đó là bảo hiểm thương mại (khác với bảo hiểm xã hội - không mang tính kinh doanh). ở nước ta, với việc chuyển nền kinh tế sang cơ chế thị trường, Nhà nước đã xoá bỏ sự bao cấp về vốn cho các doanh nghiệp, ngay cả trong trường hợp thiên tai. Vì thế khi gặp rủi ro, tổn thất thì bảo hiểm thực sự là giá đỡ tài chính cho mọi cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp. Nhờ có bảo hiểm, Nhà nước không phải chi những khoản lớn bất thường làm ảnh hưởng đến kế hoạch ngân sách hàng năm, cá nhân không phải chịu những tổn thất tài chính nặng nề. Mặt khác toàn bộ quỹ tài chính tích góp thông qua con đường bảo hiểm, khi tạm thời nhàn rỗi sẽ được sử dụng như một nguồn tài chính để tái đầu tư phát triển sản xuất xã hội. Như vậy, người tham gia bảo hiểm và nền kinh tế không chỉ được lợi một lần : lần đầu được công ty bảo hiểm bồi thường theo mức trách nhiệm, lần sau được dưới dạng phúc lợi, vật chất do nền kinh tế phát triển, mà một phần đóng góp tài chính không nhỏ là các quỹ bảo hiểm. 2. Sự ra đời và tốc độ tăng trưởng Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động bảo hiểm nên ngay từ những năm 1965, Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định số 179 CP thành lập Công ty bảo hiểm Việt Nam (nay là Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam) mở ra thời kỳ phát triển mới của ngành bảo hiểm Việt Nam. Tuy nhiên, trong một thời gian dài của cơ chế kế hoạch hoá tập trung, Nhà nước ta duy trì chế độ độc quyền Nhà nước trong kinh doanh bảo hiểm. Điều đó đồng nghĩa với việc không cho phép các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh tham gia kinh doanh bảo hiểm. Vì thế, trước năm 1993, ở Việt Nam chỉ có duy nhất một doanh nghiệp Nhà nước chuyên kinh doanh bảo hiểm, đó là Bảo Việt. Xuất phát từ quan điểm đổi mới trong hoạt động kinh tế và đời ssóng, do nhu cầu bảo hiểm ngày càng tăng, ngày 18/12/1993, Chính phủ đã ban hành Nghị định 100 CP quy định về hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Tiếp đó đến ngày 16/4/1997, Chính phủ lại tiếp tụ ban hành Nghị định 74 CP sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định 100 CP. Đây là những văn bản pháp lý đầu tiên của Nhà nước ta về ngành kinh doanh bảo hiểm, mở ra một giai đoạn mới, thực hiện chính sách nhiều thành phần trong kinh doanh bảo hiểm, đồng thời cũng là sự tuyên bố về sự mở cửa của thị trường bảo hiểm Việt Nam. Sau hơn 4 năm thực hiện Nghị định 100 và Nghị định 74, thị trường bảo hiểm Việt Nam đã có những chuyển biến đáng kể. Trước hết, đó là sự đa dạng hoá, mở rộng phạm vi quy mô của các doanh nghiệp bảo hiểm. Tính đến nay, ngoài 3 doanh nghiệp Nhà nước là Bảo Việt, Bảo Minh (Công ty Bảo hiểm thành phố Hồ Chí Minh), PVIC (Công ty bảo hiểm dầu khí Việt Nam) trên thị trường còn có sự hiện diện của 2 công ty cổ phần bảo hiểm là PJICO (Công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex), Bảo Long (Công ty cổ phần bảo hiểm Nhà Rồng), 2 công ty liên doanh bảo hiểm là VIA (Công ty bảo hiểm quốc tế Việt Nam), UIC (Công ty bảo hiểm liên hiệp) - vừa mới được cấp giấy phép ban thành lập và 1 liên doanh môi giới bảo hiểm AON - Inchinbrok. Tổng phí thu trên toàn thị trường năm 1997 là 1362 tỷ đồng. Trong khi đó, số tiền bồi thường bảo hiểm từ năm 1990 trở lại đây không ngừng tăng lên, đạt đến con số gần 1000 tỷ đồng trên toàn thị trường trong năm 1997m chưa kể đến số phí bảo hiểm được đưa vào quỹ dự trữ nghiệp vụ cho những trách nhiệm chưa kết thúc, những tổn thất lớn. Số thu nộp ngân sách Nhà nước của ngành bảo hiểm khá cao, mỗi năm tăng 20% năm, năm 1997 nộp 120 tỷ đồng. Tuy nhiên, không thể đánh giá hoạt động bảo hiểm cũng như lợi ích mà nó mang lại thông qua những con số về thu nộp ngân sách, về phí bảo hiểm mà phải tính đến số người, giá trị tài sản và trách nhiệm được bảo hiểm, bởi phí bảo hiểm chỉ là một phần rất nhỏ, đôi khi chỉ là một vài phần nghìn (0/00) của số tiền bảo hiểm đã không ngừng gia tăng. Chỉ tính riêng Bảo Việt, từ năm 1990 trở lại đây, bình quân mỗi năm, Bảo Việt đã nhận bảo hiểm cho hơn 10 triệu học sinh viên, 5 triệu lượt khách du lịch, 6 triệu người bảo hiểm trợ cấp phẫu thuật và nằm viện, bảo hiểm tai nạn con người, bảo hiểm sinh mạng cá nhân, trên một triệu ô tô và mô tô được bảo hiểm trách nhiệm nhân sự chủ xe, 1,5 tỷ USD kim ngạch hàng hoá xuất khẩu, hơn 2 tỷ USD giá trị tài sản mua bảo hiểm cháy. Như vậy, khi có tổn thất xảy ra, người được bảo hiểm có sự giúp đỡ về tài chính, tránh được các tình huống bị động khó khăn tài chính trong khắc phục hậu quả tổn thất, hay nói một cách khác, nếu không có Nhà nước chi viện, can thiệp thì hậu quả sẽ trở nên tồi tệ. 3. Các loại hình bảo hiểm Bên cạnh đó, các loại hình bảo hiểm ngày càng được đa dạng và hoàn thiện. Từ chỗ ngành bảo hiểm Việt Nam mới chỉ tiến hành một số nghiệp vụ bảo hiểm truyền thống chủ yếu là bảo hiểm tài sản như bảo hiểm hàng hoá, bảo hiểm tàu biển, đến nay các doanh nghiệp bảo hiểm đã chú trọng hơn việc đa dạng hóa các loại hình bảo hiểm và khai thác tốt hơn cả 3 nhóm nghiệp vụ bảo hiểm : bảo hiểm con người, bảo hiểm tài sản và bảo hiểm trách nhiệm ; đồng thời, các quy tắc, điều khoản, biểu phí bảo hiểm đã được nghiên cứu để phù hợp với không những thị trường bảo hiểm Việt Nam mà còn với tập quán và thông lệ bảo hiểm thế giới. 4. Quy mô của thị trường bảo hiểm Mặc dù có tốc độ tăng trưởng khá cao như đã kể trên những quy mô của thị trường bảo hiểm Việt Nam còn nhỏ bé, chưa xứng đáng với tiềm năng và tốc độ tăng trưởng kinh tế xã hội. Doanh thu toàn ngành mới chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ so với tổng sản phẩm quốc nội của nền kinh tế (năm 1996 chỉ chiếm 0,48%). Nếu đem so sánh với tỷ trọng của những nước trong khu vực như Nhật Bản (năm 1993: 13,2%). Singapore (năm 1994: 5,4%), Malasyia (năm 1994: 3,7%), Indonesia (năm 1994: 1,57%), thì mới thấy thị trường bảo hiểm Việt Nam chưa lớn. Các nghiệp vụ bảo hiểm chưa thoả mãn tối đa nhu cầu bảo hiểm trong nước cũng như các nhà đầu tư nước ngoài. Trong lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ, các nghiệp vụ đã triển khai thì chưa phủ kín các khu vực của nền kinh tế như khu vực tư nhân (bảo hiểm tài sản, bảo hiểm nhà tư nhân), nhiều nghiệp vụ bảo hiểm khác còn chưa được triển khai. Riêng trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ, do mới được triển khai nên mức phổ biến và nhận thức về bảo hiểm nhân thọ chưa được sâu rộng trong quần chúng. Mặt khác, sản phẩm bảo hiểm nhân thọ đang được bán chưa đủ đa dạng để phục vụ mọi đối tượng dân cư và mọi lứa tuổi. Ngành bảo hiểm Việt Nam có thời gian hơn 30 năm hình thành, tồn tại. Song đến tận thời điểm này, việc điều chỉnh hoạt động kinh doanh bảo hiểm mới chỉ dừng lại ở mức Nghị định của Chính phủ, chưa có luật kinh doanh bảo hiểm. Do vậy phần nào hạn chế tốc độ phát triển của ngành bảo hiểm cũng như công cụ quản lý, giám sát Nhà nước đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Tại thời điểm hiện nay, mặc dù đã có 7 doanh nghiệp bảo hiểm trong đó 3 doanh nghiệp là doanh nghiệp Nhà nước nhưng Bảo Việt vẫn là doanh nghiệp hàng đầu trên thị trường bảo hiểm Việt Nam. Năm 1997, Bảo Việt chiếm hơn 60% thị phần bảo hiểm trong nước, hầu hết mọi quy tắc, điều khoản, biểu phí các nghiệp vụ đều do Bảo Việt nghiên cứu, soạn thảo, trình Bộ Tài chính phê duyệt và ban hành, Bảo Việt là doanh nghiệp duy nhất triển khai kinh doanh ở cả hai lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ và phi nhân thọ với trên 50 nghiệp vụ khác nhau. Có thể khẳng định một điều chắc chắn rằng, doanh nghiệp bảo hiểm Nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo trên thị trường bảo hiểm Việt Nam trong thời gian tới. Trong xu thế toàn cầu hoá mọi hoạt động kinh doanh dịch vụ, việc từng bước mở cửa thị trường bảo hiểm, hoà nhập với thị trường bảo hiểm thế giới đã trở thành một vấn đề được Chính phủ quan tâm. Các loại hình doanh nghiệp bảo hiểm sẽ được đa dạng. Sản phẩm bảo hiểm phong phú hơn nhằm đáp ứng mọi nhu cầu bảo hiểm. Việc chuyển giao vốn, công nghệ bảo hiểm từ nước ngoài vào sẽ đưa ngành bảo hiểm nước ngoài đầu tư vào thị trường nội địa, chèn ép công ty bảo hiểm trong nước, lũng đoạn thị trường, gây áp lực để nền kinh tế là có thể xảy ra. Cho dù các quy tắc điều khoản, nghiệp vụ bảo hiểm Việt Nam hầu hết đều phù hợp với thông lệ và tập quán bảo hiểm quốc tế, các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam đã thiết lập được quan hệ về tái bảo hiểm, môi trường bảo hiểm, đại lý giám định và xét bồi thường với hàng trăm công ty bảo hiểm trên thế giới, nhưng những đòi hỏi về một thị trường bảo hiểm tự do đang thách thức các nhà quản lý các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam. Gần đây, WTO (Tổ chức thương mại thế giới) đang đòi hỏi các nước thành viên mở cửa thị trường, nhất là trong lĩnh vực dịnh như bưu chính viễn thông, dịch vụ tài chính mà trong đó có kinh doanh bảo hiểm. Các Công ty bảo hiểm Việt Nam vì coi đây là thị trường còn sơ khai, thâm nhập để một số công ty bảo hiểm nước ngoài lập công ty con hay chi nhánh 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam đang là một trong những đòi hỏi của các đối tác nước ngoài trong khi soạn thảo hiệp định thương mại song phương giữa Việt Nam và một số nước. Trong bối cảnh đó, việc cho phép thành lập thêm các công ty liên doanh, chi nhánh công ty nước ngoài cần được cân nhắc kỹ các quan hệ cung cầu và bảo hiểm của thị trường Việt Nam trong một thời kỳ cụ thể, đặc biệt là khi Việt Nam chưa có nhiều kinh nghiệm về việc quản lý trong lĩnh vực này. Một số nước Châu á, đặc biệt thực tiễn ở Nhật Bản đã cho thấy: Nhật Bản mở cửa thị trường bảo hiểm trong nước cho các công ty 100% vốn nước ngoài vào hoạt động, nhưng quá trình đó được thực hiện một cách từ từ, thận trọng, không gây sốc bằng cách giới hạn số lượng giấy phép hoạt động, nghĩa là mỗi năm Chính phủ Nhật Bản chỉ cấp giấy phép cho một công ty nước ngoài vào kinh doanh trên thị trường. Bên cạnh đó, cũng không loại trừ việc cần ưu tiên cho phép thành lập công ty con của các công ty tái bảo hiểm nước ngoài vì hoạt động của một công ty tái bảo hiểm sẽ đòi hỏi kỹ thuật cao hơn, vốn lớn hơn (mà điều kiện nội lực khó đáp ứng), đồng thời thu hút được nguồn vốn đầu tư vào Việt Nam và tăng khả năng giữ lại ngoại tệ trong nước. Song song với việc thúc đẩy thị trường bảo hiểm Việt Nam hoà nhập với thị trường bảo hiểm quốc tế, vấn đề bảo hộ và phát triển thị trường nội địa cũng cần phải được Chính phủ quan tâm thích đáng. Một hệ thống các chính sách đúng đắn và hợp lý về thuế, về nghiệp vụ bảo hiểm, về tiền lương và các chế độ khác để doanh nghiệp bảo hiểm nội địa có khả năng cạnh tranh đã trở thành một đòi hỏi cấp thiết. Việc kiểm soát hoạt động của các công ty bảo hiểm nước ngoài cũng cần được chú trọng thông qua các qui định hạn chế về phạm vi, địa bàn, lĩnh vực hoạt động. Đồng thời, Chính phủ nên xem xét đến việc phát triển các loại hình doanh nghiệp bảo hiểm đã qui định trong Nghị định 100CP, hỗ trợ doanh nghiệp bảo hiểm Nhà nước, để các doanh nghiệp cạnh tranh lành mạnh, phục vụ tốt hơn cho công cuộc hiện đại hoá - công nghiệp hoá đất nước, chuẩn bị đủ điều kiện để Việt Nam gia nhập AFTA, APEC, WTO. 5. Vai trò của Nhà nước đối với bảo hiểm xã hội Để quản lý hoạt động kinh doanh bảo hiểm bằng pháp luật. Nhà nước cần sớm ban hành Bộ Luật bảo hiểm là văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất, theo đó, quyền lợi chính đáng không chỉ của người được bảo hiểm mà còn của các doanh nghiệp được bảo hiểm sẽ được pháp luật bảo vệ. Trước mắt, một số vấn đề về bảo hiểm như hệ thống biểu phí "sàn" cho một số nghiệp vụ như bảo hiểm cháy, các nghiệp vụ bảo hiểm bắt buộc như bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, bảo hiểm xây dựng lắp đặt, bảo hiểm tai nạn hành khách, phạm vi hoạt động của các văn phòng đại diện bảo hiểm nước ngoài tại Việt Nam, địa vị pháp lý của các đại lý bảo hiểm, đặc biệt là đại lý bảo hiểm nhân thọ, cần phải được cụ thể hoá bằng pháp luật để thị trường bảo hiểm Việt Nam phát triển nhanh chóng và lành mạnh. II. Định hướng phát triển ngành bảo hiểm xã hội Việt Nam đến năm 2010. Nền kinh tế Việt Nam định hướng phát triển nhiều thành phần, từ đó thành phần kinh tế ngoài quốc doanh đã được phát triển nhanh, có đóng góp lớn trong nhân quỹ và đã tham gia nhiều mặt trong các chính sách xã hội. Riêng về bảo hiểm xã hội, đã thực sự "sự bảo vệ xã hội" cho mọi thành viên trong xã hội. Nếu như trước đây BHXH chỉ là đơn tuyến nguồn chi bảo hiểm xã hội chủ yếu từ ngân sách Nhà nước thì nay, nhu cầu bảo hiểm xã hội đã phát triển rộng hơn, tới toàn xã hội. Điều đó thúc đẩy BHXH phải có các định hướng phát triển mới để đáp ứng được những yêu cầu đó: 1. Bảo hiểm và hoàn thiện các cơ sở về pháp lý: - Sửa đổi, bổ sung một số BHXH quy định tại các điều lệ BHXH ban hành kèm theo Nghị định 12/CP và 45/CP của Chính phủ để khắc phục các tồn tại hiện nay. - Khẩn trương xây dựng luật BHXH theo Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc đặt ra và Nghị quyết của Quốc hội khoá 9. - Kiện toàn hệ thống pháp luật về tổ chức và quản lý công tác BHXH, xây dựng quy chế vận hành đủ sức đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra trong thời gian tới của ngành BHXH Việt Nam. - Đề ra những chính sách cụ thể về quy chế tài chính thống nhất, bảo đảo đủ nguồn thu, chống bao cấp, bảo tồn và tăng trưởng quỹ cho hoạt động BHXH Việt Nam. - Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra thực hiện chính sách BHXH nhằm đảo bảo mọi quy định có liên quan được thực hiện đầy đủ, đúng đắn, kịp thời. 2. Coi trọng phát triển về chiều rộng: bao gồm cả mở rộng các đối tượng tham gia BHXH lẫn các hình thức BHXH. Ngành BHXH sẽ cố gắng thu hút tất cả các đối lượng lao động của các thành phần kinh tế tham gia BHXH. Mở rộng đối tượng tham gia BHXH sẽ góp phần làm lành mạnh thị trường lao động của nước ta. Hiện nay đối tượng của hệ thống bảo hiểm xã hội mới chỉ chiếm 10% lực lượng lao động, còn đa số người lao động ở những khu vực không có quan hệ lao động (chủ - thợ) hoặc ở các doanh nghiệp có dưới 10 lao động vẫn chưa được tham gia BHXH mặc dù nhiều người trong số họ có nhu cầu về bảo hiểm xã hội. Tuy nhiên việc mở rộng đối tượng tham gia BHXH cũng cần phải thận trọng và có những bước đi thích hợp tuỳ theo điều kiện kinh tế của nước ta cũng như trình độ quản lý của ngành BHXH. 3. Xúc tiến thiết lập và mở rộng quan hệ của BHXH Việt Nam với BHXH các nước: Nhằm sớm hội nhập với hệ thống bảo hiểm các nước, trước mắt là các nước Đông Nam á hợp tác quốc tế sẽ được tiến hành trên các lĩnh vực: - Trao đổi kinh nghiệm của ngành; - Đào tạo đội ngũ cán bộ làm việc và quản lý; - Gia nhập các hiệp hội nhằm hỗ trợ nhau trong lĩnh vực cùng quan tâm. 4. Phát triển và hoàn thiện về cơ cấu tổ chức và cơ sở vật chất của ngành BHXH - Hoàn thành việc xây dựng trụ sở làm việc cho toàn bộ hệ thống từ Trung ương đến địa phương (kể cả các huyện); - Từng bước đầu tư phát triển hệ thống thông tin trong toàn ngành; - Đào tạo đội ngũ cán bộ nghiệp vụ đủ trình độ đảm trách vai trò to lớn của mình. Mục tiêu mỗi năm ít nhất phải có 20% cán bộ được đào tạo mới hoặc đào tạo lại, tập trung và các lĩnh vực: Nghiệp vụ cơ bản trong công tác BHXH; quản lý quỹ BHXH; cơ sở khoa học của việc hoạch định chính sách, chế độ BHXH; những vấn đề cơ bản về bảo toàn và phát triển quỹ BHXH; công nghệ thông tin (tin học trong quản lý quỹ BHXH); - Hình thành mạng lưới tổ chức BHXH gồm 3 cấp theo hình tháp, trong đó, đóng vai trò hạt nhân và cấp trên, cơ quan BHXH Việt Nam (với các tổ chức trực thuộc) có trách nhiệm quản lý toàn ngành và thu hút hầu hết đối tượng bảo hiểm bắt buộc và bảo hiểm tự nguyện; toàn bộ các tổ chức BHXH kể trên đều chịu sự giám sát và chỉ đạo của Hội đồng quản lý. Hội đồng này sẽ kết hợp với Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, với Bộ Tài chính trong lĩnh vực liên quan để quản lý một cách hiệu quả nguồn vốn. * Để thực hiện những định hướng phát triển BHXH đến năm 2010 không chỉ cần đến nỗ lực của bản thân ngành BHXH mà còn rất cần sự phối hợp từ các cấp các ngành có liên quan cũng như phối hợp chặt chẽ BHXH với các chính sách bảo đảm xã hội khác, với các hình thức bảo hiểm khác. Đồng thời, Nhà nước cũng cần có trách nhiệm hỗ trợ thêm cho quỹ BHXH từ nguồn ngân sách. 5. Những ưu điểm và nhược điểm của BHXH a. Chế độ BHXH mới thể hiện được những ưu điểm sau: - Đối với chế độ trợ cấp ốm đau quy định thêm thời gian hưởng trợ cấp đối với những người lao động thuộc các ngành nghề hoặc công việc nặng nhọc, độc hại; - Đối với chế độ trợ cấp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp: Điều lệ quy định rõ người sử dụng lao động phải chịu mọi khoản chi phí về sơ cứu, cấp cứu, điều trị, tiền lương trong thời gian chữa bệnh phải chịu bồi thường nếu người lao động bị tàn phế hoặc bị chết. Đồng thời người sử dụng lao động phải có trách nhiệm bố trí công việc phù hợp với sức khoẻ sau khi người lao động đã được điều trị khỏi; - Đối với chế độ hưu trí: Điều lệ BHXH quy định rõ hơn các trường hợp chưa đủ tuổi đời cũng được hưởng lương hưu hàng tháng. Quy định này nhằm giải quyết tình hình thực tế thường xảy ra có nhiều trường hợp tuy chưa hết tuổi lao động nhưng vì sức khoẻ suy giảm mà không thể tiếp tục làm việc được; - Đối với chế độ tử tuất: Điều lệ đã quy định mức tiền mai táng được nâng lên bằng 8 tháng tiền lương tối thiểu. Nhìn chung, chính sách BHXH mới phù hợp với thực tiễn, phù hợp với đường lối đổi mới về kinh tế chính trị của Nhà nước, ngày càng khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của nó trong hệ thống các chính sách của Đảng và Nhà nước. b. Những điều còn hạn chế: - Theo như quy định tại Bộ luật Lao động và Điều lệ BHXH, thì hiện nay mới chỉ có hơn 60% lao động thuộc diện BHXH bắt buộc được đăng ký tham gia BHXH còn lại gần 40% chưa tham gia; - Tiền thu từ sự đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động còn bị thất thu lớn so với quy định; - Tổ chức BHXH Việt Nam: Biên chế đông nhưng thiếu đồng bộ và trình độ, chất lượng còn hạn chế. Sự phối hợp giữa tổ chức BHXH Việt Nam với các cơ quan quản lý Nhà nước ở Trung ương và địa phương còn thiếu chặt chẽ, đặc biệt là trong việc phối hợp kiểm tra, thanh tra thực hiện chính sách BHXH; - Do việc quán triệt, tuyên truyền rộng khắp về chính sách BHXH mới chưa kịp thời nên nhận thức của người sử dụng lao động và người lao động về chính sách BHXH chưa đầy đủ dẫn đến việc thực hiện chính sách còn thiếu sót trong nộp và thực hiện các chế độ BHXH cho người lao động; - Hiện nay, Nhà nước đang quản lý và thực hiện các chính sách BHXH nhưng cũng còn một số vướng mắc vì còn phải xử lý những tồn tại theo các chính sách quy định trước đây, vừa phải thực hiện các quy định mới; - Chưa tổ chức được hình thức BHXH tự nguyện như luật định; - Chưa có luật BHXH để điều chỉnh các mối quan hệ phát sinh trong BHXH; - Đối tượng tham gia chính sách BHXH của nước ta hiện nay còn rất hạn chế trong khi số lượng đơn vị sản xuất ngoài quốc doanh phát triển mạnh trong những năm gần đây. C. Kết luận Nói tóm lại phát triển Bảo hiểm xã hội nhằm thực hiện mục tiêu công bằng Bảo hiểm xã hội và thực hiện chính sách bảo đảm xã hội là một định hướng chiến lược của Đảng và Nhà nước, hoàn toàn phù hợp với xu hướng hiện nay ở nước ta, là nhiệm vụ của từng người dân trong việc tham gia đóng góp, đồng thời cũng là quyền lợi của họ trong việc hưởng thụ các nguồn lợi do quỹ Bảo hiểm xã hội đem lại. Việc Nhà nước tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi cả về cơ chế, chính sách, trong đó có chính sách, cơ chế tài chính để thúc đẩy Bảo hiểm xã hội phát triển ngành càng vững mạnh, có thể hoạt động độc lập với ngân sách Nhà nước là một việc làm cần thiết và lâu dài, cần thiết phải có sự hỗ trợ của tất cả các cấp, các ngành, các tổ chức chính trị, đoàn thể và xã hội trong phạm vi cả nước. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docD0125.doc
Tài liệu liên quan