Lời nói đầu
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ ix đã khẳng định phương hướng phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam, tạo điều kiện và khuyến khích khu vực kinh tế tư nhân tồn tại và phát triển. Trải qua 18 năm đổi mới (từ 1986), cùng với sự phát triển của khu vực kinh tế nhà nước, khu vực kinh tế tư nhân đã đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận. Kinh tế nhà nước gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư nhân đã phát triển rộng khắp, trên mọi lĩnh vực, ngành nghề, góp phần quan trọng vào
31 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1329 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Vai trò và các giải pháp phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phát triển kinh tế, tạo việc làm, huy động các nguồn lực xã hội, cải thiện đời sống nhân dân, góp phần giữ vững ổn định chính trị xã hội . Qua đó khu vực kinh tế tư nhân khẳng định vị trí vững chắc của mình trong nền kinh tế.
Hiến pháp 1992 xác định :
“Kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân được chọn hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh, được thành lập doanh nghiệp không hạn chế về quy mô hoạt động tronh những ngành, nghề có lợi cho quốc tế dân sinh. Kinh tế kinh tế gia đình được khuyến khích phát triển
(Điều 21)
Đại hội Đảng ix xác định :
“ Thực hiện nhất quán cơ sở phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế kinh doanh theo quản lý đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế tư nhân định hướng XHCN cùng phát triển lâu dài, hợp tài và cạnh tranh lành mạnh : trong đó nền kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân” (Văn kiện Đại hôị Đảng ix)
Bên cạnh những thành tựu đáng ghi nhận, kinh tế tư nhân còn tồn tại nhiều hạn chế, yếu kém như : quy mô nhỏ, công nghệ lạc hậu, trình độ quản lý thấp, sức cạnh tranh yếu, tình trạng trốn thuế, gian lận thương mại, kinh doanh trái pháp luật trong khu vực kinh tế tư nhân. Mặc dù Đảng và nhà nước có đường lối, chính sách tạo điều kiện thuân lợi cho kinh tế tư nhân phát triển, nhưng kinh tế tư nhân vẫn gặp phải nhiều rào cản : thiếu vốn, môi trường kinh doanh, hệ thống pháp luật, quản lý nhà nước đối với kinh tế tư nhân…
Kinh tế tư nhân là vấn đề khá nhạy cảm cả về lý luận và thực tiễn : đình hướng XHCN trong phát triển kinh tế tư nhân, vấn đề quan điểm đối với kinh tế tư nhân. Đảng viên làm kinh tế tư nhân, phát triển kinh tế tư nhân, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế được coi là cần thiết. Trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam (quá độ lên CNXH), hoàn thiện lý luận, nhận thức đúng đắn về khu vực kinh tế tư nhân là rất cần thiết: Từ đó có những đựờng lối, cơ sở cụ thể tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân phát triển, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, xây dựng XHCN.
Với nội dung:”Vai trò và các giải pháp phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam”, hy vọng đề án sẽ đóng góp phần nào trong việc nhận thức rõ hơn, đúng đắn hơn về khu vực kinh tế tư nhân mà chủ yếu là vai trò của kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay. Từ đó có những giải pháp, đường lối, chính sách nhằm thúc đẩy sự phát triển của kinh tế tư nhân nói riêng và của toàn bộ kinh tế nói chung.
Nội dung đề án gồm:
Chương I : Lý luận về kinh tế tư nhân
Chương ii : Khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiệ nay- vai trò và tình hình phát triển
Chương iii: Các giải pháp phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay.
Chương i : Lý luận về kinh tế tư nhân.
I. Khái niệm và bản chất của kinh tế tư nhân(KTTN):
1. Khái niệm:
Theo thông lệ của theo thông lệ thống kê quốc tế người ta thường chia nền kinh tế của cá quốc gia thành 2 khu vực: khu vực KTNN và khu vực kinh tế nhà nước.
ở Việt Nam, với bản chất nhà nước xã hội chủ nghĩa, tồn tại bên cạnh khu vực KTNN là khu vực kinh tế tư nhân. Hội nghị lần thứ v ban chấp hành trung ương Đảng khoá ix khẳng định :”Kinh tế tư nhân gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân”. Như vậy, với khái niệm trên bao gồm hai nội dung:
- Về lĩnh vực sản xuất kinh doanh:Kinh tế tư nhân rất rộng về cả hình thức sở hữu và ngành nghề mà các chủ thể đó tham gia vào sản xuất kinh doanh:công nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng, chế biến nông lâm sản, thương mại, dịch vụ.
Về tổ chức: Khu vực kinh tế tư nhân bao gồm các hình thức kinh tế sau:
Kinh tế cá thể: Được hiểu là hình thức kinh tế của một hộ gia đình hay cá nhân hoạt động dựa trên quan hệ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và lao động của chính cá nhân và hộ đó, không thuê mướn lao động làm thuê.
Kinh tế tiểu chủ: là hình thưc kinh tế do một chủ tổ chức, quản lý và điều hành, hoạt động trên cơ sở sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất và có sử dụng lao động làm thuê.
Kinh tế tư bản tư nhân: gồm công ty trách nhiệm hữu hạn,doanh nghiệp tư nhân và công ty cổ phần được thành lập theo luật doanh nghiệp, luật công ty.
2. Bản chất của KTTN:
Như ở trên chúng ta đã biết, KTTN không phải là 1 thành phần kinh tế mà là 1 phạm trù để chỉ nhóm thành phần kinh tế có những đặc trưng chung, lại vừa có bước khác nhau. Có thể xem xét KTTN trên các quan hê kinh tế cơ bản sau .
2.1. Quan hệ sở hữu:
Khu vực KTTN tồn tại song song với khu vực kinh tế nhà nước, dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất(hoặc vốn ).
Nó gồm sở hữu tư nhân nhỏ, là sở hữu của những người lao động tự do, sản xuất ra sản phẩm từ lao động của chính mình và các thành viên trong gia đình(thợ thủ công cá thể, tiểu thương, các hộ nông dân…), và sở hữu tư nhân lớn của các nhà sản xuất kinh doanh trong nước và nước ngoài đầu tư ở VN.
2.2. Quan hệ quản lý
Xuất phát từ quan hệ sở hữu của KTTN, quan hệ quản lý của khu vực kinh tế này bao gồm các quan hệ quản lý dựa trên sở hữu tư nhân nhỏ và sở hữu tư nhân lớn.
Quan hệ quản lý dựa trên sở hữu tư nhân nhỏ là quan hệ dưạ trên sự tổ chức điều hành hay phân công công việc trong nội bộ gia đình, giữa các thành viên, thường dựa trên quan hệ tình cảm.
Quan hệ quản lý dựa trên sở hữu tư nhân lớn là quan hệ quản lý giữa chủ doanh nghiệp, nhà đầu tư với công nhân, người lao động. Người quản lý là những cá nhân : chủ doanh nghiệp, nhà đầu tư hoặc một nhóm người.
2.3. Quan hệ phân phối
Trong kinh tế tư nhân, quan hê phân phối dựa trên cơ sở các loại hình sở hữu tư nhân khác nhau. Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh mà người sở hữu đồng thời là người lao động (thường ở người kinh tế cá thể, tiểu chủ ), thì phân phối sản xuất lao động là tự phân phối trong nội bộ chủ thể kinh tế đó. Đối với cá cơ sở sản xuất kinh doanh lớn khác có thuê mướn lao động(thành phần KTTN, thành phần kinh tế tư bản tư nhân, thành phần kinh tế hỗn hợp) thì phân phối kết quả căn cứ vào sở hữu giá trị, túc là sức lao động của lao động làm thuê và sở hữu tư bản.
ở Việt Nam bản chất nhà nước là XHCN, quan hệ phân phối có khác so với nhà nước mang bản chất TBCN, ở đây quyền lợi người lao động được đảm bảo tốt hơn, người lao động được trả công xứng đáng với số lao động họ bỏ ra KTTN ở Việt Nam chịu sự quản lý của nhà nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, mục đích phát triển nền phát triển KTTN nhằm phát triển kinh tế xã hội, xây dựng XHCN. Vì vậy, ở Việt Nam, KTTN mang bản chất XHCN.
2.4. Định hướng XHCN là một đặc trưng của KTTN ở Việt Nam:
Phát triển kinh tế, ổn định chính trị xã hội, đưa đất nước phát triển giàu mạnh, hướng tới chủ nghĩa xã hội là mục tiêu mà Đảng, nhà nước và nhân dân Việt Nam đang hướng tới. Định hướng XHCN là một đặc trưng của KTTN ở Việt Nam hiện nay, giữ vững định hướng đó trong phát triển KTTN là một vấn đề rất nhạy cảm, là vấn đề mà xã hội rất quan tâm. Trong sự hoạt động, phát triển của khu vực KTTN, Đảng luôn nhấn mạnh định hướng XHCN, đưa KTTN phát triển hàng đầu, kìm chế những tiêu cực do khu vực KTTN gây ra.
Phát triển KTTN cần quán triệt một luận điểm quan trọng của Đảng được nêu ra trong nghị quyền Đại hội vi cách đây 18 năm là :”Tiêu chuẩn đánh giá sự vần dụng đúng đắn các quá trình thông qua chủ trương cộng sản của Đảng và nhà nước là sản xuất phát triển, lưu thông thông suốt, đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân từng bước được ổn định và nâng cao”.
Đặc trưng định hướng XHCN trong phát triển KTTN làm hạn chế, giảm bớt tiêu cực, sự bóc lột lao động của nhà tư bản với lao động làm thuê, từ đó góp phần phân phối thu nhập xã hội công bằng hơn, rút ngắn khoảng cách giàu nghèo, đảm bảo an toàn xã hội, ổn đinh chính trị phát triển kinh tế.
II. Sự tồn tại và phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam là một tất yếu khách quan
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mac – Lênin về nền kinh tế nhiều thành phần
V.I. Lê nin lần đầu tiên đề xuất khái niệm thành phần kinh tế là trọng tưởng” Về bệnh ấu trĩ” “tả khuynh và tính tiểu tư sản”. Nêu ra khái niệm này, Lênin đã cung cấp một cách nhìn, cách hiểu về một kết cấu kinh tế đa dạng, một kết cấu gồm nhiều cấp độ phát triển với nhiều tính chất khác nhau cùng tồn tại bản chất trong thời kỳ quá độ. Lê nin cho rằng, ở Nga lúc đó có 5 thành phần kinh tế: kinh tế nông dân gia trưởng, kinh tế sản xuất hàng hoá nhỏ, thành phần kinh tế tư bản tư nhân , thành phần kinh tế tư bản nhà nước, thành phần chủ nghĩa xã hội.
Các phương thức sản xuất được xếp, định vị vào từng thành phần kinh tế thích hợp, gắn với mỗi hình thức sản xuất có một đại biểu kinh tế, một chủ thể kinh tế nhất định.
Quy luật quan hệ sản xuất phối hợp với tính chất và trình độ phát triển của một lực lượng sản xuất là quy luật chung cho mọi phương thức sản xuất. Trong nền kinh tế chưa thực sự phát triển cao, lực lượng sản xuất luôn tồn tại ở nhỉều trình độ khác nhau tương ứng với mỗi trình độ của một lực lượng sản xuất sẽ có một kiểu quan hệ sản xuất. Do đó cơ cấu của nền kinh tế xác đình về phương diện kinh tế xã hội phải là kết cấu kinh tế nhiều thành phần.
Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, lực lượng sản xuất tồn tại ở nhiều thang bậc khác nhau, do đó chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất sẽ có nhiều hình thức, tức là nền kinh tế sẽ có nhiều thành phần .
v.i. Lênin nhận thấy, con đường phát triển kinh tế, nội dung cơ bản của cuộc xây dựng CNXH ở Nga, tất yếu phải thúc đẩy tiến trình kinh tế. Coi đó là khâu quyết định vì: kinh tế tư bản tư nhân là nấc thang phát triển cao và là động lực của sự phát triển, giải quyết trạng thái kinh tế chậm phát triển, phương thức sản xuất lạc hậu .
Vào năm 1953, để mô tả kết cấu kinh tế của XH dân chủ mới của VN Hồ Chủ Tịch đã dùng khái niệm”loại kinh tế”, người viết :”trong chế độ dân chủ mới, có 5 loại hình kinh tế khác nhau:
A: Kinh tế quốc doanh( thuộc CNXH, vì nó là của chung của nhân dân)
B: Các hợp tac xã (nó là nửa CNXH, và sẽ tiến đến CNXH)
C: Kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công nghiệp( có thể tiến dần vào hợp tác xã, tức là nửa CNXH).
D: Tư bản của tư nhân
E : Tư bản của nhà nước (như nhà nước hùn vốn với TBCN để kinh doanh).
Trong 5 loại ấy, loại A là kinh tế lãnh đạo và phát triển mau hơn cả”. Cho nên nền kinh tế ta sẽ phát triển theo hướng CNXH chứ không phải theo hướng chủ nghĩa tư bản. Như vậy lực lượng của chủ nghĩa Mac – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh khẳng định trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam hiện nay tồn tại thành phần kinh tế phi XHCN là tất yếu khách quan.
2. Kinh tế tư nhân trước và sau đổi mới (1986), quan điểm của Đảng
KTTN trên thực tế có sức sống mãnh liệt và có nhiều đóng góp cho phát triển kinh tế xã hội của đất nước nhưng do những sai lầm, nóng vội đã coi KTTN là đối tượng phải cải tạo,không được khuyến khích phát triển, không được pháp luật bảo vệ, người ta gọi nó là”kẻ thù” của CNXH. Những người làm việc trong thành phần kinh tế này có địa vị chính trị thấp kém. Sản xuất kinh doanh của họ bị trói buộc, kìm hãm, bị kinh tế quốc doanh, tập thể chèn ép. Quan niệm cũ của xã hội là khu vực KTTN gắn liền với tự quyền đi lên chủ nghĩa tư bản nó đối lầp với con đường đi lên CNXH. Ngay trong điều kiện khó khăn như vậy, khu vực KTTN vẫn tồn tại và chiếm một tỷ trọng đáng kể trong tổng quỹ thu nhập của hộ dân cư. Chẳng hạn, trong thu nhập của hộ người nông dân là xã viên hợp tác xã sản xuất nông nghiệp, thu từ kinh tế tập thể thường chiếm 30 - 40%, kinh tế phụ gia đình (thực chất là khu vực KTTN) chiếm 60 - 70%. Như vậy có nghĩa là trong nhà nước nơi có phong trào hợp tác hoá mạnh nhất, triệt để nhất nhưng luôn tồn tại kinh tế cá thể.
Đại hội Đảng lần thứ vi là mốc lịch sử đánh dấu sự chuyển hướng có ý nghiã quyết đình đối với sự hình thành mô hình kinh tế phối hợp với tiền tệ Việt Nam và quy luật khách quan. Đường lối đổi mới được tiếp tục khẳng định và hoàn thiện tại các Đại hội lần thứ vii. Viii, và ix.
chủ trương đối với kinh tế tư nhân được đại hội Đảng VI đề ra :”Bằng những biện pháp thích hợp, sử dụng mọi khả năng của các thành phần kinh tế khác nhau trong sự liên kết chặt chẽ dưới sự chỉ đạo của thành phần kinh tế XHCN”- Văn kiện Đại Hội đại biểu lần thứ VI, NXB sự thật, Hà Nội (tr44). Đại hội còn chỉ rõ:”Kinh tế gia đình có vị trí quan trọng và khả năng dồi dào, cần được khuyến khích và giúp đỡ phát triển trong mối quan hệ hỗ trợ và gắn bó với kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể”.
Đối với kinh tế tiểu tư sản, Nhà nước thừa nhận sự cần thiết của bộ phận kinh tế này trong thời kỳ quá độ, hướng dẫn và giúp đỡ nó sản xuất, kinh doanh liên kết với kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể.
Cương lĩnh tại Đại hội vii của Đảng(1991) đã xác định :”Kinh tế cá thể còn có phạm vi tương đối lớn, từng bước đi vào làm ăn hợp tác trên nguyên tắc tự nguyên dân chủ cùng có lợi.Tư bản tư nhân được kinh doanh trong những ngành có lợi cho quốc kế dân sinh, do luật pháp qui định. Phát triển kinh tế tư bản nhà nước dưới nhiều hình thức.
Đại Hội Đảng lần thứ ix xác định :
“Thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trựờng định hướng XHCN” ( Văn kiện Đại hội Đảng, trang 95 – 96).
“Kinh tế cá thể, tiểu chủ cả ở nông thôn và thành thị có vị trí quan trọng lâu dài. Nhà nước tạo điều kiện và giúp đỡ để phát triển, khuyến khích các hình thức tổ chức hợp tác tự nguyện, làm vệ tinh cho các doanh nghiệp hoặc phát triển lớn hơn “ ( Văn kiện Đại hội Đảng ix, trang 98).
“Khuyến khích phát triển kinh tế Tư bản tư nhân rộng rãi trong những nghành nghề sản xuất kinh doanh mà pháp luật không cấm. Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách, pháp lý để kinh tế Tư bản tư nhân phát triển trên những định hướng ưu tiên của Nhà nước, kể cả đầu tư ra nước ngoài, khuyến khích chuyển thành doanh nghiệp cổ phần, bán cổ phần cho người lao động, liên doanh liên kết với nhau, với kinh tế tập thể và kinh tế nhà nước “.
“Xoá bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, giai cấp, thành phần, xác định tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau, hướng tới tương lai “
Như vậy trong quan điểm của Đảng và của Nhà nước đã có những đổi mới quan trọng trong tư duy nhận thức, đánh giá về khu vực kinh tế tư nhân; và dần được cụ thể hoá bằng những chích sách và pháp luật tạo điều kiện thuận lợi cho khu vực kinh tế tư nhân phát triển :
-Từ chỗ chia kinh tế thành 2 bộ phận: XHCN và phi XHCN,chủ trương xoá bỏ thành phần kinh tế phi XHCN, đã chuyển sang thực hiện phát triển kinh tế nhiều thành phần, với nhiều hình thức sở hữu, tổ chức kinh doanh đa dạng.
-Từ chỗ coi kinh tế quốc doanh là chủ đạo, phải nắm giữ mọi ngành nghề, lĩnh vực, độc quyền nắm tiền,nắm hàng đã chuyển sang phân biệt rõ sở hữu Nhà nước và doanh nghiệp nhà nước; phát triển kinh tế thị trường định hựớng XHCN, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, Nhà nước thực hiện quản lý vĩ mô.
Những nỗ lực trên về việc tạo lập hành lang pháp lý để cho KTTN của nước ta phát triển nhanh chóng và vững chắc. Qua đó khẳng định: Đảng, Nhà nước ta tạo điều kiện cho khu vực KTTN phát triển thuận lợi, phát huy hết mọi tiềm lực, thúc đẩy kinh tế đất nước phát triển, tiến lên CNXH. Được Nhà nước khuyến khích phát triển, tồn tại bên cạnh khu vực kinh tế Nhà nước, khu vực KTTN có vai trò như thế nào và tình hình phát triển của khu vực này ra sao, chúng ta cùng xem xét ở chương sau.
Chương II : Khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam
I. Vai trò của kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay
1. Ưu thế của kinh tế tư nhân
Những đặc điểm vốn có:
-KTTN có sức sống mạnh mẽ:
Khác với kinh tế nhà nước, KTTN dễ thành lập, mang tính tự nhiên, lan truyền, không cần sự hỗ trợ nhiều của Nhà nước. Sự phát triển của KTTN là mang tính khách quan, phản ánh quy luật cung cầu trên thị trường. Sức sống mãnh liệt của KTTN thể hiện sự tồn tại của nó trong nền kinh tế dù cho Nhà nước không thừa nhận, không chấp nhận nó, dù cơ chế kinh tế kìm hãm nó.
-Tính bền vững, truyền thống lưu truyền kinh nghiệm :
KTTN ra đời cùng sự ra đời của sản xuất hàng hoá và nó là nhân tố thúc đẩy sản xuất phát triển. Hộ gia đình là thành phần kinh tế không thể thiếu trong KTTN; với đặc trưng là một tế bào của nền kinh tế, hộ gia đình luôn tồn tại, phát triển trong nền kinh tế, dưới nhiều hình thức, quy mô.
Gắn với sở hữu tư nhân và quá trình tự phát, quá trình phát triển KTTN là quá trình lưu truyền kinh nghiệm truyền thống trong bản thân các doanh nghiệp, xí nghiệp tư nhân, trong các hộ kinh tế gia đình. Những bí quyết công nghệ, kinh nghiệm kinh doanh thường tồn tại trong phạm vi nhỏ và đặc trưng nhất là các làng nghề truyền thống; nó được chuyển từ đời này qua đời khác.
-KTTN có cơ cấu tổ chức linh hoạt:
Trong bất kỳ một nền kinh tế nào, thì vấn đề then chốt là phải đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. KTTN với sự linh hoạt của mình sẽ phủ đầy những lỗ trống trong nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng tốt hơn kinh tế nhà nước. Với những đặc điểm vốn có đó, KTTN có ảnh hưởng tích cực đến nền kinh tế .
2. Vai trò của kinh tế tư nhân trong phát triển kinh tế ở Việt Nam
Kể từ sau đại hội Đảng lần thứ vi (tháng 12/1986), và nhất là khi Luật công ty, Luật doanh nghiệp có hiệu lực, KTTN đã được chú trọng và có điều kiện phát triển: số doanh nghiệp trong khu vực KTTN tăng mạnh cả về số lượng, quy mô và vốn đầu tư, tham gia vào mọi lĩnh vực sản xuất kinh doanh của xã hội. Qua đó cho thấy sức sống mạnh mẽ của khu vực KTTN; KTTN khẳng định được vai trò quan trọng của mình trong sự phát triển kinh tế. Vai trò đó thể hiện qua từng lĩnh vực:
2.1. Trong lĩnh vực nông nghiệp:
Trong lĩnh vực nông nghiệp, số hộ tư nhân, cá thể kinh doanh sản xuất nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn: 81.659 hộ. Đây thực sự là một lực lượng kinh tế mạnh, thể hiện ở các mặt sau:
- Trong một thời gian ngắn, các hộ nông dân đã mua sắm nhiều thiết bị hiện đại, tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho nông nghiệp lên một bước, cụ thể đã mua: 109483 máy phát điện, 36011 động cơ chạy xăng, 72286 máy kéo nhỏ, 5378009 máy bơm …
- Kinh tế trang trại phát triển mạnh: trong thời gian ngắn, số trang trại được thành lập là: trên 110000 trang trại trong cả nước, trong đó các tỉnh phía Bắc chiếm 67000 trang trại, tương đương 61% .
Hình thức kinh tế trang trại là những tổ chức kinh tế nằm trong khu vực kinh tế tư nhân nhằm đưa sản xuất nông nghiệp lên trình độ sản xuất hàng hoá. Lượng vốn bình quân của mỗi trang trại là 291,43 triệu đồng, nguồn vốn chủ yếu là do chủ trang trại bỏ vốn ra, chiếm 91,03%.
Trang trại tạo ra lượng hàng hóa lớn, trung bình một trang trại cung cấp một lượng giá trị hàng hoá là 91.45 triệu đồng, chủ yếu là nông sản, hải sản, sản phẩm chăn nuôi.
Như vậy, kinh tế trang trại góp phần thúc đẩy nền kinh tế nông nghiệp Việt Nam lên kinh tế hàng hoá, giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, tạo việc làm cho trên 60 vạn lao động, với tiền công trung bình 434.29 nghìn đồng/gười /tháng.
Kinh tế trang trại huy động vốn của người dân, khai thác hiệu quả nguồn lực về nông nghiệp của địa phương.
Khu vực KTTN trong nông nghiệp thời gian qua đã góp phần quan trọng vào ngành nông nghiệp: tạo ra gần 1/4 tổng sản lượng của Việt Nam, 30% kim ngạch hàng xuất khẩu. Qua đó, góp phần tích cực trong việc công hiệp hoá nông nghiệp nông thôn, đưa khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp.
2.2. Trong lĩnh vực công nghiệp:
Không chỉ trong lĩnh vực nông nghiệp, KTTN tham gia mạnh mẽ vào lĩnh vực công nghiệp. Toàn bộ khu vực kinh tế tư nhân trong công nghiệp bao gồm các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các hộ gia đình đã đóng góp vào sản lượng công nghiệp cả nước là:58% năm 2000, Khu vực KTTN mà đặc biệt là các doanh nghiệp, hộ gia đình có vai trò quan trọng tronglĩnh vực công nghiệp chế tạo. Năm 1999 có 600000 doanh nghiệp, hộ gia đình hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp chế tạo, đóng góp 28% giá trị gia tăng trong công ngiệp chế tạo.
Vai trò của khu vực kinh tế tư nhân trong công nghiệp sẽ còn tăng hơn nữa vì thể chế pháp lý từ năm 1998 đến nay, nhất là luật doanh nghiệp được phê chuẩn và có hiệu lực từ năm 2000.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, trong những năm gần đây, trong nông thôn cả nước có khoảng 18 – 20% số hộ nông dân tham gia hoạt động phi nông nghiệp. Trong đó 1/2 là hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và xây dựng thuộc KTTN, cá thể và hộ gia đình.
Hoạt động công nghiệp của KTTN trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn lại có tác động mạnh mẽ đến quá trình công nghiệp hoá,hiện đại hoá nông thôn. Điều này thể hiện:
- Hình thành loại hoạt động có tính chất công nghiệp ngay tại địa bàn nông thôn cạnh hoạt động nhà nước.
- Giải quyết được nhiều việc làm tại chỗ, góp quyền chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nông thôn theo hướng giảm dần tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ.
- Góp phần nâng cao đời sống ngưòi dân nông thôn, do đó mở rộng thị trường trong nước: thị trường hàng tiêu dùng, hàng tư liệu sản xuất, sức lao động.
- Góp phần tạo điều kiện và thúc đẩy xây dựng nông thôn Việt Nam hiện đại theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá.
Việc xây dựng nông thôn mới hiện đại là mục tiêu lớn của công nghiệp hoá hiện đại hoá theo tinh thần mới, đòi hỏi cơ sở hạ tầng có nguồn vốn lớn mà chỉ Nhà nước thì không thể làm được. Thu nhập từ hoạt động của khu vực KTTN sẽ là nguồn vốn quan trọng bổ sung cho sự nghiệp này.
Với sự năng động của mình, khu vực kinh tế tư nhân hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp sẽ góp phần thu hút vốn, tiếp cận với khoa học kỹ thuật hiện đại, tận dụng tri thức con người, kinh nghiệm kinh doanh, qua đóng góp cho sự phát triển kinh tế đất nước
2.3. Trong lĩnh vực thương mại dịch vụ:
Đây là lĩnh vực kinh tế tư nhân hoạt động sôi động, ngày càng lấn át khu vực kinh tế quốc doanh. Số lượng tăng lên nhanh chóng: năm1986 có 56,8 vạn hộ, năm 1995 có 94 vạn hộ. Tư thương và hộ cá thể ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc lưu chuyển hàng hoá và dịch vụ: năm 1987, khu vực này đảm nhận tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng xã hội là 59%, năm 1995 là 79,4%.
- Về mặt số lượng, cơ cấu: 12/2001 số hộ cá thể trong cả nước là 7685978 hộ, trong lĩnh vực thương mại và khách sạn chiếm 54,4%; tập trung nhiều ở thành phố lớn như: thành phố Hồ Chí Minh 17%, Hà Nội 13,6%, Quảng Ninh 7,17%...
- Về mặt lao động: lĩnh vực thương mại và dịch vụ tư nhân có thể thu hút nhiều lao động và giải quyết việc làm tốt, tỷ trọng lao động thương nhân cá thể năm 2001 chiếm 87,2%, khu vực khác chiếm 12,8%.
- Về doanh số kinh doanh: tổng mức bán lẻ của thương nghiệp tư nhân tăng từ 66,9% lên 75,1% (từ 1990 – 2001). Thương nghiệp quốc doanh và khu vực khác giảm từ 33,1% xuống còn 24,9%.
- Đóng góp vào nguồn thu ngân sách khu vực này cũng rất đáng kể, tổng số thuế nộp vào ngân sách nhà nước tăng từ 908 tỷ đồng năm 1991 lên 9782,7 tỷ đồng năm 2001.
Trong lĩnh vực thương mại dịch vụ, còn phải kể đến vai trò của khu vực kinh tế tư nhân trong xuất nhập khẩu. Tỷ trọng của khu vực doanh nghiệp tư nhân trong nước trong giá trị xuất khẩu tăng từ 12% năm 1997 lên 22% năm 2000 và tỷ trọng trong giá trị nhập khẩu đã tăng từ 4% lên tới 16%.
Như vậy, trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ khu vực kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Đặc biệt là trong việc sản xuất hàng hoá, dịch vụ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của nhân dân thì khu vực KTTN làm tốt hơn khu vực kinh tế nhà nước.
2.4. Trong xây dựng kết cấu hạ tầng:
Với chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm và mục tiêu tới năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp, đòi hỏi một kết cấu hạ tầng tương ứng, bao gồm những công trình lớn về phát triển đường sắt, đường bộ, hàng không. Để xây dựng được hệ thống kết cấu hạ tầng phù hợp cho mục đích phát triển kinh tế cần nguồn vốn rất lớn mà nếu chỉ có nguồn vốn Nhà nước thì không đủ sức thực hiện. Những chỉ số sau nói lên điều đó: vốn đầu tư ngành năng lượng hàng năm khoảng 2ữ2,5 tỷ USD, dành 5,3ữ5,5% GDP đầu tư cho kết cấu hạ tầng ngành năng lượng; số vốn cần thiết đầu tư cho ngành giao thông vận tải là 11,6 tỷ USD, tương đương 2,5% GDP tích luỹ.
Chỉ với 2 ngành nêu trên, số vốn hàng năm cần thiết cho đầu tư là 3,4ữ3,5 tỷ USD, đó là chưa kể tới những kết cấu hạ tầng khác như viễn thông, nước sạch…
Trong thập kỷ tới, nhu cầu vốn sẽ rất lớn, khảng 6ữ7% GDP. Vì thế việc thu hút tham gia của khu vực KTTN là hết sức quan trọng, qua đó khẳng định vai trò quan trọng của khu vực KTTN trong nền kinh tế, vốn nhàn rỗi trong dân sẽ đựơc huy động cho hoạt động kinh tế, phục vụ công cuộc xây dựng đất nước.
II. Tình hình phát triển của kinh tế tư nhân ở Việt Nam – những đóng góp và những hạn chế:
1. Những đóng góp tích cực, vai trò quan trọng của khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam trong thời gian qua:
Với những quan điểm, chính sách đổi mới của Đảng và nhà nước, trong những năm gần đây khu vực KTTN phát triển mạnh mẽ, cụ thể là: tính đến hết tháng 9-2003 cả nước có khoảng 12,4 triệu hộ kinh doanh cá thể, hơn 1000 doanh nghiệp tư nhân. Khu vực KTTN chiếm tỷ trọng áp đảo trong việc tạo chỗ làm mới. Không những thế lượng vốn huy động cho đầu tư khá lớn; tỷ trọng đầu tư của các hộ kinh doanh cá thể và các doanh nghiệp dân doanh trong tổng số vốn đầu tư toàn xã hội năm 2002 là 28.8%.
1.1. Phát triển kinh tế tư nhân thúc đẩy tăng trưởng kinh tế:
a. Xét trên giác độ tổng cung:
Sự phát triển của kinh tế tư nhân sẽ cung cấp cho xã hội sản phẩm vật chất và dịch vụ để thoả mãn nhu cầu đời sống, nhu cầu cho quá trình tái sản xuất của xã hội. Tốc độ tăng trưởng của khu vực KTTN khá ổn định, năm 2002 tăng trưởng cả nước là 7% thì khu vực KTTN trong cả nước tăng 19%, khu vực đầu tư nước ngoài tăng 15%. Với tốc độ tăng trưởng trên, khu vực kinh tế tư nhân tạo ra 43,36% GDP năm 1995; 42,65% GDP năm 1996; 41,54% GDP (1997); 41,07% GDP (1998) và 40,179% GDP (1999). Đây là đóng góp đáng kể vào sự gia tăng tổng sản phẩm quốc nội và tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế.
b. Xét trên góc độ tổng cầu:
Vấn đề tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ trong nền kinh tế là vấn đề quan trọng. Vì vậy nhiều quốc gia trên Thế giới, trong đó có Việt Nam đã có chính sách kích cầu. ở Việt Nam, theo tính toán của các nhà thống kê, để tăng trựởng 1% GDP cần tăng trưởng tiêu dùng 2,1ữ2,2%. Khi khu vực KTTN phát triển sẽ làm tổng cầu tăng, vì:
- Do mở rộng sản xuất làm cho nhu cầu các yếu tố đầu vào tăng.
- Thu nhập người lao động tăng và số lao động được huy động tăng.
1.2. Huy động vốn trong xã hội:
Khu vực KTTN có đóng góp rất lớn trong việc thu hút các nguồn vốn đầu tư trong xã hội. Tính đến cuối năm 2003, đầu tư của KTTN chiếm 27% tổng đầu tư xã hội của Việt Nam (khoảng 10 tỷ USD), cao hơn tỷ trọng đầu tư của doanh nghiệp nhà nước. Vốn đầu tư của các doanh nghiệp dân doanh đã đóng vai trò là nguồn vốn đầu tư chủ yếu đối với sự phát triển kinh tế địa phương. Chẳng hạn, đầu tư của các doanh nghiệp dân doanh năm 2002 ở thành phố Hồ Chí Minh chiếm 38% tổng số vốn đầu tư xã hội trên địa bàn, cao hơn tỷ trọng vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước và ngân sách gộp lại (36,5%). Với hoạt động khu vực KTTN, nguồn vốn trong dân đã dần dần được khơi thông, góp phần thúc đẩy quy mô đầu tư của nền kinh tế. Khu vực kinh tế tư nhân dễ huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư. Theo kết quả điều tra nguồn lực do Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội tiến hành cho thấy có tới trên 70% vốn sản xuất kinh doanh của các hộ gia đình là huy động của bà con họ hàng.
Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội năm 1999 – 2000
TT
Chỉ Tiêu
Đơn vị tính
1999
2000
Tăng so với năm trước
1
Tổng vốn đầu tư phát triển xã hội
Tỷ đồng
131171
147633
12.55
2
Khu vực KTTN
Tỷ đồng
31542
35894
13.79
2.1
Doanh nghiệp tư nhân
Tỷ trọng trong toàn xã hội
Tỷ trọng trong khu vực KTTN
Tỷ đồng
%
%
5628
4.29
17.04
6627
4.48
18.46
17.75
2.2
Hộ kinh doanh cá thể
Tỷ trọng trong toàn xã hội
Tỷ trọng trong khu vực KTTN
Tỷ đồng
%
%
25914
19.75
82.15
29267
19.82
81.53
12.93
1.3. Phát triển kinh tế tư nhân góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, giữ gìn ổn định xã hội:
Tạo công ăn việc làm có thể coi là đóng góp quan trọng nhất của khu vực KTTN. Trong điều kiện nước ta, vấn đề lao động và việc làm đang là vấn đề cấp bách. Hệ thống các doanh nghiệp nhà nước đang trong quá trình cải cách, không tạo thêm được nhiều việc làm mới, khu vực hành chính nhà nước đang giảm biên chế và tuyển dụng mới không nhiều. Do đó khu vực KTTN là nơi thu hút, tạo việc làm mới cho xã hội. Các doanh nghiệp, hộ kinh doanh cá thể (phi nông nghiệp) đã sử dụng hơn 6 triệu người. Trong 3 năm (2000-2002) các doanh nghiệp dân doanh và hộ cá thể mới thành lập đã tạo ra khoảng 1,5 triệu chỗ làm mới. Cùng với sự tăng trưởng của khu vực KTTN là thu nhập của người lao động ngày một nâng cao. Theo Tổng cục Thống kê thì mức thu nhập bình quân tháng một lao động như sau:
Các loại hình doanh nghiệp
Mức thu nhập trung bình(1000đ)
Chung các loại hình doanh nghiệp
- Doanh nghiệp nhà nước
- Doanh nghiệp tư nhân
- Công ty cổ phần
- Tập thể
- Công ty trách nhiêm hữu hạn
- Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
1041.1
1048.2
651.1
933.0
529.3
801.8
1754.5
Thu nhập người lao động tăng, đời sống nhân dân được nâng cao, góp phần quan trọng trong phân phối lại thu nhập, giảm bớt khoảng cách giàu nghèo, qua đó tình hình chính trị đất nước được củng cố ổn định.
1.4. Tăng thu cho ngân sách quỗc gia
Đóng góp của doanh nghiệp vào ngân sách nhà nước đang có xu hựớng tăng nhanh, từ khoảng 6.4% năm 2001 lên hơn 7% năm 2002. Thu từ thuế công thương nghiệp và dịch vụ ngoài quốc doanh năm 2002 đạt 103.6% kế hoạch, tăng 13% so với năm 2001.
Ngoài ra khu vực KTTN còn góp phần tăng nguồn thu ngân sách như: thuế môn bài, VAT và các khoản phí khác. ở một số địa phương, đóng góp của doanh nghiệp dân doanh chiếm tỷ trọng lớn như: thành phố Hồ Chí Minh là 15%, Tiền Giang: 24%, Đồng Tháp: 16%, Gia Lai: 22%, Quảng Nam 22%, Bình Định: 33%...
1.5. Tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, hoàn thiện hệ thống ngành nghề:
KTTN phát triển bên cạnh các thành phần kinh tế khác trong nền kinh tế nhiều thành phần của Việt Nam, nó sẽ góp phần tạo ra một môi trường kinh doanh lành mạnh ở các loại hình doanh nghiệp. KTTN ngày càng phát triển đa dạng về lĩnh vực, do vậy những lĩnh vực vốn trước đây có sự độc quyền thì na._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35644.doc