Vai trò Ngân hàng Trung ương trong nền kinh tế thị trường

Lời nói đầu Trong nền kinh tế thị trường, lĩnh vực tiền tệ , hoạt động NH trở thành một trong những lĩnh vực kích thích nhất của toàn bộ nền kinh tế. Hoạt động của tiền trong nền kinh tế luôn gắn liền với các hiện tượng kinh tế như: lạm phát, chu kì kinh doanh, thâm hụt ngân sách.... Tiền tệ liên quan đến các quyết định của các cá nhân và ảnh hưỏng đến tình trạng chung của nền kinh tế quốc gia. Liên quan đến sự hoạt đông của tièn trong nền kinh tế là sự hoạt động của các tổ chức tài chính (c

doc17 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 3071 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Vai trò Ngân hàng Trung ương trong nền kinh tế thị trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ác ngân hàng, công ty bảo hiểm, các quỹ tuơng trợ..) và thị trường tài chính ( TTCK, TTCP và Hối Đoái). Các thị trường tài chính và các tổ chức tài chính không chỉ tác động đến đời sống hàng ngày của mỗi cá nhân mà còn liên quan đến sự luân chuyển của những dòng vốn lớn trong nền kinh tế, tác động đến hiệu qủa của các hoạt động doanh nghiệp và đến cả tình trạng kinh tế của một nước. Như chúng ta đã biết, nếu vốn dược coi là một trong những nguồn lực quan trọng và đóng vai trò quyết định đối với sự phát triển kinh tế, nó có một tính chất khan hiếm. Vậy vấn đề đặt ra là làm thế nào để sử dụng một cách triệt để và có hiệu quả nhất nguồn vốn trong nước và nước ngoài ? Để đạt được điều này trước hết phải có một hệ thống ngân hàng phát triển đồng bộ, có sự phối hợp nhịp nhàng giữa ngân hàng Nhà nước (NHNN) hay ngân hàng Trung Ương (NHTW) với các ngân hàng thương mại (NHTM ) trong việc thực hiện chính sách tiền tệ. ở đó vai trò đặc biệt của NHTW là không thể thay thế được . Vì vậy em đã đi đến quyết định chọn đề tài: "Vai trò của Ngân hàng Trung ương trong nền kinh tế thị trường" Do thời gian nghiên cứu có hạn nên bài viết còn có nhiều sai sót. Em rất mong sự góp ý của các thầy cô. sinh viên Nguyễn Mạnh Hưởng Chương I Vai trò của ngân hàng trung ương trong nền kinh tế thị trường I. Khái niệm NHTW Đến nay ở mọi quốc gia trên thế giới đều có NHTW , nhưng tên gọi có thể khác nhau như: Hoa kì : Cục dự trữ liên bang( FED) Pháp: Ngân hàng Trung Ương Việt Nam Ngân hàng Nhà nước Tiền thân của ngân hàng trung ương làm nhiệm vụ phát hành tiền, quản lý các hoạt động về tiền tệ. Khi ngân hàng có tên là ngân hàng trung ương thì ngân hàng này đảm nhiệm việc độc quyền phát hành tiền và quản lý nhà nước. Do tính chất hoạt động của NHTW mà ngân hàng này nắm trong tay công cụ quản lý chủ yếu nhất của nhà nước trong quản lý kinh tế vĩ mô là chính sách tền tiền tệ. NHTW là một bộ phận trong bộ máy quản lý của Nhà nước. Như vậy NHTW là cơ quan duy nhất có quyền phát hành tiền ( in tiền) vì thế nó là ngân hàng duy nhất không có khả năng bị phá sản. Nó đóng vai trò chủ ngân hàng đối với các ngân hàng thương mại , đảm bảo cho hệ thống ngân hàng hoạt động không trục trặc và còn đóng vai trò chủ ngân hàng đối với Chính phủ, gánh trách nhiệm kiểm soát việc cung ứng tiền tệ và việc tài trợ cho thâm hụt ngân sách của Chính phủ. II. Chức năng và nhiệm vụ của NHTW trong nền kinh tế thị trường. Để hiểu rõ hơn về NHTW chúng ta sẽ đi vào nghiên cứ các chức năng và vai trò của HTW trong nền kinh tế thị trường. Vai trò đặc trưng nhất của NHTW là ngân hàng phát hành , ngân hàng của Nhà nước và ngân hàng của các ngân hàng. 2.1. Ngân hàng Nhà nước là ngân hàng phát hành . Nhiệm vụ bao trùm nhất là hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ theo cơ chế thị trường . Ngân hàng phát hành xuất hiện, việc phát hành được ấn định vào các ngân hàng phát hành, sau đó được ấn định vào một ngân hàng. Khi NHTW ra đời, NHTW đã đóng vai trò độc quyền phát hành tiền, có nhiệm vụ đảm bảo thống nhất an toàn cho hệ thống lưu thông tiền tệ. Đây là chức năng cơ bản và vốn có của ngân hàng Trung Ương. Tiền do NHTW phát hành là phương tiện hợp pháp duy nhất. Với chức năng phát hành, Độc quyền phát hành tiền của NHTW không chỉ thể hiện quyền lực của NHTW mà còn nhấn mạnh trách nhiệm của NHTW trong việc phát hành tiền để đảm bảo phát triển kinh tế và lưu thông tiền tệ ổn định . ở đây, một vấn đề có tính nguyên tắc là đòi hỏi có tính nghiêm ngặt đối với việc vận hành chính sách tiền tệ là không được hát hành tiền để bù đắp thiếu hụt nhân sách. Hoạt động tín dụng không tách riêng mà nằm trong hoạt động tiền tệ. Phát hành tiền không còn là nguồn vốn tín dụng, mà chỉ là hình thức cung ứng tiền trung ương , đáp ứng nhu cầu phương tiện thanh toán của các ngân hàng và nền kinh tế. Tiền mặt không phải là tất cả , mà nằm trong lượng tiền cung ứng. Trước đây quản lý tiền mặt đã từng là công cụ quản lý duy nhất , là nhiệm vụ thường xuyên hàng đầu của Ngân hàng Nhà nước. Giờ đây , tiền mặt chỉ là phương tiện thanh toán xã hội cần bao nhiêu đều được đáp ứng đủ . Quản lý tiền mặt được thay bằng khái niệm quản lý lượng tiền cung ứng. 2.2 Là ngân hàng của Chính phủ. Ngân hàng TW không chỉ thay mặt điều hành kiểm soát hoạt động tiền tệ và toàn hệ thống các tổ chức tín dụng, mà NHTW còn thực hiện cung cấp các dịch vụ ngân hàng cho Chính phủ : Làm thủ quỹ cho Kho bạc Nhà nước thông qua việc quản lý tài khoản của kho bạc, các khoản thu của kho bạc dưới dạng thuế, phí, thu khác được gửi vào tài khoản tại ngân hàng trung ương. Ngân hàng TW có trách nhiệm theo dõi, thực hiện chi trả theo yêu cầu của kho bạc, trong thời gian kho bạc chưa sử dụng NHTW tạm thời được sử dụng số dư nhàn rỗi này. Bảo quản dự trữ quốc gia về: ngoại tệ, vàng bạc, đá quý và tài sản quý khác, các chứng khoán do các tổ chức trong nước hoặc nước ngoài phát hành. Làm đại lý cho Chính phủ trong việc đấu thầu, phát hành và thanh toán tín phiếu, trái phiếu, công trái của Chính phủ. Cho Ngân sách Nhà nước vay trong những trường hợp cần thiết. Làm tư vấn cho Chính phủ về những vấn đề kinh tế, tiền tệ và đại diện cho chính phủ tại cáctổ chức tài chính quốc tế. Thực hiện quản lý Nhà nước về tiền tệ tín dụng và hoạt động ngân hàng. Tuy nhiên, Ngân hàng Trung ương không phải là tổ chức duy nhất thực hiện vai trò thủ quỹ cho Chính phủ mà ở một số nước thu chi của Chính phủ có thể gửi ở các ngân hàng tư nhân. 2.3. Là ngân hàng của các ngân hàng. Thực hiện chức năng này, NHTW đóng vai trò là ngân hàng còn các ngân hàng thương mại và các trung gian tài chính (quỹ tín dụng, công ty bảo hiểm...) là các khách hàng của NHTW. NHTW thực hiện chức năng là ngân hàng của các ngân hàng nhằm điều khiển toàn bộ hệ thống ngân hàng trong cả nước hoạt động một cách an toàn, năng động và có hiệu quả trong kỷ cương pháp luật. Nâng cao vai trò của hệ thống ngân hàng trong việc đảm bảo cung cấp cho nền kinh tế những dịch vụ tài chính tốt nhất, tạo mọi điều kiện đẩy mạnh công cuộc phát triển kinh tế những dịch vụ tài chính tốt nhất, tạo mọi điều kiện đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Ngân hàng TW là ngân hàng của các ngân hàng, được thực hiện thông qua nhiều mối quan hệ: a. NHNN tiến hành tái cấp vốn, thực hiện vai trò là người cho vay cuối cùng, qua nghiệp vụ tái triết khấu đối với các ngân hàng thương mại. Thực chất, đây là loại tín dụng có thế chấp giấy tờ có giá ngắn hạn. Qua nghiệp vụ này , NHTW thực hiện kiểm soát số lượng và chất lượng tín dụng của các ngân hàng thương mại. Ta biết rằng,bất kỳ một hệ thống NHTM nào có nguồn dự trữ ít ỏi cũng dễ bị ảnh hưởng bởi những cơn hoảng loạn tài chính. Hoảng loạn ngân hàng xảy ra khi các ngân hàng không có khả năng đáp ứng nhu cầu rút ra của người gửi, khi đó ngân hàng buộc phải chấp nhận phá sản. Để tránh dược những cơn hoảng loạn tài chính, cần phải có sự đảm bảo rằng các ngân hàng có thể nhận được tiền mặt khi có nhu cầu thực sự. Nguy cơ của những cơn hoảng loạn tài chính có thể tránh được hoặc ít nhất giảm bớt được đáng kể khi biết rằng NHTW sẵn sàng đóng vai trò cứu cánh à người cho vay cuối cùng khi không còn phương cách cứu vãn nào khác. NHNN luôn có được khả năng này vì nó là ngân hàng duy nhất có quyền phát hành tiền. Vai trò của NHTW là cứu cánh cho vay cuối cùng không chỉ đơn thuần duy trì được hệ thống tài chính hiện đạo tinh vi và gắn bó chạt chẽ với nhau, trong đó sự thất bại của một ngân hàng sẽ káo theo sự sụp đổ của nhiều ngân hàng khác. b. NHNN thực hiện có hiệu quả hơn nữa chức năng thanh tra kiểm soát thông qua hai kênh : Kiểm soát hệ tiền tệ , đảm bảo tương quan giữa tổng cung và tổng cầu tiền tệ, vừa tạo điều kiện thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô, vừa kiềm chế lạm phát, giữ cho nền kinh tế ổn định và phát triển. Kiểm soát các NHTM nhằm giữ gìn và đảm bảo an toàn cho hệ thống các tổ chức tín du ngj , giúp cho hoạt động các ngân hàng thương mại lành mạnh, ổn định và có hiệu quả. Việc kiểm soát các ngân hàng thương mại chủ yếu thông qua hệ thống các công cụ kinh tế, không can thiệp trực tiếp, quá sâu vào hoạt động kinh doanh của họ. c. NHNN tìm kiếm các hình thức và phương tiện thanh toán tiền mặt, tổ chức hệ thống thanh toán trong nền kinh tế quốc dân bao gồm hệ thống thanh toán trong cùng một ngân hàng, thanh toán giữa cá ngan hàng, thanh toán bù trừ trên cùng một địa bàn từ trung ương đến địa phương. d. NHTW có trách nhiệm và quan tâm trong việc thành lập và phát triển thị trường tièn tệ và thị trưoừng vốn dài hạn để từng bước chuyển các quan hệ vay mượn truyền thống, trực tiếp với các ngân hàng thương mại qua quan hệ gián tiếp thông qua các thị trường này và cũng tạo điều kiện để NHNN triển khai các nghiệp vụ thị trường mở. Qua việc phân tích ở trên chúng ta thấy được phần nào chức năng cũng như vai trò của NHTW trong nền kinh tế. Nhưng để ngan hàng TW thực sự trở thành ngan hàng của NN, ngân hàng của các ngân hàng thì nó phải thực hiện tốt chính sách tiền tệ. 2.4. NHTW và việc thực hiện chính sách tiền tệ. Chính sách tiền tệ quốc gia là chính sách kinh tế vĩ mô mà trong đó NHTW sử dụng các công cụ của mình để điều tiết và kiểm soát khối lượng tiền cung ứng nhằm đảm bảo sự ổn định giá trị của đồng tiền , đồng thời thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đảm bảo công ăn vệc làm. NHTW có một vai trò quan trọng trong việc quyết định các vấn đề liên quan đến chính sách tiền tệ. Vì mọi hoạt động của NHTW đều ảnh hưởng đến cung ứng tiền trong nền kinh tế. Cung ứng tiền thay đổi làm biến động: tiêu dùng, đầu tư, sản lượng quốc gia và giá cả. Có thể nói hoạt động của NHTW có ảnh hưởng lớn tới nền kinh tế. Điều tiết kinh tế vĩ mô thực chất là điều tiết cung ứng tiền. Khi thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng (hay mở rộng) tiền cung ứng nhiều hơn sẽ khuyến khích tiêu dùng, đầu tư, giảm thất nghiệp, tăng trưởng kinh tế, nhưng giá cả có phần nào cao hơn. Ngược lại khi thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt giảm tiền cung ứng, tạo khan hiếm tiền dẫn đến: Giảm tiêu dùng , đầu tư, sản xuất thu hẹp, thu nhập quốc dân giảm thất nghiệp tăng, giá cả hạ nền kinh tế quốc dân lâm vào tình trạng suy thoái. Thường thì khi nền kinh tế trong tình trạnh lạm phát kéo dài buộc NHTW phải sử dụng chính sách thắt chặt tiền tệ, ảnh hưởng của thắt chặt tiền tệ dẫn đến kinh tế suy thoá. Để khắc phục tình trạng này buộc NHTW chuyển sang chính sách nới lỏng tiền tệ để thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng. Như vậy thực thi chính sách tiền tệ là NHTW sử dụng các công cụ một cách hiệu quả để điều chỉnh lượng tiền cung ứng cho phù hợp với các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô và chủ động kiểm soát lượng tiền trong nền kinh tế để đạt được các mục tiêucủa chính sách tiền tệ. Thông qua tác động sâu sắc tới các yếu tố : Tín dụng, lãi suất, tỉ giá... các yếu tố này đã ảnh hưởng lớn tới mọi hoạt động trong nền kinh tế. Chính vì vậy, sự ổn định tiền tệ là nhiệm vụ thường trực của NHTW, là định hướng chỉ đạo toàn bộ hoạt động của NHTW. ChươngII Ngân hàng nhà nước việt nam trong sự chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước 1. Sự cần thiết phải xây dựng các thể chế tài chính trong nền kinh tế chuyển tiếp Qua quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường là hết sức khó khăn và phức tạp. Kinh tế trong giai đoạn chuyển tiếp có khu vực kinh tế tư nhân nhỏ nhưng phát triển rất nhanh chóng và khu vực kinh tế NN ngày càng co lại. Tuy nhiên, phần lớn các trường hợp kinh tế tư nhân không xuất hiện ngay lập tức mà dần theo thời gian và khu vực kinh tế nhà nước cũng không có biểu hiện mất ngay. Với sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân, xây dựng được một hệ thống tài chính vững chắc, lấy thị trường làm cơ sở để đảm bảo cho các thành phần kinh tế hoạt động tốt là một việc làm hết sức cần thiết. Trong quá trình chuyển tiếp sang nền kinh tế thị trường cá nhà ra quyết định phải đối mặt với cá mâu thuẫn giữa các mục tiêu đã đề ra, mặc dù sự chuyển đổi hướng tới nền kinh tế thị trường hàm ý rằng Chính phủ phải rút khỏi sự thống trị của mình trong nền kinh tế nhưng mặt khác cũng cần có hoạt động của Chính phủ để giải quyết những nhiệm vụ mới xuất hiện. Một trong số những nhiệm vụ đó là xây dựng một hệ thống tài chính vững chắc hữu hiệu, lấy thị trường làm cơ sở thực thi chính sách tiền tệ có hiệu quả. Hỗu hết những nền kinh tế nay đều là những tổ chức quan trọng của kinh tế thị trường , thị trường cạnh tranh cho các nhân tố, các hàng hoá và dịch vụ, một hệ thống tài chính cạnh tranh và được đầu tư vốn đầy đủ, một cơ cấu pháp luật và điều chỉnh nhằm đảm bảo cho hệ thống tài chính. Trước đây, trong quá trình kế hoạch hoá tập trung , hệ thống tài chính nằm trong tình trạng tồi tệ. Tài chính hầu như chỉ đóng vai trò ghi chép , lưu giữ thụ động , trong khi việc phân bổ các nguồn lực do chính kế hoạch tập trung kiểm soát. Hệ thống ngân hàng bị suy kiệt vì nguồn vốn thấp, các khoản cho vay gián tiếp tập chung theo khu vực địa lý và khu vực ngành, ngân hàng tiết kiệm lại có chi nhánh nhỏ bé. Ngoài ra hoạt động kinh doanh của ngân hàng hầu như không có lãi, được nhà nước bù lỗ, các nhà quản lý lại có ít kinh nghiệm trong việc đánh giá các đơn xin vay, trong việc tính toán và giải quyết các rủi ro. Những khó khăn trên đã đặt ra những yêu cầu rất lớn đối với hệ thống tài chính. Vì vậy, xây dựng một hệ thống tài chính là việc làm rất cần thiết song nó cũng đòi hỏi chúng ta phải hết sức thận trọng trong từng bước đi, không đuợc vội vã nếu không sẽ ảnh hưởng tới nền kinh, làm nền kinh tế rơi vào tình trạng xấu. Cần nắm giữ những di sản mà nền kinh tế kế hoạch hoá để lại.Mặt khác việc xây dựng hệ thống tài chính còn phụ thuộc vào tình hình tài chính của mỗi nước.Mỗi nước đều có những đặc điểm kinh tế riêng biệt, những thuận lợi và khó khăn khác nhau trong quá trình phát triển do đó vấn đề đặt ra là mỗi nước phải xác định được rõ ràng điểm mạnh của mình và điểm yếu của mình trong hệ thống tài chính. Trong nền kinh tế thị trường, chúng ta đều thấy rằng con đưòng dẫn đến sự thành công chính là xây dựng hệ thống tài chính hữu hiệu và vững chắc. Việc cung cấp tài chính có hiệu quả sẽ trực tiếp tác động vào việc nâng cao các hiệu quả trong sản xuất nói riêng và trong xã hội nói chung. 2.Vai trò của khu vực ngân hàng Ngân hàng có một vai trò rất trọng yếu trong sinh hoạt kinh tế một quốc gia, khi ngân hàng được kiểm soát và điều động hợp lý, chiụ ảnh hưởng của một chính sách kinh tế lành mạnh, thì ngân hàng sẽ góp phần đắc lực trong việc làm cho đất nước thêm phú cường và thịnh vượng. Một trong những lý do hàng đầu trong động cơ kinh tế nhằm chuyển đổi sang cơ chế thị trường là sự nhận thức được rằng kế hoạch hoá tập trung không đưa lại sự phân phối vốn có hiệu quả và vì thế các nguồn tài nguyên không được sử dụng nen năng suất thấp. Do đó cần giảm mức tối thiểu ảnh hưởng của các nhân tố phi kinh tế tác động lên sự phân phối các nguồn tài nguyên và cũng chính nhờ đó mà cải thiện dược hiệu suất đầu tư. Sự chú trọng đến nguồn vốn thực thể của nền kinh tế là điều cần thiết của các ngân hàng khi quan tâm đến sự phát triển chung của nền kinh tế, mà ngân hàng là một thành viên chính yếu tạo nến sự phát triển đó.Vì vậy trong quá trình thực hiện điều các ngân hàng đòi các nguồn tin có giá trị về cả người cho vay và người vay tiền. Trên cơ sở đánh giá các nguồn thông tin đó ngân hàng sẽ quyết định lựa chọn những khoản đầu tư có lợi nhất. Ngay cả những nước công nghiệp phát triển, mặc dù có sự phát triển và đa dạng của nhiều tổ chức tài chính song vai trò chủ đạo của các khu vực ngân hàng đối với sự phát triển của nền kinh tế là không thể phủ nhận được. ở nước ta trước đây, do hậu quả của lạm phát kéo dài, bắt nguồn từ những mất cân đối nghiêm trọng trong nền kinh tế quốc dân, thực trạng hoạt động tiền tệ, tín dụng trong những năm 80 hết sức rối ren. Tiền mặt phát ra rất lớn năm sau cao hơn năm trước với khối lượng lớn hơn gấp nhiều lần nhưng vẫn không đáp ứng đủ cho nhu cầu sản xuát và lưu thông hàng hoá. Chức năng trung tâm tiền mặt của ngân hàng bị thu hẹp.Trong tín dụng, nhất là đối với tín dụng ngắn hạn, dư nợ tăng rất nhanh và dần thoát ra khỏi nguồn vốn huy động.Tốc độ tăng tín dụng vượt xa tốc độ phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá.Các chi nhánh ngân hàng cơ sở chỉ biết cho vay, ỷ lại hoàn toàn vào vốn của NHTW bù đắp. Thiệt hại duy nhất thuộc về NHNN người đại diện cho chính phủ quản lý nguồn vốn đó. Hơn nữa, chức năng quản lý nhà nước, chức năng hướng dẫn thanh toán trong nền kinh tế quốc dân của NHNN không thực hiện được. Mối liên hệ hữu cơ giữa tiền mặt và tiền gửi bị phá vỡ. Phạm vi thanh toán qua tài khoản ở ngân hàng bị thu hẹp. Thanh toán bằng tiền mặt ngày càng mở rộng. Do hoạt động của nền kinh tế quốc dân trong cơ chế tập chung quan liêu bao cấp, không thừa nhận thị trường nên không có thị trường. Trong khi đó hoạt động của ngân hàng tương đối đơn giản, lại khong đòi hỏi sự năng động, linh hoạt trong hạch toán kinh doanh vì ngân hàng thực chất như là cơ quan cấp phát tài chính và chỉ sau ngân sách cấp vốn cho xí nghiệp. Trong hoạt động tín dụng, NH không ý thức đầy đủ về trách nhiệm đối với nguồn vốn huy động chỉ biết cho vay theo chỉ tiêu kế hoạch của cấp trên, càng xin được vốn nhiều càng cho vay rộng, nhưng ngược lại dịch vụ ngân hàng lại yếu kém. Thái độ phục vụ không nhiệt tình, cách giao dịch của nhân viên ngân hàng thiếu lịch sự,... Nhìn chung, có thể thấy rằng những điều kiện cần có để tiến hành hoạt động kinh doanh ngân hàng, đến lúc này chưa có. Chính điều này càng cần phải chuyển sang hạch toá kinh doanh xhcn. Từ thực trạng trên , vấn đề đặt ra là phải tiến hành cải tổ hệ thống ngân hàng. 3. Việt Nam trong quá trình đổi mới và hoàn thiện hệ thống ngân hàng. Từ sau Đại hội Đảng lần thứ 6, cả nước bước vào thời kì đổi mới,từng bước hoà nhập với nền kinh tế khu vực và kinh tế thế giới. Trong đó đổi mới cơ bản về tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động của ngân hàng là khâu quan trọng. Nhận thức được tầm quan trọng đó, công cuộc đổi mới và hoàn thiện hệ thống ngân hàng đã bắt đầu được thực sự tiến hành với mốc đánh dấu là Nghị định số 53/HĐBT ngày 26/3/1988 của hội đồng bộ trưởng về tổ chức bộ máy ngân hàng nhà nước mang nội dung đổi mới .Hệ thống NHVN được phân định thành hai cấp là NHNNVN với chức năng quản lý nhà nước đối với toàn bộ hệ thống ngân hàng, ngân hàng chuyên doanh hoạt động như những ngân hàng thương mại theo chế độ hạch toán kinh tế. Cùng với quá trình đổi mới toàn diện nền kinh tế, để tiếp tục đổi mới hệ thống ngân hàng, pháp lệnh “NHNN”, pháp lệnh “ngân hàng thương mại, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính” ngày 24/5/1990 có hiệu lực thi hành từ ngày 1/10/1990 và Nghị định 138 HĐBT về chức năng nhiệm vụ và tổ chức bộ máy Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Việc ban hành pháp luật nói trên đã tạo cơ sở pháp lý nhằm tiếp tục đổi mới cơ bản và toàn diện hoạt động ngân hàng theo kỷ cương pháp luật , đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong việc đổi mới hệ thống ngân hàng Việt nam. Đặc biệt , gần đây vào tháng 12/1997 Quốc hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá 10 đã họp thông qua bộ luật ngân hàng:Luật ngân Hàng nhà nước và luật cá tổ chức tín dụng, có hiệu lực thi hành vào ngày 1.10.98. Việc ban hành luật ngân hàng nhà nước và Luật các tổ chức tín dụng là yêu cầu cấp bách hiện nay, nhằm tạo khuôn khổ pháp lý cho cho việc tiếp tục đổi mới hoạt động ngan hàng trong giai đoạn mới, đáp ứng nhu cầu công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Điều này đảm bảo cho tính đồng bộ của cơ chế tài chính tiền tệ quốc gia, phục vụ đắc lực cho sự phát triển kinh tế. Bên cạnh đó, hoạt động của hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín d ụngcòn được sự hỗ trợ rất dắc lực của hàng loạt các luật, các Nghị dịnh như luật công ty, luật phá sản, luật đất đai... Vói sự quan tâm của Đảng và Nhà Nước và sự hỗ trợ đắc lực của bản thân ngành, trong thời gian qua hệ thống ngân hàng Việt nam đã đạt được nhiều thành tích đáng kể. Đó là bước đầu xây dựng được hệ thốn ngân hàng thích ứng với cơ chế tiền tệ, có sự quản lý của nhà nướctheo định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần đẩy ùi lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Những năm đầu của quá trình đổi mới ngân hàng, nền kinh tế nước ta phải đối phó với những khó khan gay gắt, với những chính sách đổi mới của NHNN, đặc biệt là khống chế khối lượngtiền cung ứng, chính sách tín dụng, chính sách lãi suất, chính sách tỷ giá...đã góp phần thúc đẩy sự cải thiện nền kinh tế theo hướng phục hồi và phát triển .Cơ cấu tín dụng ngân hàng đã tăng dần cho lĩnh vực kinh tế ngoài quốc doanh trong khi bảo đảm có chọn lọc việc duy trì những doanh nghiệp nhà nước kinh doanh có hiệu quả. Tỷ trọng cho vay các xí nghiệp quốc doanh năm 1993 là 90% và ngoài quốc doanh là 10% thì đến năm 1995, tỷ trọng đó là 65%, năm 1985 là 58,5% và 41,5%. Trước đây, NHTW hoạt động ngắn hạn là chủ yếuvà để phục vụ cho quá trình công nghiệp hoá, Ngân hàng đã chú ý mở rộng hoạt động trung và dài hạn . Tỷ trọng cho vay ngắn hạn từ 85% và trung dài hạn là 15% (năm 1993 ) thì đén năm 1995, đã thay đổi 67% và 33%. Năm 1996 so với năm 1995, dư nợ cho vay ngắn hạn tăng 36,7%, dư nợ cho vay trung và dài hạn tăng 4,6%. Cơ cấu tín dụng ngân hàng qua các năm Quốc doanh Ngoài quốc Ngắn hạn Trung &dài doanh hạn 1993 90,0 10,0 85,0 15,0 1994 88,0 12.0 84,0 16,0 1995 65,0 35,0 67,0 33,0 1996 58,0 41,0 75,0 25,0 Sự tăng trưỏng tín dụng và các định hướng của nền kinh tế quốc dân đã tạo nên cơ cấu tín dụng ngày càng hợp lý, thúc đẩy từng bước sự thay đổi cơ cấu kinh tế. Có thể nói, những thành quả bước đầu đạt được trong công cuộc đổi mới và hoàn thiện hệ thống ngân hàng ở Việt Nam đã góp phần đáng kể vào sự phát triển chung của nền kinh tế trong đó không thể thiếu vai trò đặc biệt quan trọng của NHTW, Thống đốc ngân hàng giờ đây có quyền kiểm soát tăng trưởng tiền tệ để thực hiện được các chỉ tiêu về lạm phát và tăng trưởng kinh tế lành mạnh . NHNN đã chủ động hơn trong việc lựa chọn các biện pháp chính sách can thiệp vào nền kinh tế để nhằm đạt được các mục tiêu của chính sách tiền tệ. Tuy nhiên cũng cần thấy rằng , từ 1//7/1997 NHNN đã điều chỉnh việc giảm “mức trần” lãi suất cho vay các loại phù hợp với chỉ số lạm phát cũng nhằm để khuyến khích các doanh nghiệp vay vốn ngân hàng sử dụng đồng vốn có hiệu quả hơn. Như vậy, các mức lãi suất cho vay đôí với các khu vực nông thôn và các đối tượng được ưu đãi như vùng núi, hải đảo, người nghèo cũng được giảm tương ứng. Lãi suất điêù chỉnh giảm áp dụng thống nhất theo mặt bằng mới để giảm lãi suất cho các doanh nghiệp. Hiện nay nguồn vốn trung và dài hạn chiếm 8% trong tổng số vốn huy động đầu tư trong nước và từ nay đến năm 2001 chiến lược của ta là nguồn vốn trung và dài hạn cần chiếm khoảng từ 13-15%. Vì thế ngân hàng muốn thực hiện tốt thì cần phải thông qua việc hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ. Tiếp tục kiềm chế lạm phát, đưa tỷ lệ lạm phát về mức thấp hơn và cũng cần phải khuyến khích người dân gửi tiền thời hạn càng dài thì lãi suất càng cao.Ngoài ra các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng cần từng bước phát triển các dạng công ty “con”, công ty chuyên doanh hoá và mở rộng chi nhánh hoạt động ở trong nước và nước ngoài. Khuyến khích người dân mở tài khoản ký thác định kì, tài khoản này xác định rõ mức tiền gửi phù hợp với nhu cầu của bạn. Như vậy, phần nào chúng ta đã thấy được một số hoạt động chính cũng như vai trò đặc biệt quan trọng của NHNN Việt nam trong việc chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá sang nền kinh tế thị trương có sự điều tiết của nhà nước . Những thành tựu mà ta đã đạt được là không thể phủ nhận, tuy nhiên vẫn còn tồn tại một số vấn đề đòi hỏi phải có một số bện pháp hữu hiệu để giải quyết, từ đó mới có thể nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động của NHTW trong nền kinh tế thị trường. Chương III Một số giải pháp củng cố và hỗ trợ vai trò của NHTW trong giai đoạn hiện nay 1. Một số vấn đề còn tồn đọng trong hoạt động của NHTW Thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá đưa đất nước phát triển và hội nhập với cộng đồng quốc tế là tiến trình ưu tiên hàng đầu của Đảng và Nhà nước ta hiện nay. Việc mở cửa và tự do hoá thương mại hoàn toàn, tiến tới từng bước tự do hoá tài chính trong khuôn khổ các chế tài kiểm soát chặt chẽ theo thị trường có điều tiết của nhà nước là bước quan trọng nhằm thúc đẩy phát triển nền kinh tế ,góp phân đưa đất nước hoà nhập với sự phát triển chung của khu vực và quốc tế. Như đã phân tích ở chương II, ta vẫn thấy một số hạn chế trong hoạt động của NHNN Việt Nam như sau: NHNN còn can thiệp sâu vào việc án định mức lãi suất của NHTM, còn quy định nhiều mức lãi suất khống chế khác nhau,khiến cho NHTM không thể hoạt động theo thông lệ thị trường, không thể cạnh tranh với nhau vì lợi ích của bản thân và của nền kinh tế. Nếu nhìn vào mặt bằng lãi suất, chúng ta có thể thấy nổi lên vấn đề không hợp lý về sự chênh lệch giưã hai loại lãi suất chủ yếu ở Việt Nam hiện nay đó là lãi suất Ngân hàng, các tổ chức tín dụng khác và lãi suất huy động của kho bạc Nhà nước. Trước ngày 1/7/1997 NHNN quy định lãi suất cho vay ngắn hạn của các ngân hàng tối đa là 15%năm, lãi suất cho vay trung và dài hạn là 16,1% năm. Theo đó, lãi suất huy đông tối đa là không quá 12%, nghĩa là với sự chênh lệch giữa lãi suất huy động và lãi suất cho vay đảm bảo lãi suất thực dương cho hoạt động tín dụng của các NHTM. Trong khi đó huy động vốn để đáp ứng nhu cầu chi ngân sách hoặc cho những dự án lớn dưới hình thức huy động bằng bán trái phiếu kho bạc cao hơn lãi suất cùng loại của ngân hàng thương mại tại cùng thời điểm đó.Sự chênh lệch giữa hai loại lãi suất trên ở cùng một thời điểm đã tạo ra một hình thức cạnh tranh không đáng có, đồng thời nó thể hiện tính không nhất quán trong việc thực hiện chính sách tiền tệ của nhà nước. Việc quy định lãi suất theo thời hạn tín dụng có nội dung khác biệt với thông lệ Quốc tế. Vốn cho vay trung và dài hạn có lãi suất thấp hơn vốn cho vay ngắn hạn , lãi suất huy động vốn trung và dài hạn lớn hơn lãi suất huy động vốn ngắn hạn, trong khi đó lãi suất cho vay thì ngược lại. Vốn cho vay thời hạn ngày càng dài , tỷ lệ rủi ro càng lớn nên lãi suất càng cao dần lên. Lãi suất huy động và lãi suất cho vay giữa ngoại tệ và bản tệ có sự chênh lệch lớn chưa khuyến khích các doanh nghiệp thu hút ngoại tệ gửi vào ngân hàng nhưng lại khuyến khích doanh nghiệp thích vay ngoại tệ làm nảy sinh tiêu cực, thu lợii chưa xác đáng chưa hạn chế được ngọi tệ trong thanh toán, lưu thông . Khối lượng giao dịch bằng tiền mặt vẫn còn là chủ yếu, sự phối hợp hoạt động giữa các ngân hàng còn rất ít và thiếu chặt chẽ. Sự luân chuyển vốn trong và ngoài nước từ nơi thừa đến nơi thiếu chưa đáp ứng kịp thời và hiệu quả. Quy mô cung ứng tiền đã tăng đáng kể trong những năm gần đây nhưng ngành ngân hàng vẫn chưa thể quản lý đánh giá và kiểm soát được lượng tiền trôi nổi trong dân nhất là lượng vàng. Việc quản lý ngoại hối còn nhiều tồn tại. Nhiều hoạt động thương mại nước ngoài không nằm trong sự kiểm soát của ngân hàng. NHNN chưa thực sự kiểm soát được các luồng ngoại hối chảy vào Việt Nam trên mọi lĩnh vực như suất nhập khẩu, đầu tư nước ngoài, vay nợ viện trợ, chuyển tiền phi mậu dịch,... Nguyên nhân của tình trạng này là việc sử dụng ngoại tệ còn rộng rãi,ngoại tệ không phân biệt nguồn gốc đều có thể sử dụng được. Ngoại tệ tiền mặt được lưu hành rộng rãi và trở thành phương tiện thanh toán, cất giữ trong dân... chính những yếu tố này ảnh hưởng không tốt tới thị trường hàng hoá, tị trường ngoại tệ và tỷ giá. Đội ngũ cán bộ vẫn cồn thiếu những người có chuyên môn và trình độ do đó không đáp ứng được yêu câu hoạt động của ngân hàng trong giai đoạn hiện nay . Với những tồn tại trên đây, đòi hỏi các biện pháp giải quyết thoả đáng để nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động của MHTW.Vì vậy, việc tạo lập được một hệ thống ngân hàng đủ mạnh, cả về năng lực hoạch định và thực thi chính sách, năng lực quản lý, năng lực điều hành kinh doanh, đủ mạnh về trình độ công nghệ và kỹ thuật hiện đại để thích ứng với cơ chế thị trường trở thành công cụ đắc lực cho mục tiêu phát triển kinh tế của đất nứơc và sớm hội nhập với cộng đồng tài chính trên thế giới. 2. Một số giải pháp cần khắc phục Nâng cao tính ổn định của lãi suất tín dụng và tỷ lệ lãi suất ổn định phải thấp hơn tỷ lệ lạm phát. Vì lãi suất tín dụng được coi là hàm thử biểu của nền kinh tế tài chính của một nước, ổn định lãi suất là biểu hiện của ổn định giá trị đồng tiền. Do đó ổn định lãi suất tín dụng là xu hướng phổ biến của các nước có nền kinh tế phát triển. NHTW cần thực thi một chính sách lãi suất linh hoạt hơn nên xuất phát từ nhu cầu về vốn trên thị trường để lãi suất thực sự trở thành giá cả mua bán vốn trong nền kinh tế, để lãi suất là công cụ hữu hiệu nhất trong điều hành chính sách tiền tệ và là đòn bẩy tích cực thúc đẩy hoạt động tiết kiệm, tích luỹ và đầu tư trong nền kinh tế. Thúc đẩy thị trường nội tệ và ngoại tệ liên ngân hàng, lấy đó làm căn cứ để xây dựng và thiết lập mặt bằng lãi suất chung theo lãi suất qua đêm hoặc lãi suất chiết khấu, làm cơ sở cho các mức lãi suất thị trường tự do sau này. Đẩy mạnh tiến trình cổ phần hoá làm cơ sở cho việc ra đời các hàng hoá trao đổi trên thị trường chứng khoán , thiết lập sự tồn tại song hành của thị trường vốn đầu tư, tạo môi trường cạnh tranh hoàn hảo giữa các chủ thể liên quan đến chu chuyển vốn trong nền kinh tế. NHTW cần điều chỉnh chính sách tài chính tiền tệ quốc gia hướng mạnh vào tăng hiệu quả sử dụng mọi nguồn vốn trong và ngoài nước, hạn chế tiêu dùng xã hội để khuyến khích tiết kiệm và đầu tư. Tập trung vốn cho khu vực, ngành sản suất kinh doanh có lợi thế cậnh tranh cao và đi đàu trong cải cách thương mại và thuế khoá đồng thời hỗ trợ tích cực cho việc sắp xếp các doanh nghiệp Nhà nước có nhiều triển vọng tốt. Khôi phục niềm tin của dân chúng, các nhà đầu tư và mọi doanh nghiệp vào hệ thống tài chính ngân hàng. Bằng chính sách tiền tệ NHNN phải ổn định cho được giá trị đồng tiền, kiềm chế lạm phát ở mức thấp nhất để mọi tài sản dù ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35114.doc
Tài liệu liên quan