Tài liệu Vai trò nhà nước pháp quyền trong việc xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam: ... Ebook Vai trò nhà nước pháp quyền trong việc xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
23 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1640 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Vai trò nhà nước pháp quyền trong việc xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI GIỚI THIỆU
Trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay, vai trò của nhà nước pháp quyền càng có ý nghĩa quan trọng trong việc đẩy nhanh phát triển kinh tế, đi kèm theo đó là những tiến bộ của xã hội sẽ đạt được, đó là một nền dân chủ thực sự cho người dân trong xã hội.
Đặc biệt vai trò của nhà nước pháp quyền trong viêc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt nam còn có ý nghĩa hết sức quan trọng, nó là tiền đề để nhà nước đưa ra những chính sách, kế hoạch phát triển đất nước theo đúng con đường đã chọn- đó là con đường CNXH, tạo điều kiện để nền kinh tế của ta có bước phát triển vững chắc, xã hội được bình yên, để từ đó đưa đất nước “ sánh vai các cường quốc trên thế giới” như Bác đã nói.
Sau nhiều năm đổi mới và hoàn thiện nhà nước ta đã được củng cố và hoạt động có hiệu quả rất cao, từ đó đã đưa đất nước ta lên một tầm cao mới.
Sau khi nghiên cứu và tìm hiểu em đã chọn đề tài: “Vai trò nhà nước pháp quyền trong việc xây dựng CNXH ở Việt nam”. Nội dung bao gồm các phần sau:
Lý luận về nhà nước pháp quyền
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề nhà nước pháp quyền
Vai trò nhà nước pháp quyền trong việc xây dựng CNXH ở nước ta hiện nay
Do kiến thức còn hạn chế nên bài viết của em không thể không mắc sai lầm. Em mong thầy cô góp ý kiến để bài viết của em hoàn thiện hơn.
Em xin trân thành cảm ơn
NỘI DUNG
I. Lý luận về nhà nước pháp quyền.
1. Khái niệm về nhà nước pháp quyền
Nhà nước pháp quyền là nhà nước thể hiện thông qua 4 tiêu chí:
Phương thức tổ chức, xây dựng và vận hành bộ máy Nhà nước phải do pháp luật quy định.
Nhà nước và công dân phải thừa nhận tính tối cao của pháp luật.
Quyền lực của nhà nước bao gồm: Lập pháp, tư pháp và hành pháp
Có hệ thống pháp luật rõ ràng, rành mạch, thể hiện ý trí và nguyện vọng của nhân dân để điều chỉnh những quan hệ pháp luật trong xã hội.
2.Các quan điểm trước Mac về nhà nước pháp quyền:
a.Thời cổ đại và trung đại
Thời cổ đại, nhiều nhà tư tưởng đưa ra những ý niệm về mối quan hệ giữa người cầm quyền với pháp luật, quan hệ giữa nhà nước với pháp luật, về tình trạng lộng quyền và chuyên quyền của vua, tình trạng không có trách ngiệm quản lý của kẻ cầm quyền.
Nhưng ý niệm đó dù còn thô sơ đã đật nền móng cho các nhà tư tưởng ở các thế kỷ XVII, XVIII, XIX tiếp thu, thừa hưởng, hình thành dần dần một môn học về nhà nước pháp quyền.
Học thuyết nhà nước pháp quyền về mặt lý luận ra đời ở thời đại cách mạng tư sản thế kỷ XVII-XVIII, trong cuộc đấu tranh chống sự lộng quyền của giai cấp phong kiến và chế độ quân chủ chuyên chế . Còn Nhà nước pháp quyền hiện thực được xác định trên thực tế ở một số nước tư bản phát triển chỉ từ sau chiến tranh thế giới thứ 2. Song, tư tưởng nhà nước pháp quyền có cội nguồn từ rất xa xưa.
Trong thời kỳ cổ đại đã tồn tại quan niệm ấu trĩ, nguỵ biện cho rằng sức mạnh đẻ ra pháp luật, lẽ phải luôn thuộc về kẻ mạnh.
Tư tưởng về nhà nươc pháp quyền ra đời nhằm chống lại sự chuyên quyền độc đoán , vô chính phủ, vô pháp luật đó, tức là gắn liền với việc xác lập và phát triển nền dân chủ. Động lực ra đời của tư tưởng này lại bắt nguồn chính từ những quan niệm hồn nhiên của người xưa cho rằng sự công bằng, pháp luật là những thuộc tính vốn có của đất-trời. Bởi vậy, bạo lực, lộng quyền và hỗn loạn là cái tương phản với công bằng , pháp luật và cần phải xoá bỏ.
Để giải thích và chứng minh cho những quan điểm đó chúng ta hãy đưa ra những tên tuổi để chứng minh cho điều này,với các tên tuổi như chúng ta đều biết:
Platon
* Nhà triết học ở Hy lạp Platon (427-347 tcn) đã viết: tôi nhìn thấy sự sụp đổ nhanh chóng của nhà nước ở nơi nào mà pháp luật không có hiệu lực và nằm dưới quyền của một ai đó. Còn ở nơi nào mà pháp luật đứng trên các nhà cầm quyền và các nhà cầm quyền chỉ là những nô lệ của pháp luật thì ở đó tôi thấy có sự giải thoát của nhà nước.Ông còn có một định đề nổi tiếng: Cầm quyền ở một con người đó là chính quyền chuyên chế, bởi một bộ phận người tốt -đó là chính quyền quý tộc, bởi những công dân tự do thành thị- đó là dân chủ.
* Ông Aritot (384-322 tcn) khẳng định: Pháp luật cần thống trị trên tất cả.
* Ông Xireon (104-44 tcn) thể hiện tư tưởng về sự thống trị của pháp luật trong đời sống nhà nước bằng cách đặt câu hỏi: Nhà nước là gì nếu không phải là trật tự chung. Ông cho rằng: Nhà nước là nhà nước pháp quyền không phải nhà nước tuân thủ pháp luật của mình mà là vì về cội nguồn, về bản chất, nhà nước chính là pháp luật, pháp luật tự nhiên của nhân dân.
Các nhà tư tưởng cổ đại không chỉ chú trong tính tối cao pháp luật mà còn chú ý tới sự tổ chức hợp lý của hệ thống quyền lực nhà nước, tổ chức các cơ quan nhà nước, phân định rõ ràng thẩm quyền của các cơ quan đó.
b. Thời cận đại
Những tư tưởng vĩ đại đó tiếp tục được các nhà tư tưởng chính trị- pháp lý tư sản sau này phát triển như là một thế giới quan pháp lý mới. Đó là thế giới quan chống lại một cách kịch liệt sự chuyên quyền độc tài và cảnh sát, khẳng định mạnh mẽ những tư tưởng nhân đạo, các nguyên tắc tự do và bình đẳng của cá nhân, thừa nhân những quyền của con người không thể bị tước đoạt. Đây chính là nội dung cốt lõi của một học thuyết mới – học thuyết nhà nước pháp quyền tư sản. Học thuyết này ra đời, phát triển và ngày càng hoàn thiện qua các nhà tưởng vĩ đại thời kì này như:
* Kantơ (1724-1804) là người lập luận về mặt triết học cho lý luận về nhà nước pháp quyền tư sản. Theo ông nhà nước là tập hợp của nhiều người cùng phục tùng các đạo luật pháp quyền. Mục đích của nhà nước bảo đảm sự thắng lợi của pháp luật và bản thân nhà nước cũng phải phục tùng những yêu cầu của pháp luật đó. Theo ông: ở đâu áp dụng nguyên tắc phân quyền thì ở đấy có nhà nước pháp quyền còn nếu không thì chỉ là chuyên quyền.
* Hêghen (đầu thế kỉ XIX) cũng có những tư tưởng về nhà nước pháp quyền. Song, cấu trúc nhà nước pháp quyền của Hêghen là thần thánh hoá nhà nước, đem chủ nghĩa nhà nước chống lại chủ nghĩa cực quyền. Ông tán thành nguyên tắc phân quyền, coi đó là sự bảo đảm của tự do cộng đồng, đương nhiên chủ nghĩa nhà nước của Hêghen là duy tâm: nhà nươc là sự du ngoạn của trời trên đất.
Các nhà tư tưởng đã nêu ra những ý niệm cụ thể hơn về mối quan hệ giữa nhà nước và pháp luật. Trong mối quan hệ đó hoặc là nhà nước đứng trên pháp luật hoặc là nhà nước hoạt động tuyệt đối tuân theo pháp luật , đứng dưới pháp luật.
c. Kết luận
Pháp luật tự nhiên, thứ pháp luật chung cho mọi nhà nước cao nhất, vĩnh hằng nhất, bất biến không thay đổi đang hình thành và trở thành quan niệm gắn bó mật thiết với triết học pháp quyền– môn khoa học nghiên cứu và phản ánh chân lý của pháp luật, bản chất của pháp luật.
2. Lý luận chủ nghĩa Mac về nhà nước pháp quyền
2.1 Nguồn gốc, bản chất, chức năng của Nhà nước
a. Nguồn gốc của Nhà nước
Mác và LêNin
Lịch sử cho thấy không phải khi nào xã hội cũng có nhà nước. Trong xã hội nguyên thuỷ, do kinh tế còn thấp kém, chưa có sự phân hoá giai cấp, cho nên chưa có nhà nước, mới chỉ là các bộ lạc, thị tộc .Đến khi lực lượng sản xuất phát triển dân đến sự ra đời chế độ tư hữu và từ đó xã hội phân chia thành các giai cấp đối kháng và cuôc đấu tranh giai cấp không thể điều hoà được xuất hiện. Điều đó dẫn đến nguy cơ các giiai cấp chẳng những tiêu diệt nhau mà còn tiêu diệt cả xã hội.
Để diều đó không xảy ra, một cơ quan quyền lực đặc biệt ra đời. đó là nhà nước. Nhà nước đầu tiên trong lịch sử là nhà nước chiếm hữu nô lệ, xuất hiện trong cuộc đấu tranh không điều hoà giữa giai cấp chủ nô và giai cấp nô lệ. Tiép đó là nhà nước phong kiến , nhà nước Tư sản.
Nguyên nhân trực tiếp của sự xuất hiện nhà nước là mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà được.Lê Nin khẳng định : “nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà được. Bất cứ ở đâu, hễ lúc nào và chừng nào mà, về mặt khách quan, những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoag được, thì nhà nước xuất hiện. Và ngược lại: sự tồn tại của nhà nước chứng tỏ rằng những mâu thuẫn giai cấp là không thể điều hoà được”. Nhà nước chỉ ra đời và tồn tại trong một giai đoạn nhất định của sự phát triển xã hội và sẽ bị mất đi khi những cơ sở tồn tại của nó không còn nữa.
b. Bản chất nhà nước
Theo Mac và Anghen thì nhà nước về bản chất “ Nhà nước chẳng qua chỉ là một bộ máy của một giai cấp này dùng để trấn áp một giai cấp khác”, là bộ máy dùng đẻ duy trì sự thống trị của giai cấp này đối với giai cấp khác, là cơ quan quyền lực của một giai cấp với toàn xã hội, là công cụ chuyên chính của một giai cấp .Nhà nước chính là một bộ máy do giai cấp thống trị về kinh tế thiết lập ra nhằm hợp pháp háo và củng cố sự áp bức của chúng đối với quần chúng lao động. Giai cấp thống trị sử dụng bộ máy nhà nước để đàn áp cưỡng bức các giai cấp khác trong khuôn khổ lợi ích của giai cácp thống trị. Đó là bản chất của nhà nước theo nguyên nghĩa, tức là nhà nước của giai cấp bóc lột.
Nhà nước không thể là nhà nước điều hoà sự xung đột , mà trái lài, nó càng làm cho mâu thuẫn giai cấp ngày càng gay gắt. Theo đó thì nhà nước là bộ máy quan trọng nhất của kiến trúc thượng tầng trong xã hội có giai cấp. Tất cả những hoạt động chính trị, văn hoá, xã hội do nhà nước tiến hành, xét cho cùng, đều xuất phát từ lợi ích của giai cấpthống trị.
Vậy nhà nước là công cụ bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị.
c. Đặc trưng của nhà nước
Nhà nước quản lý dân cư trên một vùng lãnh thổ nhất định:
Khác với tổ chức bộ lạc,thị tộc nguyên thuỷ, thì ở đây quyền lực nhà nước có hiệu lực với mọi thành viên trong lãnh thổ không phân biệt huyết thống. Đặc trưng này làm xuất hiện mối quan hệ giữa từng người trong cộng đồng với nhà nước. Mỗi nhà nước được xác định bằng một biên giới quốc gia nhất định.
Nhà nước có một bộ máy quyền lực chuyên nghiệp mang tính cưỡng chê đối với mọi thành viên trong xã hội
Nhà nước của giai cấp thống trị luôn có bộ máy quyền lực chuyên nghiệp. Bộ máy quyền lực đó bao gồm các đội vũ trang đặc biệt như: quân đội, cảnh sát, nhà tù v.v và bộ máy quản lý hành chính. Nhà nước thực hiện quyền lực của mình trên cơ sở sức mạnh cưỡng bức của pháp luật và dùng các thiết chế bạo lực để pháp luật của mình được thực thi trong thực tế.
Nhà nước hình thành hệ thống thuế khoá để duy trì và tăng cường bộ máy cai trị. Nhà nước không thể tồn tại nếu không dựa vào thuế khoá, quốc trái và các hình thức bóc lột khác. Đó là những chế độ đóng góp có tính chất cưỡng bức để nuôi sống bộ máy cai trị. Hệ thống thuế khoá, cống nạp như vậy hàon toàn không có trong hình thức tổ chức xã hội thị tộc, bộ lạc. Nó chỉ tồn tại gắn liền với hình thức tổ chức nhà nước.
Bằng các hình thức khác nhau như vậy, nhà nước của giai cấp bóc lột không những là công cụ trấn áp giai cấp mà còn là công cụ thực hiện bóc lột của giai cấp bóc lột.
d. Chức năng cơ bản của nhà nước
Chức năng thống trị của giai cấp và chức năng xã hội
Chức năng thống trị chính trị của giai cấp- chức năng giai cấp: là chức năng nhà nước làm công cụ chuyên chính của một giai cấp nhằm bảo vệ sự thống trị giai cấp đó đối với toàn thể xã hội. Chức năng giai cấp của nhà nước bắt nguồn từ lý do ra đời của nhà nươc và tạo thạnh bản chất chủ yếu xủa nó.
Chức năng xã hội của nhà nước: là chức năng nhà nước thực hiện sự quản lý những hoạt động chung vì sự tồn tại của xã hội, thoả mãn một số nhu cầu chung của cộng đồng dân cư nằm dưới sự quản lý của nhà nước.
Trong hai chức năng đó thì chức năng thống trị chính trị là cơ bản nhất, chức năng xã hội phải phụ thuộc và phục vụ cho chức năng thống trị chinh trị. Giai cấp thống trị bao giờ cũng biết giới hạn chức năng xã hội trong khuôn khổ lợi ích của mình. Song, chức năng giai cấp chỉ có thể thực hiện thông qua chức năng xã hội. Khi xã hội không còn giai cấp thì những nội dung thuộc chức năng xã hội sẽ do xã hội tự đảm nhiệm, và khi đó chế độ tự quản của nhân dân được xác lập.
Chức năng đối nội và chức năng đối ngoại.
Chức năng đối nội của nhà nước: nhằm duy trì trật tự kinh tế, xã hội, chính trị và những trật tự khác hiện có trong xã hội theo lợi ích của giai cấp thống trị, được thực hiện nhờ sự cưỡng bức của bộ máy nhà nước. Ngoài ra, nhà nước còn sử dụng nhiều phương tiện khác( bộ máy thông tin, tuyên truyền , các cơ quan văn hoá, giáo dục) để xác lập, củng cố tư tưởng, ý trí của giai cấp thống trị, làm cho chúng trở thànhchính thống trong xã hội.
Chức năng đối ngoại của nhà nước: Nhằm bảo vệ biên giới lãnh thổ quốc gia và thực hiện các mối quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội với các nhà nước khác vì lợi ích của giai cấp thống trị cũng như lợi ích quốc gia, khi lợi ích quốc gia không mâu thuẫn với lợi ích của giai cấp thống trị. Ngày nay thi chức năng đối ngoại của nhà nướccó tầm quan trọng đặc biệt.
Cả hai chức năng đối nội và đối ngoại của nhà nước đều xuất phất từ lợi ích của giai cấp thống trị. Chúng là hai mặt của một thể thống nhất, chúng tấc động tới nhau và. liên quan tới nhau.
Nhà nước chuyên chính vô sản
Nhà nước chuyên chính vô sản là nhà nước kiểu mới
Quốc huy
Sự cần thiết xác lập chuyên chính vô sản để tiến tới chủ nghĩa cộng sản. Giai cấp vô sản phải tìm mọi cách thu hút lực lượng đông đảo về phía mình. Ơ đây, chuyên chính vô sản đóng vai trò là thiết chế cần thiết để đảm bảo sự lãnh đạo của giai cấp công nhân đối với nhân dân.
Trong thời kì quá độ tồn tại các giai cấp đối lập nhau, đấu tranh với nhau, do đó chuyên chính vô sản là cân thiết để đưa xã hội đi theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Chuyên chính vô sản là sự thống trị chính trị của giai cấp công nhân, do cách mạng xã hội chủ nghĩa sản sinh ra và có sứ mệnh xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Chuyên chính vô sản là phương thức, là phương tiện, là hình thức để bảo vệ sự thống trị về chính trị của giai cấp công nhân. Sau khi trở thành giai cấp cầm quyền thì giai cáp vô sản phải lắm vững công cụ chuyên chính, kiên quyết trấn áp những thế lực đi ngược lợi ích của nhân dân để bảo vệ thành quả cách mạng nhằm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Do đó tổ chức, xây dựng là chức năng cơ bản nhất của chuyên chính vô sản.
Nhà nước chuyên chính vô sản là chính quyền của nhân dân, là nhà nước của dân, do dân, vì dân, do đó,chế độ dân chủ vô sản là chế độ dân chủ theo nghĩa đầy đủ nhất của từ đó. Đó là nền dân chủ bao quát toàn diện mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, nó lấy dân chủ trên lĩnh vực kinh tế làm chủ yếu.
Nhà nước vô sản là tổ chức, thông qua Đảng của giai cấp công nhân thực hiện vai trò lãnh đạo của mình với toàn bộ xã hội. Không có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, nhà nước đó không giữ được bản chất giai cấp công nhân của mình. Nhà nước chuyên chinh vô sản đầu tiên là Công xã Pari năm 1872.
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là cột trụ của hệ thống chính trị, là công cụ thực hiện quyền lực của nhân dân, là tổ chức thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nhà nước quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật, quản lý kinh tế bằng kế hoặch, bằng chính sách, bằng những đòn bẩy kinh tế và các công cụ điều tiết khác.
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước kiểu mới, được xây dựng trên nền tảng của chủ nghĩa Mac-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là nhà nước khác về chất so với nhà nước tư sản, và các kiểu nhà nước trước đây chứa đựng thuộc tính áp bức bất bình đẳng và bất công.
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tổ chức theo nguyên tắc nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Nhà nước do nhân dân lập ra và thông qua tổng tuyển cử toàn dân, đặt dưới sự kiểm soát của nhân dân, dặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam có sự thống nhất hữu cơ chức năng giai cấp và chức năng xã hội trong tổ chức, trong hoạt động của mình. Việc thực hiện tốt các chức năng sẽ góp phần nâng cao hiệu lực bộ máy nhà nước.
II. Tư tưởng nhà Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền
1, Sự ra đời nhà nước pháp quyền
Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh- người khai sinh ra nước việt nam dân chủ cộng hoà, trực tiếp đứng đầu nhà nước trong 24 năm, đã lãnh đạo nhân dân ta nhằm thực hiện sứ mệnh lịch sử: giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước đi lên con đường ấm no hạnh phúc, sánh vai với các nước tiên tiến trên thế giới.
Có thể nói quá trình đi tìm đường cứu nước của người cũng là quá trình tìm kiếm một nhà nước mới phù hợp với đất nước việt nam, với dân tộc việtt nam, bởi lẽ trong cuộc cách mạng, vấn đề chính quyền nhà nước luôn luôn là một vấn đề cơ bản.
Sau khi tim được con đương cứu nước, người đã tổ chức, lãnh đạo nhân dân ta giành lấy tự do hạnh phúc độc lập cho tổ quốc. Ngay từ trước cách mạng tháng 8 năm 1945, sau khi Nhật đảo chính Pháp, Hồ Chí Minh đã chủ trương thành lập chính quyền cách mạng ở các căn cứ địa, ở các khu giải phóng lúc bấy giờ. Đến đầu tháng 8 năm 1945, mặc dù tình hình lúc đó hết sức khó khăn, Người đã kiên quyết triệu tập đại hội quốc dân ở Tân Trào, cử gia Uỷ Ban dân tộc giải phóng Việt Nam- một tổ chức tiền chính phủ ra đời bảo đảm tính hợp pháp của chinh quyền mới. Tháng 8 năm 1945, Hà Nội và các địa phương trong toàn quốc khởi nghĩa giành chính quyền từ tay phát xít Nhật. Trước khi quân đội Đồng Minh đổ bộ vào miền Nam, Hồ Chí Minh đã đọc bản tuyên ngôn độc lập ngày 2-9-1945, tại quảng trường Ba Đình để tuyên bố với toàn thế giới và quốc dân đồng bào khai sinh của nước việt nam mới- nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà.
Chính phủ lâm thời đã ra mắt trước quốc dân Việt Nam và thế giới. Tuyên ngôn độc lập là văn kiện chính trị đặc biệt, khẳng định độc lập tư do và kiên quyết bảo vệ quyền tự do và độc lập đó.
Nước việt nam dân chủ cộng hoà ra đời là hợp hiến, hợp pháp. Chính phủ lâm thời là hợp hiến, hợp công lý.
Trong phiên họp đầu tiên của chính phủ. Hồ Chí Minh đề ra 6 nhiêm vụ cấp bách, trong đó nhiệm vụ thứ 3 là: “phải có một hiến pháp dân chủ” và đề nghị sớm tổ chức tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu. Đó là việc tiếp tục xây dựng một nhà nước pháp quyền, một nhà nước dân chủ, hợp pháp, một nhà nước thực sự đại diện cho nhân dân, do toàn dân bầu cử ra và quản lý xã hội bằng pháp luật. Cuộc tổng tuyển cử đầu tiên của nươc việt nam dân chủ cộng hoà được thực hiện ngày 6 tháng 1 năm 1946 và đã bầu ra quốc hội đầu tiên của nước ta. Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới việc xây dựng hiến pháp và pháp luật, khẳng định pháp luật của nước ta là ý chung của nhân dân, của dân tộc Việt Nam. Người yêu cầu các cơ quan nhà nước , cán bộ viên chức nhà nước từ trung ương đến địa phương phải gương mẫu chấp hành pháp luật của đảng cầm quyền cũng phải hoạt động trong khuôn khổ của hiến pháp và pháp luật. Người rất coi trọng việc đưa hiến pháp và pháp luật vào thực hiện có hiệu quả trong cuộc sống.
Trong tư tưởng của người luôn chứa những tư tưởng hết sức có giá trị. Trong tư tưởngtrị nước của Hồ Chí Minh có sự kết hợp nhuần nhuẫn giữa “pháp trị”và “đức trị”.Người nói: “Nhà nước phải vừa giáo dục và sử dụng pháp luật để cải tạo họ trở nên lương thiện”. Xây dựng và củng cố nhà nước pháp quyền, yêu cầu mọi người sống và làm việc tuân thủ theo pháp luật là nội dung chủ đạo của tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước. Bác nói: “Nhà nước của ta là nhà nước của dân”, “Bao nhiêu quyền hạn đều là của dân”, “Vận mệnh quốc gia trong tay nhân dân”. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền đã được phát triển trong quá trình hoạt động cách mạng của người. Người đã dành không ít tâm trí, nghị lực để xây dựng một nhà nước kiểu mới _ nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân.
2, Những nội dung chính trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ rõ một số vấn đề cần cho việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam:
Giải quyết mối quan hệ giữa công dân - Nhà Nước là mối quan hệ chính trị cơ bản để xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân.
Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN của dân, đảm bảo mọi lợi ích và quyền hành thuộc về nhân dân.
Do dân và vì dân phải dựa trên truyền thống dân tộc, đặc điểm dân tộc, nhất là truyền thống chính trị củađất nước.
Xây dựng quyền lực Nhà Nước của các công dân trên nền tảng dựa trên hệ thống pháp luật ngày càng hoàn thiện.
Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam phải phù hợp với những giá trị phổ biến tiến bộ của nhân loại.
Nội dung đầu tiên cũng là nội dung cơ bản nhất về nhà nước pháp quyền trong tư tưởng Hồ Chí Minh, là thực hiệ quyền dân chủ của nhân dân. Dân bầu ra chính quyền Nhà Nước ở Trung ương và chính quuyền các cấp.
Ngay sau khi thành lập nước.Người yêu cầu tổ chức “ngày càng sớm hay cuộc tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu”. Người nhấn mạnh: “Tổng tuyển cử là một dịp cho toàn thể quốc dân tự lựa chọn những người có tài , có đức để gánh vác công việc nước nhà…”.Chính quyền là vấn đề cốt tử của cách mạng , mà chính sách bầu cử, ứng cử là để cho toàn dângiải quết vấn đề dó,tính lập hiến trong việc hình thành bộ máy nhà nước : tự do hay hạn chế ; bình đẳng hay phân biệt; giả hay thật; áp đặt hay tự do lựa chọn; cũng là một chuẩn mực để xem xét bộ máy chính quyền thức sự của dân hay không. Đồng thời cũng xuất phát từ nhu cầu cấp bách của tình hình phải chuyển từ chính phủ lâm thời chính thức để đối phó với âm mưu của kẻ thù định xoá nền độp lập và chính quyền non trẻ của lúc ta lúc bấy giờ. Đó thực sự là một ý tưởng tuyệt vời của Hồ Chí Minh về một nhà nước của dân.
Nhận thức rõ vai trò to lớn của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ tổ quốc, Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng nhà nước do dân. Điều đó có nghĩa là dân không chỉ lập ra nhà nước mà còn phải tham gia vào công việc quản lý ,ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ …”. “Chính quyền từ xã đến chính phủ Trung ươngdo dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng ở nơi dân.”.chính vì vậy, nhà nước do dân xây dựng và làm chủ, đặt dưới sự kiểm tra, kiểm soát của nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh còn là nhà nước tin dân, mọi lực lượng đều ở nơi dân, do dân lắm mọi quyền hành. Nhà nước tin dân, dân tin ở sự lãnh đạo của nhà nước thì việc gì cũng làm được.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước vì dân là nhà nước phục vụ lợi ích của nhân dân, đảm bảo quyền dân chủ rộng rãi và có hiệu quả trong cuộc sống xã hội. Đây là tư tưởng nhất quán, nổi bật trong đời hoạt động của Người trong những năm bôn ba ở nước ngoài đến khi trở thành lãnh tụ tối cao của dân tộc, của nhà nước Việt Nam. Bằng kinh ngiệm thực tế của mình Người đã nhận ra thực chất của đất nước ta, qua đó Bác đã tìm ra những con đường đưa việt nam ta qua khó khăn và trở lên phát triển.
Trong cuộc họp đầu tiên của Uỷ ban nghiên cứu kế hoặch kiến quốc sau tháng 8 năm 1945, Người nêu rõ mục tiêu của Nhà Nước ta là:
“Làm cho dân ăn
làm cho dân có mặc
làm cho dân có chỗ ở
làm cho dân có học hành”
Người còn nói: “chúng ta hy sinh phấn đấu để giành độc lập. Chúng ta đã tranh được rồi…. Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm được gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, độc lập khi mà dân được ấm no, mặc đủ.”
Để có được một nhà nước thực sự của dân, do dân và vì dân, Hồ Chí Minh luôn luôn nhắc nhở phải xây dựng một bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh, đấu tranh với những bệnh tật như tham nhũng, quan liêu, hách dịch, cửa quyền, vi pham quyền và lợi ích của nhân dân lao động. Nhà nước vì dân còn là Nhà nước có trách nhiệm trước dân . Người nói: “Chính sách của Đảng và Chính Phủ phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân, nếu dân đói là Đẳng và Chính Phủ có lỗi, nếu dân rét là Đảng và Chính Phủ có lỗi, nếu dân dốt là Đảng và Chính Phủ có lỗi.”
Tư tưởng của Người được diễn đạt trong một mệnh đề hết sức giản gị, tự nhiên: “Dân là gốc nước” đúng như mấy câu thơ của người:
“Gốc có vững thì cây mới bền
Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”
Ngày nay, chúng ta đang xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa và lấy tư tưởng về nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân của Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tuởng cho chúng ta trong công cuộc xây dựng đó.
III. Vai trò nhà nước pháp quyền
Cơ cấu bộ máy nhà nước pháp quyền của Việt nam
Cơ quan nhà nước là các bộ phận hợp thành của bộ máy nhà nước. Mỗi cơ quan nhà nước có một vị trí pháp lý được xác định trong bộ máy nhà nước, có một phạm vi thẩm quuyền được hiến pháp và pháp luật quy định, có quy chế tổ chức và hoạt động riêng. Theo hiến pháp năm 1992, cơ quan nhà nước ta bao gồm Quốc hội, Chủ tịch nước,Chính phủ, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân, toà án nhân dân và Viện kiểm soát nhân dân.
Quốc hội
Là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, Quốc hội thống nhất tập trung toàn bộ quyền lực nhà nước: quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp. Do đó đưa ra các kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội như: quyết định chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia; quy định các nguyên tắc tổ chức và hoật động của bộ máy nhà nước; bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm các chức vụ cao cấp của nhà nước; quyết định vấn đề chiến tranh và hoà bình; quyết định các chính sách đối ngoại của nhà nước và nhiều vấn đề quan trong khác.
Là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp. Đó là quyền thông qua Hiến Pháp, thông qua việc sửa đổi, bổ sung hiến pháp, thông qua luật và sửa đổi, bổ sung luật. Quốc hội xem xét, thông qua các đạo luật tại một hoặc nhiều kì họp Quốc hội.
Quốc hội thực hiện giám sát tối cao với toàn bộ hoạt động của nhà nước. Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao của mình tại kì họp Quốc hội trên cơ sở hoạt động giám sát của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng nhân dân, các Uỷ ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và Quốc hội.
Chủ tịch nước
Chủ tịch nước là người đứng đầu nhà nước, thay mặt nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam về đối nội và đối ngoại. Chủ tịch nước có quyền công bố Hiến pháp, Luật, Pháp lệnh, thốnglĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân và giữ chức vụ Chủ tịch hội đồng quốc phòng và an ninh; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các chức vụ cao cấp của Nhà nước…Có quyền cử, triệu hồi đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt nam, tiếp nhận đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước ngoài, nhân danh nhà nước kí kết Điều ước quốc tế, quyết định cho nhập quốc tịch Việt nam…
Chủ tịch nước đề nghị danh sách thành viên hội đồng quốc phòng và an ninh trình quốc hội phê chuẩn. Hội đồng quốc phòng và an ninh có nhiệm vụ động viên mọi lực lượng và khả năng của nhà nước để bảo vệ tổ quốc.Trong trường hợp có chiến tranh, Quốc hội có thể giao cho Hội đồng quốc phòng và an ninh những thẩm quyền đặc biệt.
Chính phủ
Chính phủ là cơ quan chấp hành của quốc hội, cơ quan hành chính cao nhất của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam. Là cơ quan chấp hành của Quốc hội, Chính phủ do Quốc hội thành lập, chịu trách nhiệm trước quốc hội và báo cáo công tác với Quốc hội, Uỷ ban thường vụ quốc hội, chủ tịch nước; tổ chức thực hiện hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc Hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.
Là cơ quan hành chính cao nhất, chính phủ thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của nhà nước; bảo đảm hiệu lực bộ máy nhà nước từ Trung ương tới cơ sở; bảo đảm việc tôn trọng và chấp hành Hiiến pháp và pháp luật; phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm ổn định và nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân.
Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân
Là chính quyền nhà nước ở địa phương, được tổ chức ở các đơn vị hành chính sau đây: tỉnh, thanh phố trực thuộc Trung ương;huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh,xã, phường, thị trấn…
Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, quyết định những chủ trương, biện pháp quan trọng để phát huy tiềm năng của địa phương, xây dựng và phát triển địa phương về kinh tế- xã hội củng cố quốc phòng an ninh,không ngừng cải thiện đời sống nhân dân địa phương, làm tròn nghĩa vụcủa địa phương đối với cả nước.
Uỷ ban nhân dân là cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, Uỷ ban nhân dân chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân cùng cấp và cơ quan nhà nước cấp trên, đối với mọi hoạt động của mình nhằm đảm bảo thực hiện chủ trương, biện pháp phát triển kinh tế- xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh và thực hiện các chính sách khác trên địa bàn.
Toà án nhân dân và Viện kiểm soát nhân dân
Toà án nhân dân và viện kiểm sát nhân dân là công cụ chủ yếu trong việc bảo vệ pháp luật của Nhà nước và bảo vệ các quyền lợi và lợi ích của nhân dân.
Toà án nhân dân là cơ quan xét sử của Nhà nước ta. “Toà án xét sử các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính và giải quyết những việc khác thheo quy định cảu pháp luật”.Toà án nhân dân bao gồm: toà án nhân dân tối cao, toà án nhân dân cấp tỉnh, toà án nhân dân cấp huyện.
Viện kiểm soát nhấn dân là cơ quan nhà nước “thực hành quyền công tố và kiểm sát cac hoạt động tư pháp” trong phạm vi trách nhiệm do luật định nhằm “ góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”. Viện kiểm sát nhân dân gồm: Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm soát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm soát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm soát nhân dân cấp huyện.
2. Vai trò nhà nước pháp quyền trong việc xây dựng CNXH ở Việt nam
Phiên họp quốc hội nước
Cộng Hoà Xã Hội Chủ nghĩa Việt nam
Trên cơ sở tổng kết thực tiễn 45 năm xây dựng nhà nước và cỏch mạng Việt Nam; từ kết quả vận hành của bộ máy nhà nước theo Hiến phỏp 1980; tham khảo cú chọn lọc kinh nghiệm của thế giới, Đại hội VI (12/1986), đặc biệt là Đại hội VII (6-1996) đó xỏc định nhiệm vụ cấp bỏch trong xõy dựng, củng cố Nhà nước là sửa đổi Hiến phỏp, tạo cơ sở pháp lý để tiếp tục cải cỏch bộ mỏy nhà nuớc.Tại kỳ họp thứ 11 (từ ngày 24-3 đến 15-4-1992), Quốc hội khóa VIII đó thụng qua Hiến phỏp mới - Hiến phỏp 1992, cú hiệu lực từ ngày 15-4-1992. Hiến pháp 1992 đó kế thừa những Hiến pháp trước đó, nhất là Hiến phỏp 1946 của Nước Việt Nam dõn chủ cộng hũa và nước Cộng hũa xó hội chủ nghĩa Việt Nam. Hiến phỏp mới đó cú những phỏt triển mới trờn nhiều nội dung, phự hợp với thực tiễn của cụng cuộc đổi mới.
Cú thể thấy, bước phỏt triển rừ nột nhất của Hiến phỏp 1992 (sửa đổi) chớnh là sự khẳng định tiếp tục “xõy dựng Nhà nước phỏp quyền XHCN dưới sự lónh đạo của Đảng”. Thực tiễn đổi mới trong những năm qua đó khẳng định yờu cầu xõy dựng Nhà nước phỏp quyền XHCN dưới sự lónh đạo của Đảng như một xu thế tất yếu, mang tớnh quy luật của quỏ trỡnh đi lên CNXH trong điều kiện phỏt triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Nói cách khác, Nhà nước phỏp quyền Việt Nam là cụng cụ cơ bản, chủ yếu để xõy dựng CNXH. Cơ sở kinh tế của Nhà nước phỏp quyền Việt Nam là nền kinh tế thị trường XHCN. Cơ sở chớnh trị là nền dõn chủ XHCN. Cơ sở xó hội của Nhà nước phỏp quyền Việt Nam XHCN là khối đại đoàn kết toàn dõn tộc ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- T0474.doc