Tài liệu Vai trò Nhà nước đối với giảm nghèo nhanh và bền vững ở các huyện miền núi vùng cao (ví dụ thực tế ở huyện miền núi vùng cao biên giới Quế Phong, tỉnh Nghệ An): ... Ebook Vai trò Nhà nước đối với giảm nghèo nhanh và bền vững ở các huyện miền núi vùng cao (ví dụ thực tế ở huyện miền núi vùng cao biên giới Quế Phong, tỉnh Nghệ An)
110 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1474 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Vai trò Nhà nước đối với giảm nghèo nhanh và bền vững ở các huyện miền núi vùng cao (ví dụ thực tế ở huyện miền núi vùng cao biên giới Quế Phong, tỉnh Nghệ An), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
------------------
TRẦN QUỐC CHUNG
VAI TRÒ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI GIẢM NGHÈO NHANH VÀ BỀN VỮNG Ở CÁC HUYỆN MIỀN NÚI VÙNG CAO
(LẤY VÍ DỤ Ở HUYỆN QUẾ PHONG, TỈNH NGHỆ AN)
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ
Hà Nội, năm 2010
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
------------------
TRẦN QUỐC CHUNG
VAI TRÒ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI GIẢM NGHÈO NHANH VÀ BỀN VỮNG Ở CÁC HUYỆN MIỀN NÚI VÙNG CAO
(LẤY VÍ DỤ Ở HUYỆN QUẾ PHONG, TỈNH NGHỆ AN)
CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN AN NINH
Hà Nội, năm 2010
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
ĐCS: Đảng Cộng sản
XHCN: Xã hội chủ nghĩa
CNXH: Chủ nghĩa xã hội
XĐGN: Xoá đói giảm nghèo
BCHTW: Ban chấp hành Trung ương
HĐND, UBND: Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân
QĐ: Quyết định
NQ: Nghị quyết
WB: Ngân hàng thế giới
WTO: Tổ chức thương mại thế giới
GDP: Tổng sản phẩm quốc nội
DNNN: Doanh nghiệp Nhà nước
HTX: Hợp tác xã
ĐCĐC: Định canh định cư
NN và PTNT: Nông nghiệp và phát triển nông thôn
LĐ, TB và XH: Lao động, Thương binh và xã hội
BHXH: Bảo hiểm xã hội
CNH: Công nghiệp hoá
HĐH: Hiện đại hoá
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
------------------
TRẦN QUỐC CHUNG
VAI TRÒ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI GIẢM NGHÈO NHANH VÀ BỀN VỮNG Ở CÁC HUYỆN MIỀN NÚI VÙNG CAO
(LẤY VÍ DỤ Ở HUYỆN QUẾ PHONG, TỈNH NGHỆ AN)
CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ
TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Hà Nội, năm 2010
TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN VĂN
1. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Sự nghiệp đổi mới đã đem lại nhiều thay đổi mọi mặt đời sống kinh tế xã hội của đất nước, theo đó tỷ lệ đói nghèo ngày càng giảm nhanh, Chính phủ Việt Nam đã có nhiều chương trình XĐGN đạt kết quả tốt, giảm nghèo bền vững đang được thực hiện có hiệu quả. Tuy nhiên, tỷ lệ đói nghèo ở miền núi vùng cao còn khá cao, do vậy muốn giảm nghèo nhanh và bền vững cho địa bàn này thì vai trò Nhà nước trong công cuộc này cần phải được tăng cường hơn nữa. Nhằm góp phần làm sáng tỏ những vấn đề nêu trên, bản thân lựa chọn đề tài luận văn là “Vai trò Nhà nước đối với giảm nghèo nhanh và bền vững ở các huyện miền núi vùng cao”. Luận văn lấy ví dụ thực tế ở huyện miền núi vùng cao biên giới Quế Phong, tỉnh Nghệ An là một trong 61 huyện nghèo nhất trong cả nước được Chính phủ quyết định hỗ trợ đầu tư để giảm nghèo nhanh và bền vững tại Nghị Quyết 30a/2008/NQ-CP.
Về mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, luận văn nghiên cứu các vấn đề lý luận về giảm nghèo nhanh và bền vững, đề xuất một số giải pháp tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước đối với giảm nghèo nhanh và bền vững ở các huyện miền núi vùng cao.
Về cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu, luận văn lấy chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử Mác - Lê nin làm cơ sở phương pháp luận, dựa vào các qui luật kinh tế và chính sách của Đảng và Nhà nước làm cơ sở phân tích, đánh giá và đề xuất giải pháp, sử dụng phương pháp nghiên cứu kinh tế: trừu tượng hoá khoa học và phân tích hệ thống, phương pháp thống kê, định lượng,...
2. Những kết quả đạt được và phương pháp nghiên cứu trong luận văn:
Thứ nhất, luận văn đã nghiên cứu và trình bày cơ sở lý luận vai trò Nhà nước đối với giảm nghèo nhanh và bền vững ở các huyện miền núi vùng cao:
Vấn đề này bắt nguồn từ tình hình đói nghèo và vai trò Nhà nước chung. Khái niệm đói nghèo mang tính tương đối, được so sánh theo không gian và thời gian. Nghèo tuyệt đối là sống ở ranh giới ngoài cùng của tồn tại. Nghèo tương đối là việc không được cung cấp đầy đủ các tiềm lực vật chất và phi vật chất cho những người so với sự sung túc của xã hội đó.
Việt Nam đã nhiều lần thay đổi chuẩn nghèo để phù hợp với xu thế phát triển, gần nhất là Quyết định số 170/2005/QĐ-TTg ban hành chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2006-2010: hộ nghèo ở nông thôn có mức thu nhập bình quân từ 200.000 đồng và hộ thành thị là từ 260.000 đồng/người/tháng trở xuống.
Giảm nghèo nhanh là đẩy nhanh tốc độ để rút ngắn thời gian xoá nghèo cho các hộ nghèo trong lộ trình, giảm nghèo bền vững là kiên quyết không để tái nghèo, muốn vậy phải duy trì tiếp tục các nguồn đầu tư và các biện pháp chỉ đạo thực hiện triển khai liên tục để không cho đói nghèo quay lại. Giảm nghèo nhanh và bền vững phải dựa trên cơ sở các nguồn lực đầu tư được hỗ trợ, được tăng cường, người nghèo và cộng đồng nghèo tiếp cận được các cơ hội phát triển
Từ những cơ sở lý luận chung, luận văn trình bày vai trò Nhà nước đối với giảm nghèo nhanh và bền vững ở các huyện miền núi vùng cao với một số nội dung cơ bản là:
Trước hết, cần xác định được quan điểm, mục tiêu tổng quát đến 2020, xây dựng nhiệm vụ giảm nghèo nhanh và bền vững đến năm 2015 với yêu cầu: Giảm nhanh tỷ lệ nghèo nhưng phải bền vững không để tái nghèo, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân. Chính phủ đưa ra các mục tiêu cụ thể và xây dựng các chính sách, quy định các biện pháp chỉ đạo điều hành cho chương trình thực thi hiệu quả.
Tiếp theo, là tạo môi trường tăng trưởng, cải cách hành chính, tư pháp, kêu gọi đầu tư, hỗ trợ hộ nghèo. Nhà nước tạo môi trường pháp lý để SX kinh doanh bình đẳng, kêu gọi đầu tư, xây dựng hạ tầng. Xây dựng một nền hành chính Nhà nước và đội ngũ cán bộ công chức trong sạch, có năng lực, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, từng bước thu hẹp khoảng cách về đời sống vật chất và tinh thần giữa các nhóm dân tộc. Đề cao vai trò đối tượng được giảm nghèo, tuyên tryền vận động thuyết phục người nghèo phải nỗ lực vươn lên, đây được coi là động lực chính cho quá trình giảm nghèo nhanh và bền vững thành công.
Cuối cùng, xác định vai trò kiểm tra, giám sát, đánh giá, điều chỉnh thực hiện chương trình, nhiệm vụ. Nhà nước thực hiện vai trò kiểm tra, giám sát đánh giá, qua thực hiện bộc lộ những bất cập sẽ được tổng kết, xử lý thích hợp, có những điều chỉnh kịp thời để bổ sung cho giai đoạn sau.
Từ thực tế kết quả giảm nghèo nhanh và bền vững thực hiện ở một số quốc gia và một số địa phương trong nước, luận văn rút ra kinh nghiệm về vai trò Nhà nước đối với giảm nghèo nhanh và bền vững ở các huyện miền núi vùng cao là: Nhà nước lấy người nghèo làm trung tâm để hoạch định chính sách, để tác động, vận động và đầu tư, nâng cao trình độ dân trí; Cần nâng cao năng lực và trách nhiệm đội ngũ cán bộ làm công tác XĐGN của các ban ngành địa phương cơ sở. Nhà nước cần đầu tư đồng bộ, định mức cụ thể hơn, luôn luôn đặt yêu cầu chống tái nghèo làm trung tâm của hoạch định chính sách giảm nghèo nhanh và bền vững. Nhà nước phải từ chính sách chung được ban hành, cho địa phương có sự điều chỉnh phù hợp. Cần có thêm các chính sách đặc thù cho từng địa phương.
Thứ hai, Luận văn lấy thực tế tình hình ở huyện miền núi vùng cao Quế Phong, tỉnh Nghệ An, một trong 61 huyện nghèo nhất được Chính phủ đưa vào thực hiện chương trình giảm nghèo nhanh và bền vững theo Nghị quyết 30a/2008/NĐ-CP, để khảo sát thực trạng phát triển kinh tế xã hội và tình hình đói nghèo. Luận văn đã khảo sát toàn bộ thực trạng tình tự nhiên, kinh tế ,xã hội, tình hình phát triển mọi mặt của huyện, tình đói nghèo, hộ nghèo và đi đến nhận định Quế Phong là huyện vùng núi cao, biên giới của tỉnh Nghệ An đang thực sự khó khăn mọi mặt. Diện tích tự nhiên lớn gồm 189.500 ha nhưng chủ yếu là đất lâm nghiệp. Huyện có 63.250 người chủ yếu là dân tộc thiểu số. Địa hình hiểm trở khó khăn cho phát triển mọi mặt. Tỷ lệ hộ đói nghèo toàn huyện là 50,59%. Cơ sở hạ tầng toàn huyện còn nghèo nàn, ăn ở chưa hợp vệ sinh,...
Về thực trạng vai trò Nhà nước đối với giảm nghèo nhanh và bền vững trên địa bàn huyện Quế Phong thời gian qua, luận văn đã nghiên cứu các kết quả đạt được cho thấy vai trò Nhà nước cấp huyện đã chủ động xây dựng kế hoạch 5 năm, 10 năm và quy hoạch phát triển KT – XH đến năm 2020, đặc biệt đã chú ý đưa mục tiêu xoá đói, giảm nghèo nhanh và bền vững thành nhiệm vụ trọng tâm cho hoạt động chỉ đạo điều hành của các cấp các ngành. Huyện đã chỉ đạo thực hiện các chương trình XĐGN có hiệu quả.
Tuy nhiên luận văn cũng chỉ ra những tồn tại hạn chế về vai trò Nhà nước đối với giảm nghèo nhanh và bền vững thời gian qua. Trước hết là việc chỉ đạo bố trí đầu tư còn dàn trải, việc tổng kết đánh giá chưa làm tốt. Vai trò Nhà nước địa phương cơ sở bộc lộ nhiều bất cập, không chỉ đạo thực hiện đúng quy trình, quy định; thiếu kiểm tra uốn nắn, lãng phí vốn đầu tư, nhiều tiêu cực phát sinh trong quá trình xây dựng ở vùng cao. Tiếp đến là đội ngũ cán bộ các cấp chính quyền trong bộ máy nhà nước cấp huyện, xã vùng cao yếu về năng lực và có nơi sút kém về phẩm chất, thiếu tinh thần trách nhiệm. Bộ máy quản lý và cán bộ còn quá cồng kềnh nhưng hiệu lực hoạt động không cao
Thứ ba, từ nghiên cứu thực tế tình hình của huyện Quế Phong mang tính đại diện cho các huyện miền núi vùng cao, luận văn đề xuất định hướng và một số giải pháp nâng cao vai trò Nhà nước đối với giảm nghèo nhanh và bền vững ở các huyện miền núi vùng cao. Định hướng là Nhà nước tổng hợp mọi nguồn lực, huy động mọi nguồn đầu tư và tăng cường các biện pháp chỉ đạo điều hành. Mục tiêu tổng quát là tạo sự chuyển biến nhanh hơn để đời sống vật chất, tinh thần của người nghèo ở các huyện miền núi vùng cao đến năm 2020 ngang bằng các huyện khác trong khu vực.
Luận văn đưa ra một số nhóm giải pháp nâng cao vai trò Nhà nước đối với giảm nghèo nhanh và bền vững ở các huyện miền núi vùng cao, bao gồm:
Một là, hoàn thiện cơ chế chính sách XĐGN với nhiệm vụ tập trung đầu tư mọi nguồn lực, cơ chế chính sách phải kèm theo nguồn lực đầu tư đủ đáp ứng. Xây dựng các chương trình dự án phát triển kinh tế, hạ tầng, phát triển sản xuất, phát triển văn hoá, khôi phục và phục hồi bản sắc văn hoá dân tộc,... để vận dụng tối đa lợi thế chuyên ngành phục vụ chuyên sâu hơn cho các huyện miền núi vùng cao.
Hai là, hoàn chỉnh các loại Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của huyện để thực hiện chương trình đạt hiệu quả cao. Kiên trì thực hiện theo quy hoạch, lưu ý thực hiện ngay quy hoạch chi tiết phát triển cây con nông nghiệp.
Ba là, tăng cường hơn nữa công tác “xã hội hoá đầu tư” cho XĐGN. Vai trò Nhà nước chủ trì tổ chức vận động mọi nhà đầu tư cho XĐGN.
Bốn là, Xây dựng và đào tạo đội ngũ cán bộ địa phương cơ sở vững vàng về phẩm chất chính trị, có trình độ quản lý, chuyên môn kỹ thuật. Có quy định khen thưởng và xử phạt rõ ràng nghiêm minh.
Năm là, tăng cường kiểm tra, giám sát và xử lý nghiêm vi phạm theo quy định của luật pháp. Chấn chỉnh nhanh việc quản lý đầu tư và siết chặt kỷ cương, có những chế tài xử phạt nghiêm khắc trong vi phạm đầu tư. Ban hành các quy định về đầu tư, đấu thầu, cơ chế tài chính phù hợp với đặc thù và năng lực tổ chức thực hiện ở các huyện nghèo.
3. Những điểm mới và hạn chế của luận văn:
Luận văn có điểm mới là luận văn đầu tiên đề cập đến vấn đề vai trò Nhà nước trong việc giảm nghèo nhanh và bền vững ở các huyện miền núi vùng cao. Luận văn đã khái quát hoá một số vấn đề lý luận và đề xuất một số giải pháp nâng cao vai trò Nhà nước cho một lĩnh vực đặc thù là các huyện miền núi vùng cao.
Hạn chế của luận văn là do điều kiện công tác nên không thể tìm hiểu hết tình hình tất cả các huyện miền núi vùng cao của đất nước để có sự đánh giá toàn diện hơn. Do khả năng bản thân có hạn nên việc tổng hợp, đánh giá, phân tích và đề xuất chưa thật sâu sắc và đầy đủ, chắc chắn luận văn còn nhiều khiếm khuyết.
Xóa đói giảm nghèo là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước. Vai trò Nhà nước đã được khẳng định đối với giảm nghèo nhanh và bền vững ở các huyện miền núi vùng cao. Tuy nhiên các huyện miền núi vùng cao đang còn rất nhiều khó khăn và tỷ lệ hộ nghèo vẫn còn cao nhất nước. Do vậy, vai trò Nhà nước cần tăng cường hơn nữa, kiên trì với mục tiêu đã định để chỉ đạo, giúp đỡ, khâu nối, phối hợp mọi nguồn lực đầu tư để đạt kết quả giảm nghèo nhanh và bền vững đã đề ra.
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Đất nước Việt Nam đã thực hiện công cuộc đổi mới phát triển kinh tế xã hội toàn diện được hơn 20 năm. Sự nghiệp đổi mới đã đem lại nhiều thay đổi mọi mặt đời sống kinh tế xã hội của đất nước. Trong sự thay đổi toàn diện đó đáng chú ý nhất là tỷ lệ đói nghèo ngày càng giảm nhanh, giảm nghèo bền vững đang được Nhà nước đầu tư lớn, chỉ đạo quyết liệt và các địa phương thực hiện có hiệu quả, công tác xoá đói giảm nghèo nhanh và bền vững thời gian qua đã thu được nhiều kết quả tốt đẹp.
Đảng và Nhà nước ta luôn coi công tác xoá đói giảm nghèo là cực kỳ quan trọng phải thực hiện triệt để. Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã coi đói nghèo là một thứ giặc trong ba giặc nguy hiểm nhất của buổi đầu giành được độc lập (giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm) và cần phải ưu tiên tiêu diệt. Thấm nhuần tư tưởng của Người, Đảng ta đã tập trung mọi nguồn lực để thực hiện công cuộc xoá đói giảm nghèo nhằm nhanh chóng đưa nước ta ra khỏi tình trạng nghèo nàn lạc hậu, kém phát triển. Việt Nam đã giành nhiều chương trình ưu tiên cho thúc đẩy phát triển kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh đi đôi với xoá đói giảm nghèo tích cực và bền vững. Do vậy trong 10 năm trở lại đây Việt Nam đã được những kết quả quan trong trong tăng trưởng kinh tế và xoá đói giảm nghèo. Đời sống nhân dân từng bước được cải thiện. Nhờ thực hiện các chính sách có hiệu quả cùng cơ chế phù hợp, công tác xoá đói giảm nghèo của nước ta đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Trong nhiều năm qua, xoá đói giảm nghèo luôn là vấn đề được Đảng và Nhà nước quan tâm nhằm thực hiện mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh". Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách xoá đói giảm nghèo như xây dựng chính sách phát triển toàn diện kinh tế xã hội nông thôn; thực hiện chiến lược phát triển cho từng vùng, miền; đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn; ưu tiên tín dụng các nguồn vốn cho xoá đói giảm nghèo, thiết lập nguồn vốn vay cho người nghèo...
Nhờ có sự quan tâm đầu tư trên, tỷ lệ đói nghèo của Việt Nam đã giảm qua các năm, bình quân mỗi năm giảm từ 2 đến 3%. Để giảm nhanh tỷ lệ đói nghèo, tháng 7/1998, Chính phủ chính thức phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia về xoá đói giảm nghèo (Chương trình 133) cho giai đoạn 1998-2000, phê duyệt chương trình 135 hỗ trợ phát triển 1715 xã nghèo đặc biệt khó khăn ở miền núi, vùng sâu, vùng xa. Đây là hai chương trình lớn tác động mạnh mẽ tới công cuộc xoá đói giảm nghèo. Kết quả thực hiện, chương trình 133 và 135 đã tạo ra những kết quả tích cực: Cả nước đã thực hiện định canh định cư, khai hoang mở rộng diện tích trồng lúa nước, trồng rừng mới, cây công nghiệp và ăn quả. Về tín dụng, đã có hàng ngàn lượt hộ được vay vốn để phát triển sản xuất. Bên cạnh đó, hàng loạt công trình cơ sở hạ tầng nông thôn đặc biệt ở các xã vùng sâu vùng xa phục vụ sản xuất và đời sống được xây dựng, nhiều chương trình khuyến nông-lâm-ngư, giúp đỡ người nghèo làm ăn kinh tế được thực hiện.
Tuy nhiên, tỷ lệ đói nghèo của khu vực nông thôn Việt Nam, đặc biệt là ở miền núi vùng cao, vùng sâu vùng xa còn khá cao. Đời sống đại bộ phận nhân dân nông nghiệp và nông thôn còn thấp. Sự bất cập và phân hoá giàu nghèo đang có xu hướng diễn ra và tăng nhanh trong cộng đồng dân cư. Cơ chế thị trường có những tác động không nhỏ tới sự công bằng và bình đẳng trong xã hội. Đời sống nhân dân miền núi, đặc biệt là miền núi vùng cao đang còn gặp rất nhiều khó khăn, tỷ lệ đói nghèo còn chiếm tỷ lệ rất cao. Cả nước đền nay còn có 61 huyện miền núi vùng cao vùng sâu và vùng xa có tỷ lệ hộ nghèo chiếm từ 50% trở lên. Ở các huyện nghèo này mọi cơ sở vật chất và điều kiện phát triển đều thiếu thốn, người dân chưa được tiếp cận nhiều với sự đổi mới của đất nước, cơ chế chính sách áp dụng và tạo điều kiện cho sự phát triển xoá đói giảm nghèo ở đây còn hạn chế. Đặc biệt vai trò Nhà nước trong hỗ trợ đầu tư, tổ chức chỉ đạo, điều hành phát triển kinh tế xã hội xoá đói giảm nghèo nhanh và bền vững cần được nâng cao một bước để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Hơn nữa trong tình hình hiện nay do xác định được nhu cầu bức xúc cần đẩy nhanh công cuộc giảm nghèo nhanh và bền vững, Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam vừa ban hành Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP ngày 27/12/2008 về chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo. Từ đó, càng cần được tăng cường vai trò Nhà nước để thực hiện công cuộc giảm nghèo nhanh và bền vững. Nhằm góp phần làm sáng tỏ những vấn đề nêu trên, bản thân lựa chọn đề tài luận văn là “Vai trò Nhà nước đối với giảm nghèo nhanh và bền vững ở các huyện miền núi vùng cao”. Luận văn lấy ví dụ thực tế ở huyện miền núi vùng cao biên giới Quế Phong, tỉnh Nghệ An là một trong 61 huyện nghèo nhất trong cả nước được Chính phủ quyết định hỗ trợ đầu tư để giảm nghèo nhanh và bền vững tại Nghị Quyết 30a/2008/NQ-CP.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu của đề tài:
Hiện nay chương trình xóa đói giảm nghèo nhanh và bền vững đang được đặt ra cấp thiết, các cấp các ngành và toàn xã hội đang vào cuộc để thực hiện thành công nhiệm vụ trọng đại này. Tuy nhiên quá trình thực hiện vừa qua bộc lộ một số vấn đề cần quan tâm về vai trò Nhà nước trong việc xây dựng kế hoạch, chương trình, xác định bước đi, huy động nguồn lực đến tổ chức chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ giảm nghèo nhanh và bền vững. Những bất cập này cần được phân tích đánh giá, tìm ra nguyên nhân và có những giải pháp khắc phục kịp thời. Thời gian qua cũng đã có nhiều văn kiện, tác phẩm, công trình nghiên cứu liên quan đến công tác XĐGN như: Văn kiện “Chiến lược trưởng toàn diện về tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo” (năm 2002) của Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam; các Luận văn Thạc sỹ kinh tế: “Hoàn thiện chính sách xoá đói giảm nghèo đối với tỉnh miền núi” của tác giả Nguyễn Trung Hải K13 Đại học Kinh tế Quốc dân; “Hoàn thiện chính sách giảm nghèo theo hướng bền vững ở Việt Nam” của tác giả Trần Tuấn Cường K13 Đại học Kinh tế Quốc dân, “Đổi mới chính sách phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn miền núi trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá” của tác giả Đậu Văn Thanh và một số tác phẩm nghiên cứu khác mà bản thân đã được nghiên cứu. Tuy nhiên chưa có tác phẩm hay công trình nghiên cứu nào đề cập đến vấn đề vai trò Nhà nước trong việc giảm nghèo nhanh và bền vững ở các huyện miền núi vùng cao, nơi đồng bào các dân tộc thiểu số là chủ yếu đang còn chịu nhiều khó khăn vất vả đói nghèo. Bản thân tác giả là cán bộ huyện miền núi vùng cao biên giới Quế Phong, nơi có tỷ lệ hộ đói nghèo đến 50% và thuộc một trong 61 huyện nghèo của cả nước được thụ hưởng chính sách giảm nghèo nhanh và bền vững của Chính phủ tại Nghị quyết 30a/2008.NQ-CP nên có nhiều trăn trở và mong muốn được đóng góp một phần nhỏ bé của mình vào nghiên cứu và đề ra một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò nhà nước trong công cuộc giảm nghèo nhanh và bền vững ở các huyện miền núi vùng cao.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
a. Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở khái quát một số vấn đề về lý luận và thực tiễn, luận văn phân tích, đánh giá thực trạng quản lý của Nhà nước đối với công tác xoá đói giảm nghèo cho các huyện miền núi vùng cao trong thời gian qua, những thuận lợi khó khăn, những kết quả đạt được và những tồn tại còn hiện hữu trong quá trình thực thi nhiệm vụ để từ đó đề xuất những giải pháp nâng cao vai trò nhà nước trong công tác giảm nghèo nhanh và bền vững ở các huyện miền núi vùng cao.
b. Nhiệm vụ của luận văn:
- Nghiên cứu các vấn đề lý luận về đói nghèo và chiến lược xoá đói, giảm nghèo nhanh và bền vững của nước ta, từ đó áp dụng vào cho các huyện miền núi vùng cao, bài học từ thực tiễn ở một số quốc gia và một số tỉnh thành trong nước, rút ra cho vấn đề nghiên cứu.
- Đề xuất phương hướng và một số giải pháp cơ bản nhằm tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước đối với công tác giảm nghèo nhanh và bền vững cho thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu vai trò của Nhà nước đối với giảm nghèo nhanh và bền vững trong điều kiện nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế thế giới và điều kiện đặc thù của các huyện miền núi vùng cao có sự hỗ trợ đầu tư của Chính phủ và các tổ chức, cá nhân để đề ra chính sách và nhiệm vụ cho thích hợp.
- Về không gian: nghiên cứu vai trò của Nhà nước đối với giảm nghèo nhanh và bền vững ở các huyện miền núi vùng cao.
- Về thời gian: nghiên cứu từ khi nước ta bắt đầu công cuộc đổi mới, xây dựng và thực hiện chiến lược toàn diện vê tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo (năm 2002) đến nay, đặc biệt là từ khi có Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP của Chính phủ về chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo trong cả nước.
5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu:
Luận văn lấy chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử Mác – Lê nin làm cơ sở phương pháp luận của phương pháp nghiên cứu kinh tế; luận văn dựa vào các qui luật kinh tế và quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước làm cơ sở phân tích, đánh giá và đề xuất giải pháp.
Để giải quyết những nội dung nhiệm vụ đặt ra, luận văn còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu kinh tế phổ biến sau:
- Phương pháp trừu tượng hoá khoa học và phương pháp phân tích hệ thống: việc nghiên cứu vai trò Nhà nước được thực hiện một cách đồng bộ, gắn với từng giai đoạn, từng hoàn cảnh lịch sử cụ thể của đất nước và của các huyện miền núi vùng cao.
- Phương pháp thống kê, thu thập thông tin định lượng: luận văn đã sử dụng các số liệu tài liệu thống kê thích hợp để phục vụ cho việc phân tích, đánh giá toàn diện nội dung nhiệm vụ và kết quả của hoạt động quản lý của Nhà nước trong công tác xoá đói giảm nghèo trong từng giai đoạn cụ thể.
- Phương pháp quy nạp và diễn dịch: trên cơ sở phân tích những nội dung cơ bản về vai trò của Nhà nước và thực tế quản lý công tác xoá đói giảm nghèo, luận văn sử dụng phương pháp quy nạp để đưa ra những đánh giá chung mang tính khái quát về thực trạng quản lý và thực hiện nhiệm vụ giảm nghèo nhanh và bền vững ở các huyện miền núi vùng cao. Thực trạng này được đặt trong bối cảnh chung của cả nước và dưới tác động của cơ chế kinh tế thị trường.
- Phương pháp chuyên khảo, đối chiếu so sánh: Luận văn tiến hành nghiên cứu một vấn đề về vai trò của Nhà nước đối với XĐGN được xem xét đánh giá trên cơ sở so sánh đối chiếu nhằm rút ra bài học kinh nghiệm cho công tác giảm nghèo nhanh và bền vững ở các huyện miền núi vùng cao.
6. Những điểm mới của luận văn:
Luận văn đã kế thừa, tiếp thu nhiều tài liệu nghiên cứu liên quan đến đề tài, trên cơ sở đó có bổ sung, phát triển phù hợp với yêu cầu của đối tượng nghiên cứu. Luận văn có một số điểm mới như sau:
- Khái quát hoá một số vấn đề lý luận về công tác XĐGN, đặc điểm các huyện miền núi vùng cao trong thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội và gắn chặt với đó là thực hiện nhiệm vụ giảm nghèo nhanh và bền vững trong tình hình hiện nay.
- Làm rõ sự cần thiết khách quan cần tăng cường vai trò của Nhà nước đối với công tác XĐGN nói chung, và tăng cường vai trò nhà nước trong thực hiện giảm nghèo nhanh và bền vững ở các huyện miền núi vùng cao.
- Từ cơ sở lý luận và thực tiễn hoạt động vai trò nhà nước về công tác giảm nghèo nhanh và bền vững ở các huyện miền núi vùng cao, tổng kết, đánh giá thực tiễn, rút ra được những vấn đề cấp bách cần được xem xét giải quyết: đó là làm thế nào để vai trò nhà nước tác động vào công cuộc giảm nghèo nhanh và bền vững ở các huyện miền núi vùng cao đạt được hiệu quả cao;
- Đề xuất một số định hướng và giải pháp cụ thể nhằm giải quyết những vấn đề bức xúc trong quản lý nhà nước và nâng cao vai trò nhà nước về giảm nghèo nhanh và bền vững ở các huyện miền núi vùng cao trong giai đoạn tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, giải trình viết tắt, mục lục, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm có 3 chương, 9 tiết:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về vai trò Nhà nước đối với giảm nghèo nhanh và bền vững ở các huyện miền núi vùng cao
1.1- Một số vấn đề lý luận chung về đói nghèo, giảm nghèo nhanh và bền vững.
1.2 - Nội dung vai trò Nhà nước đối với giảm nghèo nhanh và bền vững ở các huyện miền núi vùng cao.
1.3 - Kinh nghiệm vai trò Nhà nước đối với giảm nghèo nhanh và bền vững ở một số nước và một số địa phương.
Chương 2: Thực trạng vai trò Nhà nước đối với giảm nghèo nhanh và bền vững ở huyện miền núi vùng cao Quế Phong (Nghệ An) thời gian qua.
2.1- Thực trạng phát triển kinh tế - xã hội và tình hình đói nghèo ở huyện Quế Phong.
2.2- Thực trạng vai trò Nhà nước đối với giảm nghèo nhanh và bền vững trên địa bàn huyện thời gian qua.
2.3- Nguyên nhân tồn tại.
Chương 3: Định hướng và một số giải pháp cơ bản tăng cường vai trò Nhà nước đối với giảm nghèo nhanh và bền vững ở các huyện miền núi vùng cao trong thời gian tới.
3.1 - Cơ hội và thách thức vai trò Nhà nước đối với giảm nghèo nhanh và bền vững ở các huyện miền núi vùng cao.
3.2- Quan điểm, mục tiêu chung của vai trò Nhà nước đối với giảm nghèo nhanh và bền vững cho các huyện miền núi vùng cao trong thời gian tới.
3.3- Một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò Nhà nước đối với giảm nghèo nhanh và bền vững ở các huyện miền núi vùng cao.
CHƯƠNG 1MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VAI TRÒ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI GIẢM NGHÈO NHANH VÀ BỀN VỮNG Ở CÁC HUYỆN MIỀN NÚI VÙNG CAO
1.1- Một số lý luận chung về đói nghèo, giảm nghèo nhanh và bền vững:
1.1.1- Một số vấn đề chung về đói nghèo:
Nghèo diễn tả sự thiếu cơ hội để có thể sống một cuộc sống tương ứng với các tiêu chuẩn tối thiểu nhất định. Thước đo các tiêu chuẩn này và các nguyên nhân dẫn đến nghèo nàn thay đổi tùy theo địa phương và theo thời gian. Tổ chức Y tế Thế giới định nghĩa nghèo theo thu nhập, theo đó một người là nghèo khi thu nhập hàng năm ít hơn một nửa mức thu nhập bình quân trên đầu người hàng năm của quốc gia.
Nghèo tuyệt đối: Để có một cái nhìn tổng quan về các vấn đề của các nước đang phát triển, Robert McNamara, khi là giám đốc của Ngân hàng Thế giới, đã đưa ra khái niệm nghèo tuyệt đối. Ông định nghĩa khái niệm nghèo tuyệt đối như sau: "Nghèo ở mức độ tuyệt đối là sống ở ranh giới ngoài cùng của tồn tại. Những người nghèo tuyệt đối là những người phải đấu tranh để sinh tồn trong các thiếu thốn tồi tệ và trong tình trạng bỏ bê và mất phẩm cách vượt quá sức tưởng tượng mang dấu ấn của cảnh ngộ may mắn của giới trí thức chúng ta."
Chuẩn tổng quát cho nạn nghèo tuyệt đối được Ngân hàng Thế giới đưa ra là thu nhập 1 đô la Mỹ/ngày theo sức mua tương đương của địa phương . Theo báo cáo của Chương trình phát triển Liên hiệp Quốc 1997, trong những bước sau đó ranh giới nghèo tuyệt đối cho từng địa phương hay từng vùng được xác định từ 2 đô la cho châu Mỹ La tinh và Carribean, đến 4 đô la cho những nước Đông Âu cho đến 14,40 đô la cho những nước công nghiệp.
Nghèo tương đối là nghèo được định nghĩa dựa vào hoàn cảnh xã hội của cá nhân trong những quốc gia được gọi là giàu có, nó được xem như là việc cung cấp không đầy đủ các tiềm lực vật chất và phi vật chất cho những người thuộc về một số tầng lớp xã hội nhất định so với sự sung túc của xã hội đó. Nghèo tương đối có thể là khách quan cũng như là sự hiện hữu không phụ thuộc vào cảm nhận của những người trong cuộc. Người ta gọi là nghèo tương đối chủ quan khi những người trong cuộc cảm thấy nghèo không phụ thuộc vào sự xác định khách quan. Bên cạnh việc thiếu sự cung cấp vật chất tương đối, việc thiếu thốn tài nguyên phi vật chất ngày càng có tầm quan trọng hơn.
Có nhiều số liệu thống kê khác nhau để xác định ranh giới cho nạn nghèo tương đối cho một xã hội, ví dụ như là tỷ lệ bao nhiêu phần trăm của thu nhập trung bình. Từ năm 2001 trong các nước thành viên của Liên minh châu Âu, những người được coi là nghèo khi có ít hơn 60% giá trị trung bình của thu nhập ròng tương đương. Vì thế những người đó vẫn còn là nghèo tương đối. Vì một sự phân chia rõ ràng giữa nghèo và giàu trên thực tế không có nên khái niệm ranh giới nguy cơ nghèo cũng hay được dùng cho ranh giới nghèo tương đối.
Ngoài ra còn có định nghĩa nghèo theo tình trạng sống. Định nghĩa nghèo theo tình trạng sống lưu ý đến những khía cạnh khác ngoài thu nhập, như cơ hội đào tạo, mức sống, quyền tự quyết định, ổn định về luật lệ, khả năng ảnh hưởng đến những quyết định chính trị và nhiều khía cạnh khác.
Đói nghèo là một thực trạng xã hội tồn tại trong bất cứ một chế độ nào từ trước đến nay. Các xã hội trước trình độ phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội chậm thì tỷ lệ đói nghèo cao và mang tính đồng đèu bình quân nhiều hơn. Đến giai đoạn xã hội phát triển cao và nhanh về mọi mặt thì tỷ lệ nghèo có giảm đi nhưng việc phân hoá giàu nghèo lại diễn ra sâu sắc hơn, khoảng cách giữa giàu và nghèo lại nới rộng ra hơn nhiều lần. Đói nghèo tồn tại tự nhiên trong quá trình tăng trưởng kinh tế và gắn liền với một bộ phận dân cư có điều kiện sống, sản xuất và thu nhập thua kém hơn so với một bộ phận dân cư khác. Xét trong bối cảnh và phạm vi toàn cầu có nhiều quốc gia và có điều kiện sống, phát triển, thu nhập và khả năng tạo việc làm khác nhau nhưng trong từng quốc gia đều có tình trạng giàu nghèo và những quốc gia càng phát triển, càng giàu có thì sự phân hoá giàu nghèo càng sâu sắc.
Khái niệm đói nghèo, mức quy định chuẩn đói nghèo chỉ mang tính tương đối qua từng thời kỳ khác nhau, từng quốc gia và vùng lãnh thổ khác nhau, thậm chí một số nước còn quy định chuẩn nghèo khác nhau cho từng vùng. Đói nghèo được so sánh theo không gian và thời gian về điều kiện sống và làm việc của một người hoặc nhóm người, của một cộng đồng người, một quốc gia, một xã hội trong tiến trình phát triển kinh tế xã hội qua các thời kỳ.
Ở Việt Nam, từ 1993 đến năm 2005 Chính phủ đã 4 lần nâng mức chuẩn nghèo để phù hợp với xu thế phát triển, riêng từ năm 2001 đến năm 2005 là 2 lần: Quyết định số 143/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 27 tháng 9 năm 2001 phê duyệt "Chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói và giảm nghèo giai đoạn 2001-2005" quy định những hộ gia đình có thu nhập bình quân đầu người từ 80.000 đồng/người/tháng (960.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo ở khu vực nông thôn miền núi và hải đảo, những hộ gia đình có thu nhập bình quân đầu người từ 100.000 đồng/người/tháng (1.200.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo ở khu vực nông thôn đồng bằng, và từ 150.000 đồng/người/tháng (1.800.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo ở khu vực thành thị. Năm 2005 Thủ tưởng Chính phủ ban hành Quyết định số 170/2005/QĐ-TTg ngày 8 tháng 7 năm 2005 về việc ban hành chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2006-2010 thì ở khu vực nông thôn với quy định hộ nghèo ở nông thôn có mức thu nhập bình quân từ 200.000 đồng/người/tháng (2.400.000 đồng/người/năm) trở xuống và hộ thành thị là từ 260.000 đồng/người/tháng (dưới 3.120.000 đồng/người/năm) trở xuống. Quy định chuẩn nghèo này vẫn gi._.ữ cho đến nay.
Về nguyên nhân đói nghèo được xác độ ở nhiều mức độ khác nhau. Đói nghèo được coi là quốc nạn của mỗi Quốc gia và được các Chính phủ đặc biệt quan tâm tìm các giải pháp để xoá bỏ. Trước tiên là việc phải xác định chính xác nguyên nhân căn bệnh đói nghèo để có biện pháp “chữa trị” hữu hiệu. Thông thường vùng nghèo và người nghèo nói chung là các đối tượng gặp nhiều khó khăn trong sản xuất, sinh hoạt và đời sống do điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, cách trở với cộng đồng, ít được tiếp cận với phát triển chung của xã hội. Nghèo đói thường diễn ra và khó khắc phục ở những vùng thiên tai địch họa thường xuyên xẩy ra, chưa kịp khắc phục chu kỳ trước thì lại bị dồn dập tiếp thảm họa ở chu kỳ sau. Nghèo đói diễn ra ở những vùng thiên tai khắc nghiệt không có điều kiện để phát triển sản xuất, cây trồng không cho thu hoạch do nắng hạn, đất đai khô cằn hoặc sình lầy quanh năm, vật nuôi không phát triển được do không có thức ăn, do thiếu nguồn nước, chỗ chăn thả và thiếu mọi điều kiện để sinh sống và trưởng thành. Nghèo đói thường diễn ra ở những nơi quá xa xôi cách trở với cộng đồng phát triển, quá xa nơi đô hội để tiêu thụ hàng hóa, nông sản phẩm sản xuất ra được, trong khi đó đường sá giao thông đi lại khó khăn cách trở, các phương tiện vận tải không đáp ứng yêu cầu, mọi điều kiện giao lưu kinh tế, văn hóa, xã hội đều khó thực hiện.
Những nguyên nhân chính dẫn đến nghèo được liệt kê ra là chiến tranh, cơ cấu chính trị như chế độ độc tài, các quy định thương mại quốc tế không công bằng, cơ cấu kinh tế phân bố thu nhập không cân bằng, tham nhũng, nợ quá nhiều, nền kinh tế không có hiệu quả, thiếu những nguồn lực có thể trả tiền được, thất bại Chính phủ, tụt hậu về công nghệ, giáo dục, thiên tai, dịch bệnh, dân số phát triển quá nhanh và bất bình đẳng nam nữ. Bên cạnh nguyên nhân chính trị, nghèo đói cũng có một nguyên nhân lớn của hiện tượng dân di cư từ vùng núi về đồng bằng, từ nông thôn về thành thị, từ các nước thứ ba về các nước phát triển. Với việc khốn khó trong mọi điều kiện sản xuất và sinh hoạt tại nơi bản địa làm cho người dân sở tại không thiết tha với ruộng vườn và nơi sản xuất của mình, kèm theo các lời đồn đại về một cuộc sống khấm khá nơi đô thị và viễn cảnh một đời sống tươi đẹp thoát khỏi đói nghèo nơi viễn xứ đã thôi thúc họ ra đi và nhiều lúc tạo thành một làn sóng di dân lớn.
Về tình trạng nghèo trên thế giới, theo số liệu của Ngân hàng Thế giới thì những người có ít hơn 1 đô la Mỹ tính theo sức mua địa phương và vì thế được xem là rất nghèo ở năm 1981 có 1,5 tỉ người tương ứng với 40% dân số thế giới, năm 1987 là 1,227 tỉ người tương ứng 30% và năm 1993 là 1,314 tỉ người tương đương với 29% dân số thế giới. Trong năm 2001 trên toàn thế giới có 21% dân số thế giới tương ứng với 1,1 tỉ người có ít hơn 1 đô la Mỹ tính theo sức mua địa phương. Phần lớn những người này sống tại châu Á, thế nhưng thành phần những người nghèo trong dân cư tại châu Phi lại còn cao hơn nữa. Các thành viên của Liên Hiệp Quốc trong cuộc họp thượng đỉnh thiên niên kỷ năm 2000 đã nhất trí với mục tiêu cho đến năm 2015 giảm một nửa số những người có ít hơn 1 đô la Mỹ (nguồn: điểm 1 của những mục đích phát triển thiên niên kỷ). Trong khi nhờ vào tăng trưởng kinh tế tại nhiều vùng của châu Á, tỷ lệ người nghèo giảm xuống rõ rệt từ 58% xuống còn 16% tại Đông Á thì con số những người nghèo nhất lại tăng lên ở châu Phi (tăng gần gấp đôi từ 1981 đến 2001 ở Sahara). Tại Đông Âu và Trung Á con số những người nghèo nhất đã tăng lên đến 6% dân số. Nếu đặt ranh giới nghèo là 2 đô la Mỹ/ngày thì có tổng cộng là 2,7 tỉ người nghèo, có nghĩa là gần một nửa dân số thế giới.
Đánh giá nhận định và việc đưa ra tiêu chí, tiêu chuẩn cận nghèo ở mỗi nước cũng khác nhau. Ở Áo ranh giới nguy cơ nghèo là 60% của thu nhập trung bình và cận nghèo là 1 người có thu nhập ít hơn 785 Euro/tháng. Tại Đức ranh giới nghèo nằm vào khoảng 730,20 Euro cho phía Tây và 604,80 Euro cho phía Đông của nước Đức. Ở Mỹ, theo số liệu từ bản báo cáo của Cục điều tra dân số tháng 8 năm 2005 thì ở Mỹ con số những người có thu nhập dưới ranh giới nghèo đã liên tiếp tăng đến lần thứ tư. Có 12,7% dân số tương đương với 37 triệu người nghèo, tăng 0,2% so với năm trước đó. Một gia đình 4 người được coi là nghèo khi chỉ có thể chi tiêu ít hơn 19.310 đô la Mỹ trong một năm. Đối với những người độc thân thì ranh giới này ở vào khoảng 9.650 đô la.
1.1.2- Một số vấn đề về giảm nghèo nhanh và bền vững và vai trò của nó đối với chính trị, kinh tế, xã hội đất nước:
Công cuộc XĐGN đã được Nhà nước Việt Nam đề ra và thực hiện từ nhiều năm nay. Tuy nhiên vấn đề giảm nghèo nhanh và bền vững lại mới được đặt ra và nổi lên như một vấn đề cấp thiết hiện nay. Giảm nghèo nhanh là đẩy nhanh tốc độ để rút ngắn thời gian xoá nghèo cho các hộ nghèo trong lộ trình, phải tập trung đầu tư cao, huy động đồng bộ mọi nguồn lực và thực hiện có hiệu quả để thanh toán nhanh đói nghèo. Giảm nghèo bền vững là kiên quyết không để tái nghèo, là phải duy trì tiếp tục các nguồn đầu tư và các biện pháp chỉ đạo thực hiện triển khai liên tục có hướng đích để không cho đói nghèo quay lại chính nơi chúng ta đang tích cực xóa đói, nơi chúng ta đang thực hiện quyết tâm giảm nghèo. Chúng ta có thể khẳng định giảm nghèo nhanh và bền vững là một trong những mục tiêu của tăng trưởng cả trên góc độ xã hội và kinh tế, đồng thời cũng là một điều kiện cho tăng trưởng bền vững. Về ngắn hạn, khi phân phối một phần đáng kể trong thu nhập xã hội cho chương trình giảm nghèo thì nguồn lực dành cho tăng trưởng kinh tế có thể bị ảnh hưởng, song xét một cách toàn diện về dài hạn thì kết quả xóa đói giảm nghèo lại tạo tiền đề cho tăng trưởng nhanh và bền vững. Điều đó cũng đồng nghĩa như việc thực hiện người cày có ruộng đã tạo ra sự phát triển vượt bậc của nông nghiệp, nhờ đó mà nhiều nông dân đã thoát khỏi đói nghèo và có điều kiện tham gia thực hiện cách mạng xanh, tạo sự phát triển mới cho ngành nông nghiệp.
Giảm nghèo nhanh và bền vững phải là dựa trên cơ sở các nguồn lực đầu tư được hỗ trợ, được tăng cường, tạo ra những cơ hội thuận lợi để người nghèo và cộng đồng nghèo tiếp cận được các cơ hội phát triển sản xuất, kinh doanh và hưởng thụ được từ thành quả tăng trưởng một cách nhanh nhất và ổn định lâu dài. Tăng trưởng chất lượng cao là để giảm nhanh mức nghèo đói. Thực tiễn những năm vừa qua đã chứng minh rằng, nhờ kinh tế tăng trưởng cao Nhà nước có sức mạnh vật chất để hình thành và triển khai các chương trình hỗ trợ vật chất, tài chính và cho các địa phương khó khăn phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội cơ bản. Người nghèo và cộng đồng nghèo nhờ đó có cơ hội vươn lên thoát khỏi đói nghèo. Điều kiện quan trọng để giảm nghèo nhanh và bền vững trên quy mô rộng là phải đảm bảo một nguồn lực đủ mạnh để thực hiện chương trình, nếu chỉ thực hiện các chương trình tái phân phối hoặc các biện pháp giảm nghèo truyền thống thì tác dụng không lớn.
Vai trò của giảm nghèo nhanh và bền vững có tác động vô cùng to lớn đối với chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước. Cái đói, cái nghèo đang hiện hữu sẽ luôn là nỗi ám ảnh của sự lạc hậu, kém phát triển của mỗi Quốc gia. Thực hiện chương trình giảm nghèo nhanh và bền vững thành công là điều kiện tiền đề quan trọng để cả đất nước tiến lên hội nhập và phát triển cộng đồng. Đó là cơ sở cho việc xây dựng một nền tảng chính trị vững vàng của sự nghiệp vì dân do dân do Đảng đặt ra. Giảm nghèo nhanh và bền vững sẽ đem lại một nền kinh tế đất nước vững mạnh, dân giàu. Một khi đã có một tiềm lực kinh tế mạnh thì có thể nghĩ đến việc công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng một Quốc gia phát triển về mọi mặt và có vị thế trên trường thế giới. Giảm nghèo nhanh và bền vững tạo điều kiện thúc đẩy phát triển văn hoá, nâng cao dân trí và đẩy mạnh mọi mặt an sinh xã hội. Nhân dân được chăm sóc sức khoẻ tốt hơn, đảm bảo phúc lợi cao hơn và hưởng thụ đời sống văn hoá tinh thần mọi mặt đầy đủ hơn. Giảm nghèo nhanh và bền vững với mục đích nâng cao nhanh và ổn định mọi mặt đời sống kinh tế cho nhân dân đang thuộc diện đói nghèo nhưng về phương diện chung của một quốc gia sẽ tạo cho một thế nước ổn định, vững mạnh về cả mọi mặt chính trị, an ninh, quốc phòng.
Tốc độ giảm nghèo nhanh được thực hiện nhờ vào việc tập trung chuyển dịch cơ cấu và đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp phát triển ngành nghề, tăng thu nhập cho người nghèo, tạo cơ hội nhiều hơn cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển, nhằm tạo ra nhiều việc làm phi nông nghiệp, tạo cho tăng trưởng trên diện rộng với chất lượng cao và bền vững.Giảm nghèo nhanh và bền vững không đơn giản là việc phân phối lại thu nhập một cách thụ động mà phải tạo ra động lực tăng trưởng tại chỗ, chủ động tự vươn lên thoát nghèo. Giảm nghèo không đơn thuần là sự trợ giúp một chiều của tăng trưởng kinh tế đối với các đối tượng có nhiều khó khăn mà còn là nhân tố quan trọng tạo ra một mặt bằng tương đối đồng đều cho phát triển, tạo thêm một lực lượng sản xuất dồi dào và bảo đảm sự ổn định cho giai đoạn sau tăng trưởng nhanh hơn mạnh hơn (giai đoạn cất cánh).
1.2- Nội dung và sự cần thiết vai trò Nhà nước đối với giảm nghèo nhanh và bền vững ở các huyện miền núi vùng cao:
1.2.1- Nguyên nhân, đặc điểm, đói nghèo của các huyện miền núi vùng cao:
Các huyện miền núi vùng cao ở vào địa thế địa hình không thuận lợi cho phát triển kinh tế, xã hội. Địa hình núi non hiểm trở, ở độ cao lớn so với mặt nước biển và bị chia cắt mạnh nên đi lại thông thương và giao lưu với vùng thấp rất khó khăn. Khí hậu và điều kiện thời tiết khắc nghiệt làm cho cây trồng vật nuôi không phát triển, đặc biệt là về mùa đông giá rét. Hầu như tất cả các huyện miền núi vùng cao cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật cho phát triển kinh tế và phát triển xã hội đều không đáp ứng, có nhiều xã ô tô chỉ mới đến được trung tâm xã vào mùa khô. Hệ thống điện, đường, trường học, trạm xá, thuỷ lợi, nước sinh hoạt, khu vực hạ tầng phúc lợi công cộng nhiều nơi chưa được xây dựng kiên cố. Nhân dân nhiều vùng đang phải dùng nước khe suối không qua xử lý để sinh hoạt và nhiều khi cũng không cung cấp đủ trong mùa hè do bị khô hạn. Chăm sóc sức khoẻ, sinh sản không được đảm bảo nên bệnh tật xảy ra nhiều, các hủ tục lạc hậu chưa được xoá bỏ triệt để. Đời sống nhân dân các huyện miền núi vùng cao còn gặp rất nhiều khó khăn, do vậy tỷ lệ đói nghèo ở khu vực này là cao nhất nước. Mặc dù đạt nhiều thành tựu quan trọng, nhưng tình trạng nghèo đói vẫn còn tồn tại ở diện rộng. Thu nhập của bộ phận lớn dân cư ở khu vực này vẫn nằm giáp ranh mức nghèo đói và dễ bị tác động bởi các biến động do thiên tai, mất việc làm, ốm đau và giá nông sản bấp bênh. Vị trí địa lý địa hình hiểm trở, giao thông cách trở đi lại khó khăn, điều kiện sản xuất và trao đổi thông thương không thuận lợi cùng với lý do sức khỏe kém, trình độ học vấn thấp, tình trạng vệ sinh và môi trường xuống cấp làm cho người nghèo khó vươn lên lên thoát nghèo.
Các huyện miền núi vùng cao có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất nước, khả năng giảm nghèo sẽ rất khó thực hiện nếu không có sự đầu tư lớn của Nhà nước. Thời gian qua đã có nhiều chương trình dự án thực hiện giảm nghèo nhanh và bền vững cho các huyện miền núi vùng cao. Kết quả thực hiện XĐGN được đánh giá là tốt, tỷ lệ hộ nghèo giảm, đời sống nhân dân các dân tộc được nâng lên một bước. Tuy nhiên so vói tốc độ phát triển chung của cả nước thì tốc độ phát triển, tỷ lệ giảm nghèo ở các huyện miền núi vùng cao là còn chậm và thiếu vững chắc. Trong nhiều nguyên nhân tồn tại đã được liệt kê thì có nguyên nhân tồn tại là vai trò Nhà nước chưa được phát huy cao độ và chưa làm tròn đầy đủ chức năng và nhiệm vụ của mình. Nguyên nhân của tồn tại đó là do Nhà nước chưa hoạch định được một chiến lược hoàn chỉnh về xoá đói, giảm nghèo nhanh và bền vững cho các huyện miền núi vùng cao, tiềm lực đầu tư chưa đủ mạnh để chiến thắng cái nghèo đói cho toàn vùng. Có nơi có lúc các chương trình đầu tư hỗ trợ còn chồng chéo và chưa mang lại hiệu quả thiết thực. Một nguyên nhân quan trọng là Nhà nước chưa chỉ đạo quyết liệt trong tuyên truyền vận động để khơi dậy sự nỗ lực vươn lên tự thoát nghèo trong cộng đồng. Cán bộ quản lý chỉ đạo các cấp còn yếu về trình độ chuyên môn, quản lý, chưa tâm huyết và tích cực với nhiệm vụ được giao trong chỉ đạo thực hiện XĐGN, có nơi có lúc còn có cán bộ thiếu gương mẫu và nhiều sai phạm chưa được xử lý làm mất niềm tin trong nhân dân. Tình trạng thất thoát, lãng phí trong đầu tư, xây dựng còn diễn ra nhiều nơi do không được kiểm tra quản lý chặt chẽ theo đúng quy định, do đội ngũ cán bộ quản lý chưa thực sự trong sạch và có trình độ chuyên môn nghiệp vụ giỏi.
Do tính đặc thù của các huyện miền núi vùng cao là tỷ lệ hộ đói nghèo còn cao nhất nước và việc thực hiện XĐGN lại đang gặp nhiều khó khăn do điều kiện địa lý địa hình và dân trí nên cần có sự lồng ghép, phối hợp nhiều chương trình với nhau, đặc biệt là sự kết hợp giữa chiến lược tổng thể toàn diện về XĐGN của Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam với các Nghị quyết, chương trình cụ thể cho từng thời kỳ và đặc biệt là chú ý đến Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP ngày 27/12/2008 của Chính phủ về chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo.
1.2.2- Nội dung vai trò Nhà nước đối với giảm nghèo nhanh và bền vững ở các huyện miền núi vùng cao:
1.2.2.1- Xác định quan điểm, mục tiêu tổng quát nhiệm vụ xóa đói, giảm nghèo nhanh và bền vững:
Mục tiêu tổng quát về Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến 2020 là đưa Việt Nam ra khỏi tình trạng kém phát triển; nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân; Các nhiệm vụ cụ thể về phát triển kinh tế - xã hội là phải phấn đấu đạt nhịp độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm cao hơn 5 năm trước và có bước chuẩn bị cho 5 năm tiếp theo; Tăng nhanh và nâng cao hiệu quả vốn đầu tư vốn đầu tư phát triển kinh tế xã hội, hỗ trợ đầu tư nhiều hơn cho các vùng còn khó khăn. Có chính sách đồng bộ, có hướng dẫn cụ thể phù hợp với từng vùng để bảo đảm cơ bản xóa hộ đói, giảm nhanh hộ nghèo, giải quyết các tệ nạn xã hội, bảo đảm phát triển bền vững.
Vai trò Nhà nước được xác định trong chương trình giảm nghèo nhanh và bền vững ở các huyện miền núi vùng cao là phải hoạch định một cách cụ thể theo lộ trình vạch sẵn kèm theo các chỉ tiêu, tiêu chí phải đạt được cho việc giảm nghèo thông qua các chương trình, dự án đầu tư cho các huyện nghèo. Xóa đói giảm nghèo được đặt thành một bộ phận của Chiến lược 10 năm, Kế hoạch 5 năm và hàng năm về phát triển kinh tế - xã hội từ Trung ương đến cơ sở. Công tác giảm nghèo nhanh và bền vững phải được quan tâm ngay từ khi xây dựng chủ trương, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội dài hạn, trung hạn và hàng năm, coi đó là một nhiệm vụ trọng tâm của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước đối với công tác xóa đói giảm nghèo. Nhà nước thông qua kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội để chủ động điều tiết hợp lý các nguồn lực của toàn xã hội vào mục tiêu và hoạt động xóa đói giảm nghèo quốc gia.
Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP ngày 27/12/2008 của Chính phủ về chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo đã bám sát nhiệm vụ Chiến lược toàn diện về XĐGN chung để đề ra nhiệm vụ giảm nghèo nhanh và bền vững cho các huyện miền núi vùng cao. Cở sở của việc ban hành Nghị quyết này là do Chính phủ nhận thấy sau nhiều năm thực hiện XĐGN nhưng tỷ lệ hộ nghèo ở vùng này đang vẫn chiếm cao nhất và vượt xa các vùng khác, mọi điều kiện cho người nghèo tiếp cận với việc thoát nghèo đang gặp rất nhiều khó khăn vì điều kiện địa lý, điều kiện dân trí và điều kiện cơ sở vật chất hiện có. Từ đó Nghị quyết đã nêu các giải pháp, các quyết sách, cơ chế hỗ trợ và các biện pháp tổ chức chỉ đạo thực hiện chương trình giảm nghèo nhanh và bền vững cho 61 huyện nghèo nhất trong cả nước mà trong đó đa số là các huyện miền núi vùng cao. Từ việc thực hiện Nghị quyết này sẽ là cơ sở lan toả ra cho tất cả các huyện miền núi vùng cao trong cả nước về đường hướng thực hiện, cơ chế chính sách, phương thức vận động, công tác xã hội hoá đầu tư cho công tác giảm nghèo, tổ chức huy động các nguồn lực, tổ chức chỉ đạo điều hành thực hiện chương trình giảm nghèo nhanh và bền vững cho cả vùng miền núi vùng cao của nước ta. Đặc biệt vai trò Nhà nước được nhấn mạnh trong tất cả các khâu từ đề ra cơ chế, chính sách, hỗ trợ đầu tư, vận động tuyên truyền, khâu nối, tổ chức thực hiện đến chỉ đạo, kiểm tra và uốn nắn lệch lạc để nhằm phát huy hiệu quả chương trình.
1.2.2.2- Hoạch định chính sách và tạo môi trường, hành lang pháp lý thụân lợi để thực hiện giảm nghèo nhanh và bền vững:
Chính sách giảm nghèo nhanh và bền vững cho các huyện miền núi vùng cao về cơ bản đã được đáp ứng theo tinh thần Nghị quyết 30a/2008/NĐ-CP của Chính phủ và có thể coi đây là chính sách chung cho việc giảm nghèo nhanh và bền vững cho tất cả các huyện miền núi vùng cao. Nghị quyết đã đưa ra các mục tiêu cụ thể đến năm 2015 và đến năm 2020 với các chỉ tiêu phải đạt được cho từng thời kỳ. Đồng thời Nghị quyết đã ban hành một số cơ chế, chính sách, giải pháp hỗ trợ giảm nghèo. Đây là những cơ chế, chính sách, giải pháp lớn mang tính đột phá, hỗ trợ đầu tư mạnh mẽ cho sản xuất và xây dựng hạ tầng để giúp nhân dân 61 huyện nghèo nhất nước cũng như tất cả các huyện miền núi vùng cao nhanh chóng giảm nghèo theo hướng bền vững. Các hộ sản xuất tiểu thủ công nghiệp được vay vốn sản xuất. Nhà nước có cơ chế cho tạo việc làm, giáo dục đào tạo, dạy nghề, nâng cao dân trí, có chính sách phù hợp với cán bộ,… Cơ sở hạ tầng thiết yếu được Nhà nước hỗ trợ đầu tư đồng bộ. Chính phủ giao cho các Bộ, ngành chỉ đạo hỗ trợ theo lĩnh vực, các Tổng công ty doanh nghiệp lớn tham gia hỗ trợ giúp đỡ đầu các huyện nghèo.
Nhà nước tạo môi trường pháp lý để kinh doanh bình đẳng, có tính cạnh tranh; Ban hành cơ chế, chính sách về ưu đãi đối với các ngành, vùng, các sản phẩm và dịch vụ cần ưu tiên hoặc khuyến khích phát triển, không phân biệt thành phần kinh tế. Tạo điều kiện về đất đai, hỗ trợ sản xuất kinh doanh và phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, hợp tác xã, các trang trại và các loại hình doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân và tạo nhiều công ăn việc làm cho người lao động, thực hiện chiến lược xóa đói giảm nghèo. Nhà nước thiết lập môi trường thuận lợi để khuyến khích và hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, đặc biệt các doanh nghiệp thuộc vùng sâu, vùng xa và nông thôn.
Gắn việc đổi mới đồng bộ với việc thực hiện mạnh mẽ chủ trương xã hội hóa đối với vùng có điều kiện để tập trung ngân sách cho vùng khó khăn. Động viên tối đa các nguồn lực tài chính để thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội, công bằng xã hội và xóa đói giảm nghèo. Hoàn thiện chính sách phân phối lần đầu nhằm giải quyết hài hoà lợi ích kinh tế giữa Nhà nước, doanh nghiệp, người lao động; mở rộng các hình thức phân phối lại thông qua phát triển hệ thống phúc lợi công cộng, bảo hiểm, an sinh xã hội, các chế độ ưu đãi về tài chính, các hình thức trợ cấp xã hội để giải quyết các vấn đề xã hội, giảm chênh lệch giàu nghèo, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Vai trò Nhà nước là phải xây dựng được một nền hành chính Nhà nước trong sạch, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, có trách nhiệm ở tất cả các cấp, có khả năng xây dựng các chính sách và cung ứng dịch vụ theo yêu cầu của người dân, khuyến khích cơ hội cho người nghèo, người thiệt thòi giúp họ phát huy được tiềm năng của mình. Để đạt được mục đích này phải tạo nên một hệ thống hành chính với cơ chế, tổ chức bộ máy gọn nhẹ, đội ngũ cán bộ, công chức về cơ bản có phẩm chất, năng lực và trình độ đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước để đạt được mục tiêu giảm nghèo nhanh và bền vững. Cải cách hành chính là nhằm đảm bảo cho người nghèo tiếp cận được các dịch vụ y tế, giáo dục, cơ sở hạ tầng, nước, điện... ở các địa phương, đặc biệt chú trọng các tỉnh miền núi và các huyện miền núi vùng cao. Tăng cường dân chủ cơ sở, các cuộc đối thoại giữa chính quyền địa phương và cộng đồng người nghèo. Thúc đẩy sự tham gia của người dân, trong đó có người nghèo vào hoạch định chính sách và thực hiện chính sách được thể hiện rõ nét qua thực tiễn áp dụng Quy chế dân chủ cơ sở đến tận xã, bản vùng cao. Chính quyền địa phương phải thực hiện dân chủ, đưa ra dân bàn, dân góp ý cho các chương trình, dự án, các khoản giúp đỡ nhân đạo, từ thiện cho người nghèo, các khoản đóng góp xây dựng nhà tình nghĩa, nhà tình thương... Trong quá trình thực hiện các công trình, dự án cần ưu tiên sử dụng nguồn lao động tại địa phương để giải quyết việc làm và tăng thu nhập cho người nghèo. Phân cấp cho các tổ chức, đoàn thể, nhân dân, cộng đồng trực tiếp quản lý và tham gia quản lý việc xây dựng, vận hành và sử dụng các chương trình dự án về phát triển kinh tế và xóa đói giảm nghèo trên địa bàn địa phương.
1.2.2.3- Đầu tư hợp lý cho các huyện miền núi vùng cao:
Nhà nước huy động bằng nhiều chương trình dự án, kêu gọi đầu tư, đóng góp của các tổ chức, cá nhân để đầu tư, xây dựng các công trình hạ tầng thiết yếu (giao thông, thuỷ lợi, nước sinh hoạt, trường học, trạm xá, bệnh viện, trụ sở, nhà cộng đồng, chợ,...) phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt cho các huyện miền núi vùng cao. Thực hiện các chính sách hỗ trợ lớn về vốn, giống cây trồng, vật nuôi, vật tư, tư liệu sản xuất, hỗ trợ kỹ thuật,,... để vực dậy và phát triển sản xuất bền vững đảm bảo cho người dân các huyện miền núi vùng cao có thể từ các nguồn hỗ trợ này và bằng sức lao động của mình tự sản xuất được các sản phẩm nuôi sống mình và tiến tới có đóng góp cho xuất khẩu hàng hoá nông sản phẩm vùng cao. Thực hiện Chương trình phát triển kinh tế xã hội các xã đặc biệt khó khăn (chương trình 135), chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững theo Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP bảo đảm về cơ bản các xã có đủ các công trình thiết yếu. Phát triển cơ sở hạ tầng, phát triển các trung tâm cụm xã, quy hoạch bố trí lại cụm dân cư, đẩy mạnh phát triển sản xuất nông lâm nghiệp; đào tạo cán bộ xã, bản, làng, phum sóc. Từng bước thu hẹp khoảng cách về đời sống vật chất và tinh thần giữa các nhóm dân tộc.
Thực hiện tốt việc giao đất, giao rừng cho hầu hết các cá nhân, hộ gia đình và tổ chức ở vùng dân tộc và miền núi, nhất là hộ gia đình dân tộc ít người. Đảm bảo giao quyền sử dụng đất cá nhân và tập thể cho đại bộ phận người dân ở vùng dân tộc ít người và miền núi. Thực hiện tốt công tác định canh định cư, hạn chế di cư tự do, ổn định sản xuất, nâng cao đời sống của các đồng bào dân tộc ít người phù hợp với tập quán của người dân trên cơ sở có quy hoạch dân cư theo hướng hình thành các cụm dân cư tập trung, hình thành các cụm xã, thị tứ, đồng thời nghiên cứu và xem xét các điều kiện cơ sở hạ tầng như: giao thông, cung cấp nước, điện, thông tin, chợ... cho các cụm dân cư này. Khai thác tốt các tiềm năng về đất đai, lao động, đẩy mạnh phát triển lâm nghiệp, cây công nghiệp, cây ăn quả, ngành nghề thủ công truyền thống ở vùng dân tộc và miền núi.
Hướng dẫn cách làm ăn, chuyển giao công nghệ và cung cấp thông tin nhằm phát triển mạnh kinh tế hàng hoá, tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ, tiến tới xóa bỏ kinh tế tự cung, tự cấp ở vùng dân tộc ít người và miền núi. Phát triển các trang trại sản xuất nông, lâm nghiệp có quy mô phù hợp với trình độ quản lý và sức sản xuất của từng địa bàn dân cư. Kết hợp phát triển công nghiệp chế biến và tiêu thụ sản phẩm ở các khu vực miền núi.
Nâng cao dân trí, bảo tồn và phát huy những giá trị văn hoá truyền thống của đồng bào các dân tộc ít người. Ưu tiên đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng đội ngũ cán bộ là con em đồng bào các dân tộc ít người ngay tại địa phương, từng bước tăng dần tỷ lệ cán bộ dân tộc ít người. Đãi ngộ và sử dụng tốt đội ngũ già làng, trưởng bản, thực hiện tốt chính sách đại đoàn kết các dân tộc ở vùng dân tộc và miền núi. Chú trọng củng cố và mở rộng các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá, thông tin của đồng bào dân tộc. Giữ gìn và phát triển tiếng nói, chữ viết của các dân tộc. Tăng cường thông tin về các chương trình xóa đói giảm nghèo bằng các phương pháp, hình thức và tổ chức tại các địa điểm thích hợp làm cho đồng bào dân tộc ít người có thể tiếp cận được.
1.2.2.4- Nhà nước tạo mọi điều kiện thuận lợi cho người nghèo vươn lên thoát nghèo nhanh và bền vững :
Từ thập kỷ 80 đến nay và đặc biệt là từ những năm 2000 đã có nhiều chương trình dự án được phê duyệt và thực hiện cho công tác xoá đói, giảm nghèo nhanh và bền vững cho các xã miền núi vùng cao đặc biệt khó khăn vùng sâu vùng xa của cả nước như chương trình 135/CP, chương trình 134/CP, chương trình 138/CP,… Đối tượng người nghèo đã thực sự được Nhà nước và các tổ chức đoàn thể, chính trị, xã hội quan tâm và tìm nhiều biện pháp tiếp cận, hỗ trợ giúp đỡ bằng nhiều hình thức để thoát nghèo và giảm nghèo nhanh. Nhà nước xây dựng các biện pháp thiết yếu, như đầu tư hỗ trợ sản xuất, xây dựng cơ sở hạ tầng, lập các quỹ cứu trợ xã hội,... để giúp đỡ, bảo vệ người nghèo. Nhà nước duy trì liên tục sự trao đổi, phân phối mang tính thị trường, nhưng không loại người nghèo ra khỏi những nguồn lực và lợi ích của sự thịnh vượng chung về kinh tế. Thực tế kinh nghiệm thế giới cho thấy sự thiếu vắng vai trò của Nhà nước đặc biệt có hại đối với người nghèo, cộng đồng nghèo, vì người nghèo không tự bảo vệ được các quyền của mình, hơn nữa cũng cần nhấn mạnh trong thành quả chung của tăng trưởng kinh tế thì Nhà nước có vai trò nòng cốt và có trách nhiệm thu hút sự tham gia tích cực của cộng đồng, các tổ chức chính trị, kinh tế, xã hội. Nhà nước tạo điều kiện để người nghèo tham gia đầy đủ vào quá trình phát triển, có cơ hội bình đẳng như mọi người dân. Xây dựng khuôn khổ pháp lý cho các tổ chức xã hội, tổ chức cộng đồng ở địa phương nhằm nâng cao khả năng và sự tham gia của người nghèo vào quá trình phát triển.
Một vấn đề cần đặc biệt lưu ý trong quá trình thực hiện chương trình giảm nghèo nhanh và bền vững tại các huyện miền núi vùng cao là phải đề cao vai trò đối tượng được giảm nghèo, đây được coi là động lực chính cho quá trình giảm nghèo nhanh và bền vững thành công. Đối tượng người nghèo tại các huyện miền núi vùng cao đã bao năm nay được Nhà nước quan tâm đầu tư, hỗ trợ và cứu giúp những lúc khốn khó. Nhiều chương trình đầu tư hỗ trợ có lúc mang tính bao cấp nhiều năm liền đã phần nào làm tăng tính thụ động, chờ đợi, ỷ lại, trông chờ vào nhà nước trong một bộ phận nhân dân đồng bào các huyện miền núi vùng cao, đặc biệt là các hộ nghèo. Do vậy vai trò Nhà nước càng cần được nêu cao trong việc tuyên tryền vận động thuyết phục người dân được hưởng lợi từ các chương trình giảm nghèo nhanh và bền vững phải nỗ lực vươn lên. Người dân cần phải ý thức được rằng sự hỗ trợ của nhà nước, của xã hội chỉ là chất kích thích, là động lực và là tạo đà cho chính bản thân họ đứng lên hăng hái lao động sản xuất để chiến thắng đói nghèo. Giảm nghèo không chỉ là nhiệm vụ của Nhà nước, toàn xã hội mà trước hết là bổn phận của chính người nghèo phải tự vươn lên để thoát nghèo. Vai trò, trách nhiệm của Chính phủ là giúp gỡ bỏ rào cản ngăn cách xã hội và kinh tế để xóa đói giảm nghèo; hiệu quả xóa nghèo đạt thấp, nếu bản thân người nghèo không tích cực và nỗ lực phấn đấu vươn lên với mức sống cao hơn. Xóa đói giảm nghèo phải được coi là sự nghiệp của bản thân người nghèo, của chính người được hỗ trợ để xoá đói giảm nghèo, cộng đồng nghèo, bởi vì sự nỗ lực tự vươn lên để thoát nghèo chính là động lực, là điều kiện cần cho sự thành công của mục tiêu chống đói nghèo ở các nước. Nhà nước trợ giúp người nghèo biết cách tự thoát nghèo và tránh tái nghèo khi gặp rủi ro. Bên cạnh sự hỗ trợ về vật chất trực tiếp thì việc Nhà nước tạo việc làm cho người nghèo bằng cách hướng dẫn người nghèo sản xuất, kinh doanh phát triển kinh tế theo điều kiện cụ thể của họ chính là điều kiện giảm nghèo thành công nhanh và bền vững.
1.2.2.5- Nhà nước kiểm tra, giám sát, đánh giá, điều chỉnh thực hiện chương trình:
Để đánh giá được khách quan, trung thực, có chất lượng chương trình đòi hỏi các thông tin thu thập phải đảm bảo tính hệ thống; tính toàn diện; sát thực và phải được cập nhật thường xuyên. Nhà nước thực hiện vai trò kiểm tra, giám sát đánh giá để đảm bảo chương trình giảm nghèo nhanh và bền vững được thực hiện với hiệu quả cao nhất. Qua thực hiện bộc lộ những bất cập sẽ được xử lý thích hợp, có những điều chỉnh tổng kết kịp thời để bổ sung cho giai đoạn sau những bài học, kinh nghiệm quý định hướng cho chương trình đi đúng hướng. Tất cả các chương trình, dự án xóa đói giảm nghèo phải sự chịu sự giám sát và kiểm tra của nhân dân.
Có thể đánh giá vai trò Nhà nước đối với giảm nghèo nhanh và bền vững cho các huyện miền núi vùng cao đã được thể hiện rõ trong Nghị quyết30a/2008/NQ-CP. Nghị quyết ra đời và đi vào thực hiện ở 61 huyện nghèo nhưng cũng được coi là những chính sách chung áp dụng cho các huyện nghèo miền núi vùng cao trong cả nước, thực sự là đòn bẩy thúc đẩy kinh tế - xã hội các huyện miền núi vùng cao phát triển. Đồng thời đây cũng là điểm lan toả ra cho tất cả các huyện nghèo còn lại với việc vận dụng cơ chế chính sách mà nghị quyết đã nêu ra để các địa phương chủ động vận dụng vào xoá đói, giảm nghèo nhanh và bền vững. Các huyện miền núi vùng cao từ việc thực hiện Nghị quyết này sẽ nhanh chóng tạo lập được thế trận sản xuất và phát triển kinh tế - xã hội vững chắc nhanh chóng thực hiện chương trình giảm nghèo nhanh và bền vững thành công. Vai trò Nhà nước phải theo sát từ hoạch định tổng thể chiến lược đến điều hành chỉ đạo thực hiện các lĩnh vực, các khâu công việc cụ thể trong chương trình để thể hiện và phát huy chức năng nhiệm vụ của mình nhằm chèo lái đưa chương trình giảm nghèo nhanh và bền vững thành công ở các huyện miền núi vùng cao.
1.1.3- Sự cần thiết về vai trò Nhà nước đối với giảm nghèo nhanh và bền vững ở các huyện miền núi vùng cao:
Trong công tác giảm nghèo nhanh và bền vững ở nước ta và đặc biệt là ở các huyện miền núi vùng cao hiện nay, trước hết vai trò Nhà nước rất cần thiết khách quan vì phải bảo đảm an ninh lương thực cho toàn xã hội; đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp; chú trọng nghiên cứu thị trường, đảm bảo việc cung cấp thông tin kịp thời; tăng đầu tư cho nông nghiệp; kết hợp giữa sản xuất sản phẩm chất lượng cao với phá._.oạch chi tiết phát triển cây, con trong nông nghiệp cho các huyện và thực hiện đúng, đủ theo yêu cầu quy hoạch chi tiết đề ra. Đặc biệt khẩn trương thực hiện quy hoạch đưa dân ven sông suối ra khỏi vùng lũ ống lũ quét hàng năm lên vùng đất cao và ổn định vùng sản xuất mới. Bài học về trận lũ quét kinh hoàng tháng 10/2007 làm chết 14 người, cuốn trôi nhiều nhà cửa, tài sản ở các làng bản ở xã Nậm Giải huyện Quế Phong dọc theo hai bên bờ sông Nậm Giải vẫn còn là nỗi đau còn đó nhắc nhở chúng ta phải nhanh chóng thực hiện chương trình định canh định cư mới cho nhân dân để dân ổn cư yên tâm sản xuất vươn lên chiến thắng đói nghèo.
Trong việc thực hiện quy hoạch cần ư tiên thực hiện ngay quy hoạch chi tiết phát triển nông, lâm nghiệp, vì đó là sự thể hiện lao động và là thu nhập cũng như đảm bảo đời sống hang ngày cho bà con các dân tộc miền núi vùng cao. Có hướng thay đổi cơ cấu đầu tư cho ngành nghề trong sản xuất nông nghiệp sang sản xuất và hưởng thu nhập từ rừng. ở những nơi khó khăn sản xuất ruộng nước. Thực tế cho thấy ở các huyện miền núi vùng cao, việc khai hoang phục hoá đất bằng để làm ruộng nước phải tốn rất nhiều công sức và tiền của. Huyện Quế Phong là huyện miền núi vùng cao nhưng có diện tích lúa nước tương đối nhiều (hơn 2000ha), mặc dầu vậy tập quán và tâm lý người dân vẫn muốn khai hoang để làm ruộng nước vì đó là thói quen canh tác. Ruộng khai hoang thường manh mún ở cạnh khe suối để tận dụng nguồn nước nên khả năng tập trung đầu tư thâm canh chăm sóc rất hạn chế, sản xuất theo lối quảng canh nên năng suất hàng năm là không cao. Còn nếu tập trung khai hoang đất bằng quy mô lớn thành ruộng nước thì chi phí sẽ rất cao và phải sau rất nhiều năm thành ruộng mới đem lại chất lượng tốt năng suất cao được. Qua các năm chỉ đạo huyện Quế Phong đã đề chủ trương: tập trung khoanh nuôi bảo vệ và trồng rừng, tiến tới lấy mục tiêu đất rừng làm vốn sống cho nhân dân ở những nơi không có ruộng nước mà không đặt mục tiêu đầu tư khai hoang ruộng nước bằng mọi giá. Người dân canh tác trên đất rừng bằng cách trồng rừng lấy tiền công theo chương trình dự án và các doanh nghiệp hỗ trợ vốn, dân khoanh nuôi bảo vệ rừng theo chương trình 163/CP đã giao cho họ và có quyến khai thác bán các sản vật từ rừng được giao. Đẩy mạnh chăn nuôi đại gia súc trâu bò chăn thả có quản lý trên rừng. Nguồn thu nhập được từ rừng và từ chăn nuôi sẽ là nguồn để quy đổi lấy lương thực và các nhu cầu thiết yếu khác. Và thực tế việc làm này mang lại hiệu quả thiết thực cho nhân dân, đỡ mất công sức hơn nhiều trong việc loay hoay tìm cái ăn từ khai hoang ruộng nước. Do vậy theo tôi các huyện miền núi vùng cao nên tập trung đi theo hướng sản xuất này sẽ mang lại hiệu quả thiết thực.
3.3.3- Đẩy mạnh công tác “xã hội hoá đầu tư” cho XĐGN:
Thời gian qua công tác xã hội hoá đầu tư cho công cuộc xoá đói giảm nghèo đã được các cấp từ Trung ương đến địa phương phát động rộng rãi và được các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân trong và ngoài nước cũng như cộng đồng quốc tế quan tâm và ủng hộ mạnh mẽ. Thực hiện Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP của Chính phủ đã có nhiều tổ chức, cá nhân đăng ký đỡ đầu hỗ trợ các huyện nghèo cung cấp vốn đầu tư xây dựng hạ tầng và hỗ trợ sản xuất, hỗ trợ vốn để xoá nhà dột nát tạm bợ, đưa lao động đi đào tạo và bố trí việc làm cho con em các huyện nghèo, cung cấp tiến bộ kỹ thuật cho sản xuất. Thực hiện chương trình Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP trên địa bàn Nghệ An đã có 8 tổng công ty, doanh nghiệp nhận giúp đỡ 3 huyện Kỳ Sơn, Tương Dương, Quế Phong (là 3 huyện được hỗ trợ đầu tư trong tổng số 61 huyện nghèo của cả nước theo chương trình Nghị quyết 30a/CP) để thực hiện hỗ trợ đầu tư xây dựng hạ tầng, hỗ trợ xây dựng nhà ở cho hộ nghèo, giải quyết việc làm cho lao động,... với số tiền cam kết hỗ trợ là 85,66 tỷ đồng. Đến hết năm 2009 các doanh nghiệp đã chuyển số tiền hỗ trợ cho 3 huyện là 17,36 tỷ đồng. Quế Phong đề nghị các Doanh nghiệp lớn nhận giúp đỡ hỗ trợ xây dựng nhw sau:
Bảng 3.4: Danh mục kêu gọi các Doanh nghiệp đầu tư
Đơn vị: tỷ đồng
STT
Danh mục
Địa điểm xây dựng
Thời gian KH-HT
Năng lực TK
Tổng số
I
Xóa nhà dột nát tạm bợ
26.1
1
Xóa nhà dột nạt tạm bợ cho theo Quyết định 167
13xã thuộc chương trình
2009 - 2010
3.727 hộ,
26.09
II
Ngành Gi¸o dôc vµ §µo t¹o
46.10
1
Xây dựng nhà ở cho giáo viên
12 xã
2015
300 phòng,
33.4
2
XD nhà nội trú học sinh
12 xã
2015
130 phòng ở
12.7
III
Ngµnh Y tÕ
12.00
1
Nhà ở Bác sỹ
10 xã
2010-2015
Làm mới
5.00
2
Trạm y tế xã
7 xã
2010-2015
XD mới
7.00
IV
Các ngành sản xuất
17.0
1
XD nhà máy gạch Tuynen
Xã Tiền Phong
2011-2012
2 triệu viên/
5.0
2
XD NM CB dăm bột giấy
Khu CNN
2012-2015
CS 10.000
5.0
3
Đầu tư khai thác đá xây dựng
Các xã
2011-2015
500.000m3
7.0
V
Các công trình dân sinh
19.5
1
Cầu treo bản Đan
Xã Tiền Phong
2,010
Dài 190m
8.50
2
Cầu treo bản Cãng
Xã Nậm Giải
2,010
Dài 100m
4.00
3
Cầu treo bản Mờ
Xã Nậm Giải
2,015
Dài 100m
4.00
4
Cầu treo bản Pón
Cắm Muộn
2,015
Dài 90 m
3.00
Tổng cộng
94.6
(Nguồn: Đề án giảm nghèo theo Nghị quyết 30a huyện Quế Phong)
Tuy nhiên việc hỗ trợ đầu tư của các tổ chức, doanh nghiệp đang ở mức vừa tự nguyện vừa có sự vận động và chỉ định của Nhà nước. Và số tổ chức doanh nghiệp vào cuộc chưa thực sự rộng rãi và mang tính phổ biến, các lĩnh vực đầu tư và hỗ trợ chưa mang tính chuyên sâu cao. Do vậy, cần tiếp tục vận động và có sự ủng hộ rộng rãi và mạnh mẽ hơn nữa của các tổ chức, doanh nghiệp, các nhà hảo tâm cho công cuộc xoá đói giảm nghèo. Sự hỗ trợ và đầu tư cần đi vào cụ thể hơn chuyên sâu hơn để giúp đỡ các huyện, các địa phương nhận được những cái thực sự họ cần cho phát triển kinh tế, xã hội trên địa bàn. Chẳng hạn Nhà nước phối hợp với các doanh nghiệp, nhà hảo tâm tăng cường hỗ trợ phục hồi, khôi phục bản sắc văn hoá dân tộc, các di tích văn hoá lịch sử để người dân hướng về cội nguồn, tự hào với truyền thống lịch sử của quê hương dân tộc mình để từ đó tạo niềm tin, sự hứng khởi hăng say lao động sản xuất và chung tay xây dựng bản mường giàu đẹp. Đi kèm với sự hỗ trợ kinh phí, các tổ chức tài trợ cần có kế hoạch bố trí cán bộ giúp đỡ các huyện thực hiện được mục tiêu hỗ trợ đơn vị mình.
3.3.4- Tuyên truyền vận động các hộ nghèo tích cực thực hiện giảm nghèo nhanh và bền vững:
Để thực hiện được mục tiêu giảm nghèo nhanh và biền vững đòi hỏi cả cộng đồng vào cuộc, tuy nhiên chủ thể trung tâm để tiếp nhận và hưởng ứng tích cực chương trình phải là các hộ dân được thụ hưởng chương trình xoá đói giảm nghèo, từ đó họ phải tự nỗ lực vươn lên để thoát nghèo. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến đói nghèo của các hộ dân mà chính nội tại người dân cần được xoá đói giảm nghèo lại là nguyên nhân chính. Sinh ra và lớn lên giữa vùng rừng núi trập trùng ít được đi xa, do điều kiện địa lý địa hình hiểm trở khó khăn cùng với đời sống quá khó khăn nên đa số người lao động không được học hành đến nơi đến chốn, trình độ học vấn có hạn, trình độ chuyên môn gần như không có, chưa được đạo tạo tập huấn nên người lao động vùng miền núi dân tộc các huyện vùng cao thiếu kiến thức chuyên môn kỹ thuật nghiệp vụ cho phát triển sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội, chưa được tiếp cận với tiến bộ kỹ thuật, làm ăn dựa theo bản năng kinh nghiệm nên năng suất chất lượng cây trồng vật nuôi không phát triển, dịch bệnh thiên tai đe doạ thường xuyên làm cho đời sống nhân dân miền núi vùng cao luôn luôn gặp nhiều khó khăn vất vả. Cùng với thời gian và điều kiện sống đã khiến cho tư duy sản xuất làm ăn lớn trong họ không hình thành được dẫn đến hiện tượng bảo thủ trì trệ trong cách nghĩ cách làm, không chịu khó suy nghĩ, không chịu đầu tư công sức vốn liếng vào sản xuất mà chỉ canh tác theo kiểu quảng canh được chăng hay chớ. Thực tế chỉ đạo sản xuất hàng năm trên địa bàn huyện Quế Phong cho thấy mặc dù được chỉ đạo, hướng dẫn khuyến cáo nhiều về kỹ năng, phương pháp sản xuất mới, tiến bộ kỹ thuật mới hiệu quả chất lượng sẽ đạt được cao hơn nhưng người dân không chịu áp dụng. Hàng năm huyện Quế Phong có khoảng 150 ha ruộng có nguy cơ khô hạn tuy đã được khuyến cáo nên chuyển đổi cơ cấu màu vụ chuyển sang làm màu (ngô, khoai) cần ít nước hơn chứ không nên cấy lúa nhưng tư duy sản xuất của người dân vẫn quen với việc cấy lúa nên họ vẫn cố cấy cây lúa xuống ruộng mặc dù ruộng đó khô hạn và sẽ không cho thu hoạch. Cây lúa cấy xuống hàng năm theo thói quen cấy chay không có chăm bón đầu tư nên năng suất không cao mặc dù đã đươợckhuyến cáo nhiều. Nguồn phân bón hữu cơ như phân chuồng, phân xanh ở trong làng bản do nuôi nhiều trâu bò nên đủ cung cấp cho đồng ruộng nhưng do thói quen thiếu chịu khó nên rất ít đồng ruộng được chăm bón bằng phân hữu cơ.
Một nguyên nhân quan trọng là sự thụ động, ỷ lại, chờ đợi trông chờ vào sự trợ giúp của nhà nước, sự giúp đỡ từ cộng đồng của những người dân nghèo sở tại. Ngoài một số nguyên nhân bất khả kháng do bệnh tật, thiên tai làm khánh kiệt gia sản và đẩy một số hộ dân vào nghèo khó thì cơ bản các hộ nghèo đói lại là những hộ không biết cách thức làm ăn, không chịu khó lao động sản xuất, sống dựa dẫm ỷ lại, trông chờ sự cưu mang cứu giúp của cộng đồng, của Nhà nước. Vừa không chịu khó lao động sản xuất nên đồng ruộng không được chăm sóc thâm canh, khi bị sâu bệnh không lo mua thuốc phun trừ dập dịch mà chờ đợi xem nhà nước có hỗ trợ gì không, dẫn đến cuốí vụ không có thu hoạch; thậm chí có vụ lúa chín rũ ngoài đồng nhưng không chịu thu hoạch do trời mưa nên bà con ngại ra đồng, trong khi vẫn biết rằng nếu không thu hoạch kịp thời thì mưa lũ ập đến cuốn trôi hết thành quả lao động của mình bỏ ra trong cả vụ. Và thực tế những vụ đó lũ lụt đã cướp đi mùa màng của nông dân. Chăn nuôi trâu bò thì đem thả rông trên rừng không chăn dắt bảo quản mất còn không hay, dịch bệnh xảy ra không biết để mà chữa trị, đến khi trâu bò bị mất, bị chết vì bệnh dịch trên rừng cả tháng gia chủ mới biết. Những điều đó chứng tỏ một tư duy cũ của người dân nghèo khổ vùng cao là thờ ơ, bàng quan không quan tâm cả đến thành quả lao động sản xuất của mình đã bỏ ra, không biết xót xa với những kết quả lao động sẽ bị thiên tai dịch bệnh sắp cướp đi mà nếu mình ra tay gắng sức thêm thì sẽ thu hồi lại được. Làm việc với tinh thần được chăng hay chớ của những người dân nghèo vùng cao như vậy chắc chắn không đem lại hứa hẹn của một cuộc sống ấm no vĩnh viễn cho gia đình và cho cả cộng đồng.
Do vậy phải xác định tư tưởng và trách nhiệm cho chính những người được XĐGN, yêu cầu họ nhìn nhận nghiêm túc vai trò vị trí của mình trong công cuộc XĐGN này và phải tự vươn lên để thoát nghèo. Nhà nước và các tổ chức, nhà hảo tâm chỉ cho họ cần câu, còn muốn có cá ăn thì người nghèo phải tự câu lấy. Các hộ dân nghèo phải hăng hái và tích cực lao động sản xuất cùng với sự hỗ trợ đầu tư của Nhà nước để nhanh chóng được thoát nghèo.
Để tăng cường sự giúp đỡ các hộ nghèo cần phải đẩy mạnh vai trò giúp đỡ hỗ trợ của các tổ chức được phân công hướng dẫn xoá đói giảm nghèo cho các hộ dân. Quá trình giảm nghèo để mang lại kết quả bền vững cần phải có sự đầu tư tiếp tục và chỉ đạo quyết liệt từ mọi cấp mọi ngành, đặc biệt là vai trò chỉ đạo điều hành tổ chức thực hiện ở cấp huyện và cơ sở. Ở cấp huyện đã có sự phân công các ban phòng, các tường học, tổ chức trên địa bàn huyện mỗi đơn vị giúp đỡ hướng dẫn xóa nghèo cho một số hộ. Cách thức chính là khảo sát hộ và hướng dẫn hộ cách làm ăn, vay vốn, chuyển đổi cơ cấu sản xuất phù hợp, bởi trình độ và sự năng động cũng như kinh nghiệm làm ăn của các hộ nghèo còn rất thấp cần sự hướng dẫn chỉ bảo tận tình theo phương thức cầm tay chỉ việc. Thời gian qua ở huyện Quế Phong đã có một số đơn vị làm tốt việc hướng dẫn giúp đỡ hộ nghèo. Tuy nhiên nhiều bộ phận đang hưởng ứng và chấp hành một cách miễn cưỡng, hình thức. Do vậy cần tăng cường sự chỉ đạo của chính quyền cấp huyện để yêu cầu các tổ chức đơn vị được phân công giúp đỡ hộ nghèo vào cuộc môt cách đích thực, có cam kết và có chương trình công tác cụ thể để giúp đỡ hộ nghèo, cuối năm có đánh giá kiểm tra kết quả xoá nghèo tại hộ và kết quả công tác của đơn vị giúp đỡ để làm tiêu chí đánh giá hoàn thành nhiệm vụ công tác của đơn vị đó. Có như vậy kết quả giảm nghèo sẽ nhanh hơn và đi theo được hướng giảm nghèo bền vững hơn.
3.3.5- Xây dựng và đào tạo đội ngũ cán bộ địa phương cơ sở:
Thực trạng trình độ đội ngũ cán bộ chủ chốt ở cơ sở các xã miền núi vùng cao rất đáng quan ngại. Hầu hết là những người trưởng thành từ phong trào lao động sản xuất tại địa phương, được bổ túc chương trình đào tạo chính trị, chương trình quản lý chuyên môn kỹ thuật. Đội ngũ cán bộ trẻ được đào tạo từ các trường chuyên nghiệp nhưng thực sự lĩnh hội kiến thức chuyên môn kỹ thuật cũng chưa được nhiều vì cơ bản là cử tuyển vào trường chuyên nghiệp để ra trường về phục vụ lại địa phương và bản lĩnh chính trị chưa vững vàng. Do vậy công tác đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ cơ sở là vấn đề rất cần thiết.
Cần thực hiện nhanh chương trình đào tạo cán bộ xã nghèo do Nghị quyết 30a vạch ra là: Tăng cường chính sách đào tạo cán bộ tại chỗ, đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên môn, cán bộ y tế cơ sở cho con em ở các huyện nghèo tại các trường đào tạo của Bộ Quốc phòng; ưu tiên tuyển chọn quân nhân hoàn thành nghĩa vụ quân sự là người của địa phương để đào tạo, bổ sung cán bộ cho địa phương. Có chính sách đào tạo, nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ cơ sở; tổ chức tập huấn, đào tạo ngắn hạn, dài hạn cho đội ngũ cán bộ cơ sở thôn, bản, xã, huyện về kiến thức quản lý kinh tế - xã hội; xây dựng và quản lý chương trình, dự án; kỹ năng xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch.
Thực hiện chính sách luân chuyển và tăng cường cán bộ tỉnh, huyện về xã đảm nhận các cương vị lãnh đạo chủ chốt để tổ chức triển khai thực hiện cơ chế, chính sách đối với các huyện nghèo;
Việc thực hiện các chương trình xoá đói giảm nghèo, phát triển kinh tế xã hội tại các huyện, xã miền núi vùng cao thành công nhanh chóng phụ thuộc nhiều vào trình độ năng lực chỉ đạo điều hành của đội ngũ cán bộ và đặc biệt là ở tâm huyết, trăn trở, trách nhiệm với công việc được giao phó. Tự bản thân mỗi cán bộ cần phải rèn luyện và cống hiến để được nhân dân khẳng định rằng mình là người không bàng quan, thờ ơ với nhiệm vụ được giao. Người cán bộ cơ sở cần gạt bỏ thói quen cố hữu trong đầu là làm việc được chăng hay chớ, thiếu trách nhiệm với kết quả công việc chưa đạt được và lãnh cảm cả với nỗi khốn khó của cộng đồng đang hàng ngày hiện hữu. Khi đã xác định được trách nhiệm và có tâm huyết với công việc thì mỗi một cán bộ sẽ có phương pháp làm việc tốt hơn, đầu tư nhiều công sức hơn cho công việc được giao. Tuy nhiên không chỉ nhìn nhận cán bộ ở giác độ tự giác mà phải có nội quy quy định chặt chẽ để ràng buộc trách nhiệm cán bộ với công việc được giao, đánh giá cán bộ bằng mức độ hoàn thành nhiệm vụ công tác được giao cả về thời gian và chất lượng công tác. Có quy định khen thưởng cán bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ và có chế tài xử lý khi cán bộ vi phạm, không hoàn thành nhiệm vụ.
Đi đôi với việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ mọi mặt cho cán bộ từ cấp huyện đến cơ sở, một điều hết sức quan tâm là cần có chế độ đãi ngộ thích đáng cho đội ngũ cán bộ địa phương cơ sở. Đội ngũ cán bộ cơ sở làm việc về cơ bản là nhiệt tình, có tâm huyết nhưng chế độ đãi ngộ thời gian vừa qua là thấp. Có những cán bộ khuyến nông xã bản, cán bộ thú y bản được hưởng trợ cấp 100.000 đồng đến 120.000 đồng/tháng. Cán bộ nông nghiệp chỉ đạo suốt ngày quần quật với lo lắng chỉ đạo công tác phân giống, sâu bệnh cho dân nhưng chỉ được hưởng mức trợ cấp hàng tháng 300.000 đồng đến 5000.000 đồng/tháng. Chế độ đó không đủ nuôi sống cán bộ nên bắt buộc họ phải làm thêm nhiều việc khác để kiếm sống, nhiều lúc phải sao nhãng với công việc được giao để lo đi kiếm thêm miếng cơm manh áo cho bản thân và gia đình mình trước. Hàng năm Nhà nước tuy có sự điều chỉnh trợ cấp cho cán bộ cơ sở nhưng không đáp ứng yêu cầu cuộc sống. Do vậy cần có chế độ đãi ngộ thích đáng hơn cho cán bộ cơ sở để cán bộ cơ sở, cán bộ chuyên môn có thể phấn khởi hơn, yên tâm hăng say công tác cống hiến cho công việc được nhiều hơn để cùng với nhân dân đưa các huyện miền núi vùng cao nhanh chóng giảm nghèo bền vững. Thực hiện chế độ trợ cấp ban đầu đối với cán bộ thuộc diện luân chuyển; có chế độ tiền lương, phụ cấp và chính sách bổ nhiệm, bố trí công tác sau khi hoàn thành nhiệm vụ. Có chính sách hỗ trợ và chế độ đãi ngộ thỏa đáng để thu hút khuyến khích trí thức trẻ về tham gia tổ công tác tại các xã thuộc huyện nghèo.
Nhanh chóng đưa mối liên kết "bốn nhà": nhà nước, nhà doanh nghiệp, nhà khoa học và nhà nông vào thực tiễn sản xuất và phát triển của các huyện miền núi vùng cao. Vai trò Nhà nước được tăng cường nhưng rất cần sự vào cuộc của các nhà khoa học bằng các thử, thực nghiệm và khuyến cáo áp dụng tiến bộ kỹ thuật, rất cần sự đầu tư hỗ trợ và tạo đòn bẩy kích thích từ các nhà Doanh nghiệp đầu tư vào các huyện miền núi vùng cao để nhân dân nghèo được cùng hưởng lợi và làm theo. Có sự phối hợp đồng bộ như vậy thì nhà nông, nhà nghèo mới nhanh chóng thoát nghèo và thoát nghèo bền vững.
3.3.6- Tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện giảm nghèo nhanh và bền vững.
Cùng với việc đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội ở các huyện vùng cao thì việc chấp hành kỷ cương phép nước và tuân thủ các quy định của pháp luật có lúc có nơi còn bị vi phạm. Do cùng lúc tiến hành đầu tư xây dựng phát triển nhiều chương trình, công trình nên việc quản lý của các cơ quan chức năng có lúc bị buông lỏng hoặc không đáp ứng được yêu cầu kiểm tra giám sát thường xuyên. Do vậy đã có những công trình bị hư hỏng ngay trong quá trình thi công, có những công trình bị chậm trễ tiến độ, có những công trình bị thất thoát, lãng phí,... Huyện Quế Phong đã có những tuyến đường huyết mạch được đầu tư xây dựng bằng nguồn vốn ODA, trái phiếu chính phủ nhưng đã bị chậm tiến độ, kéo dài nhiều năm gây khó khăn lớn cho phát triển sản xuất, xã hội như đường giao thông Hạnh Dịch đi Mường Đán dài 12km với tổng mức đầu tư 25 tỷ đồng, đường giao thông Châu Thôn đi Quang Phong dài 15km với tổng mức đầu tư 40 tỷ đồng,...Công trình thuỷ lợi Minh Châu không phát huy tác dụng khi không đưa được nước về tưới cho khu kinh tế mới Minh Châu là nơi đưa 120 hộ đồng bào dân tộc HMông xuống núi để làm ăn sản xuất không phá rừng làm rẫy. Nguyên nhân là do giải phóng mặt bằng chậm, kéo dài thời gian thi công nên trượt giá chưa xây dựng lại được phương án bù giá, do nhà thầu không khẩn trường thi công theo quy định, do khâu khảo sát thiết kế không đáp ứng yêu cầu,... Từ đó cần chấn chỉnh nhanh việc quản lý đầu tư và siết chặt kỷ cương, có những chế tài xử phạt nghiêm khắc để ổn định tình hình đầu tư phát triển. Ban hành các quy định về đầu tư, đấu thầu, cơ chế tài chính phù hợp với đặc thù và năng lực tổ chức thực hiện ở các huyện nghèo; Kiên quyết loại bỏ các nhà thầu thi không không đáp ứng năng lực, xử lý và thay thế các cán bộ các ban quản lý dự án không cáo năng lực và có hành vi nhũng nhiễu, nêu yêu cầu cao cho cán bộ địa phương cơ sở trong việc giao trách nhiệm giám sát quản lý các chương trình đầu tư cho xã và có chế tài xử phạt nghiêm túc dành cho cán bộ khi không hoàn thành nhiệm vụ. Đặc biệt với các dấu hiệu vi phạm tham nhũng, làm trái, gây thất thoát, nhũng nhiễu tham ô phải được phát hiện sớm và kiên quyết xử lý kịp thời, kỷ luật thích đáng để lấy lại lòng tin cho nhân dân và kích thích mọi tầng lớp hăng say hơn nữa trong sản xuất và xây dựng quê hương giàu đẹp.
Quy định rõ trách nhiệm các cấp ngành trong tổ chức thực hiện: Chính phủ quyết định các mức hỗ trợ và khi cần thiết sửa đổi các mức hỗ trợ quy định với yêu cầu phải thực sự phù hợp với tình hình thực tế từng giai đoạn. Các chính sách ưu đãi đầu tư được xây dựng và ban hành không được trùng chéo lẫn nhau giữa các chương trình và giữa các thời gian. Nếu trùng với các chính sách ra sau nhưng với mức ưu đãi khác nhau thì hưởng theo mức ưu đãi cao nhất. Tất cả các xã thuộc các huyện nghèo đều được hưởng các cơ chế, chính sách quy định như đối với xã đặc biệt khó khăn thuộc Chương trình 135 giai đoạn 2.
Trung ương giao cho Ủy ban nhân dân cấp huyện căn cứ định hướng cơ chế, chính sách hỗ trợ giảm nghèo chung, xuất phát từ nhu cầu thực tế của người dân ở từng thôn, bản, xã và căn cứ vào nguồn lực từ các chương trình, dự án trên địa bàn để quyết định bố trí đầu tư cụ thể, bảo đảm đầu tư đồng bộ và hiệu quả. Những công trình quy mô nhỏ ở cấp thôn, bản giao cho các tổ, đội, hội, nhóm ở thôn, bản tổ chức thực hiện với yêu cầu phải đáp ứng tiêu chuẩn kỹ thuật xây dựng, bảo đảm sử dụng tiết kiệm hiệu quả vốn đầu tư. Trung ương tiếp tục nghiên cứu xây dựng cơ chế thông thoáng, dễ làm, dễ thực hiện thanh quyết toán tại các địa phương thôn bản trong việc tổ chức thực hiện các công trình nhỏ lẻ không đòi hỏi yếu tố kỹ thuật cao, tạo điều kiện cho cộng đồng và người dân sở tại tham gia thực hiện để có việc làm và tăng thu nhập.
Nguồn vốn của Chương trình gồm vốn ngân sách nhà nước, vốn ODA, trái phiếu Chính phủ, vốn tín dụng đầu tư, vốn đóng góp của doanh nghiệp và dân cư, vốn thực hiện các chương trình, dự án hiện hành được ghi trong kế hoạch hàng năm và 5 năm. Việc phân bổ vốn thực hiện theo nhu cầu thực tế và kế hoạch tiến độ thực hiện nêu trong Đề án huyện nghèo đã được phê duyệt. Yêu cầu các huyện nghèo cần có đề án rõ ràng phân khai nhiệm vụ kế hoạch nhu cầu đầu tư, tiến độ thực hiện và đề án phải được UBND tỉnh phê duyệt sau khi tham khảo ý kiến các Bộ, ngành.
KẾT LUẬN
Xóa đói giảm nghèo là yếu tố cơ bản đảm bảo công bằng xã hội, thúc đẩy nhanh chương trình giảm nghèo nhanh và bền vững là động lực chính thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế - xã hội cho các huyện miền núi vùng cao. Giảm nghèo nhanh và bền vững không chỉ là công việc trước mắt mà còn là nhiệm vụ lâu dài. Vai trò Nhà nước đã được khẳng định rõ trong việc hoạch định chính sách và tổ chức chỉ đạo thực hiện công tác giảm nghèo nhanh và bền vững. Và với nhiệm vụ giảm nghèo nhanh và bền vững còn tiếp tục thì vai trò Nhà nước còn cần tiếp tục được nâng cao để đưa chương trình đi tới thành công.
Xóa đói giảm nghèo là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước. Vai trò Nhà nước trong việc xây dựng và chỉ đạo thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói giảm nghèo đã đem lại nhiều hiệu quả thiết thực, tỷ lệ đói nghèo đã giảm nhanh qua các năm, đặc biệt ở các huyện miền núi vùng cao. Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP của Chính phủ về chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững cho 61 huyện miền núi vùng cao đang thực sự là luồng gió mới thổi mát vào vùng đất khô nóng này, là sinh khí và là đòn bẩy cho các chương trình dự án tiếp tục được đầu tư vào các miền núi vùng cao đặc biệt khó khăn, và là sự khơi dậy tiếp nối cho việc đầu tư hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững cho tất cả các huyện miền núi vùng cao cả nước bằng nhiều chương trình dự án đầu tư mới. Đói nghèo ở các huyện miền núi vùng đã bị đẩy lùi một bước khá xa, số hộ dân cư khá và giàu tăng lên, đời sống nhân dân có nhiều cải thiện.
Quế Phong là một minh chứng cho huyện miền núi vùng cao thuộc diện nghèo khó nhất tỉnh Nghệ An và là một trong số 61 huyện nghèo nhất nước được hỗ trợ đầu tư giảm nghèo nhanh và bền vững theo Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP ngày 27/12/2008 của Chính phủ. Các năm qua vai trò Nhà nước đã có nhiều cố gắng chỉ đạo điều hành và huy động mọi nguồn lực cùng với quản lý thật tốt để đẩy nhanh tốc độ giảm nghèo; biến các chủ trương thành công việc chỉ đạo cụ thể sử dụng và phát huy tốt mọi nguồn đầu tư, khơi dậy sự tự lực tự cường trong nhân dân để nhanh chóng giảm nghèo theo hướng bền vững. ,...Do vậy, từ những năm 2000 tỷ lệ đói nghèo toàn huyện ở mức trên 70% đến năm 2008 giảm xuống 50%, và với việc thực hiện Nghị quyết 30a sau 2 năm đến nay tỷ lệ đói nghèo đã giảm xuống còn hơn 40%. Đời sống mọi mặt của nhân dân được nâng lên, bộ mặt xã hội nông thôn miền núi có nhiều khởi sắc tích cực.
Tuy nhiên một thực tế đặt ra là hộ cận nghèo của huyện Quế Phong nói riêng và các huyện miền núi vùng cao đặc biệt khó khăn nói chung là đang còn rất lớn, sau mỗi lần thay đổi chuẩn nghèo thì số hộ nghèo lại tăng lên gần bằng mức cũ. Mặt khác số hộ cận nghèo rất dễ quay lại hộ nghèo nếu không tiếp tục được hỗ trợ đầu tư và sự vận động tiếp tục một cách mãnh liệt vươn lên của chính bản thân gia đình họ. Do vậy, vai trò Nhà nước cần tăng cường hơn nữa, kiên trì với mục tiêu đã định để chỉ đạo, giúp đỡ, khâu nối, phối hợp mọi nguồn lực đầu tư để đạt kết quả giảm nghèo nhanh và bền vững đã đề ra.
Chương trình giảm nghèo nhanh và bền vững đang đi những bước đi chắc chắn và hiệu quả. Cùng với sự hỗ trợ tích cực của Nhà nước, các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước và sự hưởng ứng tích cực, tính tự giác vươn lên để thoát nghèo của người dân, chúng ta có thể khẳng định rằng mục tiêu giảm nghèo nhanh và bền vững sẽ được thực thi và hoàn thành theo như kế hoạch đã định trên địa bàn các huyện miền núi vùng cao cả nước, hoà nhập chung với cộng đồng cả nước cùng phát triển trong tiến trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá nước nhà./.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1- Báo cáo kết quả 1 năm thực hiện Nghị quyết số 30a/2008/ NQ-CP ngày 27/12/2008 của Chính phủ về chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo của các Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính, Lao động, thương binh và xã hội, Nông nghiệp và PTNT (tại hội nghị Lào Cai 17/12/2009)
2- Báo cáo sơ kết thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia XĐGN và việc làm 2001 – 2003, nhiệm vụ và giải pháp 2004- 2005 (Bộ Lao động, Thương binh và xã hội, tháng 10/2003)
3- Báo cáo của UBND tỉnh Nghệ An về kết quả 1 năm thực hiện Nghị quyết số 30a/2008/ NQ-CP ngày 27/12/2008 của Chính phủ về chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 3 huyện miền núi vùng cao Kỳ Sơn, Tương Dương, Quế Phong, (tại hội nghị Kỳ Sơn tháng 2/2010)
4. Báo cáo chính trị của BCH Đảng bộ huyện Quế Phong khoá XIX nhiệm kỳ 2005 - 2010
5- Bộ Chính trị: Nghị quyết số 37/NQ-BCT ngày 16/8/2004 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế – xã hội và đảm bảo quốc phòng, an ninh miền núi Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ;
6- Bộ Kế hoach và Đầu tư: Hướng dẫn đề án phát triển kinh tế - xã hội nhằm giảm nghèo nhanh và bền vững cấp huyện giai đoạn 2009 – 2020 (Hướng dẫn số 802/BKH ngày 11/2/2009)
7- Bộ Lao động – Thương binh và xã hội: Kế hoạch triển khai thực hiện Nghị quyết số 30a/2008/ NQ-CP ngày 27/12/2008 của Chính phủ về chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo (ngày 12/2/2009)
8- Bộ Nông nghiệp và PTNT: Thông tư số 06 ngày 10/2/2009 hướng dẫn xây dựng quy hoạch sản xuất nông – lâm – ngư nghiệp, bố trí dân cư đối với 61 huyện nghèo.
9. Chính phủ: Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP ngày 27/12/2008 của Chính phủ về chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo
10- Cộng hoà XHCN Việt Nam: Chiến lược toàn diện về tăng tưởng và xoá đói giảm nghèo – Tháng 5/2002
11- Đề án Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội huyện Quế Phong đến năm 2020 (tháng 7/2009).
12 - Đề án phát triển kinh tế - xã hội nhằm giảm nghèo nhanh và bền vững ở các huyện miền núi vùng cao Nghệ An (Quế Phong, Kỳ Sơn, Tương Dương) giai đoạn 2009 – 2020
13- Hội đồng Dân tộc Quốc hội: Báo cáo số 718/BC-HDDT ngày 10/10/2005 về kết quả giám sát thực hiện chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi, vùng sâu vùng xa (chương trình 135)
14- PGS.TS Lê Du Phong, PGS Hoàng Văn Hoa: Kinh tế thị trường và sự phân hoá giàu nghèo ở vùng dân tộc và miền núi phía Bắc nước ta hiện nay - (Viện nghiên cứu kinh tế và phát triển - Đại học Kinh tế Quốc dân; NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội – 1999).
15- TS Chu Tiến Quang và tập thể tác giả: Nghèo đói và XĐGN ở Việt Nam - NXB Nông nghiệp, Hà Nội – 2001
16- Thời báo kinh tế Việt Nam: Kinh tế 2008 – 2009
17. Thủ tướng Chính phủ: Quyết định số 197/2007/QĐ-TTg ngày 28/12/2007 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Nghệ An đến năm 2020
18- Thủ tướng Chính phủ: Quyết định số 147/2005/QĐ-TTG về phát triển kinh tế - xã hội miền Tây Nghệ An đến năm 2010.
19- Thủ tướng Chính phủ: Quyết định số 07/2006/QĐ-TTg ngày 10/01/2006 phê duyệt chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc và miền núi giai đoạn 2006-2010;
20- Thủ tướng Chính phủ: Quyết định số 32/2007/QĐ-TTg ngày 05/3/2007 về việc cho vay vốn phát triển sản xuất đối với hộ đồng bào dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn;
21- Thủ tướng Chính phủ: Quyết định số 33/2007/QĐ-TTg ngày 05/3/2007 về chính sách hỗ trợ di dân thực hiện định canh định cư;
22- Thủ tướng Chính phủ: Quyết định số 193/2006/QĐ-TTg ngày 24/8/2006 về Chương trình bố trí dân cư các vùng thiên tai, đặc biệt khó khăn, biên giới hải đảo, di cư tự do, xung yếu và rất xung yếu của rừng phòng hộ, khu bảo vệ nghiêm ngặt của rừng đặc dụng giai đoạn 2006-2010 và định hướng đến năm 2015;
23- Thủ tướng Chính phủ: Quyết định số 160/2007/QĐ-TTg ngày 10/7/2007 phê duyệt đề án “Phát triển kinh tế – xã hội các tuyến biên giới Việt Nam – Lào và Việt Nam – Cam Pu Chia đến năm 2010;
24- Thủ tướng Chính phủ: Quyết định số 167/2008/QĐ-TTg ngày 12/02/2007 về chính sách hộ trợ người nghèo về nhà ở;
25 - Thủ tướng Chính phủ: Quyết định số 531/TTg ngày 08 tháng 8 năm 1996 về quản lý các chương trình quốc gia;
26 - Thủ tướng Chính phủ: Quyết định số 05/1998/QĐ-TTg ngày 14 tháng 01 năm 1998 về quản lý các chương trình mục tiêu quốc gia;
27. Trung tâm Thông tin, Bộ Nông nghiệp và PTNT: “Trung Quốc trong bối cảnh gia nhập WTO và một số vấn đề đặt ra với nông nghiệp Việt Nam” ; Số 3 – 2002.
28. Trung tâm Thông tin, Bộ Nông nghiệp và PTNT: “Thái Lan cải tổ và phát triển trong tình hình mới”; Số 3 – 2002.
29- UBND tỉnh Nghệ An: Quyết định số 6493/QĐ-UBND ngày 08/12/2009 phê duyệt đề án quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội huyện Quế Phong đến năm 2020
30- UBND tỉnh Nghệ An: Quyết định số 95/2007/QĐ-UBND ngày 14/8/2007 phê duyệt đề án quy hoạch lại dân cư miền Tây Nghệ An
31- Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X
32- Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Nghệ An khoá XVI (tháng 5/2006)
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 26973.doc