Vai trò, mối quan hệ giữa nguồn vốn trong nước và ngoài nướcđối với sự tăng trưởng, phát triển kinh tế
Chương I : Những vấn đề lý luận chung về nguồn vốn đầu tư - Vai trò và mối quan hệ của các nguồn vốn trong tăng trưởng và phát triển kinh tế.
I - Khái niệm về nguồn vốn đầu tư.
1. Khái niệm về đầu tư và vốn đầu tư.
Đầu tư là sự bỏ ra hoặc hi sinh các nguồn lực ở hiện tại để thực hiện các hoạt động nhằm đạt được các kết quả, thực hiện được các mục tiêu nhất định trong trong tương lai
Vốn đ
50 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1653 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Vai trò, mối quan hệ giữa nguồn vốn trong nước và ngoài nước đối với sự tăng trưởng, phát triển kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ầu tư là lượng tiền để đầu tư sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế - xã hội.Vốn đầu tư được đăc trưng bởi những điểm sau đây:luôn luon gắn với một chủ nhất định,có giá trị về mặt thời gian,có khả năng sinh lời.
2. Khái niệm nguồn vốn đầu tư:
Nguồn vốn đầu tư là thuật ngữ dùng để chỉ các nguồn tập trung và phân phối vốn cho đầu tư phát triển kinh tế đáp ứng nhu cầu chung của Nhà nước và của xã hội.
Về bản chất: nguồn hình thành vốn đầu tư chính là phần tiết kiệm hay tích luỹ mà nền kinh tế có thể huy động được để đưa vào quá trình tái sản xuẩt xã hội
Nguồn vốn đầu tư bao gồm: nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
II - Phân loại
1. Nguồn vốn trong nước
Nguồn vốn đầu tư trong nước của mỗi quốc gia được hình thành chủ yếu từ: tiết kiệm của chính phủ, tiết kiệm dân cư, tiết kiệm của các doanh nghiệp và vốn huy động thông qua các tài sản quốc gia.
1.1 Nguồn vốn Nhà nước
Nguồn vốn đầu tư Nhà nước bao gồm nguồn vốn của ngân sách Nhà nước, nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước và nguồn vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp Nhà nước.
1.1.1.Nguồn vốn ngân sách Nhà nước
Nguồn vốn ngân sách Nhà nước là nguồn chi của ngân sách Nhà nước cho đầu tư. Đó là nguồn vốn quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia.
Ngân sách Nhà nước được hình thành từ việc thu thuế, phí, lệ phí, từ vay viện trợ ưu đãi của nước ngoài, vay trên thị trường vốn quốc tế và vay trong dân dựa trên việc phát hành trái phiếu chính phủ.
Hiện nay có sự đa dạng vốn đầu tư Nhà nước, không có sự tách biệt giữa: đầu tư Nhà nước cho sự phát triển chung của xã hội và đầu tư Nhà nước cho sản xuất kinh doanh. Chính vì vậy mà phải xác định cụ thể nguồn vốn ngân sách không thể đầu tư tràn lan được, mà phải hạn chế trong một số lĩnh vực chủ yếu nhất định
Để làm tăng ngân sách Nhà nước, tức là tăng tiết kiệm chính phủ thì phải tăng thu và tăng tiết kiệm trong chi ngân sách. Trong thu ngân sách thì thu từ thuế chiếm tỷ trọng lớn.
*Vai trò:
- Nguồn vốn được sử dụng cho các kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh…
- Nguồn vốn hỗ trợ cho các doanh nghiệp Nhà nước đầu tư vào các lĩnh vực cần có sự tham gia của Nhà nước.
- Nguồn vốn dùng để chi cho công tác lập kế hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, vùng lãnh thổ, quy hoạch xây dựng đô thị và nông thôn.
- Vốn ngân sách là cơ sở để tạo ra môi trường đầu tư thuận lợi cho các thành phần kinh tế khác đầu tư.
1.1.2. Vốn tín dụng đầu tư phát triển Nhà nước
Vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước là một hình thức quá độ chuyển từ phương thức cấp phát ngân sách sang phương thức tín dụng đối với các dự án có khả năng thu hồi vốn trực tiếp. Hình thức tín dụng tức là có vay có trả, và phải trả với một lãi suất nhất định, thường là lãi suất ưu đãi khi vay vốn hay sau khi đầu tư (đầu tư có hiệu quả mới được ưu đãi). Nguồn vốn này có vị trí quan trọng trong chính sách đầu tư của chính phủ.
Hiện nay ở nước ta chính phủ sử dụng vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước nhằm tập trung hỗ trợ đầu tư cho những ngành, lĩnh vực hoặc sản phẩm quan trọng, then chốt của nền kinh tế một cách có trọng tâm, trọng điểm; giảm sự bao cấp và tách bạch tín dụng ngân sách và tín dụng thương mại trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản.
*Vai trò:
- Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước có tác dụng trong việc giảm đáng kể sự bao cấp vốn trực tiếp của nhà nước.Với cơ chế tín dụng nhằm tránh sự thất thoát và lãng phí nguồn vốn, các doanh nghiệp vay vốn sử dụng vốn tiết kiệm và hiệu quả hơn do phải đảm bảo nguyên tắc hoàn trả vốn vay.Vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước là một hình thức quá độ chuyển từ phương thức cấp phát ngân sách sang phương thức tín dụng đối với các dự án có khả năng thu hồi vốn trực tiếp
- Vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước thường dùng để phục vụ công tác quản lý và điều tiết kinh tế vĩ mô, thông qua nguồn tín dụng đầu tư, Nhà nước thực hiện việc khuyến khích phát triển kinh tế xã hội của ngành, vùng, lĩnh vực theo định hướng chiến lược của mình. Điều này giúp tăng trưởng kinh tế và thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
- Phân bổ và sử dụng vốn vay tín dụng đầu tư còn khuyến khích phát triển những vùng kinh tế khó khăn, giải quyết các vấn đề xã hội như xoá đói giảm nghèo…
Và trên hết,nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước còn có tác dụng tích cực trong việc chuyển dich cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa-hiện đại hóa
Cho đến năm 2001,nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước đầu tư vào ngành công nghiệp trên 60% tổng vốn đầu tư(gần 55% sồ dự án)đã góp phần quan trọng vào việc chuyển dịch cơ cấu đầu tư vào cơ cấu kinh tế.
1.1.3. Nguồn vốn đầu tư từ doanh nghiệp Nhà nước.
Nguồn vốn này được xác định là thành phần giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, các doanh nghiệp Nhà nước vẫn nắm giữ một khối lượng vốn Nhà nước khá lớn.
Nguồn vốn đầu tư từ doanh nghiệp Nhà nước được hình thành do ngân sách Nhà nước cấp, từ lợi nhuận của doanh nghiệp (đầu tư mới), từ quỹ khấu hao của doanh nghiệp đó (đầu tư thay thế), từ vốn vay (vay ngân hàng thương mại, quỹ tín dụng đầu tư của cán bộ công nhân viên, từ cổ phần )…
*Vai trò:
- Đầu tư của khu vực doanh nghiệp Nhà nước thường được tập trung vào phát triển các lĩnh vực mà khu kinh tế khác không muốn làm, hoặc cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội và các ngành công nghiệp then chốt. Việc phát triển những lĩnh vực trên là rất cần thiết để phát triển kinh tế, do đó hiệu quả chung, nhất là hiệu quả về mặt xã hội của nó có thể cao.
- Nguồn vốn này là một trong những nguồn vốn quan trọng đóng góp lớn cho sự phát triển kinh tế, tạo việc làm.
- Đóng góp quan trọng vào sản phẩm quốc nội của cả nước.
- Góp phần hình thành gộp về tài sản cố định rất có ý nghĩa đối với nền kinh tế
1.2. Nguồn vốn từ khu vực tư nhân
Nguồn vốn của khu vực tư nhân bao gồm phần tiết kiệm của dân cư, phần tích luỹ của các doanh nghiệp dân doanh, các hợp tác xã và lượng kiều hối.
1.2.1.Tiết kiệm của dân cư:
Tiết kiệm của dân cư được hình thành từ phần còn lại trong thu nhập của dân cư, sau khi đã đóng góp nghĩa vụ với Nhà nước (nếu có) và đảm bảo tiêu dùng cho nhu cầu thiết yếu của bản thân và gia đình họ. Phạm vi thu nhập của dân cư bao gồm: thu nhập từ kết quả lao động, từ sản xuất và kinh doanh dịch vụ của bản thân dân cư và gia đình họ, kể cả xí nghiệp gia đình có quy mô nhỏ (không phải là công ty); thu nhập do người thân từ nước ngoài gửi về; thu nhập do thừa kế; thu nhập được hình thành từ những cơ hội may mắn bất ngờ.
Tiết kiệm khu vực dân cư là một bộ phận quan trọng của tiết kiệm trong nước, đóng góp vai trò chủ yếu trong việc hình thành vốn đầu tư của các quốc gia, đây là một bộ phận lớn, chiếm tỷ trọng ngày càng tăng.
1.2.2.Tích luỹ của các doanh nghiệp dân doanh:
Nguồn vốn bao gồm vốn chủ sở hữu và tiết kiệm (các khoản thu nhập của doanh nghiệp sau khi trả thuế và trả cổ tức); từ vốn đi vay hoặc tăng vốn cổ đông bằng cách phát hành cổ phiếu mới.
Phần tích luỹ của các doanh nghiệp này đóng góp đáng kể vào tổng quy mô vốn của toàn xã hội.
Hoạt động của các doanh nghiệp dân doanh đạt hiệu quả, tạo doanh thu cao hơn so với doanh nghiệp Nhà nước, hoạt động kinh doanh đa ngành với nhiều lĩnh vực khác nhau, giải quyết công ăn vịêc làm cho hàng triệu người lao động, đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội đất nước.
2.Nguồn vốn nước ngoài.
Nguồn vốn nước ngoài bao gồm toàn bộ phần tích luỹ cá nhân, các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế và chính phủ nước ngoài có thể huy động được vào quá trình đầu tư phát triển của nước sở tại.
Nó bao gồm: nguồn vốn hỗ trợ chính thức, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, vốn tín dụng thương mại, vốn đầu tư gián tiếp, nguồn vốn từ thị trường vốn quốc tế.
2.1.Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA)
2.1.1. Khái niệm chung.
* Nguồn vốn ODF (Official Development Finance ): là nguồn tài trợ phát triển chính thức do các tổ chức quốc tế hoặc chính phủ cung cấp. Nguồn này bao gồm: viện trợ phát triển chính thức ODA và các hình thức tài trợ phát triển khác trong đó ODA chiếm tỉ trọng chủ yếu.
* Nguồn vốn ODA (Official Development Assistance ) là nguồn tài chính do các cơ quan chính thức (chính quyền Nhà nước hay địa phương) của một nước hoặc một tổ chức quốc tế viện trợ cho các nước đang phát triển nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế và phúc lợi xã hội của các nước này.
* Nội dung viện trợ:
- Viện trợ không hoàn lại: yếu tố không hoàn lại của từng khoản vay được xác đinh dựa vào các yếu tố lãi suất, thời hạn cho vay, thời gian ân hạn, số lần trả nợ trong năm và tỷ suất chiết khấu. Đối với loại viện trợ này chiếm 25% tổng vốn ODA, thường là hỗ trợ kĩ thuật, chủ yếu là chuyển giao công nghệ, kiến thức, kinh nghiệm thông qua các hoạt động của chuyên gia quốc tế. Đôi khi viện trợ này lại là viện trợ nhân đạo như lương thực, thuốc men hoặc các loại hàng hoá khác... nên chúng rất khó huy động vào mục đích đầu tư phát triển. Nhưng bên cạnh đó các khoản viện trợ này thường kèm theo một số điều kiện về tiếp nhận, về đơn giá...
- Viện trợ có hoàn lại: thực chất là cho vay ưu đãi với điều kiện “mềm” có thể sử dụng cho mục tiêu đầu tư phát triển. Tính chất ưu đãi thể hiện ở khía cạnh đó là: lãi suất thấp; thời hạn cho vay dài, Nhật Bản cho Việt Nam vay trong thời gian là 30 năm, Ngân hàng thế giới là 40 năm; thời gian ân hạn từ khi vay đến khi trả vốn gốc đầu tiên khá dài, khoảng từ 5-10 năm trở lên, Nhật Bản ân hạn là 10 năm.
- Viện trợ hỗn hợp: bao gồm phần cấp không và phần còn lại thực hiện theo hình thức vay tín dụng ( có thể ưu đãi hoặc bình thường ).
* Các hình thức viện trợ: theo mục đích và cách tiếp cận nhận viện trợ thì ODA được thực hiện thông qua các hình thức sau.
- Hỗ trợ cán cân thanh toán, thường có nghĩa là hỗ trợ tài chính trực tiếp nhưng đôi khi lại là hỗ trợ hiện vật hoặc hỗ trợ nhập khấu. Ngoại tệ hoặc hàng hoá chuyển vào trong nước thông qua hình thức hỗ trợ cán cân thanh toán có thể đựơc chuyển thành hỗ trợ ngân sách. Điều này xảy ra khi hàng hoá nhập vào nhờ hình thức này được bán ra trên thị trường trong nước, và số thu nhập bằng bản tệ được đưa vào ngân sách của chính phủ.
- Tín dụng thương mại với các điều khoàn mềm ( lãi suất thấp, hạn trả dài...). Trên thực tế là một dạng hỗ trợ có ràng buộc.
- Viện trợ chương trình là viện trợ khi đạt được một hiệp định với đối tác viện trợ nhằm cung cấp một khối lượng ODA cho mục đích tổng quát với thời hạn nhất định, mà không phải xác định nó sẽ phải được sử dụng như thế nào.
- Hỗ trợ dự án là hình thức chủ yếu của viện trợ chính thức. Hỗ trợ dự án thường liên quan đến hỗ trợ cơ bản hoặc hỗ trợ kĩ thuật và trên thực tế thường có cả hai yếu tố này: Hỗ trợ cơ bản thường chủ yếu về xây dựng (đướng xá, cầu cống, trường học, bệnh viện ). Thông thường các dự án này có kèm theo một bộ phận của viện trợ kĩ thuật, dưới dạng thuê chuyên gia nước ngoài để kiểm tra những hoạt động nhất định nào đó, hoặc để soạn thảo, xác nhận các báo cáo cho các đối tác nhận viện trợ; hỗ trợ kĩ thuật thường chủ yếu chỉ tập trung vào chuyển giao tri thức hoặc tăng cường lập cơ sở kế hoạch, cố vấn, nghiên cứu tình hình cơ bản, nghiên cứu trước khi đầu tư (quy hoạch, lập các luận chứng kinh tế, kĩ thuật...). Chuyển giao tri thức có thể là chuyển giao công nghệ thông thường, nhưng quan trọng hơn là đào tạo về kĩ thuật phân tích (kinh tế, quản lý, thống kê, thương mại, hành chính Nhà nước, các vấn đề xã hội..
2.1.2. Đặc điểm của nguồn vốn ODA.
- ODA là nguồn vốn tài trợ ưu đãi của nước ngoài mà các nhà tài trợ không trực tiếp điều hành dự án nhưng có thể gián tiếp tham gia dưới hình thức nhà thầu hoặc chuyên gia. Danh mục các dự án ODA phải có sự thoả thuận với nhà tài trợ.
- ODA gồm: viện trợ không hoàn lại và viện trợ có ưu đãi nhưng nếu quản lý và sử dụng kém hiệu quả thì nó sẽ là gánh nặng nợ trong tương lai.
- Các nước nhận viện trợ ODA phải có đủ 1 số điều kiện nhất định thì mới được nhận viện trợ. Điều này tuỳ thuộc vào quy định của từng nhà tài trợ.Ví dụ: để nhận tài trợ ưu đãi của IMF nước chủ nhà phải có cổ phần đóng góp vào IMF và số tiền vay sẽ phụ thuộc vốn cổ phần.
- Chủ yếu dành hỗ trợ cho dự án đầu tư vào cơ sở hạ tầng như: giao thông vận tải, y tế giáo dục..
- Các nhà tài trợ là các tổ chức viện trợ là các tổ chức viện trợ đa phương và các tổ chức viện trợ song phương...Các nước cung cấp viện trợ nhiều nhất hiện này là Mỹ, Nhật, Pháp, Anh, Úc, Thuỵ Điển...
2.2.Nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại quốc tế
Tín dụng thương mại là nguồn vốn mà các nước nhận vốn vay sau một thời gian sẽ phải hoàn trả cả vốn lẫn lãi cho nước cho vay, các nước cho vay nhận lợi nhuận thông qua lãi suất tiền vay.
Khi sử dụng nguồn vốn tín dụng thương mại, các nước tiếp nhận vốn không phải chịu bất cứ sự ràng buộc nào về chính trị xã hội và có toàn quyền sử dụng vốn vay này. Tuy nhiên, điều kiện ưu đãi của nguồn vốn này không dễ dàng như đối với nguồn vốn ODA, thủ tục vay lại tương đối khắt khe và nghiêm ngặt, có những quy định riêng về thời gian trả nợ, cộng với lãi suất cao nên gây cản trở không nhỏ đối với các nước nghèo.
Đây là nguồn vốn vay với lãi suất thương mại, được đánh giá là lãi suất tương đối cao, thêm vào nữa là sự thận trọng trong kinh doanh ngân hàng nên nguồn vốn tín dụng thương mại thường được sử dụng chủ yếu để đáp ứng nhu cầu xuất nhập khẩu và thường là ngắn hạn. Một bộ phận của nguồn vốn này có thể được dùng cho mục đích đầu tư phát triển. Tỷ trọng của nó có thể gia tăng nếu triển vọng tăng trưởng của nền kinh tế là lâu dài, đặc biệt là tăng trưởng của các nước đi vay là có triển vọng. Tuy nhiên, nếu các nước tiếp nhận không sử dụng hiệu quả nguồn vốn này thì khả năng xảy ra tình trạng mất khả năng chi trả dẫn đến vỡ nợ là rất cao.
2.3.Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).
* Khái niệm
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là hình thức quốc tế mà chủ đầu tư nước ngoài đóng góp một số vốn đủ lớn vào quá trình sản xuất kinh doanh để trực tiếp quản lý hoặc tham gia quản lý vào quá trình sử dụng và thu hồi vốn bỏ ra.
Đây là nguồn vốn quan trọng không chỉ đối với các quốc gia phát triển mà cả với những quốc gia đang phát triển.
* Đặc điểm:
-Việc tiếp nhận nguồn vốn này không phát sinh nợ cho các nước tiếp nhận.
-Khi đầu tư vào một nước nào đó, chủ đầu tư không chỉ chuyển giao vào nước đó vốn bằng tiền mà còn chuyển giao cả vốn hiện vật như máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu...(Công nghệ cứng) và vốn vô hình như chuyên gia kĩ thuật - công nghệ, tri thức khoa học, bí quyết quản lý, năng lực tiếp cận thị trường...( công nghệ mềm)
- Nâng cao trình độ nguồn nhân lực, giải quyết công ăn việc làm cho người lao động...vào các nước tiếp nhận.
2.4. Thị trường vốn quốc tế.
Trái phiếu quốc tế: là trái phiếu phát hành bằng đồng tiền không phải là đồng tiền Nhà nước, có nhà phát hành để vay vốn các nhà đầu tư nước ngoài.Việc phát hành các trái phiếu chính phủ ra thị trường vốn quốc tế của các quốc gia nhằm huy động vốn cho đầu tư phát triển hoặc bù đắp thiếu hụt về cán cân thương mại quốc tế. Trái phiếu chính phủ cho phép các quốc gia huy động vốn với khối lượng lớn, kỳ hạn dài.. Ưu điểm của trái phiếu quốc tế cũng như việc đi vay trong thị trường tài chính trong nước như nhà phát hành có khả năng độc lập về tài chính, có thể chủ động sử dụng vốn vay mà không bị phụ thuộc bởi những điều kiện đặt ra từ người cho vay. Tuy nhiên, việc phát hành trái phiếu chính phủ ra thị trường vốn quốc tế có những đặc điểm riêng cơ bản như:
- Thị trường trái phiếu chính phủ chịu ảnh hưởng của sự biến động của thị trường vốn quốc tế, chịu sự ảnh hưởng cuả nền kinh tế thế giới và nhất là sự phát triển kinh tế của các nước có ngoại tệ được sử dụng để định giá trái phiếu hoặc khu vực nơi phát hành trái phiếu..
- Trái phiếu chính phủ chịu sự biến động của tỷ giá ngoại tệ. Trái phiếu quốc tế có thể mua bằng ngoại tệ, vay nợ và trả nợ bằng ngoại tệ nên khả năng các quốc gia gặp rủi ro trong trả nợ bằng ngoại tệ là rất cao.
- Trái phiếu chính phủ không thể giãn nợ hoặc hoãn nợ, bắt buộc các quốc gia phải bố trí vốn hoàn trả khi đáo hạn.
- Việc phát hành trái phiếu chính phủ phải tuân thủ những luật pháp và thông lệ quốc tế, vậy nên yêu cầu phải có được sự bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ khi 2 bên ký kết hợp đồng.
Đối với trái phiếu của Việt Nam, những đặc điểm trên là những đặc điểm cần được lưu ý trong khi phát hành bởi trái phiếu của chúng ta vẫn còn non trẻ (chỉ chính thức phát hành từ năm 2005). Do vậy, cùng với việc học hỏi kinh nghiệm của các nước đi trước, chúng ta phải cố gắng để nâng cao định mức tín nhiệm quốc gia.
Tóm lại, cơ cấu các nguồn vốn đầu tư được thể hiện qua bảng số liệu sau:
Cơ cấu vốn đầu tư ở Việt Nam
Tổng số
2001
2002
2003
2004
2005
2006
NSNN
23.6%
22.7%
23.7%
22.8%
21.9%
22.5%
Tín dụng TM
16.8%
16%
12.5%
10.9%
9.2%
9.1%
DN nhà nước
17%
16.8%
13.9%
14.8%
15.3%
15.2%
Vốn ngoài quốc doanh
25%
27.2%
29.7%
31.8%
33%
32.4%
Vốn FDI
17.6%
17.3%
16.3%
16.1%
16.3%
15.4%
Vốn khác
-
-
3.9%
3.6%
4.3%
5.4%
III – Mối quan hệ giữa hai nguồn vốn trong nước và ngoài nước trong việc thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế Việt Nam.
Trong những năm gần đây nước ta đã đạt nhiều thành tựu đáng tự hào trong sự nghiệp phát triển kinh tế- xã hội, trong đó đầu tư phát triển đóng vai trò hết sức quan trọng.Việc huy động các nguồn lực cho đầu tư, chuyển dịch cơ cấu giữa các ngành, vùng, bước đầu đã hình thành một cơ cấu đầu tư hợp lí, tạo ra thế và lực cho nền kinh tế nước ta trong quá trình hội nhập khu vực và cộng đồng quốc tế. Đảng và nhà nước ta đã xác định rõ vai trò quan trọng của nguồn vốn trong nước và ngoài nước trong việc thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế với nguyên tắc “ Vốn trong nước là quyết định, vốn ngoài nước là quan trọng”
1. Nguồn vốn trong nước là nguồn vốn quyết định..
Vốn trong nước là nội lực của mỗi quốc gia vì vậy nó mang tính ổn định bền vững, giảm được những ảnh hưởng xấu đối với nền kinh tế do tác động của thị trường tài chính tiền tệ và kinh tế của các nước trên thế giới. Với nguồn vốn này chúng ta hoàn toàn có thể chủ động trong việc huy động và sử dụng mà không bị phụ thuộc vào bất kì tổ chức, quốc gia nào, và nó cũng sẽ là nhân tố tạo điều kiện cho việc thu hút nguồn vốn nước ngoài có hiệu quả. Tính quyết định của nguồn vốn trong nước thể hiện ở những mặt sau:
1.1 Nguồn vốn trong nước là nhân tố góp phần ổn định đầu tư trong nước, là cơ sở để thu hút đầu tư nước ngoài:
Hiện nay, trong xu thế hội nhập toàn cầu, mỗi 1 quốc gia không chỉ phát triển đơn lẻ mà còn có sự tác động qua lại đối với các quốc gia khác. Chính vì thế, nền kinh tế của mỗi quốc gia sẽ ít nhiều chịu ảnh hưởng của nền kinh tế thế giới. Trong bối cảnh đó, nếu chúng ta phát huy được nội lực nguồn vốn trong nước thì sẽ có được thế chủ động trong việc điều hành nền kinh tế và ổn định các chính sách kinh tế.
Ngoài ra, việc tận dụng nguồn vốn trong nước cũng giúp chúng ta có được sự phát triển bền vững. Để phát triển kinh tế có nhiều con đuờng khác nhau. Nhiều nước đã chọn con đường đi vay và xin viện trợ nước ngoài nhằm phát triển kinh tế đất nước. Thực tế đã cho thấy các nước này có thể đạt được mức tăng trưởng cao nhưng là tăng trưởng nóng, không bền vững và có sự lệ thuộc vào nước cho vay, bởi họ không thấy được cũng như không phát huy được tính quyết định của nguồn vốn trong nước.
Mặt khác, nguồn vốn trong nước chính là cơ sở để thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Trước tiên, xét về nguồn vốn FDI: Thực tế những năm qua, dòng vốn FDI trên thế giới chủ yếu di chuyển trong nội bộ các nước phát triển, chỉ có khoảng 25% - 30% di chuyển đến các nước đang và chậm phát triển. Điều đó chứng tỏ tài nguyên thiên nhiên dồi dào, lao động rẻ không phải là nhân tố quan trọng hàng đầu trong thu hút FDI. Khoảng 90% dòng vốn chảy vào một số ít quốc gia có môi trường đầu tư hấp dẫn. Vì vậy cần quan tâm tới vấn đề sử dụng nguồn vốn trong nước để tạo một môi trường đầu tư hấp dẫn. Do đó, tự bản thân chúng ta phải xây dựng cho mình một nền tảng kinh tế - chính trị - xã hội vững chắc và ổn định, có cơ sở hạ tầng, giao thông liên lạc tốt, đội ngũ nhân công có tay nghề, cán bộ quản lí có chuyên môn... Đó mới là yếu tố quyết định tới việc thu hút vồn nước ngoài để phát triển kinh tế. Và đảm nhiệm vai trò này chính là nguồn vốn trong nước.
Đối với nguồn vốn ODA, tuy có rất nhiều ưu đãi nhưng về bản chất đây vẫn là 1 khoản vay nên chúng ta vẫn phải trả nợ. Nếu khi đó nguồn vốn trong nước không đủ để chi trả thì sẽ dẫn tới tình trạng nợ cho nền kinh tế và như vậy thì mục đích tăng trưởng và phát triển kinh tế đã không đạt được.
Do đó nguồn vốn trong nước thực sự đóng vai trò quyết định tới việc thu hút vốn nước ngoài và tới tăng trưởng của nền kinh tế.
1.2.Nguồn vốn trong nước chiếm phần lớn trong cơ cấu vốn đầu tư phát triển:
Nguồn vốn trong nước chiếm một tỉ trọng ưu thế ( > 50%) trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội. .Nếu tỉ trọng này quá thấp so với vốn nước ngoài thì sẽ dẫn đến giảm khả năng thanh toán và có thể không kiểm soát được sự thâm nhập của các tập đoàn xuyên quốc gia gây lũng đoạn thị trường, thu hẹp thị trường của các doanh nghiệp trong nước và sản xuất trong nước không phát triển. Các doanh nghiệp của nước ta hiện nay vẫn chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, khả năng cạnh tranh còn hạn chế ở nhiều mặt, sự hỗ trợ từ Nhà nước với hệ thống chính sách pháp luật là rất cần thiết.Chính vì vậy chúng ta phải giữ cho tỉ trọng nguồn vốn trong nước ở mức có thể kiểm soát được hoạt động của nền kinh tế.Như vậy chúng ta có thể chủ động ứng pho kịp thời với các biến động của nền kinh tế, cũng như trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp VN cạnh tranh trên thị trường, nhất là trong bối cảnh nước ta mới gia nhập tổ chức WTO
1.3.Nguồn vốn trong nước đóng vai trò định hướng cho hoạt động đầu tư:
Nguồn vốn trong nước đóng vai trò then chốt trong việc định hướng các hoạt động đầu tư.Mỗi nền kinh tế phát triển đều phải trải qua những giai đoạn khác nhau và không thể áp dụng dập khuôn 1 chính sách cho cả quá trình phát triển.Với mỗi giai đoạn phát triển sẽ đặt ra những mục tiêu trọng tâm, ưu tiên cho việc phát triển những ngành kinh tế phù hợp.Muốn xây dựng một đất nước phát triển về mọi mặt thì các ngành, các vùng của chúng ta đều phải có một sự phát triển nhất định với một cơ cấu hợp lí..Việc đầu tư vốn trong nước để xây dựng cơ sở hạ tầng, mạng lưới thông tin liên lạc, giao thông…vào ngành, địa phương nào sẽ tạo môi trường đầu tư thuận lợi, từ đó có thể thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Vì vậy việc sử dụng vốn trong nước cho ngành nào, vùng nào cần phải được cân nhắc kĩ theo sự định hướng đúng đắn của Nhà nước sẽ giúp nền kinh tế phát triển nhanh chóng
2.Vai trò của nguồn vốn nước ngoài :là nguồn vốn quan trọng:
Các nước đang phát triển luôn có nguồn nhân lực dồi dào, nguồn tài nguyên phong phú.Vậy tại sao họ vẫn mãi chỉ là “đang phát triển”? Thực ra vấn đề lớn nhất hiện nay của những nước này là thiếu vốn đầu tư nên không thể phát huy được hết những tiềm lực của bản thân. Trong hoàn cảnh như vậy, nguồn vốn từ bên ngoài sẽ có ý nghĩa quan trọng đối với bước phát triển ban đầu của các nước này. Đặc biệt trong xu thế quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới như hiện nay các nước đang phát triển bị đặt trong tình huống phải tạo ra tốc độ phát triển nhanh để đuổi kịp và từng bước hội nhập với nền kinh tế thế giới.Có thêm sự hỗ trợ từ bên ngoài sẽ rất có ích cho các nước nghèo trên con đường phát triển
.2.1. Nguồn vốn nước ngoài hỗ trợ nguồn vốn trong nước trong việc thực hiện các mục tiêu kinh tế.
2.1.1 Góp phần cải thiện cơ sở hạ tầng.
Thực trạng chung của những nuớc đang phát triển như Việt Nam là kết cấu hạ tầng còn thiếu, lại quá tải và cũ kĩ: đường, cầu, sân bay, nhà máy điện, tàu biển, cảng, viễn thông, trường học, bệnh viện… đều trong tình trạng yếu kém. Vì vậy, để duy trì cho tăng trưởng và phát triển bền vững, Việt Nam nhất thiết phải đầu tư phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng cơ bản và đồng bộ. Trong khi đó ngân sách nhà nước lại vô cùng eo hẹp. Chính vì thế, nguồn vốn nước ngoài đóng vai trò vô cùng quan trọng. Thực tế cho thấy việc đầu tư vào cơ sở hạ tầng thường đòi hỏi vốn đầu tư lớn nhưng việc thu hồi vốn lại chậm, khả năng sinh lời thấp, nên không hấp dẫn được đầu tư của tư nhân. ODA trở thành giải pháp hiệu quả cho việc đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng. Không chỉ ở Việt Nam, ngay cả những nước phát triển cũng đã lựa chọn ODA để đầu tư cho phát triển kết cấu hạ tầng.
Nguồn vốn ODA cho phép phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ và hiệu quả. Với khối lượng vốn lớn, thời hạn vay dài, lãi suất thấp và được cung cấp từ nhiều nhà tài trợ khác nhau, ODA là nguồn vốn cho phép tiến hành đồng thời nhiều dự án trên địa bàn và ở nhiều ngành khác nhau. Điều này sẽ tạo được sự phát triển mang tính chất đồng bộ của hệ thống kết cấu hạ tầng, nhờ đó, tạo được năng suất tổng hợp phục vụ hiểu quả đối với hoạt động sản xuất kinh doanhvà sự phát triển chung của toàn xã hội.
Hơn nữa, ODA cũng làm tăng khả năng thu hút vốn FDI và tạo điều kiện để mở rộng đầu tư phát triển trong nước ở các nước đang phát triển.Như đã biết, để có thể thu hút được các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài bỏ vốn đầu tư vào một lĩnh vực nào đó, các quốc gia phải đảm bảo cho họ có được môi trường đầu tư tốt ( cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, hệ thống chính sách, pháp luật ổn định...), đảm bảo đầu tư có lợi với phí tổn đầu tư thấp, hiệu quả đầu tư cao. Muốn vậy, đầu tư của Nhà nước phải được tập trung vào việc nâng cấp, cải thiện và xây dựng mới cơ sở hạ tầng, hệ thống tài chính, ngân hàng...Nguồn vốn để Nhà nước có thể giải quyết những đầu tư này là phải dựa vào nguồn vốn ODA giúp bổ sung cho vốn đầu tư hạn hẹp từ ngân sách Nhà nước. Một khi môi trường đầu tư được cải thiện sẽ tăng sức hút dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, thúc đẩy đầu tư trong nước tăng, dẫn đến sự phát triển bền vững của nền kinh tế.
Mặt khác, việc sử dụng nguồn vốn ODA để đầu tư cải thiện cơ sở hạ tầng sẽ tạo điều kiện cho các nhà đầu tư trong nước tập trung đầu tư vào các công trình sản xuất kinh doanh có khả năng mang lại lợi nhuận.
Như vậy, hỗ trợ phát triển chính thức, ngoài việc bản thân nó là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho các nước dang phát triển, còn có tác dụng tăng khả năng thu hút vốn từ nguồn đầu tư trực tiếp và tạo điều kiện để mở rộng đầu tư phát triển trong nước cho các nước này.
2.1.2 Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
Cơ cấu kinh tế của một quốc gia là tổng thể mối quan hệ hữu cơ giữa các yếu tố cấu thành nền kinh tế. Một nước có nền kinh tế phát triển phải có một cơ cấu kinh tế hợp lí.Muốn chuyển dịch cơ cấu kinh tế của một đất nước thì cần rất nhiều các yếu tố nguồn lực.Trong đó yếu tố vốn đóng vai trò quyết định.Nếu chỉ dựa vào nguồn vốn trong nước sẽ không thể đáp ứng được, có thêm nguồn vốn nước ngoài sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Nguồn vốn nước ngoài làm thay đổi cơ cấu ngành của nước tiếp nhận đầu tư: chuyển đổi từ ngành sản xuất nông nghiệp sang sản xuất công nghiệp và dịch vụ và sau cùng là sang ngành sản xuất dịch vụ; thay đổi cơ cấu bên trong một ngành sản xuất từ năng suất thấp, công nghệ lạc hậu, lao động nhiều sang sản xuất có năng suất cao, công nghệ hiện đại, sử dụng lao động ít; Thay đổi cơ cấu bên trong của một lĩnh vực sản xuất từ lĩnh vực có hàm lượng công nghệ thấp sang ngành sản xuất áp dụng công nghệ tiên tiến, có hàm lượng khoa học công nghệ cao.
2.1.3.Góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực:
Nguồn nhân lực có một vị trí hết sức quan trọng tác động đến sự phát triển của mỗi quốc gia.Hiện nay việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ngày càng được chú trọng. Đặc biệt ở những nước đang phát triển như VN, nguồn nhân lực dồi lực dồi dào nhưng chất lượng không cao, vấn đề này càng trở nên cấp thiết.
Nguồn vốn ngoài nước tác động đến vấn đề lao động của nước tiếp nhận đầu tư liên quan đến cả số lượng và chất lượng lao động. Số lượng lao động ở đây được hiểu là số lao động có việc làm. Còn đối với chất lượng, là sự thay đổi cơ bản, nâng cao năng lực, kĩ năng lao động và quản trị doanh nghiệp thông qua trực tiếp đào tạo lao động và gián tiếp nâng cao trình độ lao động.Thông qua các dự án về huấn luyện đào tạo chuyên môn, các chương trình về cử chuyên gia, các chương trình cử các đoàn khảo sát về phát triển …… giúp cho các nước nhận viện trợ phát triển nguồn nhân lực.
2.1.4.Hỗ trợ tiếp thu những thành tựu khoa học công nghệ:
Ngoài các yếu tố về vốn, nguồn nhân lực thì khoa học công nghệ được coi là yếu tố then chốt tác động đến tốc độ tăng trưởng kinh tế. Đây là yếu tố quyết định để các nước có thể đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, cải thiện được cuộc sống.
Đối với các nước đang phát triển, công nghệ giúp những nước này theo kịp tốc độ tăng trưởng kinh tế ở những nước công nghiệp phát triển dựa trên lợi thế của những nước đi sau. Nguồn vốn nước ngoài có vai trò đặc biệt quan trọng đối với quá trình phát triển khoa học - công nghệ, nâng cao năng lực sản xuất và năng suất lao động tại nước tiếp nhận đầu tư thông qua hiệu ứng tích cực. Nó có tác động đến phát triển công nghệ của một quốc gia thông qua: chuyển giao công nghệ; phổ biến công nghệ và phát minh công nghệ.
2.1.5.Góp phần cải thiện cán cân xuất nhập khẩu
Đầu tư nước ngoài góp phần thúc đẩy xuất khẩu thông qua xây dựng năng lực xuất khẩu và mở rộng thị trường xuất khẩu. Các công ty nước ngoài tham gia vào quá trình sản xuất với mức công nghệ từ đơn giản đến trung bình và cao, xây dựng các nhà máy lắp ráp để xuất khẩu, phổ biến ở các khu chế xuất, xây dựng các ngành công nghiệp xuất khẩu mới, tham gia khai thác tài nguyên để xuất khẩu rồi phân phối sản phẩm qua hệ thống công ty mẹ công ty con
Thông qua hoạt động xuất khẩu và thay thế nhập khẩu đã mang lại nguồn thu ngoại tệ cho nước tiếp nhận đầu tư từ đó cũng góp phần cải thiện cán cân thanh toán. Việc các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào sản xuất những mặt hàng mà nước tiếp nhận đầu tư chưa có khả năng sản xuất đã giúp cho các nước này không phải nhập khẩu những hàng hoá đó, làm giảm lượng ngoại tệ phải thanh toán
2.2. Nguồn vốn nước ngoài hỗ trợ nguồn vốn trong nước trong việc thực hiện các mục t._.iêu xã hội
2.2.1.Giải quyết việc làm nâng cao thu nhập và chất lượng cuộc sống.
Từ khi mở cửa hội nhập, tiếp nhận luồng vốn đầu tư nước ngoài, số lượng doanh nghiệp trong nước tăng lên đáng kể. Bằng cách tuyển dụng lao động địa phương vào trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã trực tiếp tạo việc làm cho người lao động hoặc gián tiếp tạo việc làm thông qua việc hình thành các doanh nghiệp vệ tinh cung cấp hàng hoá và dịch vụ cho các doanh nghiệp này và khi các doanh nghiệp vệ tinh này được hình thành và phát triển sẽ tạo việc làm trong phạm vi toàn xã hội.. Ngoài ra điều kiện lao động và chăm sóc về mặt sức khoẻ, y tế đối với người lao động tại các nước tiếp nhận đầu tư tốt hơn so với các doanh nghiệp địa phương.Với nguồn thu nhập ngày càng được cải thiện thì chất lượng cuộc sống ngày càng nâng cao.
2.2.2. Là công cụ quan trọng hỗ trợ các nước đang và chậm phát triển thực hiện chiến lược xoá đói giảm nghèo.
Công cụ chủ yếu để thực hiện mục tiêu này chính là từ nguồn viện trợ ODA. Đối với các nước nghèo ODA là một cơ hội nâng cao chất lượng cuộc sống của những người nghèo. Trong giai đoạn từ nay đến năm 2015 mục tiêu của viện trợ ODA là giảm một nửa tỷ lệ người cực nghèo (mức thu nhập dưới 1 USD/ngày, giảm 2.3 lần tỷ lệ chết ở trẻ sơ sinh và trẻ dưới 5 tuổi, giảm 3/4 tỷ lệ chết của sản phụ và mọi trẻ em đều được đến trường...
Chương II : Thực trạng huy động, sử dụng và mối quan hệ giữa nguồn vốn trong nước và nước ngoài trong việc thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế Việt Nam
I. Vốn trong nước có ý nghĩa quyết định trong việc thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế, thực trạng nguồn vốn trong nước:
1.Vai trò quyết định của nguồn vốn trong nước với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế VN:
1.1.Hiện nay trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội, nguồn vốn trong nước luôn chiếm tỉ trọng lớn và giữ vai trò chủ đạo.
Theo số liệu thống kê ta có thể nhận thấy Vốn trong nước luôn chiếm tỉ trọng trên 70% trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội và có xu hướng tăng lên. Sự tăng lên đó là có sự đóng góp đáng kể của nguồn vốn ngoài quốc doanh. Sở dĩ nguồn vốn này gia tăng trong những năm gần đây là do sự xuất hiện ngày càng nhiều của các doanh nghiệp tư nhân và các doanh nghiệp này làm ăn có hiệu quả, đồng thời lượng tiền trong dân cư cũng tăng mạnh do người dân đã từ bỏ thói quen cất trữ tiền để đem đi đầu tư , cũng phải kể đến lượng kiều hối những năm qua đã tăng đáng kể.
Mục tiêu tăng trưởng của Việt Nam trong thời kì 2006 - 2010 là: tổng vốn đầu tư phát triển đạt 2.200.000 tỷ đồng (140 tỷ USD), bằng 40% GDP trong đó vốn trong nước chiếm 65%. Và khẳng định.:" Nguồn vốn trong nước giữ vai trò quan trọng, mang tính chất quyết định".
1.2.Nguồn vốn trong nước đã được sử dụng hiệu quả trong những năm qua,chúng ta đã xây dựng nhiều cơ sở hạ tầng, giao thông vận tải, phát triển các cơ sở nghiên cứu khoa học, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, và các yếu tố xã hội khác.
Nhờ huy động tốt các nguồn lực, khối lượng vốn đầu tư đã tăng nhanh, cho phép dành được một lượng vốn lớn để tập trung đầu tư vào một số công trình chủ yếu quan trọng trong các ngành, lĩnh vực và địa phương, đầu tư chuyển đổi mạnh cơ cấu sản xuất theo hướng hiệu quả và phát huy được lợi thế từng vùng, từng ngành, từng sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, chuyển đổi sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn; đã và đang đầu tư nhiều cơ sở sản xuất công nghiệp, kết cấu hạ tầng kỹ thuật (giao thông vận tải, viễn thông, thuỷ lợi, công nghiệp điện), hạ tầng cơ sở nông thôn, du lịch, bảo vệ môi trường, giảm nhẹ thiên tai.
Bên cạnh đó, nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước đã được tập trung đầu tư cho phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học công nghệ và môi trường, y tế xã hội, các chương trình quốc gia, xoá đói giảm nghèo và ưu tiên đầu tư thực hiện phát triển kinh tế, xã hội các tỉnh thành còn khó khăn, các vùng thường bị thiên tai bão lũ.
Đầu tư kết cấu hạ tầng kinh tế chiếm khoảng 70% tổng đầu tư toàn xã hội và chiếm khoảng trên 55% trong tổng đầu tư ngân sách.
Tổng đầu tư cho Giao thông vận tải và bưu điện trong 5 năm qua tiếp tục duy trì ở mức 12% vốn đầu tư toàn xã hội. Đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách chiếm khoảng 27,5% tổng nguồn vốn ngân sách. Đã tập trung đầu tư cho hệ thống đường quốc lộ, đường trục quan trọng, hạ tầng giao thông nông thôn, đặc biệt là ở vùng núi, vùng biên giới hải đảo. Đã hoàn thành một số đoạn đường quan trọng trên các trục đường quốc lộ như Đường mòn Hồ Chí Minh, đồng thời khởi công và tập trung đầu tư cho một số dự án lớn.
Đầu tư vào lĩnh vực xã hội: tỷ lệ đầu tư trong 5 năm đạt 28% tổng mức đầu tư toàn xã hội và 43.5% vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước, trong đó:
Về Giáo dục đào tạo, chúng ta đã tập trung đầu tư tạo bước chuyển biến về giáo dục, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đào tạo công nhân lành nghề, thêm nhiều trường đại học ra đời, những trường đại học đầu ngành không ngừng nâng cao đổi mới, đại học vùng, các trường cao đẳng và dạy nghề cũng đáp ứng được nhu cầu lớn về học tập.
Về Khoa học và công nghệ: tập trung xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật cho các cơ quan khoa học công nghệ, hạ tầng kĩ thuật về công nghệ thông tin và khu vực công nghệ cao Hoà Lạc, khu công nghệ cao thành phố Hồ Chí Minh, Bệnh viện gen Trung ương.Chúng ta đầu tư thêm nhiều trang thiết bị mới phục vụ cho công tác nghiên cứu và ứng dụng với những ngành khoa học mũi nhọn.Cụ thể nhiều phòng thí nghiệm trọng điểm được xây dựng, hạ tầng kĩ thuật Internet, các trung tâm phát triển phần mềm, tin học hoá hoạt đông thông tin quản lí hành chính Nhà nước cũng được triển khai một cách sâu rộng.Tập trung vào các ngành mũi nhọn như công nghệ sinh học, công nghệ thông tin, công nghệ vật liệu mới và công nghệ tự động hoá.
Như vậy với việc không ngừng hoàn thiện chính sách huy động vốn, hoàn thiện cơ chế quản lý đầu tư và xây dựng đã huy động được khối lượng vốn đầu tư lớn; hoàn thành và đưa vào sử dụng nhiều công trình quan trọng về cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội.
Sự ra đời của các Quỹ ĐTPT đã tạo tiền đề cho việc chuyển hoá một phần hoạt động đầu tư của Nhà nước sang cho toàn xã hội nhằm thực hiện chủ trương “Nhà nước và nhân dân cùng làm”. Nhà nước chỉ tập trung đầu tư vào các dự án, chương trình quan trọng, những dự án không có khả năng thu hồi vốn, hoặc những dự án phục vụ lợi ích cộng đồng. Đối với các dự án, chương trình gắn liền với kinh tế xã hội theo địa bàn và có khả năng thu hồi vốn trực tiếp thì việc đầu tư sẽ được xã hội hoá thông qua các kênh khác nhau, trong đó có kênh Quỹ ĐTPT.
Vốn trong nước từ quỹ đầu tư phát triển đã hình thành thêm một định chế trung gian tài chính mới góp phần thúc đẩy sự phát triển của thị trường vốn trong nước.
1.3. Nguồn vốn trong nước mang tính định hướng cho các nguồn vốn ngoài nước tham gia đầu tư vào các lĩnh vực, các vùng ngành, địa phương.
Việt Nam bắt đầu chú trọng phát triển các khu công nghiệp và các khu chế xuất xuất khẩu. Từ những năm 90, số dự án đầu tư nước ngoài và tổng vốn đầu tư tăng lên mỗi năm. Trong 7 năm từ 2001 - 2007, có khoảng 9500 dự án với tổng vốn đầu tư 98 tỷ USD so với
155 dự án và 1,55 tỷ USD thời kì 1999 - 2000.
Vốn của Quỹ ĐTPT đã phát huy tác dụng là nguồn vốn "mồi" để huy động các nguồn vốn khác từ mọi thành phần kinh tế trong xã hội, tạo nên động lực mới để thu hút các nguồn lực tài chính trên địa bàn cùng tham gia đầu tư.
Trong những năm gần đây, ngoài các tỉnh thành phố lớn như thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng...Nhà nước ta đã chú trọng tập trung vốn vào các thành phố khác như Đà Nẵng, Bình Định, Bình Dương…khiến các tỉnh này đã có những bước phát triển đáng kể. Bình Dương và Đà Nẵng là hai khu công nghiệp lớn , đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển và thu hút nguồn vốn của các nhà đầu tư nước ngoài.
1.4.Nguồn vốn đầu tư được sử dụng để đa dạng hóa các loại hình đầu tư:
Trước kia nguồn vốn trong nước chỉ được sử dụng chủ yếu để phát triển các thành phần kinh tế nhà nước do nguồn vốn từ ngân sách nhà nước chiếm tỉ lệ rất lớn.
Ngày nay,với sự góp mặt của nhiều nguồn vốn mới nên các hình thức đầu tư cũng được đa dạng hóa.ví dụ như chúng ta có thêm các loại công ty liên doanh liên kết,tập đoàn.đây đều là những hình thức mới nhằm thu hút vốn nước ngoài và tăng hiệu quả nguồn vốn trong nước
Vì nguồn vốn trong nước có vai trò quyết định như vậy nên chúng ta đang cố gắng thu hút ngày càng nhiều vốn trong nước đặc biệt là từ doanh nghiệp và dân cư để tạo điều kiện phát triển kinh tế xã hôi. Cụ thể tình hình thu hút vốn từ các nguồn trong nước như sau:
2.Thực trạng huy động và sử dụng vốn ngân sách Nhà nước:
2.1.Ngân sách nhà nước:
Đối với nguồn vốn Nhà nước ta trong những năm gần đây chiếm gần 50% vốn đầu tư toàn xã hội. Trên thực tế, đầu tư từ nguồn vốn Nhà nước đã góp phần tạo dựng và phát triển nhanh, mạnh hạ tầng kinh tế - xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế một cách tích cực theo hướng CNH-HĐH, tăng đáng kể năng lực sản xuất mới; góp phần xoá đói giảm nghèo và giải quyết vấn đề bức thiết của đất nước. Nguồn vốn từ Nhà nước đã thực sự giữ vai trò chủ đạo, dẫn dắt và thu hút các nguồn vốn khác huy động cho đầu tư phát triển ngày càng tăng và đa dạng hơn. Công tác quản lý Nhà nước về đầu tư phát triển, về xây dựng đã có một số tiến bộ đáng kể.
Thực tế cho thấy, trong những năm qua, quy mô vốn Nhà nước đã giảm dần trong tổng vốn đầu tư của nền kinh tế, nhưng giá trị tuyệt đối lại không ngừng gia tăng. Đến nay, lượng vốn Nhà nước đầu tư vào kinh doanh lên đến gần 340.000 tỷ đồng (báo cáo của Bộ Tài Chính) gấp 2 so với năm 2000. Nguồn vốn đã được tập trung đầu tư vào những lĩnh vực quan trọng thiết yếu, tránh được sự dàn trải.
Hiện nay đã thành lập tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn Nhà nước (SCIC) với vốn điều lệ ban đầu là 5.000 tỷ đồng. Trong đó, vốn ngân sách Nhà nước cấp 1.000 tỷ đồng, còn lại là vốn tiếp nhận từ các công ty thực hiện chuyển giao về Tổng công ty. Đây là một trong số 19 tổng công ty và tập đoàn kinh tế trực thuộc Chính phủ, thuộc sở hữu 100% vốn Nhà nước và được tổ chức theo mô hình tập đoàn tài chính. SCIC có mục tiêu chính thúc đẩy cải cách các doanh nghiệp Nhà nước và chương trình cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước, thúc đẩy thị trường vốn và thị trường chứng khoán phát triển ;làm đầu mối hỗ trợ các doanh nghiệp trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ;nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng và đầu tư vốn và tài sản Nhà nước, chuyển việc quản lý doanh nghiệp có vốn của Nhà nước từ phương thức hành chính sang phương thức kinh doanh vốn, chuyển từ cơ chế bao cấp về vốn (cấp vốn không hoàn lại) sang hình thức đầu tư tài chính vào doanh nghiệp ; có sự phân định giữa chức năng quản lý Nhà nước của các bộ chủ quản, UBND các cấp với chức năng kinh doanh của các doanh nghiệp ; thúc đẩy việc áp dụng các chuẩn mực quốc tế về quản trị doanh nghiệp.
2.2. Vốn tín dụng đầu tư phát triển Nhà nước:
Chính sách tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, qua hơn 6 năm thực hiện, đến nay đã khẳng định tính đúng đắn đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước trong lĩnh vực đầu tư, phản ánh tính tất yếu của quá trình phát triển kinh tế - xã hội chuyển từ nền kinh tế kế hoạch tập trung sang nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Trong điều kiện khả năng tích luỹ vốn của ngân sách Nhà nước, cùng với chính sách thu hút đầu tư, chính phủ đã có thêm công cụ khai thác nguồn vốn trong xã hội để hỗ trợ đầu tư phát triển phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Những thành tựu đạt được của nguồn vốn này thể hiện ở một số mặt sau đây:
- Tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước đã góp phần tăng cường cơ sở vật chất kĩ thuật, nâng cao năng lực của nền kinh tế. Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước tăng trưởng cao và chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng số vốn đầu tư của toàn xã hội, giai đoạn 2000-2004 đạt: 13%-14%, đến nay khoảng 20%. Khoảng 32% tổng số vốn cho vay được đầu tư vào vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt kho khăn- nơi các dự án đầu tư có hiệu quả kinh tế và khả năng sinh lời thấp, độ rủi ro cao không hấp dẫn các nhà đầu tư và tổ chức tín dụng. Như vậy sẽ từng bước xoá bỏ sự chênh lệch về trình độ phát triển và đời sống của nhân dân giữa các vùng, miền tạo đà cho các vùng kinh tế cùng phát triển.
- Hỗ trợ phát triển một số lĩnh vực trọng điểm của nền kinh tế:
Về phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế: hàng nghìn km cầu đường giao thông được làm mới và nâng cấp mở rộng, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội trên từng địa bàn và trong phạm vi cả nước nhất là vùng miền núi,vùng biên giới hải đảo.
Phát triển các ngành sản phẩm công nghiệp trọng điểm: vốn tín dụng phát triển của Nhà nước đầu tư cho các nhà máy đóng tàu có khả năng đóng mới hàng chục trọng tải từ 6500 tấn đến 53000 tấn mỗi năm; Ngành đường sắt được đầu tư đóng mới , nguồn vốn này cũng có phần tăng thêm năng lực sản xuất xi măng, thép…
Phát triển kinh tế nông nghiệp và phát triển nông thôn: trên 800 dự án trong lĩnh vực nông nghiệp-nông thôn được vốn tín dụng phát triển đầu tư,vì vậy năng lực chế biến sản phẩm nông lâm thuỷ hải sản được tăng thêm, trồng mới 240 nghìn rừng nguyên liệu…Nhiều chương trình dự án vẫn đang được vốn tín dụng phát triển của Nhà nước tiếp tục đầu tư.
- Tạo sự chuyển biến về lượng và chất trong việc khai thác các nguồn vốn cho đầu tư, thúc đẩy sự phát triển của thị trường tài chính: tổng nguồn vốn trong nước của kênh tín dụng và phát triển của Nhà nước đáp ứng đầy đủ, kịp thời nhu cầu giải ngân của các dự án đầu tư và hợp đồng xuất khẩu ..
- Giải quyết các vấn đề xã hội: vốn tín dụng đã đầu tư vào sử dụng hàng trăm bệnh viện, trường học, trường dạy nghề, các khu nhà ở và đô thị mới. Các dự án được đầu tư bằng vốn này góp phần tạo công ăn việc làm cho hàng triệu lao động, đào tạo nguồn nhân lực, bảo vệ sức khoẻ và nâng cao mức sốn cho người dân, đặc biệt người dân ở khu vực miền núi, vùng sâu vùng xa, vùng Đồng Bằng sông Cửu Long.
Tình hình huy động vốn của quỹ ĐTPT tính đến hết năm 2004, nguồn vốn hoạt động của các Quỹ ĐTPT đạt trên 4.000 tỷ đồng, tăng gấp gần 10 lần so với năm 1997 và gấp 2,7 lần so với năm 2000. Trong đó, nguồn vốn chủ sở hữu chiếm gần 40% tổng nguồn vốn hoạt động của Quỹ. Vốn điều lệ của các Quỹ ĐTPT phần lớn có nguồn gốc từ ngân sách địa phương. Ngoài ra, các Quỹ cũng tự bổ sung thêm vốn điều lệ để mở rộng hoạt động. Mặc dù nguồn vốn bổ sung thêm còn chiếm tỷ trọng nhỏ (khoảng 10% tổng vốn điều lệ của Quỹ) nhưng đã cho thấy nhiều Quỹ đã hoạt động có hiệu quả; nguồn vốn được bảo toàn và phát triển. Tính đến 31/12/2004, tổng số dư các nguồn vốn huy động đạt trên 2.200 tỷ đồng, chiếm trên 60% tổng vốn hoạt động. Tốc độ tăng trưởng huy động vốn đạt bình quân trên 40%/năm. Thực tiễn triển khai hoạt động của các Quỹ ĐTPT - chính là quỹ tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước ở địa phương 8 năm qua cho thấy đây là một chủ trương đúng; cho phép giải quyết đồng thời nhiều mục tiêu khác nhau trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương.
2.3.Nguồn vốn từ doanh nghiệp Nhà nước:
Đây là một nguồn vốn quan trọng đang góp phần quan trọng vào sự tăng trưởng kinh tế của nước ta. Với lợi thế nguồn lực lớn, lực lượng đông đảo, lại hoạt động trong nhiều ngành kinh tế thiết yếu của đất nước, nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp này đã mang lại rất nhiều tác động quan trọng tới nền kinh tế. Mặc dù tốc độ tăng trưởng, hiệu quả kinh doanh kém hơn khối doanh nghiệp tư nhân hay khu vực có vốn đầu tư Nhà nước nhưng rõ ràng các doanh nghiệp Nhà nước vẫn giữ vai trò quan trọng trong nhiều lĩnh vực kinh tế, ví dụ như: ngành điện, ngành đường sắt, viễn thông liên lạc…Cho dù có diễn ra cổ phần hoá nhiều doanh nghiệp nhằm hạn chế những hoạt động kém hiệu quả và thất thoát vốn, nhưng những thành tựu và hiệu quả hoạt động trong một số ngành chủ chốt của nền kinh tế là không thể phủ nhận được về vai trò của nguồn vốn này. Ví dụ :ngành điện đã đóng góp vào GDP hơn 2 tỷ USD, mặt khác nhà máy điện đã cung cấp lượng điện thiết yếu phục vụ cho đời sống sinh hoạt của người dân và phục vụ sản xuất. Gần đây ngành điện đã đưa vào vận hành đường dây 500 KV Bắc-Nam mạch 2, kịp thời cung cấp điện cho miền Bắc. Đồng thời đang xây dựng 23 nhà máy điện với tổng công suất 8000 MW, trong đó có 20 nhà máy thuỷ điện ở vùng sâu, vùng xa…góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở những vùng khó khăn.
Cùng với việc sắp xếp, đổi mới nâng cao hiệu quả doanh nghiệp Nhà nước thì việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong các doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) là khâu quan trọng. Vốn đầu tư cho các DNNN do các ngân hàng thương mại Nhà nước cho vay chiếm xấp xỉ đến trên dưới 50%.
Trong những năm vừa qua, phần lớn các DNNN được sắp xếp lại theo hướng cổ phần hóa đã nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm đối với nền kinh tế, sản xuất kinh doanh đã có lãi, nhiều DN đã mạnh dạn đầu tư đổi mới công nghệ, máy móc thiết bị để nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm, khắc phục tình trạng lỗ và có vốn tích lũy để tái sản xuất mở rộng.
.4.Vốn tư nhân:
Mặc dù doanh nghiệp Nhà nước được xác định là giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, nhưng theo thực tế thì khu vực tư nhân lại là yếu tố quan trọng giúp nước ta duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững.
Điểm nổi bật về đầu tư trong 5 năm qua là sự tăng lên mạnh mẽ của đầu tư từ khu vực kinh tế tư nhân. Do tác động của luật Doanh nghiệp năm 1999, từ năm 2000 đến 2005 đã có trên 160 nghìn doanh nghiệp đăng kí thành lập mới với số vốn đăng kí khoảng 321 nghìn tỷ đồng, số doanh nghiệp tham gia thị trường tăng bình quân mỗi năm khoảng 23% về số lượng và tăng 51,7% về vốn đăng kí; số lượng doanh nghiệp thành lập mới từ 2001-2005 bằng 2,6 lần so với giai đoạn 10 năm từ 1991 đến 2000 cộng lại với số vốn đăng kí gấp 7,7 lần.Luật đầu tư mới được áp dụng năm 2007 cũng tạo thêm nhiều điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp tham gia.
Tỷ trọng đầu tư của doanh nghiệp dân doanh trong nước liên tục tăng và vượt cao hơn vốn đầu tư của doanh nghiệp Nhà nước. Vốn đầu tư của khu vực dân cư và tư nhân năm 2001 chiếm 25% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, năm 2007 tăng lên 37%.
Doanh nghiệp dân doanh đã đóng góp tích cực vào kim ngạch xuất khẩu, nhất là các mặt hàng thủ công mỹ nghệ, chế biến nông sản, thuỷ sản…và tạo ra nguồn thu quan trọng của ngân sách Nhà nước. Với 96% doanh nghiệp dân doanh là các doanh nghiệp nhỏ và vừa đã đóng góp 26% tổng sản phẩm trong nước, 8% tổng thu ngân sách Nhà nước, 31% giá trị tổng sản phẩm công nghiệp, 78% tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ, 64% khối lượng vận chuyển hàng hoá và tạo ra 49% việc làm phi nông nghiệp ở nông thôn. Doanh nghiệp nhỏ và vừa là nơi có khả năng tiếp nhận 91% số lao động mới hàng năm và số lao động dôi dư trong quá trình sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước, góp phần ổn định xã hội và nâng cao thu nhập của người lao động
Doanh nghiệp nhỏ và vừa tư nhân là một bộ phận rất quan trọng của nền kinh tế nước ta. Hiện nay Việt Nam có khoảng 230000 doanh nghiệp, trong đó khoảng 95% là doanh nghiệp vừa và nhỏ của tư nhân, doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng góp khoảng trên 30% tổng sản lượng công nghiệp tạo ra khoảng 40% lao động việc làm… chưa kể hợp tác xã, các hộ kinh doanh có thể chuyển lên thành doanh nghiệp. Như vậy có thể thấy, bên cạnh các doanh nghiệp Nhà nước, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai trò đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa có nhiều cơ hội vay vốn hơn từ ngân hàng thương mại. Các ngân hàng có những chính sách cởi mở thông thoáng nhằm phục vụ các doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận nguồn vốn vay dễ dàng. Những động thái trên của một số ngân hàng đã thể hiện sự thông thoáng cởi mở trong việc phát triển phục vụ các đối tượng, đồng thời những tin tốt lành cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa đang có nhu cầu rất lớn dễ dàng tiếp cận được với nguồn vốn vay để phát triển sản xuất kinh doanh.
Có thể nói, hiện nay hầu hết các doanh nghiệp nhỏ và vừa tư nhân của Việt Nam đang ở đoạn non trẻ, thiếu vốn, thiếu trang bị kĩ thuật hiện đại so với các doanh nghiệp tại các nước tiên tiến. Do đó việc tạo cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận vốn để đổi mới hoạt động sản xuất kinh doanh, mở rộng thị trường, nâng cao sức cạnh tranh là hết sức quan trọng.
Ngoài việc phát triển các doanh nghiệp tư nhân thì phát triển mô hình hợp tác xã là một trong những nội dung quan trọng trong phương hướng phát triển kinh tế - xã hội của nước ta giai đoạn 2006-2010 mà Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ X đã đề cập. Trước hết phải kể đến việc nhiều HTX đã trở thành cầu nối kinh tế giữa các hộ nông dân với doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp ngoài quốc doanh, góp phần tăng cường năng lực sản xuất hàng hoá khu vực nông nghiệp, nông thôn và kinh tế hộ sản xuất. Các hợp tác xã nông nghiệp trong thời gian qua đã thực hiện tốt vai trò khuyến nông, dịch vụ thuỷ lợi, bảo vệ thực vật, trông coi đồng ruộng và an ninh ở nông thôn…Nhìn chung các HTX nông nghiệp đã đóng vai trò tích cực trong chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp, đưa giá trị sản xuất bình quân ở phía Bắc từ 22 triệu đồng lên 37 triệu đồng/ha/ năm. Với định hướng phát triển mô hình hợp tác xã chủ yếu tập trung vào phát triển công nghiệp, dịch vụ, đặc biệt là công nghiệp chế biến… yếu tố quan trọng để thúc đẩy mô hình phát triển đó chính là chính sách về vốn.
Theo báo cáo của Cục HTX&PTNT, năm 2005, gần 4450 HTX hoạt động có lãi, chiếm tỷ lệ 77% tổng số HTX, tăng 8% so với 2002. Mức lãi bình quân của mỗi HTX là 24,5 triệu đồng. Tuy con số lãi còn hết sức khiêm tốn, nhưng cho thấy hơn 2/3 số HTX đã hoạt động có lãi và bảo toàn được vốn.
Cũng trong thời gian qua số HTX tín dụng tiếp tục tăng và hoạt động có hiệu quả, với hơn 900 quỹ tín dụng nhân dân hoạt động theo mô hình mới, vừa hoạt động theo Luật các Tổ chức tín dụng, vừa hoạt động theo Luật HTX.
Ngoài các nguồn vốn đã nói trên thì nguồn vốn có được từ sự đầu tư về nước của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài thời kỳ đổi mới cũng là một nguồn vốn quan trọng tác động đến nền kinh tế - xã hội của nước ta.với Luật Khuyến kích đầu tư trong nước, với số vốn của Việt Kiều đăng kí trên 5000 tỷ đồng, trong đó có một số dự án được cấp giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư. Để triển khai dự án đầu tư, các chủ đầu tư đã thành lập doanh nghiệp dưới 3 loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân. Lĩnh vực đầu tư kinh doanh của doanh nhân Việt Kiều chủ yếu là thương mại dịch vụ (chiếm 58% dự án), lĩnh vực sản xuất ( chiếm 25% dự án). Đối với ngành công nghiệp xây dựng chỉ chiếm 5% do đòi hỏi vốn lớn, thời hạn thu hồi vốn dài. Các doanh nghiệp đầu tư theo Luật Đầu tư nước ngoài của người Việt Nam định cư ở nước ngoài đi vào hoạt động đã tạo ra doanh thu bình quân trên 40 triệu USD/năm, đóng góp vào kim ngạch xuất khẩu của nước ta trung bình trên 20 triêu USD/năm. Bên cạnh đó, cho đến nay các dự án này của Việt kiều đã tạo ra việc làm cho hơn 7 nghìn lao động trong nước. Ngoài đầu tư như trên thì còn có đầu tư gián tiếp như: chuyển tiền về nước, mang theo về nước và mở tài khoản tại các ngân hàng Việt Nam. Những việc làm này đã giúp nước ta tăng một lượng ngoại tệ lớn.
3. Những hạn chế còn tồn tại trong việc thu hút và sử dụng các nguồn vốn trong nước:
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, việc huy động các nguồn lực tài chính đáp ứng vốn cho đầu tư phát triển còn hạn chế nhiều, tiềm năng vốn trong nước chưa được khai thác tốt.
Tỷ trọng nguồn vốn trong nước tuy chiếm tỷ trọng lớn song giá trị tạo ra cho nền kinh tế vẫn chưa cao. Đặc biệt là khu vực kinh tế Nhà nước.
Sở dĩ như vậy là do khu vực kinh tế Nhà nước làm ăn không hiệu quả, nguồn thu ngân sách Nhà nước thì chưa thật ổn định. Tổng thu Ngân sách Nhà nước vẫn còn phụ thuộc vào các yếu tố bên ngoài, trong đó thu hút từ dầu thô chiếm 28,3% tổng thu cân đối ngân sách, thu từ thuế xuất nhập khẩu chiếm 17,5%. Công tác dự báo và và xây dựng dự toán hàng năm chưa sát thực tế, thực hiện thu, chi ngân sách hàng năm đều vượt quá cao so với dự toán ban đầu. Hiệu quả sử dụng vốn ngân sách Nhà nước chưa cao, tình trạng thất thoát, lãng phí kém hiệu quả trong sử dụng ngân sách Nhà nước chưa được khắc phục.
Tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư so với tổng sản phẩm trong nước tuy đã có bước cải thiện đáng kể nhưng vẫn còn thấp so với khả năng và còn có thể huy động cao hơn để đáp ứng yêu cầu phát triển, vẫn còn 15% tiết kiệm nội địa chưa được huy động vào đầu tư. Ngân sách Nhà nước dành cho đầu tư phát triển vừa hạn hẹp vừa phụ thuộc một phần vào nguồn vay nợ từ bên ngoài
Nguồn vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước, vốn tín dụng Nhà nước chưa thật sự tạo cú huých mạnh trong việc thu hút các nguồn vốn khác để hình thành cơ cấu đầu tư hợp lý, có hiệu quả, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Bố trí vốn còn dàn trải, thiếu tập trung, thất thoát lãng phí còn lớn đã ảnh hưởng tới chất lượng các công trình. Tình trạng tiêu cực, lãng phí, thất thoát, tham nhũng, chất lượng công trình kém trong đầu tư xây dựng cơ bản còn phổ biến, nhưng chưa có biện pháp khắc phục triệt để.
Các cơ chế chính sách định hướng thu hút các nguồn vốn đầu tư toàn xã hội chưa đủ hấp dẫn, môi trường đầu tư tuy có nhiều cải thiện nhưng vẫn còn nhiều rủi ro, còn có sự phân biệt đối xử với các thành phần kinh tế làm cho các thành phần kinh tế chưa mạnh dạn bỏ vốn đầu tư sản xuất, kinh doanh. Các khu vực trọng điểm có lợi thế còn nhiều tiềm năng chưa được quan tâm đầu tư, nhất là đầu tư hạ tầng kinh tế xã hội, đào tạo nguồn nhân lực nên hiệu quả mang lại thấp. Công tác cải cách hành chính liên quan đến đầu tư tuy đã có đổi mới một số khâu nhưng nhìn chung vẫn còn trì trệ, gây khó khăn, làm lỡ cơ hội đầu tư…Thu hút vốn vào miền núi, vùng đồng bào dân tộc còn hạn chế.
Trong xây dựng kế hoạch đầu tư, một số Bộ, ngành và địa phương chưa quan tâm đến việc huy động các nguồn vốn khác với những hình thức đầu tư đa dạng trong các thành phần kinh tế để thực hiện mục tiêu đầu tư, còn trông chờ ỷ lại vào các nguồn vốn Nhà nước, nên kết quả đầu tư còn nhiều hạn chế. Nợ đọng vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ nguồn ngân sách Nhà nước chưa có nguồn thanh toán đang là vấn đề bức xúc chưa được giải quyết triệt để.
Các quy hoạch tổng thể về phát triển kinh tế, xã hội, cũng như quy hoạch phát triển hạ tầng chưa được cập nhật, bổ sung, điều chỉnh k ịp thời, thiếu tính dài hạn, chất lượng các quy hoạch, nhất là quy hoạch đô thị chưa cao, chưa thực sự là cơ sở vững chắc cho hoạch định các kế hoạch phát triển, nhất là xây dựng chương trình đầu tư công cộng, việc xây dựng kế hoạch chưa gắn với nguồn lực, lúng túng trong việc định ra các mục tiêu ưu tiên hướng dẫn của thành phần kinh tế khác đầu tư
Cơ cấu đầu tư trong một số ngành và lĩnh vực còn nhiều bất hợp lí. Trong nông nghiệp còn nặng vào đầu tư cho thuỷ lợi chủ yếu là thuỷ lợi phục vụ cây lúa. Việc xây dựng các công trình thuỷ lơi cho các cây công nghiệp, thuỷ lợi cấp nước cho công nghiệp, dân sinh và cho nuôi trồng thuỷ sản còn bị hạn chế. Vốn đầu tư cho công tác nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ chưa được quan tâm thoả đáng. Trong các ngành đã quá chú trọng đầu tư vào tăng công suất sản xuất mà chưa chú ý đúng mức đến đầu ra sản phẩm, chưa tập trung đúng mức cho ngành công nghiệp nặng nhất là công nghiệp cơ khí. Chưa tạo được một bước đột phá về đầu tư đối với các ngành quan trọng như: một số ngành công nghiệp mũi nhọn, các ngành thuộc lĩnh vực xã hội như giáo dục, y tế, khoa học công nghệ…Chưa thoả đáng đối với cac vùng khó khăn, vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa.
Kết cấu hạ tầng chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, chất lượng một số công trình thấp. Hệ thống hạ tầng giao thông chưa đồng bộ, chưa bảo đảm thông suốt trong mùa mưa ở khu vực thường xuyên ngập lụt, khu vực miền núi. Hệ thống đường giao thông qua các thành phố thị xã, một số vùng kinh tế trọng điểm chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế. Hệ thống cảng biển, mạng lưới đường sắt, hạ tầng hàng không chưa đáp ứng yêu cầu, năng lực vận chuyển kém, khả năng kho bãi, thông tin quản lý còn bất cập, chi phí dịch vụ cao.
Hạ tầng về điện chưa đáp ứng yêu cầu tăng trưởng kinh tế, nhất là trong thời điểm có nhu cầu sử dụng điện cao. Cơ cấu hạ tầng chưa hợp lí, một số công trình nhà máy nhiệt điện không hoàn thành kế hoạch.
Việc đầu tư và tổ chức quản lí hạ tầng bưu chính viễn thông và công nghệ thông tin theo địa giới hành chính chưa hợp lí và đồng bộ. Cơ chế sử dụng chung hạ tầng thông tin chưa được các doanh nghiệp chú trọng, đầu tư phát triển hạ tầng bưu chính viễn thông của các doanh nghiệp mới còn chưa tương xứng với phát triển dịch vụ.
Tuy nhiên chủ trương cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước đã thực hiện 13 năm nay nhưng tiến độ rất ì ạch, nặng về số lượng nhưng chất lượng không cao tiến độ cổ phần hóa vẫn còn chậm, nhiều doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm giữ vẫn tiếp tục duy trì 100% vốn Nhà nước, tỷ lệ cổ phần bán ra ngoài doanh nghiệp còn thấp. Ở một số nơi, nhận thức về cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước còn chưa đầy đủ và thống nhất, vướng mắc trong quá trình thực hiện chưa được tháo gỡ kịp thời. Một số quy định của cơ quan quản lý Nhà nước còn chưa phù hợp, thời gian cổ phần hóa một doanh nghiệp còn dài. Khi chuyển thành công ty cổ phần, chưa quan tâm đúng mức đến đổi mới phương thức quản trị và điều hành doanh nghiệp, hiệu quả sản xuất, kinh doanh của một số công ty cổ phần chưa cao. Số lượng doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán rất ít.
Sau 13 năm tiến hành cổ phần hóa, phần vốn của Nhà nước được cổ phần hóa hiện mới chỉ đạt 10%, trong khi 90% Nhà nước vẫn nắm lại.
Trong số 2.600 doanh nghiệp thuộc diện đã cổ phần, thì chỉ có 30% Nhà nước không giữ một đồng vốn nào; 29% Nhà nước giữ cổ phần chi phối trên 51%. Cũng trong số 2.600 doanh nghiệp thì Nhà nước còn nắm lại 46,5%.
Một thực tế khác, cổ đông là người lao động chỉ chiếm 15,1%. Cũng trong 2.600 doanh nghiệp nói trên, chỉ có 25 doanh nghiệp có nhà đầu tư nước ngoài. Theo đánh giá của nhiều chuyên gia kinh tế thì đây là cơ chế không thỏa đáng.
Còn về các doanh nghiệp tư nhân thì ít được Nhà nước quan tâm và ưu tiên hơn so với doanh nghiệp Nhà nước trong các chính sách đầu tư của Nhà nước. Theo số liệu điều tra doa._.ờng hoạt động kiểm tra, kiểm soát, trước hết là các biện pháp giám sát và kiểm soát nội bộ, sau đó là các biện pháp kiểm tra, thanh tra từ bên ngoài.
- Đẩy nhanh quá trình cải cách hành chính trong đầu tư xây dựng.
- Thu từ bất động sản
Thị trường bất động sản là 1 trong những thị trường có vai trò đặc biệt quan trọng trong của nền kinh tế , tại các nước phát triển bất động sản chiếm khoảng 60% giá trị và đối với các nước đang phát triển như chúng ta thì tỉ lệ này cáo hơn rất nhiều khoảng 70%- 80% tổng giá trị tài sản cố định của nền kinh tế,đóng góp một phần quan trọng cho ngân sách nhà nước .
Nhưng với những đặc điểm phức tạp về thông tin , chính sách , vốn và thị trường làm cho một lượng lớn tiền của thị trưòng vốn bị hút và giữ ở đây . Thị trường càng biến động tiêu cực thì thời gian chết của tiền càng lâu gây thiệt hại cho nền kinh tế .
*Thực trạng nguồn vốn trong thị trường bất động sản.
- Đóng góp cho ngân sách nhà nước : Trước năm 1994 thị trường bất động sản đóng góp khoảng 2000tỷ VNĐ ( Với cơ cấu nguồn thu : Thuế sử dụng đất nông nghiệp , thuế nhà đất , thuế chuyển quyền sử dụng đất ) Đến năm 2003 thì con số này đã là 17594 tỷ VNĐ ( Có thêm 3 nguồn thu mới : Tiền sử dụng đất , tiền thuê đất , bán nhà sở hữu nhà nước ). Riêng tiền sử dụng đất chiếm 80% nguồn thu , tuy nhiên đây ko phải là cơ cấu bền vững vì nguồn cung có hạn . Nguồn thu này ko đúng với tiềm năng của thị trường , một số chuyên gia cho rằng chúng ta có thể thu được 40tỷ USD mỗi năm nếu chúng ta có những biện pháp quản lý tốt
-Từ tình hình thị trường đang có chiều hướng đảo chiều giảm sốt đã liên tục có những chính sách và dự kiến chính sách kiểm soát thị trường cụ thể như hạn mức cho vay bất đống sản của ngân hang , đánh thuế luỹ tiến … Đã làm mức tín dụng cho vay của các ngân hàng ( Tín dụng hạn mức khoảng 10% ). Điều này đã làm thị trường nhanh chóng đi xuống và nguy cơ các ngồn vốn khó có thể rút ra ngay => Ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng nguồn vốn .
- Đầu tư nước ngoài đang đổ dồn vào thị trường bất động sản nhưng có sự tập trung ở những mảng thị trường nóng ( 85% FDI vào TPHCM năm 2007 là tập trung vào thị trường bất động sản ). Dự kiến năm 2008 chúng ta cũng sẽ tiếp tục đón những đợt đầu tư lớn từ các nhà đầu tư nước ngoài nhưng có xu hướng giảm tương đối do môi trường vĩ mô ko đựơc tốt cho lắm.
- Biến động của thị trường CK với ảnh hưởng theo kiểu bình thông nhau làm cho thị trưòng hiện giờ đang rất căng thẳng => Tâm lí các nhà đầu tư đang có xu hướng chờ đợi .
* Giải Pháp
- Giải pháp vĩ mô : Chỉ số môi trường vĩ mô VN năm 2007 bị giảm sút so với các nước trong khu vực . Cần cải thiện thông qua 3 chỉ số chính ( Lạm phát , tăng trưởng , chính sách )
- Giải pháp ngành :
+ Minh bạch thị trường bất đống sản bằng cách ( Mở rông sự hoạt động của sàn , đẩy nhanh tốc độ đăng kí bất động sản , triển khai các biện pháp chống đầu cơ … )
+ Thay đổi cơ cấu các nguồn thu từ bất động sản chú trọng vào cá nguồn thu bền vững như ( Thuế nhà đất, Thuê đất )
+ Hoàn thiện hệ thống pháp luật về kinh doanh bất đống sản cũng như các chính sách phát triển thị trường ( Có các chỉ thị nghị định về hướng đẫn thi hành luật bất động sản )
+ Phát triển cơ sở hạ tầng để tạo cơ điều kiện cho đầu tư ..
+ Kiểm soát các nguồn vốn vay bất động sản tiếp tục hỗ trợ các dự án khả thi phải có 1 lộ trình đối với việc hạn chế cho vay bất động sản
……………………………………………………………….
Với vai trong quan trọng của thị trường bất động sản thì vấn đề sử dụng nguồn vốn tiềm năng này là vấn đề rất quan trọng trong việc đóng góp vào sự phát triển chung của nền kinh tế
- Thuế thu nhập cá nhân
Một trong những giải pháp đang được tính đến là đánh thuế thu nhập cá nhân.Thuế thu nhập cá nhân là một loại thuế trực thu (đánh lên thu nhập) bao giờ cũng công bằng hơn thuế gián thu (đánh lên tiêu dùng). Lý do đơn giản là với sắc thuế này, người có thu nhập cao phải đóng thuế với tỉ lệ cao hơn người có thu nhập thấp, chưa cần xét đến thu nhập đó sẽ dùng để làm gì. Chính vì vậy, ở các nước tiên tiến, tỉ lệ thuế thu nhập cá nhân thường chiếm từ 30% đến 50% tổng thu ngân sách của chính phủ.
Thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam (tên hiện tại là pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao) đã được áp dụng từ năm 1991. Tuy nhiên, trong suốt 16 năm, loại thuế này vẫn chỉ chiếm tỉ lệ quanh quẩn 2% trong tổng thu ngân sách. Cũng trong 16 năm qua, ngưỡng bắt đầu chịu thuế áp dụng cho người Việt Nam đã được điều chỉnh 5 lần (chưa tính những lần Chính phủ đề xuất nhưng không được Quốc hội thông qua), ngưỡng này tăng dần từ 500 ngàn đồng/tháng (áp dụng từ năm 1991) đến 5 triệu đồng/tháng (áp dụng từ năm 2004). Đồng thời, thuế suất tối đa áp dụng cho người Việt Nam cũng giảm dần từ mức 80% xuống 72%, rồi 65%, rồi 40%, để còn lại mức 35% như trong dự thảo luật thuế hiện tại.
Hiện nay, căn cứ theo Pháp lệnh thuế thu nhập cao, cả nước có khoảng trên 300.000 người thuộc diện phải chịu thuế thu nhập. Dự kiến, số đối tượng chịu thuế thu nhập khi Luật Thuế TNCN được thông qua và có hiệu lực thi hành ước tính khoảng 2,3 triệu người với khoản thu gần 13.000 tỷ đồng, chiếm hơn 4% GDP .
*Thu nhập chịu thuế
Thu nhập chịu thuế thu nhập cá nhân bao gồm những khoản thu nhập sau đây
Thu nhập từ sản xuất, kinh doanh;
Thu nhập từ tiền lương, tiền công, tiền thù lao, các khoản thu nhập có tính chất tiền lương, tiền công theo quy định của pháp luật mà người sử dụng lao động trả cho người lao động, bằng tiền và không bằng tiền (sau đây gọi chung là thu nhập từ tiền lương, tiền công);
Thu nhập từ đầu tư vốn bao gồm lãi cho vay, lãi trái phiếu, lợi tức cổ phần, lợi tức từ các hình thức góp vốn khác;
Thu nhập từ hoạt động chuyển nhượng vốn;
Thu nhập từ hoạt động chuyển nhượng bất động sản;
Thu nhập khác bao gồm thu nhập từ trúng thưởng xổ số, trúng thưởng trong các hình thức khuyến mại, trò chơi có thưởng; tiền bản quyền; thu nhập từ nhượng quyền thương mại; thu nhập từ chuyển giao công nghệ; thu nhập từ nhận thừa kế, quà tặng là cổ phiếu, trái phiếu, quyền sở hữu công ty, bất động sản.
Ngoài các giải pháp trên chúng ta còn phải chú trọng đến việc quản lý và sử dụng vốn Nhà nước vào kinh doanh, mà chủ yếu là thông qua các doanh nghiệp Nhà nước và các đơn vị kinh doanh có sử dụng vốn của Nhà nước. Việc đầu tư vốn Nhà nước vào kinh doanh đem lại lợi ích kinh tế cho Nhà nước và là công cụ quan trọng để điều tiết nền kinh tế. Chính vì vậy việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn Nhà nước vào lĩnh vực này là cần thiết và hợp lý. Nhà nước trước hết phải xác định được mục đích đầu tư vốn Nhà nước chuyển vào kinh doanh để chuyển hướng có hiệu quả hơn. Tiếp theo, việc hình thành Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước là cần thiết để chuyển cơ chế chuyển giao vốn sang cơ chế đầu tư vốn. Một vấn đề được đặt ra là trong cải cách doanh nghiệp Nhà nước, cổ phần hoá một khối lượng vốn lớn từ ngân sách, nhưng quỹ này chưa đưa vào hệ thống ngân sách. Vậy Nhà nước phải tìm hướng giải quyết và sử dụng quỹ này một cách hợp lý và hiệu quả. Bên cạnh đó là việc hình thành quỹ đầu tư riêng cho quản lý vốn Nhà nước đầu tư vào kinh doanh với nhiệm vụ tạo nguồn đầu tư cơ bản cho các dự án có vốn Nhà nước. Mặt khác Nhà nước cần thiết kế hai phương thức đầu tư vốn của Nhà nước. Đầu tư trực tiếp thông qua cấp, phát, giao vốn trực tiếp cho doanh nghiệp và đầu tư gián tiếp thông qua cho vay, hỗ trợ tín dụng.. qua quỹ đầu tư phát triển. Việc hình thành cơ chế sau đầu tư và cơ chế quản lý sau đầu tư là cần thiết để lựa chọn phương án đầu tư hiệu quả hơn và hạn chế tối đa thất thoát vốn Nhà nước. Và cuối cùng cần phải có cơ chế minh bạch và công khai thông tin tài chính từ các doanh nghiệp.
Nguồn vốn trong các doanh nghiệp Nhà nước cũng cần phải nâng cao hiệu quả sử dụng vì đây là một khâu quan trọng.
Trước hết kiên quyết xóa bỏ các loại bảo hộ bất hợp lý như khoanh nợ, giãn nợ, xóa nợ cấp vốn tín dụng ưu đãi tràn lan đối với các hoạt động kinh doanh của DNNN. Thực hiện đầu tư vốn thông qua các Công ty đầu tư tài chính của Nhà nước.
Thứ hai là, trong điều kiện vốn ngân sách Nhà nước còn nhiều khó khăn phải giải quyết nhu cầu chi tiêu lớn cho an ninh quốc phòng và các nhu cầu phát triển kinh tế, văn hóa, nên DN phải nêu cao tinh thần tự lực cánh sinh là chính, tận dụng mọi nguồn thu và huy động vốn từ nhiều nguồn để giảm bớt những áp lực khó khăn nói chung.
Thứ ba là, đối với các DNNN đã, đang và sẽ sắp xếp lại để cổ phần hóa, các ngân hàng thương mại chủ động tham gia xây dựng và quyết định phương án sắp xếp lại DNNN với vai trò là chủ nợ, phù hợp với chính sách và giải pháp tiếp tục đổi mới DNNN. Đồng thời, tiếp tục mở rộng đầu tư vốn tín dụng để giúp cho các DN đổi mới công nghệ bằng nguồn vốn trung dài hạn để mua sắm các loại máy móc thiết bị, dây chuyền sản xuất và xây dựng nhà xưởng để DN có đủ sức cạnh tranh cao, phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững trong quá trình hội nhập quốc tế.
Thứ tư, đối với tín dụng ngân hàng cần tập trung đầu tư vốn vào các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả, có dự án khả thi và có khả năng trả nợ.
Thứ năm, tăng cường đôn đốc thu hồi nhanh vốn nhanh, thực hiện phương thức "tiền vào hàng ra, tiền trao cháo múc" hạn chế tối đa nhất các khoản vốn đi chiếm dụng và vốn bị chiếm dụng trong thanh toán. Tiếp tục đầu tư đổi mới công nghệ nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm. Trên cơ sở đó tạo ra lợi nhuận trong DN, nâng cao đời sống của người lao động.
2.Khu vực tư nhân:
Đối với việc huy động và sử dụng nguồn vốn trong các doanh nghiệp tư nhân thì cần thực hiện các chính sách sau:
- Nhà nước nên thành lập một đầu mối để giải quyết các vấn đề vướng mắc cho các doanh nghiệp. Điều này giúp cho các doanh nghiệp có chỗ dựa và cơ sở hoạt động, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp còn non trẻ. Do các doanh nghiệp tư nhân không có tổ chức bảo trợ và đỡ đầu như các doanh nghiệp Nhà nước nên việc này giúp cho các doanh nghiệp công bằng hơn trong cạnh tranh kinh doanh.
- Nhà nước ta cũng nên khuyến khích các doanh nghiệp tư nhân tự đầu tư trực tiếp để mở rộng sản xuất kinh doanh và đầu tư gián tiếp nhằm tăng lợi nhuân. Để các doanh nghiệp không để ứ đọng vốn, gây lãng phí nguồn lực, tạo hiệu quả trong việc sử dụng vốn nhằm thúc đẩy và phát triển hoạt động kinh doanh, cũng như là phát triển nền kinh tế nước ta.
- Ngoài ra cũng cần phải quy định bắt buộc kết hợp với những biện pháp khuyến khích về thuế, tiêu dùng để các doanh nghiệp tư nhân áp dụng chế độ chứng từ, sổ sách kế toán đã ban hành, nhằm tăng cường công tác kiểm tra tài chính, chống thất thu thuế, tạo căn cứ cho việc gọi vốn và liên doanh, hợp tác với các doanh nghiệp khác.
- Để các doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ dễ dàng tiếp cân với các nguồn vốn, các ngân hàng cũng cần đẩy mạnh phát triển các sản phẩm, dịch vụ phục vụ cho doanh nghiệp tư nhân nhỏ và vừa. bên cạnh đó các doanh nghiệp cũng phải tự nâng cao năng lực của mình, tự hoàn thiện mình.
Mô hình HTX của nước ta cũng cần có những giải pháp khuyến khích đầu tư cụ thể. Để thúc đẩy phát triển HTX nông nghiệp trong thời gian tới, bộ NN&PTNT chủ trương cần tiếp tục ban hành nhiều giải pháp để nâng cao năng lực hoạt động của HTX nông nghiệp theo hướng củng cố tập trung phát triển dịch vụ sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản nhằm mục tiêu hạ giá thành và nâng cao chất lượng các dịch vụ; khuyến khích HTX phát triển các dịch vụ phục vụ đa dạng trong nông, lâm, ngư nghiệp; tiếp tục xây dựng mới HTX theo mô hình kinh doanh đa ngành; đổi mới tổ chức, cơ chế quản lý và xử lý dứt điểm nợ tồn đọng của HTX. Những vướng mắc trong cơ chế vay vốn, giao đất sản xuất cho HTX cần được nhanh chóng tháo gỡ với sự chỉ đạo sát sao của chính quyền địa phương. Ngoài ra Nhà nước ta cần tạo điều kiện để các HTX nhận được những trợ giúp tích cực hơn trong công tác xúc tiến thương mại, chuyển giao khoa học kỹ thuật, đầu tư cơ sở hạ tầng, đặc biệt cần tạo điều kiện thành lập các doanh nghiệp trên cơ sở liên kết các HTX cùng sản xuất những loại hàng nông sản hoặc phát triển các HTX quy mô lớn có nhiều “ chi nhánh nhỏ” làm gia tăng năng lực cạnh tranh của kinh tế hợp tác trong tương lai.
Hoạt động đầu tư kinh doanh có liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, do vậy sự đồng bộ của hệ thống pháp luật trong các lĩnh vực chính là tạo dựng môi trường đầu tư kinh doanh hấp dẫn, có sức thu hút các nguồn lực đầu tư mạnh mẽ hơn. Một cơ chế, hay chính sách thoả đáng về đất đai, thuế, thủ tục và các giao dịch dân sự là những nhân tố hết sức quan trọng trong việc tạo điều kiện và thu hút đầu tư đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài, do vậy để tạo điều kiện thuận lợi để doanh nhân đầu tư về nước cần tiến hành một số công việc cụ thể sau:
- Thực thi hiệu quả các quy định của Luật Đầu tư (2005). Với các quy định mới trong luật Đầu tư, kì vọng sẽ góp phần cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư Việt Nam, tác động tích cực trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp hoạt động tại Việt Nam.
- Rà soát lại các văn bản pháp quy hiện hành có liên quan đến người Việt Nam ở nước ngoài để kiến nghị bổ sung, sửa đổi cho phù hợp.
- Thực hiện triệt để việc công bố công khai các dự án đầu tư; xây dựng kế hoạch công bố theo định kì trên các phương tiện thông tin đại chúng ở tầm quốc gia đối với các dự án thuộc trung ương quản lý và có kế hoạch kêu gọi đầu tư.
-Tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư là người Việt Nam định cư ở nước ngoài có mặt bằng kinh doanh.
- Quy định rõ ràng minh bạch các khâu thủ tục hành chính ở mọi khâu, mọi cấp; công khai các quá trình thời hạn, trách nhiệm xử lý các thủ tục
- Nghiên cứu xây dựng chiến lược thu hút chất xám, nguồn tài sản trí thức quý báu đáp ứng nhu cầu của trong nước.
- Xây dựng chính sách khen thưởng cho các doanh nghiệp, doanh nhân kiều bào có nhiều đóng góp cho công cuộc xây dựng đất nước qua các dự án đầu tư của họ vào Việt Nam.
II.Các giải pháp nhằm thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn vốn nước ngoài:
1.Khuôn khổ chính sách thu hút FDI
Chính sách thu hút vốn FDI tại Việt Nam đã được thực hiện ngay từ khi Việt Nam tiến hành cải cách kinh tế và được thể chế hóa thông qua ban hành Luật Đầu tư Nước ngoài năm 1987. Cho đến nay, Luật Đầu tư Nước ngoài đã được sửa đổi và hoàn thiện lần vào các năm 1990, 1992, 1996 và gần đây nhất là năm 2000. Những thay đổi quan trọng trong chính sách thu hút FDI qua các kỳ sửa đổi Luật Đầu tư Nước ngoài tại Việt Nam là ngày càng nới rộng quyền, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư nước ngoài và thu hẹp sự khác biệt về chính sách đầu tư giữa đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước.
Để có được như vậy chúng ta cần phải:
-Hoàn chỉnh chiến lược thu hút và sử dụng FDI đến năm 2010 phù hợp với chiến lược phát triển KTXH.Xác định rõ mục tiêu,nhiệm vụ và giải pháp cho từng năm,từng giai đoạn.Hoàn thiện qui hoạch ngành theo hướng xóa bỏ hạn chế đối với các doanh nghiệp nước ngoài phù hợp với cam kết quốc tế,tạo điều kiện cho khu vực ĐTTN tham gia nhiều hơn vào việc phát triển các ngành(ví dụ như xi măng,nước giải khát,tổng sơ đồ phát triển điện…)
Về hoạt động xúc tiến đầu tư.Chính sách và chiến lược thu hut FDI của các nước đều trải qua 3 giai đoạn:xây dưng môi trường đầu tư,đẩy mạnh quảng cáo tiếp thị hình ảnh,giới thiệu chánh sách và môi trường đầu tư của nước mình đến các nhà đầu tư tiềm năng lớn,xác định một ssos ngành chiến lược,địa điểm chiến lược và cấp lãnh đạo cao nhất đứng ra tiếp thị trực tiếp với các công ty đa quốc gia có khả năng lớn về FDI
- Cải thiện môi trường đầu tư,tiếp tục hoàn thiện hệ thống luật pháp,công tác qui hoạch,các chính sách về đầu tư nước ngoài
- Tập trung và hướng việc thu hút FDI vào các lĩnh vực tạo đà vững chắc cho sự phát triển KTXH nói chung và tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa để tăng cường thu hút FDI,những lĩnh vực tạo ra giá trị gia tăng lớn và làm thay đổi cơ cấu nền kinh tế như đầu tư vào cơ sở hạ tầng,lĩnh vực dịch vụ,nghiên cứu,và ứng dụng khoa học công nghệ
- Đẩy mạnh,hoàn thiện công tác quản lí nhà nước,cải tiến thủ tục hành chính đối với hoạt động ĐTNN
-Muốn tăng nguồn vốn FDI đầu tư vào VN, không những chỉ đi tìm kiếm các nhà đầu tư mà VN cũng cần phải có các phương pháp tự quảng bá hình ảnh của mình, biến mình thành điểm đầu tư hấp dẫn để thu hút các nhà đầu tư tìm đến. Đây chính là phương pháp Marketing. MPI năm 2003 tiến hành nghiên cứu toàn diện về chiến lược xúc tiến FDI. Nghiên cứu
đề xuất việc xây dựng hình ảnh quốc gia như là nội dung trọng tâm của công tác xúc tiến.
Nghiên cứu cũng cho rằng Việt Nam cần xác định rõ ràng các nhà đầu tư mục tiêu và sử dụng
các kỹ thuật xúc tiến phù hợp. Nghiên cứu cũng nhấn mạnh các biện pháp đặc thù đảm bảo
thành công của công tác xúc tiến FDI như xây dựng một cơ quan xúc tiến đầu tư quốc gia và
thực hiện các chương trình hành động cụ thể. Hiện tại, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang thực hiện
những gợi ý từ nghiên cứu này song việc thu hút FDI vẫn còn nhiều tồn tại nghiêm trọng cần
được giải quyết. Chính phủ cần am hiểu các yêu cầu đối với các doanh nghiệp FDI và sử dụng chính sách để thoả mãn nhu cầu của các doanh nghiệp FDI.
Hệ thống hai giá (các công ty trong nước và các công ty FDI đang trả phí khác nhau cho cùng
một dịch vu) cũng là một trở ngại trong thu hút FDI. Mặc dù Việt Nam đang cố gắng để thu hẹp
khoảng cách này cũng như đã đạt được những kết quả đáng kể song nỗ lực này vẫn chưa được
tuyên truyền hiệu quả tới các nhà đầu tư. Các nhà đầu tư tiềm năng vẫn cho rằng họ sẽ phải trả
phí cao hơn các doanh nghiệp trong nước. Việt Nam không cần phải trở thành quốc gia có chi
phí kinh doanh thấp nhất vì nỗ lực này đòi hỏi nhiều thời gian và các nhà đầu tư sẵn sàng trả chi
phí cao hơn ở những môi trường đầu tư tốt hơn. Vấn đề nghiêm trọng nhất là chi phí kinh doanh
ở Việt Nam không cao như nhà đầu tư đang nghĩ và nhà đầu tư không biết về điều này. Một lần
nữa điều này cho thấy Việt Nam cần tuyên truyền một cách hiệu quả về những nỗ lực giảm chi
phí của mình. Các nhà đầu tư cần biết rằng chi phí kinh doanh ở Việt Nam đang giảm đáng kể và
hệ thống hai giá chẳng bao lâu nữa sẽ không còn tồn tại (Ohno 2004).
Một đặc điểm khác của mọi nhà đầu tư đó là để khẳng định lợi ích mà nhà đầu tư có thể đạt được ở Việt Nam, cơ quan thu hút đầu tư cần sử dụng ngôn ngữ của nhà đầu tư, đó là phải chỉ ra được khả năng thu được lợi nhuận từ kinh doanh ở Việt Nam.
Một yếu tố thành công khác đó là khai thác mối quan hệ của các nhà đầu tư đã có mặt tại Việt Nam với nhà đầu tư ở nước chủ nhà. Chẳng hạn, tỉnh Vĩnh Phúc đã sử dụng được quan hệ của một Phó chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp ở một tỉnh của Hàn Quốc để làm việc với Thống đốc của tỉnh này và tiếp xúc với cộng đồng doanh nghiệp ở địa phương đó (Dam 2004). Bên cạnh đó, các cuộc hội nghị và hội thảo được chuẩn bị kỹ lưỡng sẽ có tác dụng nhiều hơn là gửi tài liệu xúc tiến cho đối tác (Nguyen 2004b).Ngoài ra, các yếu tố hấp dẫn của Việt Nam đối với các nhà đầu tư bao gồm:chi phí lao động rẻ; thị trường nội địa tiềm năng lớn trong tương lai; nguồn nhân lực tốt; và phân tán rủi ro
Hình 4 cho thấy kích cỡ thị trường tương lai và lao động rẻ là hai yếu tố quan trọng nhất hấp
dẫn các nhà đầu tư.
Mỗi bộ cần trở thành đầu mối thông tin về ngành và cơ hội đầu tư vào ngành mà bộ
quản lý.Các tỉnh và khu công nghiệp có thể có những nghiên cứu riêng về các nhà đầu tư mục tiêu, từ đó, đưa ra các chiến lược khác nhau với các biến số khác nhau. Chính các địa phương và các khu công nghiệp là những người hiểu rõ nhất về việc nhà đầu tư nào sẽ đến với mình. Các tỉnh và khu công nghiệp vẫn có thể cạnh tranh với nhau để thu hút FDI thông qua việc xác định nhà đầu tư mục tiêu khác nhau, cải thiện chương trình marketing, nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng địa phương và đưa ra các dịch vụ sáng tạo trước và sau đầu tư. Và tất nhiên tất cả các nỗ lực này đều phải nằm trong khuôn khổ quốc gia do Bộ Kế hoạch Đầu tư, Bộ Công nghiệp và các bộ khác đưa ra.
Một trong những lý do cản trở việc thực hiện một chiến lược xúc tiến FDI hiệu quả là hạn chếvề ngân sách. Trên phạm vi quốc gia, Việt Nam không có một ngân sách riêng biệt dành cho
xúc tiến đầu tư. Phần lớn các chuyến đi khảo sát hay xúc tiến do phía đối tác nước ngoài tài trợ.
Ở tầm địa phương, ngân sách dành cho xúc tiến đầu tư cũng hạn chế. Một số địa phương đã có
ngân sách riêng cho hoạt động này là Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Bình Dương
(MPI-JICA 2003).Chính vì thế chính phủ cần có chính sách cụ thể cho vấn đề này. Cụ thể, Chính phủ nên phân bổ ngân sách trực tiếp cho các Sở Kế hoạch và Đầu tư. Thậm chí sẽ tốt hơn nếu ngân sách được phân bổ cho từ 3 đến 5 năm (khoảng thời gian cần thiết để thực hiện
hiệu quả các chương trình vận động đầu tư).Trên phạm vi quốc gia, nên thành lập một Cơ quan
xúc tiến đầu tư của Việt Nam (Vietnam Investment Promotion Agency, VNIPA) nhằm đảm bảo
sự phối hợp có hiệu quả giữa các bên liên quan.
2.Giải pháp thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ODA:
Những khuyến nghị cụ thể được đưa ra, như: xây dựng hoàn thiện môi trường pháp lý cho việc vận động, thực hiện nguồn vốn ODA; hoàn thiện hệ thống quản lý, giám sát thực hiện nguồn vốn ODA; Thu hút vốn ODA tập trung theo định hướng vào lĩnh vực cụ thể, tránh dàn trải theo lối tư duy “hoa thơm mọi người cùng ngửi”; Xây dựng quy hoạch phải có sự đánh giá chi tiết việc vận động và sử dụng ODA trên cả bình diện tổng thể nền kinh tế và của từng ngành, từng vùng; Xây dựng hệ thống tiêu chí ưu tiên vận động và sử dụng ODA một cách thống nhất...Cụ thể:
* Nhóm chính sách thu hút ODA:
- Tiếp tục thực hiện mạnh mẽ một số chính sách mà các nhà tài trợ thường nhấn mạnh và coi là thông điệp để cam kết tài trợ (phát triển kinh tế, xã hội nhanh và bền vững; xoá đói giảm nghèo; cải thiện môi trường đầu tư; minh bạch tài chính công; chống tham nhũng…)
-Tăng cường quan hệ đối tác giữa chính phủ và các nhà tài trợ như cải tiến hơn nữa Hội nghị CG thành diễn đàn đi vào thực chất hơn; tăng cường đối thoại chính sách, chia sẻ thông tin và tăng cường phối hợp giữa các nhà tài trợ.
- Xây dựng và ban hành các tiêu chí làm cơ sở cho việc huy động ODA cho các tỉnh và thành phố để đảm bảo tính minh bạch và công bằng.
- Thúc đấy sự tham gia của cộng đồng, đặc biệt là cấp địa phương vào quá trình huy động ODA.
* Nhóm chính sách và giải pháp sử dụng và quản lý ODA gồm:
- Kiện toàn môi trường pháp lý về quản lý và sử dụng ODA với các quy trình, thủ tục nhất quán, rõ ràng và cụ thể
- Hoàn thiện chính sách tài chính trong nước đối với ODA: cơ chế tài chính cho vay; chính sách thuế đối với các dự án ODA, quản lý nợ nước ngoài, ghi nhận vốn ODA vào ngân sách Nhà nước.
-Cải thiện hệ thống của chính phủ về mua sắm công, quản lý tài chính công, theo dõi và đánh giá…
-Thống nhất một đầu mối về công tác thu hút, quản lý và sử dụng ODA ở các cấp. Nâng cao tính tự chủ và chất lượng chuẩn bị nôi dung các chương trình, dự án ODA, tăng cường năng lực cán bộ quản lý và thực hiện dự án.
-Hoàn thiện mô hình quản lý và thực hiện chương trình dự án ODA, tăng cừờng năng lực thẩm định dự án. Tăng cường năng lực và hiệu lực tổ công tác ODA của chính phủ.
- Khuyến khích để người dân tham gia vào quản lý và sử dụng ODA, tăng cường hoạt động hài hoà quy trình và kĩ thuật giữa Chính phủ với nhà tài trợ và giữa các nhà tài trợ với nhau.
- Cần đấy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền về ODA và các quy trình thủ tục của Chính phủ cũng như nhà tài trợ.
Một thực tế đặt ra là những dự án sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) thường mắc phải vấn đề thiếu vốn - vốn đối ứng, một yếu tố quan trọng để bảo đảm tiến độ và hiệu quả dự án, mặc dù trong các điều ước, hiệp định ký kết với phía các nhà tài trợ về ODA, Chính phủ đã cam kết cung cấp đầy đủ vốn đối ứng. Vốn đối ứng là phần vốn trong nước tham gia trong từng chương trình, dự án ODA được cam kết giữa phía Việt Nam và phía nước ngoài trên cơ sở hiệp định, văn kiện dự án, quyết định đầu tư của cấp có thẩm quyền.
Nguồn để bố trí vốn đối ứng cho các chương trình, dự án ODA bao gồm:
Nguồn vốn ngân sách cấp phát, bao gồm khoản chi sự nghiệp và khoản chi đầu tư xây dựng cơ bản tập trung mà trong quyết định đầu tư đã quy định. Căn cứ vào quyết định đầu tư, một phần hoặc toàn bộ vốn đối ứng của chương trình, dự án ODA được sử dụng nguồn ngân sách cấp phát (theo 2 khoản chi ngân sách nói trên).
Nguồn vốn tín dụng: Nhà nước ưu tiên dành một phần vốn tín dụng đầu tư theo kế hoạch Nhà nước cho các chủ đầu tư vay để làm vốn đối ứng cho các chương trình, dự án ODA trên cơ sở các hợp đồng cho vay lại vốn của nước ngoài được ký kết giữa chủ đầu tư và Bộ Tài chính. Chủ đầu tư vay vốn tín dụng phải có trách nhiệm hoàn trả vốn vay (gốc và lãi) theo đúng hợp đồng vay. Bộ Tài chính chỉ bố trí vốn để bù chênh lệch lãi suất (giữa lãi suất huy động và lãi suất cho vay).
Nguồn vốn tự huy động của các doanh nghiệp Nhà nước bao gồm khấu hao cơ bản tài sản cố định có nguồn gốc từ ngân sách Nhà nước, lợi tức sau thuế, nguồn vay thương mại, huy động trong dân... để bố trí vốn đối ứng cho các chương trình, dự án ODA mà trong quyết định đầu tư quy định chủ đầu tư phải tự cân đối nguồn vốn đối ứng.
Nguồn vốn huy động từ các tầng lớp dân cư, kể cả sự đóng góp bằng công lao động để cân đối nguồn vốn đối ứng cho các chương trình, dự án ODA (các chương trình, dự án đầu tư thực hiện theo phương thực Nhà nước và nhân dân cùng làm).
Kế hoạch vốn đối ứng phải phân bổ cụ thể theo từng loại nguồn vốn: nguồn vốn ngân sách chi sự nghiệp, vốn đầu tư xây dựng cơ bản tập trung do ngân sách cấp phát, vốn vay tín dụng theo kế hoạch Nhà nước, vốn huy động của các doanh nghiệp Nhà nước, vốn vay từ các nguồn khác, vốn huy động sự đóng góp của các tầng lớp dân cư (kể cả huy động công lao động).
Để có thể đảm bảo được vốn đối ứng cho các dự án ODA,cần thiết phải có hướng dẫn cụ thể về điều kiện thực hiện các cơ chế cho vay của các tổ chức tín dụng như Quỹ hỗ trợ phát triển, Ngân hàng Thương mại quốc doanh... về nguồn và thể thức bù chênh lệch lãi suất khi cấp tín dụng ưu đãi nhà nước để làm vốn đối ứng các dự án ODA.
Đối với các dự án ODA với cơ chế trong nước là cấp phát, việc giao kế hoạch vốn đối ứng vẫn được thực hiện theo những quy định chung cho nguồn vốn đầu tư từ ngân sách, dẫn đến sự suy giảm tính ưu tiên cao của dự án ODA. Để hạn chế vấn đề này, thiết nghĩ cần phải xây dựng một phương thức giao kế hoạch vốn đối ứng mới, nhằm đáp ứng được các yêu cầu sau:
Đáp ứng đầy đủ nhu cầu vốn đối ứng của chủ dự án nhằm đảm bảo tiến độ thực hiện dự án như đã cam kết với nhà tài trợ;
Bảo đảm các Bộ, ngành, địa phương không sử dụng ngân sách cân đối cho vốn đối ứng vào những mục đích khác (ví dụ: ghi sử dụng cho các dự án đầu tư trong nước);
Bảo đảm sự chủ động của các Bộ, ngành, địa phương trong việc điều chuyển nguồn vốn đối ứng giữa các dự án ODA do mình quản lý.
Những yêu cầu nói trên có thể đáp ứng được bằng cách ghi kế hoạch vốn đối ứng cho các dự án ODA thành một dòng ngân sách riêng trong kế hoạch vốn tập trung của các Bộ, ngành và địa phương, chỉ được sử dụng nguồn vốn theo dòng ngân sách này làm đối ứng cho các dự án trong danh mục các dự án ODA đang thực hiện đã được phê duyệt. Nguồn vốn đối ứng cho các dự án khi đã cân đối cho các Bộ, ngành, địa phương nếu không sử dụng hết sẽ được kết dư sang năm sau hoặc sẽ được điều chuyển sang các Bộ, ngành, địa phương khác có nhu cầu lớn về vốn đối ứng.
(Nguồn: KTDB)
3.Đầu tư gián tiếp(FPI)
Việc thực hiện các cam kết trong khi gia nhập WTO là một trong những giải pháp quan trọng để Việt Nam giải quyết những vấn đề rào cản trong thu hút vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài. Ngoài ra, cần phải tính đến các giải pháp nhằm thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa thu hút FPI và hạn chế các tác động tiêu cực của dòng vốn này trong thời kỳ hậu WTO. Có một số chính sách cơ bản sau:
- Cần sớm ban hành và thực thi chính sách mở cửa thu hút vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài FPI, xem xét nới lỏng ngành nghề hoạt động và tỷ lệ nắm giữ cổ phần đối với các nhà đầu tư nước ngoài.
- Thúc đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá và niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán đối với các doanh nghiệp Nhà nước.
- Thực hiện các giải pháp đồng bộ nhằm gia tăng tính minh bạch của thị trường tài chính, gia tăng quy mô và chất lượng các sản phẩm tài chính, sớm có những hướng dẫn cụ thể về luật chứng khoán, khuyến khích phát triển các công ty quản lý quỹ.
- Tăng cường các kênh thông tin, quảng bá hình ảnh Viêt Nam ra thế giới.
- Tăng cường an ninh tài chính, thực hiện các chính sách kiểm soát các dòng vốn khi cần thiết, phối hợp giữa chính sách tiền tệ, chính sách tài khoá và chính sách thu hút vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài, đảm bảo sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan ngân hàng - tài chính - chứng khoán trong việc quản lý các dòng vốn nhằm đảm bảo sự an toàn, vững chắc và lành mạnh của hệ thống tài chính
4. Trái phiếu quốc tế:
Kinh nghiệm thực tế đã khẳng định vai trò của trái phiếu quốc tế nói chung và thị trường trái phiếu chính phủ nói chung đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế, do vậy ở Việt Nam, một số giải pháp thúc đẩy sử dụng trái phiếu chính phủ để huy động vốn cho đầu tư phát triển kể đến như sau:
- Đa dạng hoá các loại hình trái phiếu chính phủ, tăng tính hấp dẫn của trái phiếu Việt Nam với các nhà đầu tư nước ngoài.
- Cải tiến cơ chế phát hành trái phiếu chính phủ để tăng cường khả năng huy động vốn.
-Tăng cường cơ chế quản lý, giám sát việc phát hành trái phiếu chính phủ và việc sử dụng vốn vay từ trái phiếu quốc tế.
-Hoàn thiện khuôn khổ pháp luật về phát hành và giao dịch trái phiếu quốc tế
- Đẩy mạnh công tác đào tạo cán bộ chuyên môn và tăng cường tuyên truyền phổ cập thông tin về trái phiếu chính phủ ra công chúng
Muốn thực hiện được những giải pháp đã đặt ra trên đây, Việt Nam cần có những chính sách ổn định nền kinh tế vĩ mô, khuyến khích tiết kiệm và đầu tư, nâng cao khả năng huy động vốn trên thị trường tài chính. Ngoài ra, phát triển thị trường tài chính nhằm nâng cao khả năng luân chuyển và huy động các nguồn lực tài chính cũng là vấn đề mà Việt Nam cần thực hiện trong những năm trước mẳt.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 24916.doc