CHƯƠNG I
LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ MỐI QUAN HỆ GIỮA HAI NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ TRONG NƯỚC VÀ NGUỒN VỐN ĐÂU TƯ NƯỚC NGOÀI TRONG VIỆC THÚC ĐẨY TĂNG TRƯỞNG, PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM
I.CÁC KHÁI NIỆM
1. Khái niệm vốn, nguồn vốn đầu tư phát triển
a. Vốn đầu tư phát triển
Trên phương diện nền kinh tế: vốn đầu tư phát triển là biểu hiện bằng tiền toàn bộ những chi phí đã chi ra để tạo ra năng lực sản xuất (tăng thêm tài sản cố dịnh và tài sản lưu động) và các khoản đầu tư phát triển khác .
Đặc trưng của v
59 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1501 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Vai trò và mối quan hệ giữa hai nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư nước ngoài trong việc thúc đẩy tăng trưởng, phát triển kinh tế VN, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ốn đầu tư phát triển
- Vốn đại diện cho một lượng giá trị tài sản. Vốn được biểu hiện bằng giá trị của những tài sản hữu hình và vô hình
-Vốn phải vận động sinh lời . Vốn được biểu hiện bằng tiền . Để biến tiền thành vốn thì tiền phải thay đổi hình thái biểu hiện , vận động và có khả năng sinh lời
-Vốn cần được tích tụ và tập trung đến một mức nhất định mới có thể phát huy tác dụng.
- Vốn phải gắn với chủ sở hữu . Khi xác định rõ chủ sở hữu , đồng vốn sẽ được sử dụng hiệu quả
-Vốn có giá trị về mặt thời gian. Vốn luôn vận động sinh lời và giá trị của vốn biến động theo thời gian
Trên phạm vi nền kinh tế , nội dung cơ bản của vốn đầu tư phát triển bao gồm :
-Vốn đầu tư xây dựng cơ bản : là những chi phí bằng tiền để xây dựng mới , mở rộng , xây dựng lại hoặc khôi phục những năng lực sản xuất của tài sản cố định trong nền kinh tế quốc dân
-Vốn lưu động bổ sung : bao gồm những khoản đầu tư dùng mua sắm nguyên nhiên vật liệu , thuê mướn lao động … làm tăng thêm tài sản lưu động trong kì của toàn bộ xã hội .
-Vốn đầu tư phát triển khác : là tất cả các khoản đầu tư của xã hội nhằm gia tăng năng lực phát triển của xã hội , nâng cao trình độ dân trí , cải thiện chất lượng môi trường .
Những bộ phận chính của vốn đầu tư phát triển khác bao gồm : vốn chi cho công việc thăm dò , khảo sát ,thiết kế , qui hoạch ngành , qui hoạch lãnh thổ ; vốn chi cho việc thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia nhằm tăng cường sức khỏe cộng đồng như chương trình tiêm chủng mở rộng , chương trình nước sạch nông thôn , phòng bệnh , kế hoạch hóa gia đình , phòng chống tệ nạn xã hội , vốn đầu tư cho lĩnh vực giáo dục …
b. Nguồn vốn đầu tư phát triển
Nguồn vốn đầu tư phát triển là thuật ngữ để chỉ các nguồn tích luỹ, tập trung và phân phối cho đầu tư. Trên phương diện vĩ mô, nguồn vốn đầu tư phát triển bao gồm:
Nguồn vốn trong nước:
-Nguồn vốn nhà nước bao gồm: Vốn của ngân sách nhà nước, nguồn vốn tín dung đầu tư phát triển của nhà nước và nguồn vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước.
-Nguồn vốn của tư nhân và dân cư.
Nguồn vốn nước ngoài.
-Tài trợ phát triển chính thức (ODF), bao gồm: Viện trợ phát triển chính thức(ODA)- chiếm tỷ trọng chủ yếu, và các hình thức tài trợ khác.
-Nguồn tín dụng từ các ngân hàng thương mại quốc tế.
-Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).
-Nguồn huy động qua thị trường vốn quốc tế.
2. Khái niệm tăng trưởng và phát triển kinh tế
a.Tăng trưởng kinh tế.
Tăng trưởng kinh tế được xem là một trong những vấn đề hấp dẫn nhất trong nghiên cứu kinh tế và cùng với thời gian, quan niệm về vấn đề này cũng ngày càng hoàn thiện hơn.Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng thu nhập của nền kinh tế trong một khoảng thời gian nhất định (thường là một năm). Sự gia ăng của nền kinh tế được thể hiện ở quy mô và tốc độ. Quy mô tăng trưởng được sử dụng với ý nghĩa so sanh tương đối và phản ánh sự gia tăng nhanh hay chậm của tờng thời kỳ. Thu nhập của nền kinh tế có thể biểu hiện dưới dạng hiện vật hoặc giá trị. Thu nhập bằng giá trị phản ánh qua các chỉ tiêu GDP, GNI và được tính cho toàn bộ nền kinh tế hoặc được tính bình quân trên đầu người.
Như vậy bản chất của tăng trưởng là phản ánh sự thay đổi về lượng của nền kinh tế. Ngày nay, yêu cầu tăng trưởng ngày càng cao.Theo khía cạnh này, điều được nhấn mạnh nhiều hơn đó là sự gia ăng liên tục, có hiệu quả của chỉ tiêu quy mô và tốc độ tăng thu nhập bình quân đầu người. Hơn thế nữa, quá trình đó phải được tại nên bởi nhân tố đóng vai trò quyết định đó là khoa học, công nghệ và vốn nhân lực trong điều kiện một cơ cấu kinh tế hợp lý.
b. Phát triển kinh tế.
Phát triển kinh tế được hiểu là quá trình tăng tiến mọi mặt của nền kinh tế.Phát triển được xem như là quá trình biến đổi cả về mặt lượng và về chất của nền kinh tế, nó là sợ kết hợp một cách chặt chẽ quá trình hoàn thiện của hai vấn đề về kinh tế và xã hội của mỗi quốc gia. Theo cách hiểu như vậy, phát triển phải là một quá trình lâu dài và do các nhân tố nội tại của nền kinh tế quyết định. Nội dung của phát triển kinh tế được khái quát theo 3 tiêu thức: Một là, sự gia tăng tổng mớc thu nhập của nền kinh tế và mức gia tăng thu nhập trên một đầu người. Đây là tiêu thức phản ánh sự biến đổi về lượng của nền kinh tế, là điều kiện cần để nâng cao mức sống vật chất của một quốc gia và thực hiện các mục tiêu khác của phát triển. Hai là, sự biến đổi theo đúng xu thế của cơ cấu kinh tế. Đây là tiêu thức đánh giá sự biến đổi về chất của một quốc gia. Để phân biệt các giai đoạn phát triển kinh tế hay so sánh trình độ phát triển kinh tế của các nước với nhau, ngườ ta dựa vào dấu hiệu về dạng cơ cấu nghành mà quốc gia đó đạt được. Ba là, sự biến đổi ngày càng tốt hơn trong các vấn đề xã hội. Mục tiêu cuối cùng của sự phát triển kinh tế trong các quốc gia không phải là tăng trưởng hay chuyển dịch cơ cấu kinh tế, mà là việc xoá bỏ nghèo đói, suy dinh dưỡng, sự tăng lên của tuổi thọ,khả năng tiếp cận đến các dịch vụ y tế của quảng đại quần chúng nhân dân… Hoàn thiện các tiêu chí trên là sự thay đổi về chất của xã hội.
II.NỘI DUNG CỦA NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ
1.Nguồn vốn đầu tư trong nước
Biểu hiện cụ thể của nguồn vốn đầu tư trong nước bao gồm nguồn vốn đầu tư nhà nước và nguồn vốn của dân cư và tư nhân.
Nguồn vốn ngân sách nhà nước:
Đây chính là khoản chi của ngân sách nhà nước (NSNN) cho đầu tư. Chi cho đầu tư phát triển của NSNN là quá trình nhà nước sử dụng một phần vốn tiền tệ đã được tạo lập thông qua hoạt động thu của NSNN. Nguồn vốn của NSNN là một nguồn vốn đầu tư quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Nguồn vốn này thường được dùng để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế- xã hội, đầu tư để dự trữ vật tư hàng hóa nhà nước nhằm đảm bảo thực hiện các mục tiêu ổn định và tăng trưởng nền kinh tế.
Chi đầu tư phát triển từ NSNN là những khoản chi để đầu tư xây dựng cơ bản (đầu tư để xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng , các công trình thuộc cơ sở vật chất của các doanh nghiệp nhà nước …); thông qua phương thức cấp phát hoặc tín dụng của nhà nước, cấp phát , bổ sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp; dự trữ vật tư hàng hóa chiến lược của nhà nước đề phòng khi nền kinh tế gặp những biến cố bất ngờ về thiên tai địch họa đảm bảo cho nền sản xuất phát triển ổn định và đời sống nhân dân được bình thường; chi cho công tác lập và thực hiện các dự án quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế -xã hội vùng ,lãnh thổ ,quy hoạch xây dựng đô thị và nông thôn .
Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước.
Cùng với quá trình đổi mới và mở cửa, tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước ngày càng đóng vai trò quan trọng đáng kể trong chiến lược phát triển kinh tế -xã hội. Nguồn vốn nay được hình thành từ các nguồn sau đây:
-Vốn ngân sách nhà nước hàng năm dành cho tín dụng đầu tư xây dựng cơ bản.
-Vốn huy động theo chủ trương chính sách của chính phủ .
-Vốn vay nước ngoài của chính phủ và các nguồn viện trợ quốc tế dành cho tín dụng đầu tư phát triển .
-Vốn thu hồi nợ (gốc và một phần lãi vay) cho chương trình tín dụng ưu đãi của nhà nước đầu tư đã đầu tư trước đây đến hạn trả nợ.
-Các nguồn vốn theo quy định của chính phủ.
Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước có tác dụng tích cực trong việc giảm đáng kể sự bao cấp trực tiếp của nhà nước. Với cơ chế tín dụng , các đơn vị sử dụng nguồn vốn này phải đảm bảo nguyên tắc hoàn trả vốn vay. Chủ đầu tư là người vay vốn phải tính kỹ hiệu quả đầu tư, sử dụng vốn tiết kiệm hơn. Vốn tín dụng phát triển của nhà nước là một hình thức quá độ từ phương thức cấp phát ngân sách sang phương thức tín dụng đối với các dự án có khả năng thu hồi vốn trực tiếp. Bên cạnh đó, vốn tín dụng đầu tư của nhà nước còn phục vụ công tác quản lý và điều tiết kinh tế vĩ mô. Thông qua nguồn tín dụng đầu tư, nhà nước thực hiện việc khuyến khích phát triển kinh tế-xã hội của ngành vùng ,lĩnh vực theo định hướng chiến lược của mình. Đứng ở khía cạnh là công cụ điều tiết vĩ mô, nguồn vốn này không chỉ thực hiện cả mục tiêu phát triển xã hội.
Nguồn vốn đầu tư từ doanh nghiệp nhà nước .
Được xác định là thành phần giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, các doanh nghiệp nhà nước vẫn nắm giữ một khối lượng vốn khá lớn. Các doanh nghiệp nhà nước là những doanh nghiệp thường hoạt động trong nhưng lĩnh vực và ngành kinh té đóng vai trò quan trọng của nền kinh tế và của đất nước nên lượng vốn đầu tư từ các doanh nghiệp nhà nước thường khá lớn ,có ảnh hưởng lớn đối với toàn bộ nền kinh tế.
Nguồn vốn tư nhân.
Nguồn vốn khu vực tư nhân bao gồm phần tích luỹ của dân cư, của các doanh nghiệp dân doanh ( công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, hợp tác xã…) được đưa vào quá trình tái sản xuất xã hội thực hiện các hoạt động đầu tư phát triển. Quy mô của nguồn tiết kiệm này phụ thuộc vào :
Trình độ phát triển của đất nước ( ở những nước có trình độ phát triển thấp thường có quy mô và tỷ lệ tiết kiệm thấp)
Tập quán tiêu dùng của dân cư
Chính sách động viên của nhà nứơc thông qua chính sách thuế thu nhập và các khoản đóng góp đối với xã hội.
Thực hiện chính sách đổi mới, cơ chế cởi mở nhằm huy động mọi nguồn lực cho đầu tư được thực hiện, trong những năm gần đây các loại hình doanh nghiệp dân doanh có những bước phát triển mạnh mẽ. Trong tiến trình đổi mới 20 năm qua, và bài học cho sự phát triển trong thời gian tới, có thể nhắc đến 3 nguồn lực mà hầu hết các nước “hoá rồng” đã thực hiện. Đó là đầu tư nước ngoài, xuất khẩu và nguồn lực khu vực tư nhân trong nước. Nếu thời gian tới, chúng ta khai thác cả 3 động lực này một cách cân bằng và nhất là khu vực tư nhân trong nước, thì nền kinh tế phát triển đáng kể, chống đỡ được những chấn động từ các nhân tố bên ngoài mà ta không chủ động được. Khi nền kinh tế hội nhập cao, tính thích ứng càng đòi hỏi cao hơn và sức ép từ những biến động thị trường đòi hỏi ngày càng lớn hơn.
Thị trường vốn
Thị trường vốn bao gồm : thị trường chứng khoán (TTCK), thị trường bất động sản, thị trường thuê mua tài chính, và các định chế tài chính khác (NHTM, công ty bảo hiểm, QTDND…).
Thị trưòng vốn là kênh bổ sung các nguồn vốn trung và dài hạn cho các chủ đầu tư bao gồm cả nhà nước và các loại hình DN. Thị trường vốn mà cốt lõi là TTCK như một trung tâm thu gom mọi nguồn vốn tiết kiệm của từng hộ dân cư, thu hút mọi nguồn vốn nhàn rỗi của các doanh nghiệp, các tổ chức tài chính, chính phủ trung ương và chính quyền địa phương tạo thành một nguồn vốn khổng lồ cho nền kinh tế. Đây được coi là một lợi thế mà không một phương thức huy động vốn nào có thể làm được.
Thông qua thị trường vốn, chính phủ trung ương và chính quyền địa phương cũng có thể huy động vốn cho ngân sách hoặc đầu tư vào các công trình của mình bằng việc phát hành các chứng khoán nợ như trái phiếu, công trái… Nó góp phần vào việc kiềm chế lạm phát do chính phủ không phát hành thêm tiền giấy vào lưu thông nhằm phục vụ cho nhu cầu chi tiêu của mình.
Mặt khác, đứng trên góc độ hiệu qủa, thị trường vốn thực sự trở thành một cái van điều tiết hữu hiệu các nguồn vốn từ nơi sử dụng kém hiệu quả sang nơi có hiệu qủa hơn.Trên thị trường vốn, bất cứ khoản vốn nào được sử dụng đều phải trả giá, do vậy người sử dụng vốn phải quan tâm đến việc sinh lời của mỗi đồng vốn..
2. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài
Nguồn vốn đầu tư nước ngoài có thể được xem xét như là các dòng lưu chuyển vốn quốc tế (international capital flows).Thực chất các dòng lưu chuyển vốn quốc tế là biểu thị quá trình chuyển giao nguồn lực tài chính giữa các quốc gia trên thế giới.Trong các dòng lưu chuyển vốn quốc tế, dòng từ các nước phát triển đổ vào các nước đang phát triển thường được các nước thuộc thế giới thứ ba đặc biệt quan tâm.Dòng vốn này diễn ra dưới nhiều hình thức như:
-Tài trợ phát triển chính thức (ODF-official development finance) trong đó nguồn viện trợ phát triển chính thức (ODA-official development assistance) chiếm tỷ trọng chủ yếu.
-Nguồn tín dụng từ các ngân hàng thương mại.
-Đầu tư trực tiếp nước ngoài.
-Nguồn huy động qua thị trường vốn quốc tế.
a.Nguồn viện trợ phát triển chính thức (ODA)
Khái niệm về ODA:
Theo Ủy Ban Viện Trợ Và Phát Triển thì: Viện trợ phát triển chính thức là nguồn vốn hỗ trợ chính thức từ bên ngoài bao gồm các khoản viện trợ cho vay và với các điều kiện ưu đãi; ODA được hiểu là nguồn vốn dành cho các nước đang và kém phát triển, được các cơ quan chính thức của chính phủ trung ương và các cơ quan thừa hành của chính phủ, các tổ chức liên chính phủ và các tổ chức phi chính phủ tài trợ. Hiệp định quốc tế hỗ trợ này được chi phối bởi công pháp quốc tế.
Theo Nghị Định 87/CP của Chính Phủ Việt Nam, ODA là viện trợ không hoàn lại hoặc là cho vay ưu đãi của các tổ chức nước ngoài, với phần viện trợ không hoàn lại chiếm ít nhất 25% của khoản vốn vay.
Như vậy, ODA là nguồn vốn từ các cơ quan từ các cơ quan chính thức bên ngoài cung cấp cho các nước đang và kém phát triển hoặc là các nước gặp khó khăn về tài chính nhằm tạo điều kiện thuận lợ cho công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của các nước này.
Đặc điểm của ODA:
Do chính phủ của một nước cấp hoặc các tổ chức quốc tế cấp cho các cơ quan chính thức của một nước (Hỗ trợ song phương và hỗ trợ đa phương).
Không cấp cho những dự án mang tính chất thương mại mà chỉ nhằm mục đích nhân đạo, thể hiện nghĩa vụ, đồng thời là sự quan tâm giúp đỡ của các nước đối với nhau, tăng cường thúc đẩy mối quan hệ kinh tế đối ngoại tốt đẹp giữa các quốc gia hoặc là các tổ chức quốc tế với các quốc gia.
Tính ưu đãi chiếm trên 25% giá trị của khoản vốn vay. Yếu tố này được xác định dựa vào yếu tố lãi suất, thời hạn cho vay, thời hạn ân hạn, số lần trả nợ trong năm và tỷ suất chiết khấu. Công thức tính tỷ lệ yếu tố không hoàn lại như sau:
GE=100% [1 – ][1 - ]
Trong đó: r - tỷ lệ lãi suất hàng năm
a - số lần trả nợ trong năm
d - tỷ suất chiết khấu
G - thời gian ân hạn
M - thời hạn cho vay
ODA đòi hỏi phải có vốn đối ứng từ bên tham gia nhận viện trợ để họ có trách nhiệm hơn trong việc sử dụng ODA.
ODA là nguồn vốn phát triển do các tổ chức quốc tế và các chính phủ nước ngoài với mục tiêu trợ giúp các nước đang phát triển. Tài trợ ODA mang tính ưu đãi cao hơn bất cứ nguồn ODF nào khác.Ngoài các yếu tố ưu đãi về lãi xuất, thời hạn cho vay, khối lượng cho vay tương đối lớn, bao giờ ODA cũng có yếu tố vốn không hoàn lại ít nhất là 25%.Việc thu hút ODA phục vụ cho công nghiệp hoá và hiện đại hoá ở Việt Nam diễn ra trong bối cảnh trong nước và quốc tế có rất nhiều thuận lợi. Để sử dụng nguồn vốn ODA đã cam kết, Chính phủ Việt Nam đã kí kết với các nhà tài trợ các điều ước quốc tế và ODA.
b. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Khái niệm:
FDI là hình thức đầu tư quốc tế mà nhà đầu tư nước ngoài góp một lượng vốn đủ lớn để thiết lập các cơ sở sản xuất, kinh doanh, nhờ đó cho phép họ trực tiếp tham gia điều hành đối tượng mà họ bỏ vốn đầu tư, cùng với các đối tác nước nhận đầu tư chia sẻ rủi ro và thu lợi nhuận từ những hoạt động đầu tư đó.
Nguồn vốn FDI là nguồn vốn đầu tư của tư nhân nước ngoài để đầu tư cho sản xuất kinh doanh và dịch vụ nhằm mục đích thu lợi nhuận. Đây là nguồn vốn lớn,có ý nghĩa quan trọng trong đầu tư và phát triển kinh tế không chỉ đối với các nước nghèo mà kể cả các nước công nghiệp phát triển.
Nguồn vốn đầu tư trực triếp nước ngoài có đặc điểm cơ bản khác với các nguồn vốn nước ngoài khác là việc tiếp nhận nguồn vốn này không phát sinh nợ cho các nước tiếp nhận.Thay vì nhận lãi suất trên vốn đầu tư,nhà đầu tư sẽ nhận được phần lợi nhuận thích đáng khi dự án đầu tư hoạt động có hiệu quả. Đầu tư trực tiếp nước ngoài mang theo toàn bộ tài nguyên kinh doanh vào nước nhận vốn nên nó có thể thúc đẩy phát triển ngành nghề mới, đặc biệt là những ngành đòi hỏi cao về kỹ thuật,công nghệ hay cần nhiều vốn.Vì thế,nguồn vốn này có tác dụng cực kỳ to lớn đối với quá trình công nghiệp hoá,chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tốc độ tăng trưởng nhanh ở nước nhận đầu tư.
Các hình thức tồn tại chủ yếu của FDI :
-Hợp đồng hợp tác kinh doanh CBC (Contractual-Business-Cooperation)
-Doanh nghiệp liên doanh (Joint Venture interprise).
-Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài (100% Foreign Cantrerisce) là.
-BOT (Build , operate and transfer)
-Khu chế xuất: Theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, khu chế xuất được hiểu là “ khu công nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu và cho các hoạt động xuất khẩu, trong đó bao gồm một hoặc nhiều doanh nghiệp hoạt động, có ranh giới về mặt địa lý xác định, do chính phủ quyết định thành lập. Đặc biệt, khu chế xuất cho phép các doanh nghiệp nhập khẩu hàng hoá dùng cho sản xuất hành xuất khẩu miễn thuế dựa trên kho quá cảnh.
c. Nguồn vốn vay tín dụng từ ngân hàng thương mại
Khái niệm:Tín dụng thương mại là nguồn vốn mà các nước nhận vốn vay một thời gian phải hoàn trả cả vốn lẫn lãi cho nước cho vay.Các nước cho vay vốn thu lợi nhuận qua lãi suất tiền vay
Đặc điểm:
Đối tượng vay vốn thường là các doanh nghiệp. Độ rủi ro cao đối với các chủ đầu tư khi các doanh nghiệp vay vốn hoạt động không hiệu quả,làm ăn thua lỗ, phá sản.
Vốn vay dưới dạng tiền tệ,các doanh nghiệp vay vốn có toàn quyền sử dụng.
Chủ đầu tư nước ngoài thu lợi nhuận thông qua lãi suất ngân hàng cố định theo khế ước vay, độc lập với kết quả kinh doanh của doanh nghiệp vay,có quyền sử dụng những tài sản đã thế chấp hoặc yêu cầu cơ quan bảo lãnh thanh toán khoản vay trong trường hợp bên vay không có khả năng thanh toán.Các ngân hàng cung cấp vốn tuy không tham gia vào hoạt động của doanh nghiệp, nhưng trước khi nguồn vốn được giải ngân thì họ đều nghiên cứu tính khả thi của dự án đầu tư, có yêu cầu về bảo lãnh thế chấp các khoản vay để giảm rủi ro.
Do được đánh giá là mức lãi suất tương đối cao cũng như sự thận trọng trong kinh doanh ngân hàng (tính rủi ro ở nước đi vay ,của thị trường thế giới và xu hướng lãi suất quốc tế), nguồn vốn tín dụng của các NHTM thường được sử dụng chủ yếu để đáp ứng nhu cầu xuất,nhập khẩu và thường là ngắn hạn. Một bộ phận của nguồn vốn này có thể được dùng để đầu tư phát triển. Tỷ trọng của nó có thể gia tăng nếu triển vọng tăng trưởng của nền kinh tế là lâu dài, đặc biệt là tăng trưởng xuất khẩu của nước đi vay là sáng sủa.
Khi sử dụng nguồn vốn tín dụng TM, các nước tiếp nhận vốn không phải chịu bất cứ một ràng buộc nào về chính trị, xã hội, có toàn quyền sử dụng. Mặc dù vậy, thủ tục vay đối với nguồn vốn này thường là tương đối khắt khe,thời gian trả nợ nghiêm ngặt.Và do đây là nguồn vốn cho vay với lãi suất TM nên nếu các nước tiếp nhận không sử dụng hiệu quả nguồn vốn này thì có nguy cơ dẫn đến tình trạng mất khả năng chi trả, dẫn đến nguy cơ vỡ nợ. Đây là những trở ngại không nhỏ đối với các nước nghèo.
d. Thị trường vốn quốc tế.
Ưu điểm
-Có thể huy động vốn với số lượng lớn trong thời gian dài để đáp ứng nhu cầu về vốn cho nến kinh tế mà không bị ràng buộc bởi các điều kiện về tín dụng quan hệ cho vay để gây sức ép với nước huy động vốn trong các quan hệ khác.
-Tạo điều kiện cho Việt Nam tiếp cận với thị trường vốn quốc tế .Với việc trực tiếp tham gia thị trường vốn quốc tế, đây sẽ là cơ hội tốt để thúc đẩy TTCK Việt Nam phát triển trong tương lai.
-Khả năng thanh toán cao do có thể mua bán,trao đổi trên thị trường thứ cấp,
chính vì vậy hình thức này tương đối hấp dẫn với các nhà đầu tư nước ngoài.
- Đối với hình thức huy động này, người đi vay có thể tăng thêm tính hẫp dẫn bằng cách đưa ra một số yếu tố kích thích.
Nhược điểm
- Hệ số tín nhiệm của Việt Nam rất thấp. Chính vì vậy, nếu phát hành thì trái phiếu của Việt Nam sẽ phải chịu lãi suất ở mức cao.
-Việt Nam vẫn còn quá ít kinh nghiệm trong lĩnh vực này. Bên cạnh đó, so với một số hình thức huy động vốn khác thì thời gian chuẩn bị vẫn còn tương đối dài.
III. LÝ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA HAI NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ TRONG NƯỚC VÀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
1.Nguồn vốn trong nước là quyết định
Một ngôi nhà muốn vững chắc thì cần có móng tốt. Đối với nền kinh tế một nước cũng vậy. Nguồn vốn trong nước chính là nền móng cơ bản và bền vững cho sự phát triển kinh tế- xã hội của đất nước đó. Từ những năm cuối thế kỉ XX, vấn đề phát huy nội lực được nói đến nhiều tại Việt Nam. Trước trào lưu toàn cầu hoá ngày càng mạnh, đặt vấn đề tăng cường và phát huy nội lực để chủ động phát triển trong ổn định là cần thiết.
Nguồn vốn đầu tư là yếu tố vật chất trực tiếp quyết định tốc độ tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội. Trong đó, nguồn vốn trong nước luôn giữ một vị trí quan trọng. Thực trạng về việc huy động và sử dụng vốn trong những năm gần đây càng chứng tỏ tầm quan trọng ấy. Giai đoạn 2001-2005 riêng vốn nhà nước hàng năm chiếm 52-53% tổng đầu tư toàn xã hội. Đây là nguồn vốn quan trọng góp phần định hướng , tạo ra cơ cấu kinh tế và thu hút đầu tư của các thành phần kinh tế khác.
Nguồn vốn trong nước cũng thể hiện được nhiều ưu điểm so với nguồn vốn nước ngoài.
Thứ nhất, nguồn vốn trong nước mang tính ổn định, bền vững và giảm thiểu được những hậu quả xấu tác động đến nền kinh tế trong nước do sự tác động của thị trường tiền tệ thế giới. Cuộc khủng hoảng kinh tế Châu Á năm 1997 là một minh chứng cho sự lệ thuộc quá nhiều vào đồng vốn nước ngoài dẫn đến sự sụp đổ dây chuyền giữa các quốc gia. Một ví dụ nữa cho sự ổn định của nguồn vốn trong nước đó là nguồn vốn trong dân. Đây là nguồn vốn có tiềm năng lớn. Cuộc khảo sát mức sống dân cư của Tổng cục Thống kê cho thấy, chênh lệch giữa thu nhập và chi tiêu cho đời sống (tức là nguồn tích luỹ) bình quân 1 nhân khẩu 1 tháng của hộ gia đình năm 2004 tính chung cả nước là 114,4 nghìn tỷ đồng. Nguồn thì như vậy, nhưng số vốn thực tế mới thu hút vào đầu tư phát triển trong năm 2004 được 69,5 nghìn tỷ đồng, tức là vẫn còn khoảng 42 nghìn tỷ đồng (tương đương với trên 2,6 tỷ USD) chưa được thu hút vào đầu tư tăng trưởng. Ưu thế của nguồn vốn của dân là không phụ thuộc vào bên ngoài, cũng như không chịu ảnh hưởng của những biến động khôn lường từ bên ngoài. Một ưu thế nữa của nguồn vốn trong dân là do nguồn vốn này có chủ sở hữu thật sự và cụ thể, tỉ suất đầu tư thấp do vậy hiệu quả đầu tư cao hơn, cùng một lượng vồn nhưng sẽ tạo ra tốc độ tăng trưởng cao hơn so với vốn nhà nước. Về vốn bên ngoài, chúng ta đã nhận được rất nhiều cam kết, nhưng tốc độ giải ngân còn quá thấp. Nếu để tình trạng này lâu, nguy cơ rõ ràng có thể xảy đến là việc các nhà đầu tư ngần ngại trong việc đưa ra các cam kết mới, và cả trong thực hiện các cam kết đã có. Thậm chí họ có quyền rút vốn như đã từng xảy ra. Việt Nam đã mất tới 10 năm để khôi phục đà đầu tư từ những năm 1995, 1996. Vào thời điểm đó, mức cam kết đầu tư vào Việt Nam đã lên tới 8 tỷ USD. Trên thế giới, nước nào cũng muốn thu hút đầu tư cho phát triển. TÌnh trạng khát vốn diễn ra ở mọi nơi. Địa bàn chọn lựa đầu tư rất rộng. Nếu Việt Nam khó khăn làn sóng đầu tư náy sẽ nhỏ dần, thậm chí mất hẳn. Mọi cố gắng lôi lại đà đó không hề dễ dàng. Như vậy, nguồn vốn nước ngoài không phải bao giờ cũng ổn định và bền vững. Chúng ta không thể mãi trông đợi vào nguồn tài trợ từ bên ngoài mà phải đứng vững trên đôi chân của chính mình.
Đối với nguồn vốn ODA, Việt Nam chưa thực hiện tốt tất cả các công việc cho giải ngân tốt hơn. Sau khi chọn được dự án ODA đã khó, việc chuẩn bị của Việt Nam khi có vốn ODA còn chậm, rõ nhất là chuẩn bị mặt bằng và không có sẵn vốn đối ứng trong các dự án. Điều kiện con người và kinh tế đã làm chậm quá trình giải ngân. ODA vẫn thường được ví như “con dao hai lưỡi”. Việc sử dụng vốn ODA cũng đi kèm với những ràng buộc về kinh tế hoặc chính trị đối với nước được tiếp nhận vốn. Mỗi nguồn ODA có thời gian ân hạn nhất định. Nếu không làm việc, chúng ta đã tự tước bỏ thời gian ưu đãi ấy. Ví dụ một dự án ODA quy định trong 10 năm được hưởng lãi suất thấp, hoặc không phải trả lãi. Nhưng vì quá trình giải ngân chậm, khi dự án bắt đầu đi vào sử dụng chỉ còn 2-3 năm. Chúng ta đã tự đánh mất 7-8 năm quý giá. Và cái giá của ODA trở nên đắt đỏ hơn. Chưa kể nó sẽ kìm hãm sự phát triển của khu vực, lĩnh vực đưa ODA vào. Đây là lãng phí kép: tiền của, gánh nợ, thời gian cho phát triển. đặc biệt mất thời gian đồng nghĩa với mất đi các cơ hội. Trong hội nghị tư vấn các nhà tài trợ 2007 , ông Donal Brown, trưởng đại diện văn phòng cơ quan phát triển Anh (DFID) đã khẳng định: “ODA không phải là nguồn vốn cho tăng trưởng duy nhất. Do đó Chính phủ nên tìm các nguồn vốn khác, vì chỉ vài năm tới, khi Việt Nam trở thành quốc gia có thu nhập trung bình, các nhà tài trợ sẽ không giành cho Việt Nam những khoản vay như hiện nay”. Như vây, việc sử dụng tốt nguồn vốn trong nước sẽ tạo điều kiện cho sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ODA, FDI cũng như các nguồn tài trợ khác. Và nguồn vốn trong nước bao giờ cũng tạo ra sự chủ động trong hoạt động đầu tư của nền kinh tế.
Thứ hai, nguồn vốn trong nước là nguồn quan trọng cho đầu tư vào các vùng còn khó khăn, đói nghèo, vùng sâu, vùng xa nhằm thu hẹp khoảng cách giàu nghèo giữa các vùng miền trong cả nước, tạo điều kiện khai thác các khả năng tiềm tàng của đất nước, phát triển kinh tế - xã hội một cách đồng bộ và bền vững. Bởi lẽ, các nguồn vốn nước ngoài sẽ chỉ chủ yếu tập trung đầu tư cho những vùng kinh tế trọng điểm, nổi trội của nước ta như Hà Nội, Hải Phòng, Thành phố Hồ Chí Minh...
Thứ ba, nguồn vốn trong nước đầu tư vào các doanh nghiệp nhà nước theo chiều sâu, đổi mới công nghệ đã nâng cao năng lực cạnh tranh để thích ứng ngày càng tốt hơn trước xu thế hội nhập ngày nay, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Sự phát triển này cũng góp phần cho sự tăng trưởng, phát triển kinh tế nước ta, từ đó tạo cơ hội cho việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Thứ tư, nguồn vốn trong nước đầu tư vào xây dựng cơ bản tạo các điều kiện, cơ sở vật chất cho đất nước, vốn chi cho đầu tư phát triển được ưu tiên cho những công trình hạ tầng kinh tế - xã hội trọng điểm để từ đó tạo dựng hình ảnh mới trong mắt các nhà đầu tư nước ngoài, tạo cơ hội cho thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào nước ta. Minh chứng cho điều đó là việc sử dụng vốn có hiệu quả vào đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho khu công nghiệp. Đầu những năm 2000, ngay từ khi thành lập các khu công nghiệp tại các tỉnh Trung du, miền núi Bắc Bộ...việc xây dựng cơ sở hạ tầng và theo đó là việc vận động, lựa chọn chủ đầu tư tham gia xây dựng khu công nghiệp cũng là vấn đề mang nhiều trở ngại do đặc điểm địa hình kinh tế của vùng kém thuận lợi. Trước tình hình đó cần có sự hỗ trợ của nhà nước. Đáp ứng yêu cầu cấp bách đó, thủ tướng đã cho phép hỗ trợ vốn từ ngân sách trung ương và địa phương. Nhờ đó mà hầu hết các khu công nghiệp này đã từng bước hoàn thành về cơ bản các công trình hạ tầng và thu hút nhiều dự án đầu tư sản xuất.
Thứ năm, đầu tư trong nước cũng là một nguồn lực tốt, thậm chí năm 2006 đầu tư trong nước còn lớn hơn FDI. Hầu hết đầu tư trong nước là các doanh nghiệp tư nhân, các cá nhân, do đó họ có lợi ích thực, thúc đẩy nâng hiệu quả càng cao càng tốt.
Thứ sáu, nguồn vốn trong nước, đặc biệt là vốn từ ngân sách nhà nước là nguồn quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề cấp thiết trước mắt mà chưa thể trông đợi vào sự viện trợ của vốn nước ngoài. Cho đến nay, nhiều động thái cho thấy khu vực nông nghiệp, nông thôn vẫn tiếp tục nằm “ngoài rìa làn sóng phát triển” của đất nước. Bởi lẽ đầu tư cho nông nghiệp vừa nhỏ, vừa chắp vá, phân tán. Theo số liệu của Bộ Tài chính, trong 5 năm qua, tổng vốn đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn chỉ đạt trên 113 nghìn tỷ đồng, chỉ chiếm 8,7% vốn đầu tư của cả nước và chỉ đáp ứng được 17% nhu cầu của khu vực này. Trong khi đó, làn sóng FDI đang ồ ạt đổ vào nền kinh tế nước ta hiện nay cũng “lãng quên” khu vực này: tính đến 6/2007, khu vực nông nghiệp chỉ chiếm 10,12% số dự án còn hiệu lực (758/7.490 dự án); số vốn đăng kí chỉ chiếm 5,62% (3,78 tỷ USD); vốn thực hiện cũng chỉ chiếm 6,33% (gần 1.9 tỷ USD). Vì vậy đầu tư mạnh và đồng bộ vào nông nghiệp là yêu cầu sống còn bây giờ và cả trong tương lai xa. Bởi nó sẽ đạt được cả 2 đích ngắm: giảm sốt giá và tạo nền tảng phát triển vững chắc.
Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, chúng ta không thể phủ nhận vai trò quan trọng của nguồn vốn nước ngoài. Xét về bản chất, nguồn hình thành vốn đầu tư chính là phần tiết kiệm hay tích luỹ mà nền kinh tế có thể huy động được để đưa vào quá trình tái sản xuất xã hội. Vấn đề này đã được các nhà kinh tế học cổ điển, kinh tế chính trị học Mác-Lênin, các nhà kinh tế học hiện đại chứng minh. Trong tác phẩm nổi tiếng “lí thuyết tổng quát về việc làm, lãi suất và tiền tệ”, J.M.Keynes đã chứng minh rằng:
ĐẦU TƯ = TIẾT KIỆM.
Nhưng theo ông thì điều kiện cân bằng trên chỉ đúng trong trường hợp nền kinh tế đóng, còn trong nền kinh tế mở ngày nay thì không phải lúc nào đẳng thức trên cũng được thiết lập. Khi phần tích luỹ của nền kinh tế bằng hay lớn hơn nhu cầu đầu tư trong nước thì lượng vốn đầu tư nước ngoài sẽ không cần thiết, thậm chí phần tĩch luỹ dư thừa kia còn được đem đi đầu tư ra nước ngoài để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của nền kinh tế. Ngược lại, khi nhu cầu đầu tư trong nước lớn hơn khả năng tích luỹ vốn thì cần có nguồn vốn nước ngoài để bù đắp sự thiếu hụt cho nhu cầu đầu tư.
Rõ ràng trong giai đoạn đầu, nếu chỉ dựa vào nguồn vốn trong nước thì sẽ khó có thể, thậm chí là không thể phá vỡ được “vòng luẩn quẩn” để đưa đất nước phát triển lên một tầm mới. Nhưng trong dài hạn thì việc huy động nguồn vốn này cũng là để khai thác tối đa lợi thế so sánh của đất nước, nhanh chóng tạo ra năng lực tích luỹ nội địa cao để đảm bảo vai trò quyết định của nguồn vốn đầu tư trong nước đối với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội.
2.Nguồn vốn đầu tư nước ngoài là quan trọng
Trước năm 1986, Việt Nam thực hiện cơ chế kế hoạch hoá tập trung, nguồn lực kinh tế chủ yếu tập trung trong tay nhà nước. Các thành phần kinh tế ngoài hai thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể không được phép phát triển, chính vì vậy nguồn lực cho đầu tư là rất hạn chế với quy mô vốn đầu tư nhỏ. Từ năm 1986, khi các điều luật về đổi mới trong lĩnh vực đầu tư được thông qua nền kinh tế Việt Nam đã “cởi mở” hơn, xuất hiện nhiều thành phần kinh tế hơn, nhiều nguồn có thể huy động vốn ví như: khu vực tư nhân và dân cư, khu vực có vốn đầu t._.ư nước ngoài… đặc biệt vốn đầu tư nước ngoài đã đóng vai trò quan trọng trong quy mô vốn đầu tư toàn xã hội và sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế Việt Nam.
Năm 2007 là năm thứ hai thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010, có ý nghĩa quan trọng tạo đà cho việc hoàn thành các mục tiêu của kế hoạch này. Trong năm 2007, nền kinh tế tiếp tục phát triển ổn định, đạt mức tăng trưởng cao nhất trong vòng 10 năm qua. Tốc độ tăng trưởng kinh tế cả năm 2007 ước tăng khoảng 8.5% (kế hoạch là 8.2-8.5%) trong đó khu vực nông lâm, ngư nghiệp tăng 3.4%, công nghiệp và xây dựng tăng 10.6%, dịch vụ tăng 8.7%.GDP theo giá hiện hành đạt 1144 tỷ đồng (tương đương vớI 71.3 tỷ USD), bình quân đầu người tương đương vớI 835USD (kế hoach là 820USD).Nguồn vốn đầu tư phát triển được huy động đạt mức cao, đặc biệt là nguồn vốn đầu tư nước ngoài, nhờ cải thịên môi trường đầu tư, kinh doanh, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (số vốn đăng ký cấp mới và vốn bổ sung ) cả năm 2007 đạt khoảng 20.3 tỷ USD, mức cao kỷ lục từ trước đến nay. Như vậy, khi nền kinh tế tăng trưởng ở mức độ cao như vậy thì nhu cầu đầu tư của nền kinh tế là rất lớn, nếu như chúng ta chỉ sử dụng nguồn vốn đầu tư trong nước thì không đủ đáp ứng nhu cầu đó, điều đó tạo nên sức hút mạnh mẽ với nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
Thứ nhất, dòng vốn ĐTNN vào Việt Nam ngày càng gia tăng, góp phần bổ sung nguồn vốn đầu tư phát triển kinh tế - xã hội. Xét trên góc độ vĩ mô, nguồn hình thành vốn đầu tư phát triển bao gồm: nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Như chúng ta đã biết, đặc điểm của các nước đang phát triển đó chính là tỷ lệ tích luỹ thấp. Một điều hiển nhiên là để có nguồn vốn tích luỹ thì phải hy sinh tiêu dùng, nhưng khó khăn là ở chỗ, đối với các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng thì thu nhập thấp chỉ đáp ứng đủ cho cuộc sống tối thiểu, vì vậy giảm tiêu dùng là rất khó khănNhững con số minh chứng rất rõ ràng cho điều này chính là: Ở các nước phát triển thường để dành từ 20% đến năng tiết kiệm hơn 10% thu nhập, nhưng phần lớn thu nhập này lại được dùng để cung cấp hơn 30% thu nhập để tích lũy. Trong khi đó ở các nước nông nghiệp thì chỉ có khả nhà ở và trang thiết bị cần thiết cho số dân đang tăng lên. Do vậy càng hạn chế quy mô tiết kiệm và tích luỹ cho nền kinh tế. Như vậy, để nguồn vốn đầu tư phát triển tăng thì việc “góp mặt ” của nguồn vốn đầu tư nước ngoài là rất quan trọng.
Thứ hai, nguồn vốn đầu tư nước ngoài là nhân tố quan trọng góp phần rút ngắn khoảng cách giữa các nước đang phát triển và các nước phát triển. Những trở ngại đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của các nước đang phát triển đó là: thu nhập thấp, tỷ lệ tích luỹ thấp, trình độ kỹ thuật thấp, năng suất lao động thấp, chúng có liên quan chặt chẽ với nhau tạo ra “vòng luẩn quẩn của sự nghèo khổ”, làm cho khoảng cách giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển ngày càng xa.
Thu nhập thấp
Tỷ lệ tích luỹ thấp
Năng suất thấp
Trình độ kỹ thuật thấp
Vòng luẩn quẩn của sự nghèo khổ
Đứng trước tình hình trên đòi hỏi các nước đang phát triển phải có biện pháp để phá vỡ “vòng luẩn quẩn”. Để vá vỡ vòng luẩn quẩn này chỉ có thể “cắt đứt” mắt xích: tỷ lệ tích luỹ. Nâng cao tỷ lệ tích luỹ bằng cách thu hút vốn đầu tư nước ngoài, tăng đầu tư trong nước, thay đổi trình độ kỹ thuật ,nâng cao năng suất lao động, tăng thu nhập quốc dân.
Thứ ba, nguồn vốn đầu tư nước ngoài là đòn bẩy mạnh mẽ cho nền kinh tế Việt Nam:Thực tế từ thời kỳ mở cửa đến nay cho thấy vai trò quan trọng của nguồn vốn nước ngoài trong những thành quả nền kinh tế Việt Nam đã đạt được,chúng ta từ một nền king tế bao cấp lạc hậu với tốc độ phát triển vào loại thấp nhất thế giớinay đã trở thành nước có tốc độ phát triển đứng thứ hai thế giới,từ một nền kinh tế đang trong tình trạng khủng hoảng đã thoát ra và có nhưng bước tiến vững chắc ;tốcđộ tăng GDP hàng năm từ 7-8.5% có những thời kì đạt 9,4%,đời sống xã hội ổn định , việc làm và cơ hội tìm việc làm ngày càng gia tăng ,thu nhập của người lao động ngày một tăng,tiết kiệm và tăng thu ngoại tệ thuần.Chúng ta có thể thấy rõ hơn điều này thông qua một số chỉ tiêu hiệu quả kinh tế tuyệt đối FDI:
Thu ngân sách:
Thu ngân sách tính riêng cho FDI= ∑đóng góp ngân sách*(vốn đóng góp các bên nước ngoài/ Tổng vốn đóng góp của các bên) (Các chỉ tiêu vốn được tính bình quân)
Việc làm gia tăng: Chỉ tiêu này phản ánh số lao động gia tăng do hoạt động FDI tạo ra trong một thời gian nhất định (thường trong một năm hoặc cả đời dự án dự án). Để xác định chính xác số lao động gia tăng từ FDI ta cần tính số lao động có việc làm tờ FDI cộng vớI số lao động tăng thêm từ các dự án, nghành liên đới vớI FDI và sau đó trừ đi số lao động mất việc do FDI. Hơn nữa, số việc làm với mốc thời gian khác nhau thì không thể xem như nhau.Vì thế, để phản ánh khả năng tạo việc làm của FDI một các chính xác thì cần tính yếu tố thờI gian của một việc làm được tạo ra.
Vịêc làm gia tăng từ FDI=Σ(số lao động có việc làm cho FDI* số năm làm việc+ số lao động tăng thêm từ các dự án, ngành liên quan* số năm làm việc - số lao động mất việc do FDI* số năm mất việc).
Thu nhập của lao động: Phản ánh tổng thu nhập của người lao động bao gồm tiền lương, tiền thưởng, phụ cấp và các khoản chi phí khác dành cho người lao động như tiền bảo hiểm. Để xác định được thu nhập của lao động nước tiếp nhận đầu tư do riêng vốn FDI của các đối tác nước ngoài đóng góp, chúng ta cần:Tách thu nhập của người nước ngoài ra khỏi chỉ tiêu tổng thu nhập của người lao động và Chỉ tính thu nhập của người Việt Nam do vốn đầu tư FDI của các đối tác nước ngoài đóng góp.Khi đó ta có:
TN của lao động VN tính riêng cho FDI=∑((tổng TN của lao động- TN của lao động nước ngoài)*(vốn đóng góp của các bên nước ngoài / tổng vốn đóng góp của các bên Việt Nam và nước ngoài))
Tiết kiệm và tăng thu ngoại tệ thuần: Chỉ tiêu này phản ánh mức độ tiết kiệm ngoại tệ nhờ sản xuất thay thế nhập khẩu và mức tăng thu ngoại tệ thuần từ FDI. Đây là chỉ tiêu rất quan trọng đối với việc đáp ứng nhu cầu ngoại tệ cho nhập khẩu và thanh toán các khoản nợ quốc tế nhất là đối với các nước đang phát triển như Việt Nam.
Tiết kiệm và tăng thu ngoại tệ thuần tính riêng cho FDI=∑(tổng tiết kiệm và tăng thu ngoại tệ thuần*(vốn đóng góp của các bên nước ngoài/vốn đóng góp của các bên)).
Trong ba tiêu thức đánh giá phát triển, cơ cấu kinh tế được xem như là tiêu thức phản ánh sự thay đổi về chất , là dấu hiệu đánh giá, so sánh các giai đoạn phát triển của nền kinh tế.Qua cơ cấu nghành kinh tế có thể thấy được trình độ phát triển của nền kinh tế nước đó. Khoảng thời gian chúng ta chưa thu hút được vốn đầu tư nước ngoài(trước năm 1988) thì cơ cấu nghành của nước ta: khu vực nông nghiệp chiếm trên 90%GDP, 10% còn lại là khu vực công nghiệp và dịch vụ. Khi nền kinh tế Việt Nam thực sự mở cửa thu hút một lượng lớn vốn đầu tư nước ngoài, tăng lượng vốn đầu tư phát triển, điều này đã làm cho nghành công nghiệpvà dịch vụ nước ta phát triển nhanh chóng. Sở dĩ có điều này là vì: nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (chủ yếu FDI) thường tập trung vào nhưng nghành thay thế nhập khẩu hay những nghành thuộc khu vực công nghiệp. Bốn ngành có kim ngạch FDI nhiều nhất (luyện kim, thực phẩm và đồ uống, ô tô xe máy và hoá chất) chiếm tới 53% tổng kim ngạch FDI (lũy kế từ năm 1988 đến 2002) . Năm 2007, cơ cấu kinh tế đã thay đổi theo hướng tích cực:tỷ trọng công nghiệp, xây dựng, dich vụ tăng và tỷ trọng trong khu vực nông nghiệp giảm. Trong cơ cấu GDP 2007,khu vực nông nghiệp chiếm 20,3% công nghiệp và xây dựng 41,6%, dịch vụ 38,1 %.
Thứ tư, đầu tư nước ngoài là một kênh quan trọng trong chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam và là con đường ngắn nhất để đổi mới công nghệ góp phần thực hiện công cuộc công nghiệp hóa , hiện đại hóa đất nước .Như chúng ta đã phân tích ở trên thì trình độ kỹ thuật của sản xuất thấp là một trong các đặc điểm của các nước đang phát triển. Ở các nước đang phát triển, hoạt động kinh tế chủ yếu dựa trên cơ sở sản xuất nhỏ, nông nghiệp chiếm tỷ lệ lớn, kỹ thuật sản xuất thủ công lạc hậu. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay, với sự cạnh tranh khốc liệt của các doanh nghiệp, đòi hỏi các doanh nghiệp phải thay đổi và đổi mới rất nhiều vấn đề trong đó quan trong nhất đó là nâng cao trình độ kỹ thuật bao gồm kỹ thuật sản xuất hiện đại và trình độ quản lý cao. Nếu doanh nghiệp tự bản thân mình nghiên cứu để có được máy móc, thiết bị với trình độ kỹ thuật cao hơn có thể ứng dụng được vào sản xuất thì phải mất rất nhiều thời gian và chi phí nghiên cứu, cùng với đó là rủi ro trong quá trình nghiên cứu là rất lớn. Đến khi doanh nghiệp nghiên cứu thành công thì công trình nghiên cứu đó cũng trở nên lạc hậu về công nghệ so với công nghệ của các nước phát triển. Chính vì lý do này mà nhiều doanh nghiệp trong nước , do sức ép của cạnh tranh bởi các sản phẩm của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã cố gắng đổi mới công nghệ bằng việc nhập khẩu các thiết bị và công nghệ mới để sản xuất ra các sản phẩm có chất lượng tốt , mẫu mã đẹp , giá cả hợp lí. Thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài, chúng ta đã du nhập những công nghệ hiện đại trong các lĩnh vực viễn thông, khai thác dầu khí, hoá chất, điện tử,... phát triển một số ngành công nghiệp mũi nhọn của đất nước. Một số ngành sử dụng nhiều lao động, nguyên liệu trong nước như dệt, may, sản xuất giầy dép cũng có công nghệ thuộc loại trung bình tiên tiến ở khu vực.
Thứ năm, đầu tư nước ngoài góp phần thúc đẩy hội nhập sâu hơn vào khu vực và thế giới, tham gia mạng lưới sản xuất toàn cầu. Việt Nam tham gia vàocác tổ chức như: khu vực tự do ASEAN(AFTA) ,khu vực đầu tư ASEAN, WTO… với mục đích tạo ra môi trường thông thoáng hơn cho hoạt động của các nghành, lĩnh vực kinh tế. Khi tham gia các tổ chức này Việt Nam phảI thực hiện các cam kết tuân thủ các quy định tối huệ quốc, thực hiện nghĩa vụ của tổ chức ví như: quyền sở hữu trí tuệ , các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại , thủ tục cấp giấy phép nhập khẩu, quy tắc xuất xứ…Ngoài các điều khoản mà Việt Nam cam kết thì chúng ta cũng nhận được các ưu đãi từ các tổ chức đó, tạo ra các lợi thế để thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Khi thu hút vốn đầu tư nước ngoài đặc biệt là vốn FDI từ các công ty đa quốc gia, không chỉ xí nghiệp có vốn đầu tư của công ty đa quốc gia, mà ngay cả các xí nghiệp khác trong nước có quan hệ làm ăn với xí nghiệp đó cũng sẽ tham gia quá trình phân công lao động khu vực. Chính vì vậy, nước thu hút đầu tư sẽ có cơ hội tham gia mạng lưới sản xuất toàn cầu thuận lợi cho đẩy mạnh xuất khẩu.
Thứ sáu, để thực hiện mục tiêu ngày càng thu hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài vào nền kinh tế, ngoài việc tận dụng các lợi thế sẵn có chúng ta còn phải cải thiện và khắc phục những điểm còn yếu kém chưa hoàn thiện của nền kinh tế. Với những lợi thế sẵn có của đất nước: có chính trị - xã hội ổn định và kinh tế tăng trưởng cao trong nhiều năm liên tục. Đây chính là yêu cầu quan trọng trực tiếp đến thu hút vốn đầu tư nước ngoài.Chính trị -xã hội càng ổn định thì càng thuận lợi cho các nhà đầu tư bởi mục đích của các nhà đầu tư là đạt được lợi nhuận cao nhất và hạn chế được rủi ro thấp nhất. Ổn định chính trị- xã hội cũng có nghĩa là bảo đảm an toàn sinh mạng và tài sản của những nàh đầu tư nước ngoài; không những vậy Việt Nam còn có về lợi thế về lao động rẻ; quy mô dân số đông. Đây chính là những điều kiện hấp dẫn với nhà đầu tư nước ngoài, nhưng để giữ được nguồn vốn đầu tư nước ngoài luôn ổn định thì chúng ta phải khắc phục những vấn đề còn hạn chế, nếu không làm tốt điều này thì nguồn vốn đầu tư nước ngoài sẽ giảm sút rất nhanh chóng. Chính vì mục tiêu này, những điểm yếu của nền kinh tế nước ta sẽ được khắc phục nhanh chóng. Trong thời gian qua để hoàn thiện các thủ tục hành chính góp phần tạo sự thông thoáng trong cơ chế quản lý, thúc đẩy gia tăng vốn từ nước ngoài vào trong nước, chính phủ Việt Nam đã liên tực cải tiến các thủ tục hành chính thuận lợi cho các nhà đầu tư.Mặc dù nước ta có nguồn nhân lực dồi dào nhưng chất lượng nguồn nhân lực chưa cao(12% lực lượng lao động được qua đào tạo), do vậy nhiều lao động làm cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chưa đáp ứng yêu cầu chuyên môn và kỹ thuật. Khi có vốn đầu tư nước ngoài vào đầu tư cho các công ty thì bản thân các lao động phải tự nâng cao trình độ tay nghề và các kỹ năng chuyên môn, cùng với đó là quá trình đào tạo và dạy nghề của các doanh nghiệp nói riêng và các trường dạy nghề nói chung.
Thứ bảy, đầu tư nước ngoài góp phần bảo vệ chế độ chính trị tại nước được đầu tư. Năng lực kinh tế và chế độ chính trị là hai vấn đề luôn đi kèm với nhau. Trong một nước, nếu năng lực về kinh tế mạnh thì chế độ chính trị bền vững và ngược lại nếu năng lực kinh tế yếu thì chế độ chính trị rất khó vững chắc. Để có một chế độ chính trị vững chắc, không những cần đến sự ủng hộ của nhân dân ở nước đó mà còn phải xây một hệ thống quân sự đồng bộ, vững chắc để bảo vệ cho đất nước nói chung và chế độ chính trị của nước đó nói riêng. Để có được một hệ thống quân sự đồng bộ và vững chắc thì cần có sự đầu tư vào lĩnh vực này.Sau khi nước ta giành được độc lập, thống nhất đất nước năm 1975, chúng ta bắt tay vào xây dựng và kiến thiết đất nước. Với đường lối của Đảng và nhà nước ta thực hiện cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung, không có sự giao lưu với nước ngoài, thì lượng vốn giành cho lĩnh vực quân sự là rất hạn chế, sau năm 1986 nước ta xoá bỏ cơ chế kế hoạch hoá tập trung chuyển sang cơ chế thị trường, mở rộng mối quan hệ giao lưu với các nước trong khu vực và trên thế giới, cùng với đó là sự xuất hiện của nguồn vốn đầu tư nước ngoài làm tăng tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Lĩnh vực quân sự được quan tâm đặc biệt, lượng vốn đầu tư giành cho quân sự ngày một tăng, xây dựng hệ thống quân sự nước ta ngày càng đồng bộ và hoàn thiện thực hiện tốt mục tiêu bảo vệ độc lập chủ quyền, ổn định xã hội, chống lại mọi âm mưu phá hoại của kẻ thù.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG VỀ HAI NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ TRONG NƯỚC VÀ NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TRONG VIỆC THÚC ĐẨY TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM
I.THỰC TRẠNG HAI NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ TRONG NƯỚC VÀ NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TRONG VIỆC THÚC ĐẨY TĂNG TRƯỞNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM
1.Nguồn vốn đầu tư trong nước
Nguồn vốn trong nước một số năm gần đây có sự tăng lên đáng kể về số lượng cũng như chất lượng, thúc đẩy cho sự tăng trưởng, phát triển của nền kinh tế.
aNguồn vốn nhà nước.
Nguồn vốn từ ngân sách nhà nước.
Năm 2002, thực hiện vốn đầu tư toàn xã hội ước khoảng 183,8 nghìn tỉ đồng, bằng 105% kế hoạch năm, tăng 12,4% so với năm 2001 và bằng 34% so với GDP, trong đó vốn trong nước chiếm tới 70% tổng đầu tư xã hội. Vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước ước thực hiện khoảng 40.500 tỷ đồng, bằng 103,8% kế hoạch năm. Đã tập trung đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn; cho lĩnh vực giao thông; cho sự nghiệp phát triển nguồn nhân lực, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, các chương trình phát triển về văn hoá, xã hội, y tế, xoá đói, giảm nghèo.Đặc biệt đã tập trung vốn hỗ trợ đầu tư cho vùng còn khó khăn, vùng sâu, vùng xa; xây dựng cụm, tuyến dân cư vùng ngập sâu ở Đồng bằng sông Cửu Long; xây dựng đường biên giới, hỗ trợ phát triển giao thông nông thôn...
Năm 2003, việc thực hiện vốn đầu tư phát triển toàn xã hội tăng khá. Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thực hiện năm 2003 ước đạt 217 nghìn tỷ đồng, bằng 101% kế hoạch năm và tăng 18,3% so với thực hiện năm 2002, đạt 35,2% GDP (GDP theo giá hiện hành là 616 nghìn tỷ đồng).
Đầu tư từ nguồn vốn ngân sách nhà nước ước thực hiện 47 nghìn tỷ đồng, bằng 106,8% kế hoạch năm và tăng 16,3% so với thực hiện năm 2002.
Nền kinh tế nước ta trong những tháng cuối năm 2004 đã duy trì được mức khá cao với xu thế quý sau tăng cao hơn quý trước.Nhịp độ tăng trưởng GDP bình quân 4 năm 2001-2004 khoảng 7,2%, riêng năm 2004 tăng 7,7%. Sản xuất công nghiệp tiếp tục duy trì tỉ lệ tăng trưởng cao và đi dần vào thế ổn định. Giá trị sản xuất công nghiệp tính chung cả năm 2004 tăng khoảng 16% so với năm 2003, vượt kế hoạch đề ra 15%, trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 11,8%, khu vực ngoài quốc doanh tăng 22,8%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 15,7%.Sản xuất nông nghiệp và tốc độ tăng trưởng khu vực dịch vụ tiếp tục tăng lên.
Có được những kết quả đáng kể trên là do sự tăng lên của tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội năm 2004 ước đạt 258,7 nghìn tỉ đồng, bằng 104% kế hoạch năm và tăng gần 19% so với thực hiện năm 2003, đạt 36,3% GDP, trong đó đầu tư từ nguồn vốn ngân sách nhà nước ước thực hiện đạt 61 nghìn tỉ đồng, bằng 114% kế hoạch năm và tăng 29,7% so với thực hiện năm 2003. Hầu hết các Bộ sử dụng vốn ngân sách nhà nước tập trung lớn đều thực hiện đạt hoặc vượt kế hoạch đề ra như Bộ xây dựng đạt 113%, Bộ GTVT đạt 148%, Bộ thuỷ sản 118%, Bộ công nghiệp 116%...Nguồn vốn trong nước được bố trí tập trung hơn, nhất là cho các công trình trọng điểm để đưa vào sử dụng và phát huy tác dụng ngay trong năm.
Tổng vốn đầu tư từ NSNN trong 5 năm 2001-2005 là 274.3 nghìn tỷ đồng (trong đó phần vốn ODA đưa vào ngân sách để đầu tư là 41,75 nghìn tỷ đồng), bằng 22.8% tổng vốn đầu tư toàn xã hội và chiếm 28% tổng chi NSNN.
Năm 2006, nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng trên 8%. Vốn chi cho đầu tư phát triển đã được ưu tiên hơn cho những công trình hạ tầng kinh tế - xã hội trọng điểm, đầu tư phát triển hệ thống giao thông, các công trình thuỷ lợi phòng chống lũ lụt và hạ tầng cơ sở các tỉnh miền núi phía Bắc, miền Trung, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ, công trình chuyển dịch,đổi mới cơ cấu kinh tế, xoá đói giảm nghèo...Vốn đầu tư của ngân sách nhà nước đã được ưu tiên tập trung hơn, khắc phục 1 bước tình trạng phân tán, dàn trải....Năm 2006, Chính phủ đã phát hành 10.666 tỷ đồng trái phiếu Chính phủ để đầu tư cho các công trình giao thông, thuỷ lợi trọng điểm.Bằng nguồn vốn đầu tư này đã từng bước hoàn thành và đưa vào sử dụng nhiều trục đường giao thông quan trọng (đường HCM, đường quốc lộ 6...), và nhiều công trình thuỷ lợi quan trọng, phục vụ tốt nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội và đảm bảo quốc phòng an ninh. Nhiệm vụ ngân sách nhà nước năm 2006 đã đạt được những kết quả quan trọng tạo đà cho thuận lợi để phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ kinh tế xã hội 5 năm 2006-2010. Bội chi ngân sách nhà nước bằng 4,98% GDP, đảm bảo an ninh tài chính quốc gia, dành nguồn gối đầu cho dự toán ngân sách nhà nước năm 2007 thực hiện cải cách tiền lương theo Nghị quyết của Quốc hội. Tổng số các dự án nhóm A là 170 dự án với tổng số vốn là 21.078 tỷ đồng. Tổng các dự án nhóm B là 3.014 dự án với tổng số vốn là 21.896 tỷ đồng. Tổng các dự án nhóm C là 9.646 dự án với tổng số vốn là 1.84 tỷ đồng. Các địa phương đã chủ động giảm bớt các dự án khởi công mới tập trung vốn cho các dự án chuyển tiếp, các dự án hoàn thành, cụ thể số dự án của các địa phương triển khai năm 2006 chỉ còn 10.276 dự án , ít hơn năm 2005 là 424 dự án, trong đó số dự án hoàn thành chiếm 35% tổng số dự án thực hiện.
Năm 2007, tốc dộ tăng GDP của VIệt Nam là 8,44% đứng thứ 3 Châu Á sau Trung Quốc và Án Độ. Bội chi ngân sách cả năm ước đạt 5% GDP. Vốn đầu tư xây dựng cơ bản năm 2007 được ưu tiên thực hiện các công trình, dự án kết cấu hạ tầng quan trọng phục vụ chuyển đổi cơ cấu kinh tế, nâng cao hiệu quả sản xuất, phát huy lợi thế của từng ngành, từng vùng, nhất là hạ tầng các tỉnh miền núi phía Bắc, miền núi phía tây các tỉnh miền Trung, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ. Sản xuất công nghiệp tăng trưởng khá cao. Bên cạnh đó cũng còn tồn tại một số mặt hạn chế.Chung cả năm ước tính không đạt kế hoạch đề ra về nguồn vốn xây dựng cơ bản bằng nguồn ngân sách nhà nước thông qua các chương trình và dự án quốc gia. Tiến độ giải ngân vốn đầu tư xây dựng cơ bản cả năm rất chậm. Đến cuối năm 2007, cả nước mới chỉ thực hiện 84,1 nghìn tỉ đồng vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước đạt 84,6% kế hoạch năm, trong đó khu vực trung ương quản lí đạt 83,6%... Theo quyết định số 183/2004/QĐ-TTg ngày 19/10/2004 của thủ tướng chính phủ về cơ chế hỗ trợ vốn ngân sách trung ương để đầu tư xây dựng hạ tầng kĩ thuật khu công nghiệp tại các địa phương có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn. Nhìn lại từ năm 2004-2007, tổng mức vốn hỡ trợ đã đạt 1247 tỷ đồng và được phân bổ cho 40 dự án xây dựng trên tổng diện tích đất quy hoạch là 7071 ha. Đã khắc phục được những khó khăn trong giai đoạn đầu xây dựng khu công nghiệp như Hoà Xá (Nam Định), Thuỵ Vân (Phú Thọ)...Để từ đó các chủ đầu tư nhanh chóng triển khai xây dựng, hoàn thành và thu hút được nhiều dự án đầu tư vào khu công nghiệp.
Nguồn vốn tín dụng nhà nước.
Chính sách tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước đến nay đã khẳng định tính đúng đắn đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước trong lĩnh vực đầu tư, phản ánh tính tất yếu của quá trình phát triển kinh tế xã hội chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước.
Vốn tín dụng năm 2002 ước thực hiện khoảng 24.000 tỷ đồng, trong đó tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước đạt 70% kế hoạch. Đến năm 2003 thì đầu tư từ nguồn vốn tín dụng ưu đãi của Nhà nước ước đạt 28,5 nghìn tỷ đồng, bằng 93,4% kế hoạch năm và giảm 9,3% so với năm 2002. Đối với nguồn vốn đầu tư từ nguồn vốn tín dụng ưu đãi nhà nước, đã tập trung đầu tư cho các dự án quan trọng thuộc các ngành công nghiệp trọng điểm như nhà máy thủy điện Tuyên Quang, nhà máy nhiệt điện Cao Ngạn (Thái Nguyên), nhà máy xi măng Hạ Long (Quảng Ninh), nhà máy sản xuất phân DAP (Hải Phòng), cụm công nghiệp sợi - dệt - nhuộm (Đà Nẵng), nhà máy sản xuất giấy và bột giấy (Thanh Hoá), hệ thống cấp nước sông Sài Gòn....
Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước tăng trưởng cao và chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng vốn đầu tư của toàn xã hội, giai đoạn 2000-2004 đạt 17%. Số vốn này được tập trung cho các dự án thuộc các nghành công nghiệp, xây dựng chiếm tỷ trọng 64% ;các ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn 14%; giao thông vận tải: 19% các ngành khác: 3% .Khoảng 32% tổng số vốn cho vay được đầu tư vào các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn - nơi các dự án đầu tư có hiệu quả kinh tế và khả năng sinh lời thấp, độ rủi ro cao không hấp dẫn các nhà đầu tư và tổ chức tín dụng. Như vậy sẽ từng bước xoá bỏ sự chênh lệch về trình độ phát triển và đời sống của nhân giữa các vùng, miền tạo đà cho các vùng kinh tế cùng phát triển. Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước tăng trưởng cao và chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng vốn đầu tư của toàn xã hội, giai đoạn 2000-2004 đạt 17%, đến nay khoảng 17%. Số vốn này được tập trung cho các dự án thuộc các nghành công nghiệp , xây dựng chiếm tỷ trọng 64% ;các ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn 14%; giao thông vận tải :19% các ngành khác :3% .Khoảng32% tổng số vốn cho vay được đầu tư vào các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn - nơi các dự án đầu tư có hiệu quả kinh tế và khả năng sinh lời thấp, độ rủi ro cao không hấp dẫn các nhà đầu tư và tổ chức tín dụng. Như vậy sẽ từng bước xoá bỏ sự chênh lệch về trình độ phát triển và đời sống của nhân giữa các vùng, miền tạo đà cho các vùng kinh tế cùng phát triển..
Nguồn vốn của các doanh nghiệp nhà nước.
Nguồn vốn này cũng đóng vai trò rất quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế. Các DNNN hiện được xác định đóng vai trò chủ đạo trong việc phát triển kinh tế , trong quá trình CNH - HĐH ở nước ta .
Vốn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước năm 2002 ước thực hiện khoảng 32.800 tỷ đồng, bằng 105,8% kế hoạch; tập trung đầu tư chiều sâu đổi mới thiết bị công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh.
Đối với nguồn vốn đầu tư của các DNNN, đã có sự chuyển dịch đáng kể về cơ cấu kinh tế. Các doanh nghiệp đã có xu hướng tập trung nguồn vốn vào việc đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ và tăng năng lực cạnh tranh để thích ứng ngày càng tốt hơn với quá trình hội nhập quốc tế. Cơ cấu sử dụng nguồn vốn đầu tư tiếp tục chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng đầu tư vào các ngành, lĩnh vực, sản phẩm có hiệu quả kinh tế cao và mang tính bền vững, như thủy sản (chiếm 1,3% tổng vốn đầu tư xã hội), công nghiệp chế biến (22,9%), sản xuất và phân phối điện, khí đốt và nước (14,3%), vận tải và thông tin liên lạc (18,4%); vào những ngành tạo cơ sở phát triển dài hạn hoặc phục vụ công cuộc xoá đói giảm nghèo như khoa học và công nghệ (1,2%), giáo dục và đào tạo (3,2%), y tế và cứu trợ xã hội (1,3%) và phục vụ cá nhân và cộng đồng (16,5%).
Nhờ đầu tư tăng khá và được sử dụng hợp lý, năng lực của nhiều ngành kinh tế đã được tăng thêm đáng kể như công suất ngành điện 640 MW, đường dây tải điện 1.500
km, xi măng 0,6 triệu tấn, thép cán 550 nghìn tấn; năng lực tưới thủy lợi 35 nghìn ha, năng lực tiêu 18 nghìn ha, năng lực ngăn mặn 8 nghìn ha, diện tích rừng trồng mới 190 nghìn ha, số phòng khách sạn 6.095 phòng, năng lực thông qua của các cảng đường sông 300 nghìn tấn, năng lực thông qua của các cảng đường biển 3,5 triệu tấn, năng lực thông qua của hàng không 0,72 triệu hành khách; nâng cấp được 40 km đường sắt, 1080 km đường quốc lộ; làm mới, nâng cấp, cải tạo trên 10 nghìn km đường địa phương.Giá trị sản xuất ngành công nghiệp tháng 12-2003 ước tăng 15,5% so với cùng kì,trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 13%, khu vực ngoài quốc doanh tăng 17.9% và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 16,4%
Năm 2004, đầu tư từ nguồn vốn của các doanh nghiệp nhà nước ước thực hiện trên 47 nghìn tỉ đồng, bằng 103% kế hoạch năm và tăng trên 22%. Đến năm 2005, trong tổng giá trị vốn đầu của cả nước thì vốn đầu tư của DNNN vẫn chiếm một tỷ trọng khá lớn khoảng 17.2%.
Theo kết quả điều tra doanh nghiệp năm 2006, doanh nghiệp nhà nước chỉ còn chiếm 3,61% tổng số doanh nghiệp trong cả nước. Tuy nhiên, nếu so sánh với khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp nhà nước vẫn là khu vực thu hút khá đông lao động (gần 32,7%), tập trung nguồn vốn lớn nhất (hơn 54%), có lợi nhuận cao (hơn 41%) và đóng góp nhiều nhất vào ngân sách nhà nước (gần 41%).
Tính chung năm 2007, giá trị sản xuất công nghiệp (theo giá so sánh 1994) ước tăng 17,0% so với năm 2006, trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 10,4% (trung ương quản lý tăng 13,4%; địa phương quản lý tăng 3,5%)
bNguồn vốn của dân cư và tư nhân.
Nguồn vốn đầu tư tư nhân:Phần tiết kiệm của dân cư tham gia đầu tư gián tiếp vào khoảng 3,7% GDP, chiếm khoảng 25% tổng tiết kiệm của dân cư. Phần tiết kiệm của dân cư tham gia đầu tư trực tiếp khoảng 5%GDP và bằng 33% số tiết kiệm được
Nhìn tổng quan, nguồn vốn tiềm năng trong dân cư không phải là nhỏ, tồn tại dưới dạng vàng, tiền mặt, ngoại tệ… Nguồn vốn này xấp xỉ bằng 80% tổng nguồn vốn huy động của toàn bộ hệ thống ngân hàng. Thực tế phát hành trái phiếu chính phủ và trái phiếu của một số ngân hàng thương mại quốc doanh cho thấy, chỉ trong thời gian ngắn đã huy động được hàng ngàn tỷ đồng và hàng chục triệu USD từ khu vực dân cư. Các hộ gia đình Việt Nam hiện nay có xu hướng tiết kiệm khoảng 13-14% thu nhập của mình.
Nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Trong những năm qua, nguồn vốn đầu tư của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ngày càng gia tăng trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
Bảng cơ cấu vốn đầu tư phân theo thành phần kinh tế(%)
Năm
Kinh tế nhà nước
Kinh tế ngoài nhà nước
Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
Tổng số
1995
42
27.6
30.4
100
1996
49.1
24.9
26.0
100
1997
49.4
22.6
28.0
100
1998
55.5
23.7
20.8
100
1999
58.7
24.0
17.3
100
2000
59.1
22.9
18.0
100
2001
59.8
22.6
17.6
100
2002
57.3
25.3
17.4
100
2003
52.9
31.1
16.0
100
2004
48.1
37.7
14.2
100
2005
47.1
38.0
14.9
100
2006
46.4
37.7
15.9
100
Năm 2005, vốn đầu tư của khu vực ngoài quốc doanh đạt mức kỉ lục (38%) trong giai đoạn 1995-2006. Số liệu bảng cho thấy từ 2000 trở về trước, tỷ trọng nguồn vốn ngoài quốc doanh qua các năm là không ổn định, Tuy nhiên, kể từ sau 2000, một loạt bước tiến quan trọng về thể chế đã tạo cú hích cho nền kinh tế ngoài quốc doanh phát triển. Qua 6 năm thi hành Luật Doanh Nghiệp, cả nước có hơn 160 nghìn doanh nghiệp mới thành lập, huy động tổng sổ vốn đăng ký gần 300 nghìn tỷ đồng, tạo công ăn việc làm cho hàng triệu lao động. Tính trung bình trong giai đoạn 2001 -2005, tốc độ tăng của nguồn vốn này đạt 25,12%/năm, cao hơn đáng kể mức tăng trưởng bình quân của tổng vốn đầu tư cả nước cũng trong giai đoạn ấy (16,14%).So với những năm trước đây, năm 2005 là năm huy động được nguồn vốn ngoài quốc doanh lớn nhất cho đầu tư phát triển, đạt 105 nghìn tỷ đồng, cao hơn đáng kể so với mức 82 nghìn mức tỷ đồng của năm 2004. Năm 2006 vốn đầu tư của doanh nghiệp ngoài quốc doanh ước đạt 132.000nghìn tỷ đồng, gấp hai lần vốn đầu tư nước ngoài, tạo ra gần 50% GDP của cả nước.
Thị trường vốn.
Thị trường chứng khoán đang là mối quan tâm lớn của các nhà đầu tư. Có nhận định cho rằng thị trường chứng khoán đang “phi mã”. Phi mã ở cả 2 trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội và TP.HCM. Phi mã ở chỉ số chứng khoán, ở hệ số PE và cả về tổng giá trị vốn hoá thị trường: thị trường cổ phiếu đạt trên 221 nghìn tỷ đồng, chiếm 22.7% GDP năm 2006 và tăng 20 lần so với năm 2005; phi mã ở thị trường trái phiếu đạt hơn 70 nghìn tỷ đồng, bằng 7,7% GDP. Để có được một lượng vốn khổng lồ như vậy phải kể đến nguồn vốn tích lũy trong dân khá lớn. Ở nông thôn, theo kết quả Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản của Tổng cục Thống kê, tích lũy của các hộ ở khu vực này dưới dạng tiền, kim loại quý tại thời điểm tháng 1.7.2006 là trên 81 nghìn tỉ đồng. Ở khu vực thành thị theo ước tính khoảng gần 80 nghìn tỉ đồng, cộng cả nước có khoảng 160 nghìn tỉ đồng. Lượng tiền gửi tiết kiệm của dân cư cũng ở mức khổng lồ: tổng số dư tiền gửi của dân cư đến cuối năm 2006 tại các ngân hàng trên địa bàn Hà Nội ước khoảng 103,5 nghìn tỉ đồng, tại TP.HCM cũng đạt khoảng 110 nghìn tỉ đồng; tiền người dân đầu tư vào các giấy tờ có giá trị do các ngân hàng thương mại phát hành huy động vốn trung, dài hạn đạt trên 19 nghìn tỉ đồng… Điều đáng lưu ý, lượng tiền._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 24697.doc