Lời nói đầu
Từ sau đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI nền kinh tế nước ta là "nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của nhà nước theo định hướng XHCN". Đây là sự chuyển hướng lớn có tính chiến lược trên con đường quá độ lên CNXH. Điều này không những khẳng định nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị trường mà còn khẳng định vai trò của nhà nước đối với nền kinh tế.Vai trò này ngày càng quan trọng và có ý nghĩa quyết định đối với sự thành công
20 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1336 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Vai trò kinh tế của nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
của con đường lên CNXH mà trước hết là sự nghiệp CNH-HĐH đất nước.
Trong công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng, vấn đề quan trọng nhất là quan niệm lại mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa, tìm ra cách tiếp cận phù hợp với xu hướng phát triển của nhân loại. Việc thay đổi cơ cấu kinh tế nhằm phát huy tiềm lực kinh tế, nâng cao đời sống về vật chất và tinh thần cho người dân, đảm bảo cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh sánh vai cùng các cường quốc là một yêu cầu thực tiễn của sự phát triển. Nền kinh tế thị trường rất phù hợp cho sự phát triển đó nhưng để phát huy được hết ưu điểm của nó cũng như để hạn chế nhược điểm, ta cần phải nghiên cứu nó một cách chính xác, hoàn thiện. Đồng thời cũng cần phải nghiên cứu những biện pháp để tăng cường sự quản lý của nhà nước sao cho phù hợp với nền kinh tế hiện nay để tránh khỏi những sai lầm và khủng hoảng mà nhiều nước đã vấp phải. Do vậy việc nghiên cứu vai trò kinh tế của nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam và thấy được ưu nhược điểm trong quá trình quản lý kinh tế của nhà nước là hết sức quan trọng. Đây là một vấn đề rộng lớn bao hàm nhiều nội dung nhưng trong giới hạn của đề án này em xin được đề cập tới 4 nội dung chính sau đây:
I-Tính tất yếu khách quan vai trò quản lý vĩ mô của nhà nước đối với nền kinh tế.
II-Các đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta.
III-Các mục tiêu và chức năng quản lý vĩ mô của nhà nước.
IV-Một số giải pháp nhằm đổi mới và tăng cường vai trò kinh tế của nhà nước ở nước ta hiện nay.
B . Nội dung
I . Tính tất yếu khách quan Nhà nước phải can thiệp vào kinh tế.
Nhà nước không phải bẩm sinh sẵn có mà nó xuất hiện do tính tư hữu về tư liệu sản xuất (TLSX) sản xuất hàng hóa, giai cấp và đấu tranh giai cấp. Nhà nước là bộ máy do giai cấp thống trị đặt ra nhằm bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị, như vậy nhà nước là một thể chế chính trị, một trong những yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng xã hội. Lịch sử loài người đã chứng tỏ trong sự phát triển của mình, do yêu cầu của quản lý xã hội, chức năng quản lý của nhà nước luôn gắn với chức năng quản lý hành chính. Trong các kiểu nhà nước không có nhà nước nào đứng ngoài kinh tế, nhà nước ra đời gắn liền với lợi ích kinh tế. Vai trò kinh tế của nhà nước trong mỗi giai đoạn lịch sử chỉ khác nhau về nhiệm vụ và phương thức hoạt động.
1. Giai đoạn công xã nguyên thủy:
Nhà nước chưa hình thành vì lúc đó chưa có của cải dư thừa dẫn đến chưa có tư hữu, con người sống bình đẳng.
2.Giai đoạn nhà nước chiếm hữu nô lệ:
Nhà nước chủ nô, nhà nước đầu tiên trong lịch sử trực tiếp dùng quyền lực của mình can thiệp vào việc phân phối của cải .Trong thời kỳ này, của cải được sản xuất ra bởi những người nô lệ dưới sự chỉ huy của giai cấp chủ nô, nhưng của cải ấy không được ''phân phối " mà bị giai cấp chủ nô chiếm đoạt bằng các thủ đoạn và bạo lực phi kinh tế.
3.Giai đoạn nhà nước phong kiến:
Nhà nước không chỉ can thiệp vào việc phân phối của cải mà còn đứng ra tập hợp lực lượng nhân dân xây dựng kết cấu hạ tầng cho sản xuất nông nghiệp, khuyến khích quan lại đi di dân mở mang các vùng đất mới, đề ra các chính sách ruộng đất thích hợp với từng thời kỳ. Nói chung hoạt động này diễn ra một cách tự phát.
4. Giai đoạn từ thế kỷ XV trở đi:
4.1. Chủ nghĩa trọng thương:
Chủ nghĩa tư bản hình thành đi liền với quá trình tích lũy tư bản và sự xuất hiện của kinh tế thị trường. Không phải ngẫu nhiên mà chủ nghĩa trọng thương lại đề ra vai trò của nhà nước mà tất cả đều có cơ sở của nó. Nhà nước giúp cho việc tích lũy tư bản đợc diễn ra một cách nhanh chóng. Nhà nước tư sản thực hiện một số luật nghiêm ngặt, họ tìm mọi cách tích lũy tiền tệ, không cho tiền ra nước ngoài. Nhà nước quy định nơi nào được phép buôn bán để dễ dàng kiểm soát. Trong chính sách ngoại thương, họ dùng hàng rào thuế quan để đánh thuế cao vào hàng nhập khẩu và thuế xuất khẩu các mặt hàng ra nước ngoài thấp, chỉ xuất thành phẩm chứ không xuất nguyên liệu. Nhà nước hỗ trợ cho thương nhân trong nước các phương tiện vật chất và tài chính khi họ tham gia buôn bán quốc tế. Đồng thời nhà nước cũng quy định nghiêm ngặt tỉ giá hối đoái cấm trả cho người nước ngoài cao hơn mức quy định của nhà nước. Nhờ các chính sách đó, các nước tư bản đã tích lũy được một lượng của cải đáng kể.
4.2. Quan niệm cổ điển:
Sang đầu thế kỷ XVIII, nền kinh tế đã tương đối tập trung và phát triển mạnh trong lĩnh vực sản xuất, thuyết ''bàn tay vô hình '' của Adam-Smith được lan rộng và phát triển mạnh mẽ. Lúc này giai cấp tư sản đang đi lên, những vấn đề của sản xuất kinh tế xã hội đòi hỏi tự do cạnh tranh. Nhà nước trong điều kiện đó không tham gia vào kinh tế thị trường và các hoạt động của chủ thể kinh tế hàng hóa mà chỉ là công cụ cần thiết làm nhiệm vụ chống thù trong giặc ngoài bảo vệ đất nước. Tuy nhiên đôi khi nhà nước cũng có nhiệm vụ kinh tế nhất định, khi mà nhiệm vụ kinh tế qúa khả năng của các chủ thể tư nhân như làm đường sá, cải tạo sông ngòi ... để phát triển kết cấu hạ tầng.
4.3. Keynes:
Vào đầu thế kỷ XX, những cuộc khủng hoảng kinh tế diễn ra có tính chu kỳ. Đặc biệt cuộc khủng hoảng 1929-1933 cho thấy”bàn tay vô hình” không đảm bảo điều kiện ổn định cho nền kinh tế thị trường phát triển, cần phải có một lực lượng nhân danh xã hội can thiệp vào quá trình kinh tế ở mức vĩ mô và vi mô. Tư tưởng này xuất phát từ quan niệm cho rằng sự tăng lên của thu nhập kéo theo tăng tiêu dùng. Song do khuynh hướng”tiêu dùng giới hạn” nên tiêu dùng tăng chậm hơn so với thu nhập vì vậy cầu giảm xuống. Mức tỷ suất lợi nhuận nhỏ hơn hoặc bằng lãi suất vay thì chủ doanh nghiệp sẽ không có lợi trong việc vay vốn để đầu tư, và họ sẽ không đầu tư vào sản xuất kinh doanh dẫn đến sản xuất trì trệ, khủng hoảng và thất nghiệp tăng. John.M.Keynes cho rằng ở tầm vĩ mô nhà nước sử dụng các công cụ như lãi suất chính sách tiêu dùng, điều tiết lưu thông hàng hóa, lạm phát thuế,... ở tầm vĩ mô nhà nước trực tiếp phát triển các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh và dịch vụ công cộng. Keynes và những người theo ông tin tưởng rằng sự can thiệp như vậy của nhà nước sẽ khắc phục được khủng hoảng thất nghiệp tạo ra sự ổn định cho phát triển kinh tế xã hội.
4.4. Chủ nghĩa tự do mới:
Tuy nhiên, những chấn động lớn trong nền kinh tế vẫn diễn ra thậm chí còn trầm trọng hơn, điều này làm tăng lên làn sóng phê phán lý thuyết Keynes và đã xuất hiện lý thuyết của trường phái "chủ nghĩa tự do''. Đó là một trong các trào lưu tư sản hiện đại, họ muốn áp dụng và kết hợp tất cả các quan điểm cũng như phương pháp luận của trường phái tự do cũ, trường phái trọng thương mới, trường phái Keynes, để hình thành hệ tư tưởng mới điều tiết nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Tư tưởng cơ bản của chủ nghĩa tự do mới là cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước ở một mức độ nhất định, khẩu hiệu của họ là thị trường nhiều hơn, nhà nước can thiệp ít hơn. Tuy nhiên cũng không mang lại hiệu quả.
4.5. Kinh tế hỗn hợp:
Năm 60-70 hình thành nên trường phái chính hiện đại với đại biểu là nhà kinh tế học ngời Mỹ Samuelson. Tư tưởng trung tâm của trường phái này là lý thuyết về nền ''kinh tế hỗn hợp'' được phát triển trong tác phẩm nổi tiếng Kinh tế học của Samuelson. Ông chủ trương phát triển kinh tế phải dựa vào cả ''hai bàn tay'' là nhà nước và cơ chế thị trường. Ông nói rằng ''cơ chế thị trường xác định giá cả và sản lượng trong nhiều lĩnh vực, trong khi đó chính phủ điều tiết thị trường bằng các chuơng trình thuế, chi tiêu và luật lệ. Cả hai bên thị trường và chính phủ đều có tính thiết yếu và kết luận tổng quát nhất của ông về vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường là ''điều hành một nền kinh tế không có cả thị trường lẫn chính phủ thì cũng giống như vỗ tay bằng một bàn tay''.
4.6. Chủ nghĩa Mác-Lênin:
Đã khẳng định rằng không thể cải biến kinh tế của nhà nước. Loài người đã, đang và sẽ còn sống lâu dài trong nền kinh tế thị trường không thể tách khỏi mặt tiêu cực của kinh tế thị trường thông qua vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước là một tất yếu khách quan. Điều này không chỉ có ý nghĩa đối với việc điều hành nền kinh tế thị trường ở các nước tư bản mà còn có ý nghĩa đối với các nước đi lên chủ nghĩa xã hội trong đó có nước ta. Theo dự đoán của Mác và Ănghen, chuyên chính vô sản trong đó bộ phận và vai trò kinh tế nhà nước ra đời từ sự chín muồi của các tiền đề kinh tế xã hội. Đến lượt sự ra đời vai trò kinh tế của nhà nước lại thúc đẩy các điều kiện kinh tế xã hội của xã hội phát triển và hoàn thiện. Lênin chỉ rõ rằng nhà nước xã hội chủ nghĩa có vai trò kinh tế đặc biệt. Nhà nước không còn là bộ máy ăn bám đứng trên quá trình sản xuất. Nó phải chuyển sang tổ chức thực hiện chức năng quản lý nền kinh tế quốc dân. Nhà nước trong hệ thống chuyên chính vô sản có vai trò cực kỳ quan trọng, với tư cách là ”bà đỡ”. Vai trò tạo điều kiện ( môi trờng, hành lang...) thuận lợi và ổn định cho sự hình thành và phát triển kinh tế thị trường. Vai trò ''bà đỡ'' chỉ có thể thực hiện khi hệ thống chuyên chính vô sản trong đó bộ phận quan trọng là nhà nước phải tự đổi mới để có đủ năng lực và phẩm chất. Nói cách khác nhà nước đó phải là nhà nước pháp quyền.
Như vậy, bất kỳ nhà nước nào dù lớn hay nhỏ, dù ở thời đại nào cũng có vai trò kinh tế nhất định. Sự ra đời và sự tồn tại của nhà nước bao giờ cũng có nguồn gốc từ nguyên nhân kinh tế. Đến lượt mình bất kỳ một hoạt động nào của nhà nước cũng hoặc là thúc đẩy hoặc là kìm hãm sự vận động nền kinh tế. Đó là mối quan hệ biện chứng giữa nhà nước và kinh tế.
II-Các đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta.
Đặc điểm về mô hình kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt nam.
Kinh tế thị trường ở Việt nam sẽ được phát triển theo định hướng XHCN. Đó lá sự đinh hướng của một xã hội mà sự hùng mạnh của nó nhờ vào sự giàu cóvà hạnh phúc của dân cư. Xã hội không còn chế độ người bóc lột người, dựa trên cơ sở “nhân dân lao động làm chủ, con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân”. Xã hội có nền kinh tế phát triển cao trên cơ sở khoa học, công nghệ và lực lượng sản xuất hiện đại. Nội dung định hướng XHCN ở nước ta đã được hội thảo khoa học nhiều lần, về cơ bản có những đặc điểm sau:
Một là, hai mặt kinh tế và xã hội của nền kinh tế thị trường nước ta được chủ động kết hợp với nhau ngay từ đầu thông qua pháp luật, chính sách kinh tế, chính sách xã hội trên cả tầm quản lý kinh tế vĩ mô và vi mô. Nếu ở tầm vi mô, các chủ doanh nghiệp lấy lợi nhuận làm mục tiêu xác định hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh thì ở tầm vĩ mô, Nhà nước dùng hiệu quả kinh tế xã hội làm mục tiêu quản lý nhằm thực hiện công bằng kinh tế và hiệu quả xã hội.
Hai là, cùng với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế, môi trường sinh thái của đất nước được chủ động bảo vệ qua các dự án đầu tư môi sinh và qua việc chấp hành một cách đúng đắn pháp luật, chính sách môi trường của Nhà nước trong từng thời kỳ.
Ba là, nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN là nền kinh tế có trình độ phát triển cao. Nếu như nền kinh tế trì trệ kém phát triển, tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân thấp kém dẫn tới mức thu nhập bình quân của dân cư còn thấp, không có sự tích luỹ nội bộ nền kinh tế thì không thể gọi là định hướng XHCN.
Bốn là, định hướng XHCN còn được thể hiện trong cơ cấu kinh tế nước ta. Do định hướng CNXH, kinh tế Nhà nước phải phát huy được vai trò chủ đạo, nó cùng kinh tế hợp tác là nền tảng của nền kinh tế.
Năm là, nhà nước XHCN quản lý nền kinh tế thị trường vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Trong thời kỳ đầu chuyển sang kinh tế thị trường, nhà nước ta thực hiện vai trò “bà đỡ”, tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế thị trường phát triển đúng hướng. Vai trò đó được thể hiện bằng hệ thống luật pháp bảo vệ quyền tự do dân chủ, công bằng xã hội và mở rộng phúc lợi xã hội cho nhân dân.
Sáu là, nền kinh tế thị trường ở nước ta là nền kinh tế dân tộc hoà nhập với kinh tế quốc tế. Với xu hướng phát triển kinh tế mở, nội dung này có ý nghĩa rất lớn. Một mặt, nó phát huy được lợi thế so sánh của nền kinh tế nước ta về vị trí địa lý, về lao động và về tài nguyên thiên nhiên. Mặt khác, nó làm cho kinh tế nước ta từng bước hoà nhập vào kinh tế khu vực và thị trường thế giới, từ đó có điều kiện tiếp thu những thành tựu mới của khoa học kỹ thuật, công nghệ thế giới, thực hiện công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
III- Các mục tiêu và chức năng quản lý vĩ mô của nhà nước.
1. Các mục tiêu quản lý vĩ mô của nhà nước.
Sự ra đời và phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần hơn 10 năm qua đã diễn ra như một tất yếu kinh tế với sức mạnh hồi sinh của hàng triệu quần chúng đã tạo ra những thay đổi căn bản về sức sản xuất xã hội, được nhân dân đồng tình ủng hộ.
Chủ nghĩa xã hội là mục tiêu cao nhất trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Đó là độc lập dân tộc, dân chủ, là dân giầu nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh. Đổi mới kinh tế, chuyển sang kinh tế thị trường không có mục tiêu nào khác ngoài mục tỉêu đó. Chúng ta đã có độc lập dân tộc, còn phải làm cho dân giầu, nước mạnh điều đó chỉ có thể sử dụng động lực của kinh tế thị trường và vai trò của nhà nước. Trong những năm qua, nhờ chuyển sang kinh tế thị rường mà nền kinh tế nước ta đã có những thay đổi căn bản, nhờ cơ ché thị trường mà phân bổ nguồn lực một cách có hiệu quả hơn. Các động lực lợi ích kinh tế đã phát huy tác dụng, cơ chế quản lý mới đã được vận hành và ngày càng tham gia tốt vào phân công lao động quốc tế. Nhưng Đảng ta chủ trương chuyển sang kinh tế thị trường không phải là thị trường bất kỳ mà là thị trường định hướng XHCN. Về bản chất đó là cơ chế hỗn hợp mang tính định hướng XHCN, vừa kế thừa thành tựu của loài người, vừa gắn liền với đặc điểm và mục tiêu chính trị là: Sự kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội.
Muốn đạt được mục tiêu đó Nhà nước phải bằng hệ thống chính sách, công cụ để quản lý và điều hành nền kinh tế, phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực với ý tưởng xây dựng một nền kinh tế phát triển, đời sống nhân dân được nâng cao.
Trước đây có lúc chúng ta hiểu chưa đúng, đồng nhất kinh tế thị trường với kinh tế TBCN vì vậy mà không tận dụng được sức mạnh của thị trường để phát triển kinh tế nhằm đạt được những mục tiêu đề ra.
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, sản xuất hàng hoá ra đời từ khi tan rã chế độ cộng sản nguyên thuỷ, nó tồn tại và phát triển trong xã hội nông nô, trong xã hội phong kiến và đạt đỉnh cao trong xã hội TBCN. Rõ ràng, thị trường không mang bản chất chế độ, mà chỉ có ché đọ xã hội nào biết hay không biết tận dụng những lợi thế của kinh tế thị trường và sử dụng những lợi thế đó để phục vụ chế độ mình. Thị trường được coi là một phương tiện quan trọng để xây dựng và phát triển kinh tế. Kinh tế thị trường bao giờ cũng tồn tại dưới một thể chế chính trị. Mỗi nhà nước đều có thể sử dụng nó theo quan điểm của riêng mình.
Nhờ kinh tế thị trường, CNTB đã đạt được những mục tiêu kinh tế - xã hội, phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao năng xuất lao động. Cũng nhờ kinh tế thị trường, quản lý xã hội đạt được những thành quả về hành chính, văn minh công cộng, con người nhạy cảm với khả năng sáng tạo và ý trí vươn lên...
CNXH cần phải biết kế thừa và phát triển những thành tựu của loài người, trước hết phải sử dụng những ưu điểm của kinh tế thị trường và loại bỏ những khuyết tật của nó.
Nhà nước can thiệp vào kinh tế để nhằm sửa chữa những thất bại của thị trường, nhằm thực hiện mục tiêu là đảm bảo cho nền kinh tế phát triển ổn định, công bằng và hiệu quả.
2-Các chức năng quản lý vĩ mô của nhà nước.
Vai trò quản lý của nhà nước được thể hiện qua các chức năng của nhà nước. Chức năng quản lý kinh tế là những hoạt động quản lý đặc biệt biểu hiện phương hướng tác động hoặc giai đoạn tiến hành. Tùy theo mục tiêu hoàn cảnh mỗi nước mà nhà nước có chức năng quản lý cụ thể riêng biệt. Nhà kinh tế học Samuelson đã khái quát bốn chức năng của chính phủ là:
+ Thiết lập khuôn khổ pháp luật: Chính phủ đề ra các quy tắc trò chơi kinh tế mà doanh nghiệp, người tiêu dùng, cả bản thân chính phủ cũng phải tuân thủ. Các luật lệ đưa ra nhằm đáp ứng những giá trị và quan điểm được đồng tình rộng rãi hơn là một sự phân tích kinh tế được mài dũa cải thiện về chi phí và lợi lộc.
+ Sửa chữa những thất bại của thị trường để thị trường hoạt động có hiệu quả. Chính phủ đưa ra các luật chống độc quyền và luật lệ làm tăng hiệu lực của hệ thống thị trường cạnh tranh không hoàn hảo. Chính phủ đảm nhiệm sản xuất các hàng hóa công cộng. Tất cả mọi người đều phải chịu theo luật thuế và phần lớn chi phí của chính phủ phải được trang trải bằng thuế.
+ Bảo đảm sự công bằng thông qua những chính sách để phân phối thu nhập, đánh thuế người giàu theo tỷ lệ thu nhập lớn hơn người nghèo. Ngoài ra còn có hệ thống hỗ trợ thu nhập để giúp cho những người không có khả năng lao động. Đôi khi phải trợ cấp tiêu dùng cho nhóm người có thu nhập thấp hoặc thất nghiệp.
+ Để ổn định kinh tế vĩ mô, chính phủ sử dụng một cách thận trọng quyền lực về tiền tệ. Tài chính của chính phủ có thể ảnh hưởng đến việc làm và lạm phát. Quyền lực về tài chính của chính phủ là quyền đánh thuế và chi tiêu. Quyền lực kinh tế bao hàm quyền điều tiết về tiền tệ và hệ thống ngân hàng để xác định mức lãi suất và điều kiện tín dụng.
Bốn chức năng trên của chính phủ được áp dụng phổ biến và được lấy làm cơ sở. Tuy nhiên, do hoàn cảnh mỗi nước khác nhau cũng như các mục tiêu khác nhau nên mỗi chức năng của chính phủ cũng được cụ thể hóa theo nhiều cách khác nhau. Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, mọi hoạt động kinh tế của các chủ thể thuộc mọi thành phần đều thực hiện chế độ tự chủ kinh doanh theo cơ chế thị trường, còn nhà nước giảm bớt sự can thiệp vào hoạt động kinh doanh và tập trung chủ yếu vào chức năng quản lý vĩ mô. Căn cứ vào mục tiêu và hoàn cảnh của đất nước ta trong thời kỳ đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, nhà nước ta có những chức năng sau :
2.1-Chức năng quản lý: bao trùm là tạo môi trường cho hoạt động kinh doanh. Đó là các môi trường chính trị, ngoại giao, luật pháp, kinh tế -xã hội và kết cấu hạ tầng ...Tạo được một môi trường thuận lợi là điều kiện quan trọng hàng đầu để mọi người - kể cả người nước ngoài - an tâm bỏ vốn đầu tư vào sản xuất kinh doanh, tạo cho nền kinh tế sôi động nhưng có trật tự kỷ cương, giải quyết đúng đắn các mối quan hệ và lợi ích.
2.2-Chức năng hướng dẫn: Nền kinh tế quốc dân phát triển theo những định hướng nhất định, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế xã hội trong từng giai đoạn do Đảng và Nhà nước đề ra nhằm hướng dẫn các doanh nghiệp và người tiêu dùng khắc phục bớt tính mù quáng, tự phát của cơ chế thị trường. Thực hiện chức năng này trước hết nhà nước phải quan tâm xây dựng chiến lược kinh tế - xã hội, quy hoạch chương trình, mục tiêu, kế hoạch và các chính sách đảm bảo thực hiện chiến lược và kế hoạch đó. Trong điều kiện nước ta hiện nay, việc cụ thể hóa và tổ chức thực hiện chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội do Đại hội VII của Đảng đề ra có ý nghĩa vô cùng quan trọng nhằm định hướng cho việc bố trí cơ cấu kinh tế và làm căn cứ cho việc xây dựng kế hoạch 5 năm và hàng năm cho cả nước, địa phương và các đơn vị kinh tế cơ sở.
2.3-Chức năng điều tiết : Đây là chức năng quan trọng và phức tạp trong việc điều hành nền kinh tế thị trường. Do tính chất phức tạp của thị trường cũng như sự biến động của quan hệ cung-cầu kéo theo sự biến động của giá cả thị trường, sự phân hóa giàu nghèo và bất công xã hội tăng lên v.v...đòi hỏi nhà nước cần phải có tác động điều tiết, chi phối thị trường nhằm tạo môi trường và hành lang kinh doanh cho các chủ doanh nghiệp, đảm bảo mục tiêu có hiệu quả, ổn định và công bằng của nền kinh tế. Để điều tiết nền kinh tế nhà nước sử dụng một hệ thống các biện pháp, chủ yếu là biện pháp kinh tế, các công cụ quản lý bao gồm các chính sách và tiềm lực kinh tế của nhà nước.
2.4-Chức năng kiểm soát : Nhằm thiết lập trật tự, kỷ cương trong hoạt động kinh tế, bảo vệ tài sản quốc gia và lợi ích của mọi thành viên trong xã hội, từng bước thực hiện công bằng xã hội. ở nước ta hiện nay, hoạt động kinh tế còn nhiều rối ren, tự phát, vô tổ chức. Các hiện tượng tiêu cực trong kinh tế tiêu biểu là nạn tham nhũng, buôn lậu, chi tiêu lãng phí của công v.v... khá phổ biến và nghiêm trọng. Tình hình đó đòi hỏi phải tăng cường chức năng kiểm soát nhằm ngăn chặn các hiện tượng tiêu cực, làm lành mạnh hóa nền kinh tế và trong sạch bộ máy nhà nước. Phải xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật, tăng cường hiệu lực của các cơ quan bảo vệ pháp luật như Tòa án và Viện kiểm sát.
3- Các công cụ quản lý nền kinh tế thị trường.
Nhà nước bản thân nó đã có các chức năng cụ thể nhưng để thực hiện các chức năng đó cần phải có các cộng cụ để thực hiện. Đó là:
3.1-Pháp luật :
Khi chuyển sang cơ chế thị trường, quản lý nhà nước về kinh tế trước hết là quản lý bằng pháp luật. Trong nền kinh tế thị trường, các quan hệ kinh tế phải được thể chế hóa bằng pháp luật phù hợp với cơ chế thị trường, bãi bỏ và thay thế dần các điều luật và hệ thống dưới luật được ban hành trong thời kỳ tập trung quan liêu, bao cấp; từng bước ban hành và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật phục vụ cho quản lý kinh tế. Pháp luật làm chuẩn mực cho hoạt động của các tổ chức kinh tế và các cơ quan quản lý của nhà nước để xác lập trật tự, kỷ cương.
Pháp luật kinh tế phải chứa đựng nội dung kinh tế, các quan hệ lợi ích kinh tế phải phản ánh đúng quy luật khách quan, thể hiện đúng đường lối chính sách của Đảng và quyền làm chủ của nhân dân lao động. Điều quan trọng không chỉ ban hành các điều luật mà cùng với nó phải tổ chức, phổ biến, giáo dục ý thức tôn trọng pháp luật và thi hành pháp luật nghiêm minh.
3.2- Kế hoạch :
Trong cơ chế thị trường, kế hoạch vẫn là một công cụ quan trọng, nhưng phải được đổi mới và nâng cao chất lượng. Thị trường phải là đối tượng và căn cứ của kế hoạch. Kế hoạch vi mô của nhà nước phải được đổi mới một cách cơ bản theo hướng của nhà nước đảm bảo tính định hướng cho các ngành, các cấp và các đơn vị kinh tế cơ sở, đảm bảo xây dựng và thực hiện các mục tiêu chiến lược và các cân đối lớn của nền kinh tế, đảm bảo sự phát triển ổn định và có hiệu quả của nền kinh tế, gắn việc xây dựng và thực hiện kế hoạch với các chính sách đòn bẩy kinh tế, với việc hướng dẫn thông tin kinh tế, khoa học kỹ thuật và công nghệ.
3.3-Các chính sách kinh tế và xã hội:
Hệ thống chính sách và công cụ kinh tế sẽ giúp nhà nước có thể điều khiển hoạt động của các doanh nghiệp, có thể nói mỗi chính sách kinh tế là một hành lang hướng dẫn hoạt động đầu tư mở rộng phát triển sản xuất, hướng dẫn các doanh nghiệp hàng động một cách hiệu quả nhất trong nền kinh tế thị trường. Nó bao gồm ngân sách nhà nước, các loại thuế, chính sách tiền tệ, thu chi ngân sách. Kinh tế thị trường đòi hỏi phải xây dựng ngân sách theo tinh thần bội chi để chống suy thoái kinh tế, bội thu để chống lạm phát, khi cần sẽ huy động vốn trong nước bằng nhiều hình thức (kỳ phiếu, công trái) hoặc vay vốn nước ngoài để đầu tư phát triển. Để điều tiết vĩ mô nền kinh tế thông qua ngân sách, nhà nước phải xác định được trạng thái nền kinh tế để điều chỉnh mức sản xuất thực tế so với mức tiềm năng và mức sản xuất tối đa.
3.3.1-Chính sách thuế : Tác động lớn tới hoạt động của các doanh nghiệp. Thông qua thuế, nhà nước điều chỉnh cơ cấu kinh tế, kích thích hoặc hạn chế hoạt động sản xuất kinh doanh của từng ngành, từng lĩnh vực.
3.3.2-Chính sách tiền tệ : Được hình thành dựa trên cơ sở khoa học của sự thống nhất biện chứng giữa sản xuất và lưu thông. Sự tác động của nền kinh tế theo ba bước lôgíc : thay đổi mức cung tiền tác động đến lãi suất và cuối cùng là tổng cầu hay trong quan hệ cân đối giữa sản lượng và giá cả. Chính sách tiền tệ có thể tóm lại gồm hai loại chính sách định hướng sau:
- Chính sách mở rộng tiền tệ là chính sách cung cấp thêm tiền cho nền kinh tế để khuyến khích đầu tư phát triển sản xuất, tạo công ăn việc làm.
- Chính sách thu hẹp tiền tệ là chính sách giảm bớt lượng cung ứng tín dụng, nhằm hạn chế đầu tư, ngăn chặn sự phát triển quá đà của nền kinh tế, ngăn chặn lạm phát có thể xảy ra trong tương lai.
Về lâu dài, chính sách tiền tệ phải hướng vào ba mục tiêu lớn : gia tăng sản lượng thúc đẩy kinh tế phát triển, tạo công ăn việc làm, ổn định giá trị tiền tệ kiểm soát lạm phát. Để thực hiện chính sách tiền tệ Ngân hàng trung ương có thể sử dụng nhiều loại công cụ khác nhau tùy theo điều kiện thực tế cụ thể và trình độ nhận thức của các quan chức ngân hàng. Nhưng trọng yếu được sử dụng là ba công cụ: lãi suất chiết khấu, tỷ lệ dự trữ bắt buộc, thị trường tiền tệ mở.
3.3.3- Lãi suất chiết khấu : Điều chỉnh tỷ lệ lãi suất chiết khấu, khi cần mở rộng tín dụng thì hạ lãi suất chiết khấu và ngược lại. Để điều tiết lưu thông tiền tệ, Ngân hàng nhà nước còn mua bán trái phiếu dẫn đến tiền tệ sẽ tăng lên và ngược lại. Thông qua việc khống chế lãi suất chiết khấu và mua bán trái phiếu, ngân hàng nhà nước duy trì sự kiểm soát thường xuyên khả năng sử dụng tiền tệ có dư cho sự phát triển kinh tế.
3.3.4-Tỷ lệ dự trữ bắt buộc : Ngân hàng nhà nước làm đúng chức năng quản lý đồng tiền của mình và giữ tính chất độc lập tương đối lượng tiền phát hành .
3.3.5-Thị trường tiền tệ mở : Mở rộng ngân hàng thương mại để khuyến khích cạnh tranh trong hoạt động ngân hàng, thực hiện cơ chế lãi suất theo thị trường. Khuyến khích các ngân hàng nước ngoài mở chi nhánh tại nước ta nhằm tạo điều kiện thu hút nguồn đầu tư nước ngoài.
Sự quản lý của nhà nước với nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần được thực hiện chủ yếu bằng biện pháp kinh tế, thông qua các chính sách kinh tế. Mục tiêu của chính sách tài chính tiền tệ là đảm bảo sự ổn định tiền tệ, giữ vững giá trị đồng tiền, thu hút vốn trong nhân dân vào kinh doanh, phân phối thu nhập quốc dân hợp lý, nâng cao tỷ lệ tích lũy, nâng cao hiệu quả sử dụng đồng vốn, cân bằng thu chi tiết kiệm trong ngân sách nhà nước.
Trong cơ chế thị trường, chính sách thuế là hết sức quan trọng. Nó có tác dụng động viên nguồn thu ngân sách, điều tiết sản xuất kinh doanh và điều tiết thu nhập dân cư. Đối với nước ta hiện nay, vấn đề cơ bản là hoàn chỉnh luật thuế, kiện toàn bộ máy thu, tăng mức động viên vào ngân sách nhà nước.
Một chính sách cần quan tâm hiện nay là chính sách thị trường, bao gồm tạo lập và mở rộng thị trường, chính sách giá cả, trợ giá, đặc biệt là đối các loại nông sản hàng hóa.
Chúng ta phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa với mục tiêu tăng trưởng kinh tế, công bằng và tiến bộ xã hội thì phải kết hợp chính sách kinh tế xã hội. Hơn nữa, trong điều kiện một đất nước trải qua chiến tranh lâu dài và gian khổ, đối tượng hưởng chính sách rất đông, khi chuyển qua kinh tế thị trường họ sẽ gặp rất nhiều khó khăn nếu không được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước. Thêm vào đó, những yêu cầu cần phải giải quyết về mặt xã hội như công ăn việc làm, giáo dục, y tế ... càng đòi hỏi điều chỉnh chính sách xã hội phù hợp, vừa chống đợc những tác động xã hội tiêu cực của cơ chế thị trường.
3.4-Các công cụ khác :
Trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở nước ta hiện nay, lực lượng kinh tế quốc doanh được coi là công cụ điều tiết vĩ mô của nhà nước. Kinh tế quốc doanh có tác dụng chi phối nền kinh tế, hoàn toàn có khả năng làm chủ và điều tiết thị trờng. Nhà nước cần nắm lực lượng dự trữ quốc gia - bao gồm ngân sách , vàng, ngoại tệ, các loại hàng hóa dự trữ chiến lược như lương thực, xăng dầu - để can thiệp khi cần thiết nhằm giảm nhẹ các cơn sốt và ổn định thị trường. Có thể khẳng định rằng trên thế giới ngày nay không có nước nào lại vắng bóng các cơ sở kinh tế quốc doanh. Nước ta xem kinh tế quốc doanh là thành phần ''chủ đạo'', ''lãnh đạo then chốt'' đối với nền kinh tế. Vai trò của kinh tế quốc doanh thể hiện ở năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất kinh doanh. Trong điều kiện nước ta hiện nay khi các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh và các thành phần kinh tế tư nhân còn yếu thì vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh là cần thiết. Tuy nhiên không vì thế mà xây dựng chế độ công hữu đại trà. Chủ đạo có nghĩa là nắm vững những khâu trọng yếu nhất trong nền kinh tế, nhất là các khâu thuộc ngành chiến lược và các ngành có ý nghĩa xã hội to lớn như lương thực, thực phẩm. Ngoài ra kinh tế quốc doanh còn là lực lượng tham gia vào sự hình thành và mở rộng các quan hệ thị trường theo định hướng nhà nước. Vì vậy không được phủ nhận hay coi nhẹ công cụ và lực lượng đặc biệt này.
Các doanh nghiệp nhà nước là nơi nắm vững những ngành và lĩnh vực then chốt của nền kinh tế, có tác dụng hướng dẫn và chi phối hoạt động của các thành phần kinh tế khác. Nhà nước cần nắm và có cơ chế quản lý các doanh nghiệp nhà nước, đảm bảo cho chúng trở thành công cụ điều tiết vĩ mô đáng tin cậy .
Ngoài ra nhà nước còn sử dụng các công cụ khác để quản lý nền kinh tế thị trường như hệ thống thông tin kinh tế, thống kê, kế toán, lực lượng kiểm tra, kiểm soát - bao gồm thuế quan, Hải quan, Công an, Tòa án, Viện kiểm sát... Tất nhiên, các công cụ này phải được đổi mới và kiện tòan, lành mạnh hóa để phát huy tác dụng tích cực trong nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với thị trường.
IV- Giải pháp nhằm nâng cao và tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước.
Trên đây chúng ta đã tìm hiểu, nghiên cứu về các công cụ mà nhà nước sử dụng để quản lý vĩ mô nền kinh tế thị trường. Nhưng cái quan trọng là phải sử dụng các công cụ đó như thế nào, với biện pháp gì? Thời gian qua, đất nước ta đã đạt được những thành tựu đáng kể: thành tựu kinh tế xã hội của những năm trước được củng cố và phát huy, duy trì được tốc độ tăng ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28299.doc