Vai trò Kinh tế thị trường định hướng Chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay

Đặt vấn đề Xã hội loài người đã trảI qua nhiều hình tháI kinh tế xã hội khác nhau. Sự thay thế hình tháI kinh tế xã hội này bằng hình tháI kinh tế xã hội khác là bước phát triển tất yếu của lịch sử. Mỗi hình tháI kinh tế xã hội bên cạnh những thành tựu đã đạt được còn bộc lộ nhiều thiếu sót cần phải khắc phục. Chúng ta hiện nay đang ở giai đoạn đầu của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội và để sửa chữa những“ thất bại của thị trường” tất yếu cần có sự can thiệp của nhà nước vào kinh tế. Mong mu

doc16 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1368 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Vai trò Kinh tế thị trường định hướng Chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ốn tìm hiểu quá trình xây dựng cơ chế tổ chức quản lý điều hành nền kinh tế của nhà nước là lí do em chọn đề tài: “ Vai trò kinh tế thị trường định hướng chủ nghĩa xã ở nước ta hiện nay” Công cuộc đổi mới từ nên kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường ở nước ta vừa tròn 20 năm. Còn rất nhiều khó khăn và thách thức đặt ra cho nền kinh tế. Do đó sự lãnh đạo của Đảng vai trò quản lí, điều tiết nền kinh tế của nhà nước ngày càng trở nên quan trọng hơn. Tuy nhiên do kiến thức còn hạn hẹp sẽ không tránh khỏi nhiều sai sót. Do vậy kính mong nhận được sự góp ý và hướng dẫn của thầy để bài viết của em có kết quả tốt hơn. Em xin chân thành cảm ơn! Giải quyết vấn đề 1. Đặc trưng của nên kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và thực trạng nền kinh tế thị trường ở nước ta: 1.1 Đặc trưng bản chất của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam : Nói đến nên kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nghĩa là nền kinh tế của chúng ta không phải là kinh tế quản lí theo kiểu tập trung quan liêu bao cấp như trước đây nhưng đó cũng không phải là nên kinh tế thị trường tự do theo cách của các nước tư bản chủ nghĩa và cũng chưa hoàn toàn là kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Bởi vì chúng ta còn đang ở trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã, còn có sự đan xen đấu tranh giữa cái cũ và cái mới vừa có, vừa chưa có đầy đủ yếu tố xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, một mặt vừa có những tính chất chung của nền kinh tế thị trường: Một là: các chủ thể kinh tế có tính độc lập, có quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh Hai là: giá cả do thị trường quyết định, hệ thống thị trường được phát triển đầy đủ và nó có tác dụng làm cơ sở cho việc phân phối các nguồn lực kinh tế vào trong các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế Ba là: nền kinh tế vận động theo quy luật vốn có của kinh tế thị trường như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật canh tranh….Sự tác động của các quy luật kinh tế đó hình thành cơ chế tự điều tiết của nền kinh tế Bốn là: nếu là nền kinh tế thị trường hiện đại thời kì có sự điều tiết vĩ mô của nhà nước thông qua pháp luật kinh tế, kế hoạch hoá, các chính sách kinh tế. Mặt khác kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam dựa trên cơ sở và được dẫn dắt chi phối bởi bản chất của chủ nghĩa xã. Do đó kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có những đặc trưng bản chất dưới đây: Về mục tiêu phát triển kinh tế thị trường: mục tiêu phát triển hàng đầu của phát triển kinh tế thị trường ở nước ta là giải phóng sức sản xuất động viên mọi nguồn lực trong nước và ngoài nước để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật của chủ nghĩa xã, nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội, cải thiện từng bước đời sống nhân dân. Nền kinh tế thị trường gồm nhiều thành phần trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo: Trong nền kinh tế nước ta tồn tại ba loại hình sở hữu cơ bản là sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân. Từ ba loại hình sở hữu đó hình thành nên các thành phần kinh tế: thành phần kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Các thành phần kinh tế nói trên đều tồn tại một cách khách quan và là những bộ phận cần thiết của nền kinh tế trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã. Do đó phát triển nền kinh tế thị trường nhiều thành phần là một tất yếu đối với nước ta, chỉ có vậy chúng ta mới khai thác được mọi nguồn lực kinh tế, nâng cao hiệu quả kinh tế, phát huy được tiềm năng của các thành phần kinh tế vào phát triển chung nền kinh tế của đất nước nhằm thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của nhân dân. Trong nền kinh tế thị trường nhiều thành phần ở nước ta, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Việc xác lập vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước là vấn đề có tính nguyên tắc và là sự khác biệt có tính bản chất giữa kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện nhiều hình thức phân phối thu nhập, trong đó lấy phân phối theo lao động là chủ yếu. Sự khác biệt cơ bản giữa cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa là ở chỗ xác lập chế độ công hữu và thực hiện phân phối theo lao động. Phân phối theo lao động là đặc trưng bản chất của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nó là hình thức thực hiện về mặt kinh tế của chế độ công hữu. Vì thế phân phối theo lao đôngh được xác định là hình thức phân phối chủ yếu trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã. Cơ chế vận hành nền kinh tế là cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Cơ chế vận hành nền kinh tế của tất cả các nước đều là cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước.Nhưng điều khác biệt trong cơ chế vận hành nền kinh tế của nước ta là nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của dân, do dân và vì dân đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Sự quản lí của nhà nước xã hội chủ nghĩa nhằm sửa chữa “những thất bại của thị trường”, thực hiện các mục tiêu xã hộim nhân đạo mà bản thân cơ chế thị trường không thể làm được, bảo đảm cho nền kinh tế thị trường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vai trò quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa là hết sức quan trọng. Nó bảo đảm cho nền kinh tế tăng trưởng ổn định, hiệu quả cao đặc biệt là bảo đảm công bằng xã hội. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng là nền kinh tế mở hội nhập. Đặc điểm này phản ánh sự khác biệt giữa nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng với nền kinh tế đóng, khép kín trước đổi mới, đồng thời phản ánh xu hướng hội nhập của nền kinh tế nước ta trong điiêù kiện toàn cầu hoá kinh tế. Thực trạng nền kinh tế thị trường ở nước ta Trình độ phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta còn ở giai đoạn sơ khai. Đó là do những nguyên nhân: Cơ sở vật chất kĩ thuật ở trình độ thấp, bên cạnh một số lĩnh vực, một số sơ sở kinh tế đã được trang bị kĩ thuật và công nghệ hiện đại, trong nhiều ngành kinh tế máy móc cũ kĩ, công nghệ lạc hậu. Theo UNDP Việt Nam đang ở trình độ công nghệ lạc hậu 2/7của thế giới, thiết bị máy móc lạc hậu 2-3 thế hệ(có lĩnh vực 4-5 thế hệ) lao động thủ công vẫn chiếm tỉ trọng lớn trong tổng số lao động xã hội. Do đó năng suất lao động, chất lượng, hiệu quả sản xuất của nước ta còn rất thấp so với khu vực và thế giới( năng suất lao động của nước ta chỉ bằng 30% mức trung bình của thế giới) Kết cấu hạ tầng như hệ thống đường giao thông, bến cảng, hệ thống thông tin liên lạc… còn lạc hậu, kém phát triển (mật độ đường giao thông/km bằng 1% với mức trung bình của thế giới, tốc độ truyền thông trung bình cả nước chậm hơn thế giới 30 lần) Do cơ sở vật chất kĩ thuật còn ở trình độ thấp làm cho phân công lao động kém phát triểnm sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm. Nền kinh tế nước ta chưa thoát khỏi nền kinh tế nông nghiệp sản xuất nhỏ. Nông nghiệp vẫn sử dụng khoảng 70% lực lượng lao động, nhưng chỉ sản xuất khoảng 2,6% GDP, các ngành kinh tế công nghệ cao chiếm tỉ trọng thấp. Khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường trong nước cũng như thị trường nước ngoài còn rất yếu Thị trường dân tộc thống nhất đang trong quá trình hình thành nhưng chưa đồng bộ: Do giao thông vận tải kém phát triển nên chưa lôi cuốn được tất cả các vùng trong nước vào một mạng lưới lưu thông hàng hoá thoóng nhất Thị trường hàng hoá- dịch vụ đã hình thành nhưng còn hạn hẹp và còn nhiều hiện tượng tiêu cực(hàng giả, hàng nhập lậu, hàng nhái nhãn hiệu vẫn còn làm rối loạn thị trường ) Thị trường hàng hoá sức lao động mới manh nha, một số trung tâm giới thiệu việc làm và xuất khẩu lao động mới xuất hiện nhưng đã nảy sinh hiện tượng khủng hoảng Thị trường tiền tệ, thị trường vốn đã có nhiều tiến bộ nhưng vẫn còn nhiều trắc trở. Thị trường chứng khoán ra đời nhưng cũng chưa có nhiều “hàng hoá” để mua- bán và mới có rất ít doanh nghiệp đủ điều kiện tham gia thị trường này. Nhiều thành phần kinh tế tham gia thị trường: do vậy nền kinh tế nước ta có nhiều loại hình sản xuất hàng hoá cùng tồn tại, đan xen nhau, trong đó sản xuất hàng hóa nhỏ còn phân tán. Sự hình thành thị trường trong nước gắn với mở rộng kinh tế đối ngoại, hội nhập vào thị trường khu vực và thế giới, trong hoàn cảnh trình độ phát triển kinh tế- kĩ thuật của nước ta thấp xa so với hầu hết các nước khác 2. Cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam: 2.1 Sự cần thiêt chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam Do nhận thức còn đơn giản về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, nên chúng ta đã thiết lập thể chế kinh tế kế hoạch và cơ chế vận hành nền kinh tế là cơ chế quản lí tập trung quan liêu bao cấp. Mô hình kinh tế và cơ chế đó có những đặc trưng chủ yếu sau đây: Thứ nhất: nhà nước quản lí nền kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính là chủ yếu đối với hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh chi tiết từ trên xuống dưới. Do đó hoạt động của các doanh nghiệp chủ yếu phải dựa vào chỉ tiêu pháp lệnh hoặc là quýêt định của cơ quan nhà nước cấp trên, từ phương thức sản xuất nguồn vật tư, địa chỉ tiêu thụ sản phẩm, đến việc định giá, săp xếp bộ maý Thứ hai: các cơ quan hành chính kinh tế can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sỏ, nhưng lại không chịu trách nhiệm gì về vật chất đối với các quyết định của mình. Những thiệt hại do các quýêt đinh không đúng gây ra thì ngân sách nhà nước phải gánh chịu. Hiệu qủa do hai điểm nói trên mang lại là cơ quan quản lý nhà nước làm thay chức năng quản lý sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Còn các doanh nghiệp vừa bị trói buộc vì không có quyền tự chủ, vừa ỷ lại vào cấp trên, vì không bị ràng buộc trách nhiệm đối với kết quả sản xuất kinh doanh. Thứ ba: trong cơ chế cũ quan hệ hàng hoá - tiền tệ bị nhà nước quản lý nền kinh tế và kế hoạch hoá bằng chế độ cấp phát và giao nộp sản phẩm.Quan hệ vật chất là chủ yếu, do đó hạch toán kinh tế chỉ là hình thức. Chế độ bao cấp được thực hiện dưới các hình thức: Bao cầp qua giá là hình thức phổ biến nhất và nghiêm trọng nhất, Nhà nước định giá tài sản, thiết bị, vật tư, hàng hóa thấp hơn giá trị của chúng. Với giá thấp như vậy, coi như một phần những thứ đó được cho không. Bao cấp theo chế độ tem phiếu ( tiền lương hiện vật). Chế độ cung cấp tem phiếu với giá thấp đã biến thành một loại tiền lương theo hiện vật đã phá vỡ nguyên tắc phân phối theo lao động. Bao cấp theo chế độ cấp phát vốn của ngân sách, mà không ràng buộc trách nhiệm về vật chất đối với người được trợ cấp vốn đã tạo ra gánh nặng cho ngân sách nhà nước. Thứ tư: Bộ máy quản lý cồng kềnh, có nhiều cấp trung gian và kém năng động, từ đó sinh ra một đội ngũ cán bộ kém năng lực quản lý nhưng phong cách thì của quyền, quan liêu. Mô hình kinh tế chỉ huy mà điển hình là nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp…với những đặc trưng nêu trên có những ưu điểm là tập trung được nguồn lực vào những mục tiêu chủ yếu, nhưng nó lại thủ tiêu cạnh tranh nên đã kìm hãm tiến bộ khoa học kĩ thuật phát triển. Mô hình kinh tế đó không có tiêu chuẩn khách quan đánh giá hiệu quả hoạt động kinh tế, bởi lẽ giá cả gần như không có gì liên quan với giá cả hàng hoá cũng như là tương quan cung – cầu, nên mọi sự tính toán đều sai lệch, làm mất đi động lực của sự phát triển kinh tế, hình thành cơ chế kìm hãm sự phát triển kinh tế xã hội. Khi chủ yếu phát triển kinh tế theo bề rộng chứ không phải phát triển kinh tế theo chiều sâu. Vì vậy, với sự đổi mới tư duy về kinh tế, Đảng ta đã đề ra phương hướng đối với chính sách kinh tế là: “ chuyển nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, định hướng xã hội chủ nghĩa ”. 2.2. Ưu điểm và khuyết tật của cơ chế thị trường. 2.2.1 Ưu điểm của cơ chế thị trường. Cơ chế thị trường là cơ chế tự điều tiết của nền kinh tế thị trường do sự tác động của quy luật vốn có của nó. Cụ thể hơn: cơ chế thị trường là hệ thống hữu cơ của sự thích ứng lẫn nhau, tự điều tiết lẫn nhau của các yếu tố giá cả cung – cầu, cạnh tranh,… Trực tiếp phát huy tác dụng trên thị trường đó. Những ưu điểm của cơ chế thị trường: Cơ chế thị trường kích thích hoạt động của chủ thể kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tự do của họ. Do đó làm cho nền kinh tế phát triển năng động có hiệu quả. Sự tác động của cơ chế thị trường sẽ đưa đến sự thích ứng tự phát giữa khối lượng và cơ cấu sản xuất với khối lượng và cơ cấu nhu cầu của xã hội. Nhờ đó ta có thể thoả mãn tốt nhu cầu tiêu dùng cá nhân về hàng ngàn, hàng vạn sản phẩm khác nhau. Cơ chế thị trường kích thích đổi mới kĩ thuật, hợp lý hoá sản xuất. Sức ép của cạnh tranh buộc những người sản xuất giảm chí phí sản xuất cá biệt đến mức tối thiểu bằng cách áp dụng những phương pháp sản xuất đổi mới sản phẩm, đổi mới tổ chức sản xuất và quản lý kinh doanh hiệu quả. Cơ chế thị trường thực hiện phân phối các nguồn lực kinh tế một cách tối ưu. Trong nền kinh tế thị trường việc lưu động, di chuyển, phân phối sẽ được chuyển đến nơi được sử dụng với hiệu quả cao nhất. Do đó các nguồn lực kinh tế được phân phối một cách tối ưu. Sự điều tiết của cơ chế thị trường mềm dẻo hơn sự điều chỉnh của cơ quan nhà nước và có khả năng thích nghi kịp thời giữa sản xuất xã hội và nhu cầu xã hội 2.2.2 Khuyết tật của cơ chế thị trường. Cơ chế thị trường chỉ phát huy tác dụng đầy đủ khi có cạnh tranh hoàn hảo, khi xuất hiện cạnh tranh không hoàn hảo thì hiệu lực của cơ chế thị trường bị giảm sút. Mục đích của hoạt động doanh nghiệp là tối đa hoá lợi nhuận, vì vậy họ có thể lạm dụng tài nguyên của xã hội, gây ô nhiễm môi trường sống của con người; do đó hiệu quả kinh tế – xã hội không được đảm bảo. Phân phối thu nhập không công bằng nên sự tác động của cơ chế thị trường đã dẫn đến đạo đức và tình người. Một nền kinh tế do cơ chế thị trường thuần tuý điều tiết khó cạnh tránh khỏi những thăng trầm, khủng hoảng kinh tế có chu kì và thất nghiệp. 2.3 Sự điều tiết vĩ mô của nhà nước xã hội chủ nghĩa nhằm phát huy tác dụng tích cực và hạn chế tác động tiêu cực của cơ chế thị trường . 2.3.1Vai trò và chức năng kinh tế của nhà nước trong nên kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cơ chế thị trường là cơ chế tốt nhất điều tiết nền kinh tế hàng hoá một cách hiệu quả, tuy nhiên nó cũng có một loạt các hạn chế. Vì vậy ở tất cả các nước có nền kinh tế do cơ chế thị trường điều tiết đều có sự quản lý của nhà nước vào kinh tế. Sự can thiệp của nhà nước một mặt nhằm định hướng thị trường phục vụ tốt các mục tiêu kinh tế – xã hội trong từng thời kì, măth khác nhằm sửa chữa và khắc phục các khuyết tật vốn có của nền kinh tế thị trường tạo ra công cụ quan trọng điều tiết thị trường ở tầm vĩ mô mà không vi phạm cơ chế điều chỉnh ở tầm vĩ mô. Nhờ sự can thiệp của nhà nước đã kiềm chế được một phần sức mạnh nguy hiểm của tính tự phát chứa đựng trong lòng thị trường, đồng thời phát huy được những ưu thế vốn có của nền kinh tế thị trường. Nhà nước Việt Nam muốn quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có kết quả trước hết cũng phải dựa trên yêu cầu khách quan của các quy luật kinh tế thị trường. Do đó phương pháp quản lý của nhà nước ta về nhiều phương diện cũng có những nét giống như phương pháp quản lí của nhà nước ở các nước tư bản, thừa nhận tính độc lập của các chủ thể kinh tế để họ có quyền tự chủ trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, tự chịu trách nhiệm lỗ lãi, xây dựng hệ thống thị trường có tính cạnh tranh, giá cả chủ yếu do thị trường, xây dựng cơ chế điều tiết vĩ mô của nhà nước nhằm hướng dẫn, giám sát hoạt động của các chủ thể kinh tế, hạn chế những khuyết tật của kinh tế thị trường, xây dựng hệ thống pháp luật nhằm tạo ra khuôn khổ cho hoạt động kinh tế, tôn trọng và thực hiện các thông lệ quốc tế trong quan hệ kinh tế quốc tế. Nhà nước xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản quản lí nền kinh tế thị trường nhằm mục tiêu dân giàu nước manh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, bảo đảm cho mọi người có cuộc sống ấm no hạnh phúc. Chức năng kinh tế hay chức năng quản lí vĩ mô của nhà nước ta được thể hiện trên những phương diện sau đây: Một là: nhà nước bảo đảm sự cố định chính trị, kinh tế,xã hội và thiết lập khuôn khổ luật pháp để tạo điều kiện cần thiết cho hoạt động kinh tế. Nhà nước phải tạo ra hành lang luật pháp cho hoạt động kinh tế bằng cách đặt ra các điều luật cơ bản về quyền sở hữu tài sản và hoạt động thị trường, đặt ra những quy định chi tiết cho hoạt động của các doanh nghiệp. Khuôn khổ luật pháp mà nhà nước thiết lập có tác động sâu sắc tới các hành vi của các chủ thể kinh tế, điều chỉnh hành vi kinh tế của họ. Hai là: nhà nước định hướng cho sự phát triển kinh tế và thực hiện điều tiết các hoạt động kinh tế để đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng ổn định, nhà nước xây dựng các chiến lược và quy hoạch phát triển trực tiếp đầu tư vào một số lĩnh vực để dẫn dắt nền kinh tế-xã hội đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế. Nền kinh tế thị trường khó tránh khỏi những chấn động bởi cuộc khủng hoảng kinh tế và lạm phát. Nhà nước phải sử dụng chính sách tài chính và chính sách tiền tệ để ổn định môi trường kinh tế vĩ mô, tạo điều kiện cho phát triển kinh tế Ba là: nhà nước đảm bảo cho nền kinh tế hoạt động có hiệu quả. Các doanh nghiệp vì lợi ích của mình có thể lạm dụng tài nguyên của xã hội gây ô nhiễm môi trường sống của con người. Vì vậy nhà nước phải thực hiện những biện pháp nhằm ngăn chặn những tác động bên ngoài để nâng cac hiệu quả kinh tế- xã hội. Sự xuất hiện độc quyền cũng làm giảm tính hiệu quả của hoạt động thị trường, vì vậy nhà nước có nhiệm vụ rất cơ bản là bảo vệ cạnh tranh và chống độc quyền để nâng cao tính hiệu qủa của hoạt động thị trường. Bốn là: nhà nước cần hạn chế khắc phục các mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, thực hiện công bằng xã hội. Sự tác động của cơ chế thị trường có thể đưa lại hiệu quả kinh tế cao nhưng nó không tự động đưa đến sự phân phối thu nhập công bằng. nhà nước thực hiện phân phối thu nhập quốc dân một cách công bằng. Điều này thể hiện rõ rệt nhất tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường ở nước ta. Từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung mang nặng tính hiện vật, tự cung, tự cấp vận hành theo cơ chế chỉ huy chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần và vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước, nền kinh tế phải trải qua thời kì quá độ. Đó là thời kì cơ chế cũ chưa hoàn toàn mất đi, cơ chế mới chưa thực sự ra đời, hoạt động trên cơ sở của chính nó và phát sinh tác dụng. Trong điều kiện đó vai trò của nhà nước là cực kì quan trọng, trong lịch sử phải mất hàng trăm năm nền sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa mới phát triển lên trình độ kinh tế thị trường có sự can thiệp của nhà nước. ở nước ta nhà nước đóng vai trò rất quan trọng để rút ngắn chặng đường lịch sử hàng trăm năm trong khoảng thời gian vài chục năm. 2.3.2 Nội dung quản lý kinh tế của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Nội dung kinh tế chủ yếu của nhà nước ta bao gồm: Quyết định chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, toàn bộ sự phát triển của nền kinh tế phụ thuộc trước hết vào đường lối và chiến lược phát triển kinh tế. Để chiến lược phát triển đúng đắn, có căn cứ khoa học, cần phân tích đúng thực trạng kinh tế xã hội, xác định rõ mục tiêu phát triển, lựa chọn phương án tối ưu. Muốn vậy cần thực hiện dân chủ hoá, khoa học hoá, thể chế hoá chính sách. Kinh tế là kế hoạch thực hiện mục tiêu của quyết định chiến lược. Kế hoạch xác định mục tiêu dài hạn, trung hạn và ngắn hạn, nêu ra các biện pháp và phương án thực hiện các mục tiêu đó. Tổ chức là một nội dung của quản lý nhằm bảo đảm thực hiện kế hoạch đã định. Nó bao gồm việc bố trí hợp lý cơ cấu, xác định rõ chức năng, quyền hạn, trách nhiệm của các tổ chức và dựa vào yêu cầu cụ thể của các cơ cấu để lựa chọn và bố trí cán bộ thích hợp. Chỉ huy và phối hợp nền kinh tế là một hệ thống phức tạp bao gồm nhiều chủ thể khác nhau. Vì thế, để cho nền kinh tế hoạt động bình thường và có hiệu quả cần có sự chỉ huy thống nhất. Để có thể chỉ huy nền kinh tế, phải có cơ quan quản lý thống nhất, cơ quan đó có quyền lực, có đầy đủ thông tin về các mặt để điều hoà, phối hợp các lĩnh vực hoạt động của nền sản xuất xã hội và giải quyết kịp thời các vấn đề nảy sinh đảm bảo cân bằng tổng thể của nền kinh tế. Khuyến khích và trừng phạt bằng các đòn bẩy kinh tế và động viên về tinh thần, khuyến khích mọi tổ chức kinh tế hoạt động theo định hướng có kế hoạch, cố gắng thực hiện nhiệm vụ của kế hoạch. Muốn vậy, phải có chế độ thưởng phạt rõ ràng, hoạt động theo định hướng kế hoạch, làm lợi cho nền kinh tế thì được khuyến khích; ngược lại không làm theo định hướng của kế hoạch, làm hại thì phải ngăn chặn và trừng phạt. 2.3.3 Các công cụ điều tiết vĩ mô của nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Hệ thống pháp luật là một công cụ quản lý vĩ mô của nhà nước, nó tạo ra khuôn khổ pháp luật cho các chủ thể kinh tế hoạt động, phát huy mặt tích cực và hạn chế các mặt tiêu cực của kinh tế thị trường. Bảo đảm cho nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Kế hoạch hoá: cơ chế vận hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là kế hoạch kết hợp với thị trường. Kế hoạch và thị trường là hai công cụ quản lý của nhà nước, chúng được kết hợp chặt chẽ với nhau. Sự điều tiết của thị trường là cở sở để phân phối các nguồn lực còn kế hoạch khắc phục tính tự phát của thị trường, làm cho nền kinh tế phát triển theo định hướng của kế hoạch. Lực lượng kinh tế của nhà nước: nhà nước quản lý kinh tế không chỉ bằng các công cụ pháp luật, kế hoạch hoá mà còn bằng lực lượng kinh tế của nhà nước và tập thể để chùng dần chở thành nền tảng của nền kinh tế và hỗ trợ các thành phần kinh tế khác phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời nó cũng thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Nhờ đó nhà nước có sức mạnh vật chất để điều tiết, hướng dẫn nền kinh tế theo đúng mục tiêu kinh tế xã hội do kế hoạch đặt ra. Chính sách tài chính tiền tệ: đối với nền kinh tế thị trường mà nhà nước quản lý bằng các biện pháp kinh tế là chủ yếu. Những biện pháp kinh tế điều tiết vĩ mô của nhà nước chủ yếu là các chính sách tài chính và chính sách tiền tệ. Chính sách tài chính đặc biệt là ngân sách nhà nước có ảnh hưởng quyết định đến sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế và xã hội thông qua việc hình thành, sử dụng ngân sách nhà nước để điều chỉnh, phân bố các nguồn lực kinh tế, xây dựng kết cấu hạ tầng bảo đảm công bằng trong phân phối và thực hiện hai chức năng của mình. Chính sách tiền tệ là một công cụ quản lý vĩ mô trọng yếu, vai trò của nó trong điều tiết vĩ mô ngày càng tăng cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Các công cụ điều tiết kinh tế đối ngoại: để mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại nhà nước sử dụng nhiều công cụ, trong đó chủ yếu là thuế xuât- nhập khẩu, bảo đảm tín dụng xuất khẩu, trợ cấp xuất khẩu. Thông qua đó nhà nước có thể khuyến khích xuất khẩu, bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước nâng cao khả năng cạnh tranh hàng hoá của nước ta, giữ vững độc lập, bảo vệ được lợi ích quốc gia trong quan hệ kinh tế quốc tế. 3. Mục tiêu quản lý vĩ mô của nhà nước. 3.1. Mục tiêu phân bổ nguồn lực có hiệu quả. Muốn phân bổ nguồn lực có hiệu quả nhà nước phải dựa vào công cụ kế hoạch để hoạch định sự phát triển toàn diện của nền kinh tế. Thông qua công cụ này nhà nước có thể nắm bắt các yếu tố ảnh hưởng đến mức cung và mức cẩu, trạng thái nền kinh tế các vùng trong cả nước để từ đó phân bổ nguồn lực nhà nước như vốn, lao động, công nghệ,… có hiệu quả để nâng cao sản lượng. Tạo điều kiện cho nền kinh tế tăng trưởng tốt và ổn định. Nhờ công cụ này mà chính phủ khẳng định được ý đồ của mình trong nhiều lĩnh vực: xây dựng công trình công cộng thúc đẩy sự phát triển khoa học kỹ thuật, giảm bớt những rủi ro đối với các thành phần kinh tế, bảo đảm các hoạt động kinh tế chung. 3.2 Mục tiêu phân bố công bằng sản phẩm và giải quyết vấn đề xã hội. Để đảm bảo phân bố công bằng sản phẩm và giải quyết vấn đề xã hội, nhà nước cần sử dụng các công cụ pháp luật điều tiết thu nhập, bảo hộ vad giáo dục. Nâng cao trình độ văn hoá dân tộc và cộng đồng trong quá trình phát triển kinh tế. Các biện pháp can thiệp của nhà nước có thể là trực tiếp, có thể là gián tiếp nhưng phải tuân thủ nguyên tắc phân phối theo lao động. Đối với vấn đề xã hội cần có chính sách thiết thực phù hợp với điều kiện: trợ cấp, phân phối lại bảo hiểm phát triển công nghệ. 3.3 Mục tiêu ổn định và tăng trưởng kinh tế. Để giải quyết tốt mục tiêu ổn định và tăng trưởng kinh tế, nhà nước phải tạo ra môi trường tốt cho thị trường phát huy các mặt tích cực cuả nó. Xác định rõ quyền sở hữu tài sản và đảm bảo mọi nguồn lực tham gia vào quá trình sản xuất tạo ra sản phẩm mới, khuyến khích phát minh sáng kiến sử dụng nguồn lực chất xám, cạnh tranh lành mạnh, chống độc quyền…Thúc đẩy thị trường phát triển toàn diện tất cả các yếu tố: lao động, vốn, kĩ thuật, đất đai trong tất cả các lĩnh vực và mọi không gian. 3.4 Mục tiêu củng cố và xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội. Để đạt được mục tiêu trên phải phát triển giáo dục đào tạo, nâng cao đầu tư năng lực khoa học và công nghệ để đáp ứng yêu cầu hiện tại và cho thế kỉ XXI. Đất nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội với mục tiêu chung là “ dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh”. Các mục tiêu trên dựa trên cơ sở lấy con người phục vụ con người làm nền tảng để đưa đất nước và con người Việt Nam vươn tới xã hội chủ nghĩa, một xã hội mà toàn thể nhân dân ta đang chung sức xây dựng. 4. Một số giải quyết cơ bản nhằm đổi mới và tăng cường vai trò kinh trrs của nhà nước ta hiện nay. Trong thời đại ngày nay, việc nâng cao vai trò quản lý nhà nước là xu hướng khách quan đối với tất cả các nước không phân biệt chế độ chính trị. Ngày nay không có một nhà nước nào đứng ngoài đời sống kinh tế, không có một nền kinh tế thị trường nào thuần tuý mà ở những mức độ khác nhau đều có sự can thiệp của nhà nước. Mỗi quốc gia trong mọi trường hợp kinh tế phát triển thành công hay suy thoái, giàu hay nghèo, ổn định hay rối loạn đều tìm thấy nguyên nhân chủ yếu ở vai trò của nhà nước. Nước ta quản lý nhà nước về kinh tế là sự quan tâm hàng đầu của Đảng, nhà nước và nhân dân. Để nhà nước thực hiện tốt các chức năng, nhiệm vụ, vai trò trên cần phải xác định mục tiêu, chiến lược phát triển kinh tế xã hội phu hợp với đặc điểm kinh tế xã hội ở nước ta và bối cảnh quốc tế hiện nay. bối cảnh quốc tế hiện nay đang đứng trước diễn đàn mới, xu hướng thương mại hoá toàn cầu để phát triển. Cạnh tranh quốc tế hiện nay ngày càng ác liệt, toàn diện để tìm kiếm thị trường, nguồn nguyên liệu, vốn đầu tư, khoa học công nghệ, chất xám…nên làm nảy sinh nhiều vấn đề và tác động sâu sắc mọi mặt của đời sống kinh tế – xã hội nước ta, tạo ra những cơ hội và thách thức mới đòi hỏi chúng ta phải xác định mục tiêu và chiến lược phát triển một cách đúng đắn, có cơ sở, không được tuỳ tiện nhằm phát huy những thành tựu đạt được ra sức phấn đấu tranh thủ thời cơ, đẩy lùi nguy cơ, đưa đất nước vào thể kỷ mới, thực hiện thành công công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Đồng thời tạo ra thế và lực ( vật chất, nguồn lực) cho đất nước phát triển nhanh và bền vững tạo phúc lợi cho người dân. Bên cạnh đó an ninh quốc phòng cũng được củng cố, giữ vững và ổn định về chính trị xã hội để đất nước phát triển văn minh đẩy lùi đói nghèo và lạc hâu. Đặc biệt trong tình hình hiện nay, khi Việt Nam đã chính thức thành thành viên của tổ chức thương mại quốc tế thì yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra cho quản lý nhà nước là: Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế quản lý nhằm hình thành nhanh và đồng bộ các yếu tố của kinh tế thị trường. Thực hiện một cách mạnh mẽ cải cách thủ tục hành chính, bãi bỏ các thủ tục giấy tờ không cần thiết nhằm rút ngắn thời gian thành lập doanh nghiệp và tham gia thị trường, đưa nhanh hàng hoá và dịch vụ vào kinh doanh. Sắp xếp lại các cơ quan quản lý nhà nước theo yêu cầu quản lý đa ngành, đa lĩnh vưc. Tạo môi trường thuânh lợi kết hợp những chính sách và biện pháp hữu hiệu để thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước. Đổi mới phát triển nguồn nhân lực. Tập trung sức phát triển cơ sở hạ tầng giao thông, năng lượng kinh tế, trong đó có cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp nông thôn, từng bước chuyển lao động nông nghiệp sang sản xuất công nghiệp và dịch vụ. Tăng ngân sách đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn cùng với việc dành nông sản để đầu tư phát triển thuỷ lợi và giao thông nông thôn. Phát triển đa loại hình dịch vụ. Phát triển những lĩnh vực sản phẩm có lợi thế cạnh tranh có khả năng mở rộng thị trường. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách doanh nghiệp nhà nước, khuyến khích mọi người đầu tư vào sản xuất kinh doanh và phát triển các loại hình doanh nghiệp có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam. Tiền đề quan trọng nhất và có ý nghĩa quyết định để thực hiện thắng lợi các chủ trương và giải pháp nêu trên là bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, giữ vững chủ quyền quốc gia và định hướng của sự phát triển… Kết luận Nhà nước với những chức năng của mình đang góp phần tích cực trong việc định hướng xây dựng và quản lý nền kinh tế. Đối với nước ta nền kinh tế còn đang kém phát triển, lạc hậu cùng với đội ngũ cán bộ quản lý còn yếu kém thì vai trò quản lý của nhà nước càng đặc biệt quan trọng. Nhà nước với vai trò của mình là thiết lập khuôn khổ pháp luật điều tiết, chi phối, đảm bảo sự công bằng và kiểm soát ổn định kinh tế vĩ mô nhằm bảo đảm quỳên tự do dân chủ, công bằng trong phân phối kinh tế và mở rộng phúc lợi xã hội, hạn chế khủng hoảng và ổn định kinh tế. Nhà nước cần phải xác định đúng mục tiêu quản lý của mình từ đó đưa ra những chính sách, chiến lược phát triển hợp lý, tránh nóng vội đốt cháy giai đoạn. Nước ta hiện nay thị trường tuy đã được mở rộng song còn nhỏ bé ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docU0159.doc