Vai trò Nhà nước trong quá trình CNH-HĐH ở Việt Nam

Lời mở đầu Hiện nay nước ta đang trong quá trình chuyển từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa. Để góp phần xây dựng một nền kinh tế phát triển, xây dựng cơ sở cho công cuộc đổi mới đất nước công nghiệp hoá, hiện đại hoá có vai trò hết sức quan trọng. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Để thực hiện thành công nhiệm vụ này nhất là trong điều kiện thế giới đang đi và

doc43 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1574 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Vai trò Nhà nước trong quá trình CNH-HĐH ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o nền kinh tế tri thức và xu hướng toàn cầu hoá kinh tế, chúng ta cần huy động sức mạnh tổng hợp của toàn Đảng, toàn dân. Đây là một quá trình khó khăn và phức tạp đòi hỏi một định hướng đó chính là sự quản lý của Nhà nước. Như vậy đề tài: "Vai trò Nhà nước trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam" đang là một đề tài thu hút được nhiều sự quan tâm của các ngành các cấp và của toàn dân đặc biệt là thế hệ trẻ chúng em - những sinh viên kinh tế. Hơn bao giờ hết chúng em luôn muốn thử sức tìm hiểu về vấn đề này. Đây là một đề tài có phạm vi rộng, trong khuôn khổ một đề án em chỉ đề cập đến một số khía cạnh nhằm làm rõ vai trò của Nhà nước trong việc định hướng, tổ chức thực hiện, và giám sát kiểm tra quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Trong quá trình hoàn thành đề án em đã được sự hướng dẫn của TS. Trần Việt Tiến và được tham khảo nhiều tài liệu nhằm một phần nào đó làm rõ tính tất yếu khách quan về vai trò Nhà nước trong quá trình CNH - HĐH cũng như có một số phân tích đánh giá và giải pháp nhằm tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước trong CNH - HĐH cũng như trong nền kinh tế nói chúng. Với khả năng hạn chế của một sinh viên năm thứ 2 và đây là một trong những bài viết đầu tay vì vâỵ không tránh khỏi sai sót. Em kính mong được sự chỉ bảo và hướng dẫn thêm của thầy. CHƯƠNG 1: NHữNG VấN Đề CƠ BảN Về VAI TRò CủA NHà NƯớC TRONG QUá TRìNH CÔNG NGHIệP HOá HIệN ĐạI HOá. Thực chất vai trò của Nhà nước trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá. Những nét khái quát về vấn đề công nghiệp hoá hiện đại hoá. Để nghiên cứu về thực chất của vấn đề công nghiệp hoá-hiện đại hoá( CNH-HĐH) luôn phải bắt đầu từ quan niệm cơ bản về vấn đề này. Quan niệm đơn giản nhất cho rằng CNH là quá trình đưa các đặc ính công nghiệp cho một hoạt động, trang bị các nhà máy. Đó chỉ đơn thuần là sự phát triển trong ngành công nghiệp. Còn nông nghiệp và các ngành khác được phát triển dựa trên hệ quả của quá trình phát triển công nghiệp, chứ không phải là đối tượng trực tiếp của CNH. Còn trong thời kỳ CNH ở Liên xô(cũ) người ta lại nhấn mạnh cách hiểu này vào phát triển công nghiệp nặng. Cho rằng “CNH là quá trình xây dựng nền đại công nghiệp cơ khí có khả năng cải tạo cả nông nghiệp. Đó là sự phát triển công nghiệp nặng với ngành trung tâm là chế tạo máy”. Khái niệm này chỉ đúng trong giai đoạn lịch sử Liên xô lúc đó. Bởi vì vào những năm 1930 nền kinh tế Liên xô đã đạt được sự phát triển công nghệ trình độ nhất định, lại bị bao vây bởi CNĐQ, trong khi đó lại phải xây dựng một nền sản xuất lớn, hiện đại để phát triển CNXH, cần thực hiện công nghiệp hoá với tốc độ nhanh, phải tập trung phát triển công nghiệp nặng. Sẽ là rất sai lầm nếu hiểu khái niệm CNH như vậy trong mọi giai đoạn vì CNH không chỉ đơn thuần là phát triển công nghiệp. Để có được những nhận định đúng đắn về CNH, ngày nay người ta đã tiếp cận CNH qua hai khía cạnh. Một là về lý luận: CNH là quá trình kinh tế khách quan, được thực hiện thông qua hoạt động của con người. Nó phụ thuộc vào trình độ nhận thức và năng lực vận dụng, tổ chức thực tiễn của con người ở mỗi quốc gia cụ thể. CNH không phải là phạm trù khoa học tự nhiên, mà là một phạm trù kinh tế xã hội, luôn gắn liền với những biến đổi phức tạp của đời sống kinh tế xã hội theo các giai đoạn phát triển lịch sử. Hiện nay người ta luôn đặt CNH dưới một góc nhìn toàn diện. CNH là một phạm trù phản ánh một giai đoạn phát triển kinh tế gắn với quá trình chuyển nền sản xuất từ trình độ thủ công lạc hậu, năng suất thấp sang sử dụng rộng rãi kỹ thuật, công nghệ tiên tiến năng suất cao. Hai là về thực tiễn: CNH được diễn ra đầu tiên ở Anh rồi đến các nước khác như Bỉ Pháp, Đức Mỹ. Và từ sau chiến tranh thế giới thứ hai CNH có bước phát triển mạnh mẽ. Cách mạng khoa học kỹ thuật và xu hướng tự do hoá thương mại quốc tế bung nổ. Các ngành công nghiệp chế tạo, vật liệu tổng hợp, hoá chất, năng lượng, hạt nhân, điện tử... phát triển mạnh mẽ. Cơ cấu kinh tế công- nông nghiệp-dịch vụ ra đời. Xã hội mang bộ mặt mới với nền văn minh công nghiệp. Nếu các nước đi đầu thực hiện CNH một cách tự phát với các bước phát triển tuần tự từ thấp đến cao thì các nước đi sau lại tiến hành CNH một cách có ý thức dưới sự quản lý của Nhà nước theo con đường phát triển rút ngắn. Từ hai khía cạnh trên, có thể hiểu CNH là quá trình chuyển trạng thái nền kinh tế từ sử dụng lao động thủ công lạc hậu sang sử dụng phổ biến sức lao động cùng với kỹ thuật, công nghệ tiên tiến, tạo ra năng suất lao động cao. Đây là quá trình làm biến đổi sâu sắc trình độ kỹ thuật, công nghệ của nền kinh tế. Nó không chỉ diễn ra ở các ngành của công nghiệp mà còn diễn ra ở tất cả các ngành kinh tế khác; không chỉ trong đời sống kinh tế mà còn cả trong đời sống xã hội làm cho đời sống kinh tế xã hội mang tính công nghiệp. CNH làm cho cấu trúc nền kinh tế thay đổi. Đây là quá trình chuyển nền kinh tế mà nông nghiệp và khai thác nguyên liệu chiếm tỷ trong lớn sang nền kinh tế mà công nghiệp đóng vai trò chủ đạo. Trong thời đại ngày nay CNH tất yếu phải gắn với hiện đại hoá (HĐH). Trên cơ sở đổi mới tư duy lý luận và thực tiễn phát triển tại Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 7 (khoá VII tháng 12-1993) lần đầu tiên Đảng đưa ra khái niệm CNH-HĐH: “ CNH_HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động, cùng với công nghệ phương tiện, phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghịêp, và tiến bộ khoa học kỹ thuật, tạo ra năng suất lao động xã hội cao”. Lịch sử phát triển của nhân loại cho thấy, không có một quốc gia nào vươn tới nền kinh tế phát triển mà không phải trải qua giai đoạn CNH. Song lịch sử cũng cho thấy không phải CNH diễn ra cùng lúc ở tất cả các nước. Có những nước tiến hành CNH cách đây hàng trăm năm, có những nước vừa mới hoàn thành CNH, và có không ít nước đang trong thời kỳ CNH, trong số đó có nước ta. Dù trong bất kỳ giai đoạn nào thì CNH vẫn là một quá trình kinh tế khách quan và được diễn ra tất yếu theo quy luật của sự phát triển sản xuất xã hội. Nó bắt nguồn từ yêu cầu của sự phát triển nền sản xuất lớn, hiện đại, đòi hỏi bức thiết của phát triển kinh tế thị trường cùng với sự phát triển chính trị xã hội. Vì vậy CNH đóng vai trò vô cùng quan trọng trong sự phát triển kinh tế-chính trị- xã hội. 1.1.2Tính tất yếu khách quan về vai trò của Nhà nước trong quá trình CNH Nói đến nền sản xuất tức là xét đến sự thống nhất và tác động qua lại giữa hai mặt lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Trong đó sự phát triển của lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất; quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Đây là một mối quan hệ biện chứng có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Từ mối quan hệ này ta thấy rằng nền sản xuất hiện đại nhất thiết phải dựa trên cơ sở lực lượng sản xuất phải phát triển ở trình độ cao. Tại đó, các yếu tố vật chất phải đạt trình độ công nghiệp và công nghiệp tiên tiến hiện đại. Chính là thành quả của cuộc cách mạng CNH toàn diện trên mọi lĩnh vực. Nếu CNH là con đường tất yếu để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền sản xuất lớn TBCN, thì nó lại trở nên bắt buộc đối với các nước định hướng đi lên XHCN như nước ta. Để tiến hành thành công CNH_HĐH không thể thiếu sự lãnh đạo của Nhà nước. Nhà nước có một vai trò quan trọng trong quá trình CNH_HĐH nói riêng cũng như phát triển nền kinh tế nói chung.Nhà nước giúp đỡ về tài chính, tín dụng, và các điều kiện ưu đãi cho các doanh nghiệp và định hướng các doanh nghiệp đi theo chỉ dẫn của Nhà nước. ở mỗi mức độ khác nhau song vai trò của Nhà nước trong quá trình CNH-HĐH là tất yếu khách quan. Thứ nhất, do yêu cầu tồn tại của quá trình CHN-HĐH Như đã trình bày, CNH-HĐH không chỉ liên quan đến phát triển công nghiệp mà là quá trình phức tạp diễn ra ở tất cả các ngành, lĩnh vực trong đời sống kinh tế, chính trị, xã hội, nó ảnh hưởng đến mọi tầng lớp giai cấp trong xã hội. Do đó CNH-HĐH là một quá trình kinh tế mang tính xã hội hoá cao. Và để thực hiện thành công CNH-HĐH thì cần huy động lực lượng vật chất lớn như vốn, công nghệ, nhân lực... Để huy động và phối hợp các lực lượng đó bắt buộc phải có sự có mặt kịp thời của Nhà nước. Đặc biệt là nước ta, một đất nước tiến hành CNH từ một nền kinh tế nghèo nàn lạc hậu thì vai trò của Nhà nước là vô cùng cần thiết. Thứ hai, do những nhân tố khách quan tác động vào quá trình CNH-HĐH. Bên cạnh những thuận lợi và vô vàn khó khăn mà các nước đang phát triển gặp phải trong quá trình tiến hành CNH-HĐH. Một khó khăn nhất là vốn, công nghệ và thị trường. Vốn của quá trình CNH-HĐH phần lớn là phải vay các nước phát triển còn khoa học công nghệ thì cũng bị các nước phát triển chi phối. Mặt khác thị trường quốc tế cũng bị các nước phát triển nắm dữ. Sản phẩm của các nước đang phát triển muốn thâm nhập vào đó gặp khó khăn không ít. Hiện nay, xu hướng hợp tác hoá kinh tế tạo cho các nước đang phát triển cơ hội và nhiều thách thức mới. Trong hoàn cảnh đó Nhà nước buộc phải can thiệp để tận dụng những thuận lợi và giảm thiểu khó khăn. Thứ ba, do những hạn chế và khuyết tật của qúa trình CNH-HĐH. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, CNH-HĐH sẽ thúc đẩy nhanh nền kinh tế thị trường phát triển. Kéo theo sự phát triển đó là vô số hạn chế và khuyết tật như là: nạn thất nghiệp; phân hoá giàu nghèo; ô nhiễm môi trương... Những vấn đề này hiện nay đang được quan tâm và là mối lo lắng cho các nhà quản lý. Nó có ảnh hưởng to lớn đến nền kinh tế cũng như trật tự, ổn định chính trị xã hội. Vì thế, đòi hỏi phải có sự can thiệp của Nhà nước để ngăn ngừa hạn chế những khuyết tật đó. Qua một số lý do như trên ta thấy vai trò của Nhà nước trong quá trình CNH-HĐH là một tất yếu khách quan. Các nước đang phát triển sử dụng Nhà nước để thúc đẩy quá trình CNH-HĐH. Các nước đi đầu trong quá trình CNH-HĐH (Anh, Pháp, Mỹ...) thực hiện CNH trong điều kiện kinh tế thị rường cổ điển. Khi nghiên cứu ba giai đoạn phát triển của CNTB trong công nghiệp là hiệp tác giản đơn; công trường thủ công và đại công nghiệp cơ khí CMác cho rằng: đó là ba giai đoạn phát triển của lực lượng sản xuất đồng thời cũng là ba giai đoạn để sản xuất ra giá trị thặng dư tương đối. CMác đã chỉ ra rằng, quy luật giá trị thặng dư là quy luật kinh tế cơ bản của CNTB. Quá trình CNH ở các nước TBCN được thực hiện là do cạnh tranh nhằm thu được ngày càng nhiều giá trị thặng dư, ở những nước này Nhà nước đã có một vai trò nhất định đó là đề ra các chính sách tạo điều kiện thúc đẩy quá trình CNH như chính sánh thương mại, tài chính tiền tệ,...Tuy nhiên, đây là những nước đầu tiên tiến hành CNH nên các chính sách còn chưa hoàn chỉnh vai trò của Nhà nước còn chưa rõ nét. Còn hiện nay, Nhà nước đã tác động đến mọi lĩnh vực của quá trình CNH-HĐh. Nhà nước không dừng lại ở vai trò trọng tài mà còn tác động trực tiếp. Có thể nói rằng, Nhà nước đóng vai trò vô cùng quan trọng, không thể thiếu trong quá trình CNH-HĐH. 1.1.3. Đặc điểm của vai trò Nhà nước trong quá trình CNH ở các nước XHCN. Ngày nay, không có nhà nước nào đứng ngoài quá trình kinh tế, không có một nền kinh tế thị trường nào phát triển mà không có sự điều tiết của Nhà nước. Quá trình CNH-HĐH cũng vậy, trong điều kiện hiện nay Nhà nước có một vai trò quan trọng trong CNH-HĐH. Vai trò đó được thể hiện thông qua việc xác định chiến lược CNH-HĐH đúng đắn, từ đó đưa ra chính sách hiệu quả phù hợp thúc đẩy nhanh CNH-HĐH Song do mỗi nước phát triển theo định hướng chính trị xã hội khác nhau nên vai trò của Nhà nước trong CNH-HĐH ở mỗi nước là khác nhau. Sự khác nhau thứ nhất là sự khác biệt trong mục tiêu của CNH-HĐH. CNH-HĐH ở các nước TBCN chủ yếu với mục tiêu là thu được ngày càng nhiều giá trị thặng dư. Theo mục tiêu đó, quá trình CNH TBCN được thực hiện bằng mọi giá. Còn ở những nước định hướng XHCN với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh nên những vấn đề kinh tế-chính trị- môi trường tạo ra cơ hội để nước đi sau tiếp thu công nghệ , vốn của các nước đi trước. Mục đích của Nhà nước TBCN là quan tâm đến lợi ích của giai cấp tư sản. Sự giàu sang của giai cấp tư bản là sự bần cùng của những người lao động. Giai cấp tư bản sử dụng thành tựu CNH-HĐH để tăng cường bóc lột lao động làm thuê, thu được giá trị thặng dư.ở các nước TBCN nhà nước không quan tâm đến sự phân hoá giàu nghèo, ô nhiễm môi trường... chỉ quan tâm đến việc tối đa hoá lợi nhuân. Còn ở các nước XHCN Nhà nước đặt lên hàng đầu việc quản lý kinh tế vĩ mô và vi mô. Tầm vi mô, các chủ thể kinh tế lấy lợi nhuận làm mục tiêu hàng đầu thì ở tầm vĩ mô Nhà nước lầy hiệu quả kinh tế xã hội làm mục tiêu quản lý, thực hiện phát triển kinh tế và công bằng xã hội. Nhà nước đưa ra hệ thống pháp luật, chính sách có hiệu quả để bảo vệ mội trường và điều chỉnh cơ cấu kinh tế. Thứ hai, là sự khác biệt trong việc huy động lực lượng thực hiện CNH-HĐH. Nếu như ở các nước TBCN, lực lượng cơ bản thực hiện CNH là kinh tế tư nhân, kinh tế nhà nước chỉ đóng vai trò hỗ trợ, kích thích,thì ở các nước XHCN, do bản chất của nhà nước là của dân do dân và vì dân, nên quá trình CNH-HĐH là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế. Nhà nước huy động sức mạnh của toàn dân, và các thành phần kinh tế được đối xử như nhau trong quá trình CNH-HĐH, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Như vậy mọi tiềm lực, mọi lực lượng vật chất trong và ngoài nước được huy động tối đa cho CNH-HĐH. Nhà nước trực tiếp thực hiện CNH-HĐH thông qua thành phần kinh tế nhà nước. Đây là lực lượng chủ đạo thực hiện CNH-HĐH. Thứ ba, là sự khác biệt trong việc giải quyết mối quan hệ giữa hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Quá trình CNH-HĐH TBCN nhằm mục đích thu được ngày càng nhiều lợi nhuận, chỉ chú ý đến lợi nhuận kinh tế mà không quan tâm đến hiệu quả xã hội. Do mục tiêu đó mà quá trình CNH-HĐH dẫn tới bần cùng hoá người lao động gây nạn thất nghiệp, phân hoá giàu nghèo, ô nhiễm môi trường, mất cân đối kinh tế... Còn ở những nước định hướng xã hội chủ nghĩa, quá trình CNH-HĐH hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội được chủ động gắn với nhau, không tách rời nhau. Vì vậy quá trình CNH-HĐH ở những nước này đồng thời thực hiện nâng cao hiệu quả kinh tế và giải quyết công bằng, dân chủ, văn minh, phát triển phúc lợi xã hội, tăng việc làm, phát triển một xã hội lành mạnh, giải quyết vấn đề môi trường. ở Việt Nam, trong điều kiện thế giới đang đi vào kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế thì vai trò của nhà nước trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. 1.2.Nội dung vai trò nhà nước trong sự nghiệp CNH-HĐh. 1.2.1. Xác định công nghiệp hoá (mục tiêu). 1.2.2. Xác định chiến lược CNH-HĐH. 1.2.2.1. Vai trò của việc xác định chiến lược CNH-HĐH. Lịch sử đã chứng minh rằng, một đất nước muốn thực hiện thành công CNH-HĐH việc đầu tiên và quan trọng nhất là xác định chiến lược đúng đắn. Trong khu vực Châu á của chúng ta, NICS đã lựa chọn chiến lược CNH-HĐH thay thế nhập khẩu. Sau một thời gian, khi bối cảnh thay đổi, NICS đã chuyển sang chiến lược CNH-HĐH hướng về xuất khẩu. Và NICS đã thành công. Qua đó ta thấy rằng việc lựa chọn chiến lược CNH-HĐH có ý nghĩa quyết định đến thành bại đối với quá trình CNH-HĐH. Thực chất của xác định chiến lượcCNH-HĐH là trên cơ sở phân tích và dự báo đúng đắn, đưa ra được những định hướng, hành động, giải pháp phù hợp để thực hiện thành công CNH-HĐH. Chiến lược này đóng vai trò định hướng hoạt động dài hạn và cơ sở cho việc thực hiện CNH-HĐH. Nếu không có chiến lược hoặc chiến lược không phù hợp sẽ làm cho hoạt động mất phương hướng. Chiến lược còn tạo ra cơ sở huy động và sử dụng các nguồn lực có hiệu quả nhằm đẩy nhanh CNH-HĐH. Trong thực tế, phần lớn các sai lầm về đầu tư, nghiên cứu... đều bắt đầu từ sai lệch trong chiến lược. Như vậy việc xác định chiến lược là vô cùng quan trọng, đóng vai trò quyết định thành bại của CNH-HĐH. 1.2.2.2. Yêu cầu khi xác định chiến lược CNH-HĐH. Trước hết việc xác định chiến lược CNH-HĐH phải phù hợp với điều kiện trong nước. Đúng vậy, để tổ chức thành công CNH-HĐH cần một số điều kiện cơ bản: nguồn vốn, nguồn nhân lực và tiềm lực khoa học công nghệ, trong dó nguồn nhân lực trong nước là yếu tố quyết định. Nguồn nhân lực đó quyết định phương hướng, nội dung, bước đi và biện pháp CNH-HĐH. Để có thể tiến hành CNH-HĐH cần có đông đảo đội ngũ công nhân lành nghề, nhà khoa học tài năng, nhà quản lý có khả năng. Còn đối với nguồn vốn đầu tư cho quá trình CNH-HĐH cũng vậy. Nguồn vốn bên trong nước là quan trọng. Thực tế cho tháy dể sử dụng có hiệu quả một nguồn vốn đầu tư nước ngoài thì nguồn vốn trong nước phải có từ một đến hai đồng. Về trình dộ khoa học công nghệ cũng vậy,các nước đang phát triển không thể lên ngay được trình độ khoa học công nghệ cao nhất, mà phải trải qua nhiều trình tự để nâng dần, bằng cách cải tiến và phát triển công nghệ trong nước,nhận chuyển giao khoa học công nghệ nước ngoài. Điều đó đòi hỏi tiềm lực khoa học công nghệ trong nước phải đạt đến trình độ nhất định mới tiếp nhận được khoa học công nghệ nước ngoài chứ không phải là con số không. Như vậy xác định chiến lược CNH-HĐH phải căn cứ vào nguồn nội lực và phù hợp với điều kiện kinh tế, văn hoá, chính trị của đất nước, để phát huy tối đa nội lực. Thứ hai, xác định chiến lược phải phù hợp điều kiên quốc tế. Mỗi quốc gia là một bộ phận của thế giới, do đó không thể tách khỏi những tác động của điều kiên quốc tế. Khi nói về mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, Lênin đã chỉ ra rằng “Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ đưa đến cái chung”. Mỗi quốc gia là cái riêng, thế giới là cái chung. Mỗi quốc gia đều độc lập nhưng sự độc lập đó được đặt trong mối quan hệ với thế giới bên ngoài. Như vậy chiến lược CNH-HĐH không chỉ căn cứ vào điều kiện trong nước mà còn phải căn cứ vào tình hình quốc tế và phải phù hợp với tình hình đó. Nguồn lực bên ngoài sẽ bổ xung và khắc phục những thiếu sót mà nguồn lực trong nước chưa thể đáp ứng được. Trong bối cảnh thế giới chuyển từ đối đầu sang đói thoại hoà bình với xu hướng khu vực hoá, toàn cầu hoá thì càng tạo điều kiệnđể mở cửa và tham gia vào các tổ chức lớn để vay vốn như: Ngân hàng thế giới, Quỹ tiền tệ quốc tế... và một điều hết sức quan trọng là hợp tác để tìm thị trường. Thứ ba, là đảm bảo tính kế thừa và liên tục. Quy luật phủ định của phủ định là điều kiên của sự phát triển. Cái mới bao giờ cũng phải dựa trên nền tảng là cái cũ. Để xác định chiến lược CNH-HĐH đúng đắn đòi hỏi phải tuân theo quy luật trên. Vì mỗi chiến ;lược chỉ phù hợp với một giai đoạn phát triển. Song đó không có nghĩa là chiến lược sau phủ định sạch trơn chiến lược trước. Mà ngược lại, chiến lược sau phải kế thừa những thành tựu, những nhân tố tích cực và khắc phục những tồn tại của chiến lược trước. Như vậy đảm bảo tính kế thừa và phát triển liên tục của chiến lược CNH-HĐH. 1.2.2.3. Nội dung chủ yếu của quá trình CNH-HĐH. Trước hết là xây dựng cách thức để phát triển khoa học công nghệ và mức độ trang bị, ứng dụng khoa học kỹ thuật trong các lĩnh vực. Thế giới đã trải qua hai cuộc cách mạng kỹ thuật tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình CNH-HĐH trong tất cả các nước đang phát triển. Ngày xưa quan hệ quốc tế chưa phát triển, các nước tiến hành công nghiệp hoá không có được những điều kiện thuận lợi như hiện nay. Việt Nam là một trong những nước đi sau vì vậy chúng ta có rất nhiều lợi thế. Chúng ta phải tranh thủ được sự giúp đỡ từ bên ngoài đặc biệt là vốn và công nghệ, đồng thời phải phát huy mọi khả năng, tiềm lực có sẵn trong nướcđể CNH-HĐH nền kinh tế quốc dân. Trong điều kiện đó, một mặt chúng ta thực hiện một cách tuần tự tức là: chuyển từ thủ công sang bán cư khí rồi lên cơ khí. Mặt khác áp dụng những thành tựu của khoa học công nghệ để “đi tắt, nhảy vọt” Đó là từ thủ công lên thẳng cơ khí, từ đó thực hiện HĐH tự động và tự động hoá nền kinh tế Mặt khác, để đi tắt trong phát triển khoa học công nghệ, cần lựa chọn một số ngành mũi nhọn để tập trung đầu tư tạo sự đột phá mạnh mẽ cho việc rút ngắn thời gian CNH-HĐH. Song nguyên tắc chọn ngành kinh tế “mũi nhọn” là trong điều kiện nền kinh tế thị trường là phải lấy tính hiệu quả làm cơ bản nhất. Thứ hai, xác định giải pháp, bước đi cho việc xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế, xã hội. Đó là góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phân phối tổng sản phẩm xã hội, và thu nhập quốc dân. Quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế cũng là quá trình sắp xếp lại tỷ trọng các ngành, đảm bảo cho mọi thành phần kinh tế phát huy mọi năng lực của nmình, thực hiện được hiệu quả nói chung. Đồng thời quá trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế đó sẽ phân bố lại lãnh thổ , đô thị hoá nông thôn, miền núi tạo ra sự phát triển bình đẳng giữa các vùng, đồng thời qua đó đẩy mạnh sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế. Cơ cấu kinh tế bao gồm cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu vùng lãng thổ và cơ cấu thành phần kinh tế. 1.2.3. Tạo mọi điều kiện để tiến hành CNH-HĐH. Đảm bảo tính hiệu quả, đồng bộ và thích hợp. 1.2.3.1. Chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Các nước đang thực hiện CNH-HĐH với một nền kinh tế kém pját triển các nguồn lực khan hiếm. Điều đó yêu cầu nhà nước phải huy động sức mạnh toàn dân, mọi lực lượng vật chất trong và ngoài nước cho CNH-HĐH. Tức là nhà nước phải phát huy sức mạnh của các thành phần kinh tế. Hiện nay, các nước ĐPT thực hiện CNH-HĐH trong điều kiện kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường, nên nền kinh tế nhiều hành phần là tất yếu khách quan. Cho nên, phải tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế phát triển, đóng góp sức lực của mình vào sự nghiệp CNH-HĐH. Muốn làm được điều đó, cần phải: phát huy tính năng đông, sáng tạo và hạn chế mặt tiêu cực của các thành phần kinh tế. Đồng thời phải phối hợp hoạt đông nhịp nhàng giữa cách thành phần kinh tế, hướng các thành phần kinh tế vào một mục đích chung là phát huy hết những năng lực của mình để đẩy nhanh CNH cũng như phát triển kinh tế xã hội. Ngoài ra đối với các nước XHCN, thành phần kinnnh tế nhà nước phải đong vai trò chủ đạo trong quá trình CNH-HĐH. Thành phần kinh tế nhà nước phải nắm những ngành, khâu, lĩnh vực then chốt, phải định hướng các thành phần khác trong quá trình CNH-HĐH theo định hướng XHCN. 1.2.3.2 Chính sách huy động và sử dụng vốn. Để huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn thì chính sách huy động vốn phải phù hợp với nền kinh tế mở và đặc thù dân tộc. trong việc huy động vốn thì nguồn vốn trong nước là quyết định, nguồn vốn ngoài nước là quan trọng. Thứ hai nữa là phải tạo môi trường, thể chế thuận lợi sử dụng đồng bộ các chính sách, giải pháp kinh tế để huy động nguồn vốn trong toàn dân, trong mọi thành phần, nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH-HĐH. Đối với nguồn vốn nước ngoài, phải coi trọng huy động vốn đầu tư trực tiếp bên ngoài, tiếp thu vốn nước ngoài phải gắn chặt với quá trình chuyển giao công nghệ. Điều quan trọng là huy động vốn phải gắn liền với việc sử dụng vốn hiệu quả. Để đảm bảo vốn được sở dụng đúng đắn cần phải: Nhà nước phải đầu tư từ ngân sách để tạo môi trường thuận lợi cho các thành phần kinh tế phát huy cao nhất nguồn lực cuả mình. Đồng thời, đầu tư vốn cho CNH-HĐH phải coi trọng quan điểm hiệu quả và chi tiêu thời hạn thu hồi vốn. 1.2.3.3. Chính sách phát triển nhân lực. Để thực hiện CNH-HĐH cần có nguồn nhân lực chất lượng chất lượng cao. Phát triển nguồn nhân lực mà quan trọng nhất là giáo dục và đào tạo, phải cung cấp cho xã hội một lực lượng lao động mới có tay nghề vững vàng, có học vấn cao năng động sáng tạo để phù hợp với tình hình mới. Vì vậy phải ưu tiên phát triển nguồn nhân lực. Cụ thể là ưu tiên phát triển giáo dục đào tạo, có chính sách tiền lương thích hợp để ngăn chăn chảy máu chất xám và thu hút chuyên gia nước ngoài. 1.2.3.4. Chính sách phát triển khoa học công nghệ. Khoa học công nghệ là động lực của CNH-HĐH, nó đóng vai trò quyết định lợi thế cạnh tranh và óc độ phát triển kinh tế nói chung, CNH-HĐH nói riêng. Sự phát triển khoa học công nghệ với tư cách là nhân tố cơ bản của CNH-HĐH có ảnh hưởng quan trọng đến quá trình CNH-HĐH. Để phát triển khoa học công nghệ phải đáp ứng một số yêu cầu cơ bản sau: Phát triển khoa học công nghệ phải đảm bảo nâng cao hiệu quả kinh tế và rút ngắn khoảng cách với các nước phát triển. Ngoài ra chính sách phát triển khoa học công nghệ phải gắn khoa học với công nghệ nhằm phát triển kinh tế xã hội. Thực hiện phát triển khoa học công nghệ đối với tất cả các thành phần kinh tế. Song nhà nước phải lựa chọn một số ngành ưu tiên để đầu tư, tránh đầu tư tràn lan. Và chình sách phát triển khoa học công nghệ phải gắn chặt với chính sách phát triển nguồn nhân lực. 1.2.4. Chỉ đạo tổ chức thực hiện CNH-HĐH. 1.2.4.1. Xây dựng và kiện toàn bộ máy quản lý kinh tế nhà nước. Đây là lực lượng trực tiếp chỉ đạo quá trình thực hiện CNH-HĐH. Vì vậy cần xây dựng một bộ máy thanh sạch, hoạt động có hiệu quả, trình độ cao. Xây dựng bộ máy quản lý kinh tế nhà nước phải xuất phát từ yêu cầu cuộc sống, phù hợp với điều kiện thực tế của nền kinh tế cũng như trong quá trình CNH-HĐH. Và bộ máy kinh tế phải tinh gọn, hợp lý, phân định rõ chức năng, tránh chồng chéo. Và điều quan trọng là bộ máy quản lý phải có trình độ. Ngoài ra, do nền kinh tế quốc dân là một cơ cấu thống nhất, trên phạm vi cả nước, cơ cấu thống nhất ấy từ trung ương đến địa phương. Trong đó, nhà nước quản lý ở tầm vĩ mô nền kinh tế quốc dân. Chức năng quản lý nhà nước trung ương là quản lý toàn diện hoặc ngành, lĩnh vưc trên phạm vi cả nước. Còn chức năng quản lý Nhà nước của chính quyền địa phương theo thẩm quyền chung là quản lý trên phạm vi đơn vị hành chính- lãnh thổ. Hai chức năng đó thống nhât không tách biệt thể hiện ở: Tổ chức điều hoà, phối hợp các hoạt động của tất cả các ngành, các thành phần kinh tế, văn hoá, xã hội. Quản lý công việc chung của nhà nước và những việc chung. Sự phân cấp cho chính quyền địa phương theo nguyên tắc trung ương tập quyền, địa phương tự quản dưới tiền đề là nhà nước pháp quyền.. 1.2.4.2. Thiết lập và phát triển mối quan hệ giữa Nhà nước và các chủ thể trong nền kinh tế. Nền kinh tế tồn tại nhiều thành phần nên tất yếu tồn tại các chủ thể kinh tế. Đối với nhà nước, trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước chịu trách nhiệm về ổn định môi trường kinh tế, chính trị, xã hội, và tạo lập thể chế để phát triển kinh tế. Trong mọi trường hợp, Nhà nước định hướng chung chứ không trực tiếp tham gia vào các quyết định của các doanh nghiệp. Nhà nước tập trung thông tin và chia sẻ một cách có chọn lọc cho các doanh nghiệp, Nhà nước cung cấp vốn kinh doanh cho các doanh nghiệp mới, ngoài ra nhà nước sử dụng liên kết hỗ trợ về vốn giữa khu vực kinh tế nhà nước với khu vực kinh tế tư nhân. Các chương trình đầu tư của nhà nước phải được thiết kế nhằm tăng hiệu quả của cả hai khu vực kinh tế trên. Mặt khác, để phát huy tính chủ động sáng tạo của nhà nước và của các chủ thể kinh tế trong quá trình CNH-HĐH đòi hỏi phải có sự kết hợp hài hoà nguồn lực của nhà nước và nguồn lực của các chủ thể kinh tế. ở đây thống nhất quan điểm sau: Trong khuôn khổ luật pháp, những vấn đề gì các thành phần kinh tế khác làm được và làm có hiệu quả, có tác động tích cực đến CNH-HĐH thì để cho làm. Nhà nước chỉ nắm lấy những ngành then chốt đối với CNH-HĐH. 1.2.4.3. Nhà nước tổ chức nghiêm ngặt công tác giám sát, kiểm tra. Kiểm tra giám sát là một trong những khâu bảo đảm cho sự thành công của việc thực hiện CNH-HĐH. Đó là khâu không thể thiếu được trong vai trò của nhà nước đối với quá trình CNH-HĐH cũng như trong hoạt động quản lý nhà nước. Mục đích của việc này là kiểm tra, giám sát là nắm tình hình và kết quả thực hiện một cách có hệ thống, tìm ra những ưu điểm khuyết điểm để từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm, những nguyên nhân về sự thành công thất bại trong việc tổ chức CNH-HĐH. Chính vì vậy việc kiểm tra giám sát không được sơ sài qua loa mà phải cụ thể và hệ thống. Trong cơ chế thị trường, mục đích kiểm tra giám sát đã thay đổi, đó là kiểm tra thực hiện kế hoạch chỉ tiêu, các chính sách, quy định của nhà nước về quyền hạn, nghĩa vụ, tạo điều kiện cho các chủ thể kinh tế phát triển theo đúng định hướng đã vạch ra. Việc kiểm tra, giám sát được tổ chức theo một số yêu cầu sau: Phải được tổ chức ngay từ đầu khi bước vào thực hiện, duy trì trong suốt quá trình thực hiện. Phương pháp kiểm tra một cách nghiêm ngặt và khoa học. Phải xác định rõ mục đích, nội dung, yêu cầu của việc kiểm tra, đồng thời phải có hệ thống luật pháp để kiểm tra, giám sát, khoa học đồng bộ, nhất quán. Việc kiểm tra phải tạo điều kiện thuận lợi và tạo ra sự công bằng khi huy động và sử dụng vốn. 1.3. Kinh nghiệm của các nước trong khu vực về vai trò nhà nước trong quá trình CNH-HĐH. 1.3.1. Nhà nước thay đổi chiến lược CNH-HĐH để phù hợp với điều kiện bên trong và bên ngoài. NICS lựa chọn chiến lược CNH-HĐH thay thế nhập khẩu với nội dung cơ bản là: các nước ĐPT cần đẩy mạnh việc phát triển mạnh mẽ việc sàn xuất hàng hoá, đặc biệt là hàng tiêu dùng để thay thế các hàng hoá trước đây vẫn phải nhập khẩu từ các nước phát triển. Trong giai đoạn này, NICS rất chú ý đến nguồn tích luỹ ban đầu. Và trên đà phát triển khi chiến lược thay thế nhập khẩu không còn phù hợp nữa đòi hỏi NICS lựa chọn một chiến lược mới, phát huy được lợi thế so sánh của đất nước và tận dụng các nguồn lực bên ngoài. trong hoàn cảnh mới, NICS đưa ra chiến lược hướng về xuất khẩu với nội dung: các nước thực hiện mở của nền kinh tế để thu hút vốn, công nghệ, của nước ngoài vào các ngành có lợi thế so sánh nhằm phát triển sản xuất hàng hoá phục vụ cho xuất khẩu, mở rông thị trường. Nhà nước NICS đã linh hoạt thay đổi chiến lược CNH-HĐH phù hợp với điều kiện trong và ngoài nước. Họ đã gặt hái nhiều thành công và để lại nhiều kinh nghiệm quý giá. 1.3.2. Nhà nước ban hành các chính sách hấp dẫn để thu hút vốn, phát triển nguồn nhân lực và khoa học công nghệ. Về thu hút và sử dung vốn: bằng cách tăng cường khuyến khích mọi người gửi tiết kliệm, tìm mọi cách nâng cao tích luỹ mà chủ yếu là nâng cao lãi suất tiền gửi ngân hàng. Đồng thời thực hiện mở của thu hút đầu tư nước ngoài. Về phát triển nguồn nhân lực: giáo dục của NICS gồm; đào tạo giớ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35532.doc