A.lời nói đầu
Kinh tế chính trị là môn học có nhiệm vụ nghiên cứu giải thích bản chất hiện tượng kinh tế khách quan, xá địng các quy luật kinh tế,chi phối các hoạt động kinh tế xã hội. Môn kinh tế chính trị nghiên cứu các quan hệ kinh tế giữa người với người diễn ra trong tất cả các khâu của quá trình tái sản xuất xã hội-đó là quan hệ sản xuất, nó nghiên cứu trong mối quan hệ thường xuyên- là lực lượng sản xuát và cấu trúc thượng tầng. Khi nghiên cứu về kinh tế chính trị chúng ta luôn thấy sự h
32 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1390 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ình thành và phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCH ở Việt Nam cũng như những nhân tố đảm bảo cho tính định hướng đó đặc biệt là vai trò của Nhà nước.Phát triển kinh tế thị trường là một tất yếu kinh tế đối với nước ta để chuyển nền kinh tế lạc hậu thành nền kinh tế hiện đại hội nhập và phân công lao động quốc tế.Nước ta muốn phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa cần có sự quản lí của Nhà nước nếu không rất dễ bị trệch hướng sang kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa,do đó vai trò kinh tế của Nhà nước là đặc biệt quan trọng. Vì thế cần phải đi sâu phân tích đánh giá chính xác vai trò kinh tế của Nhà nước để phát triển tăng trưởng kinh tế bền vững theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.
Chính vì vậy “Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” là một đề tài rất hay và thú vị. Nó đã và đang là chủ đề nghiên cứu của rất nhiều nhà kinh tế. Do thế là một sinh viên khối kinh tế em thấy đề tài này rất quan trọng nên em rất muốn tìm hiểu lĩnh vực này để tăng thêm sự hiểu biết của mình cũng như nhận thức về những vấn đề đang xảy ra trong nền kinh tế của đất nước và muốn góp phần nhỏ bé của mình để xây dựng đất nước vững mạnh.
Lời cảm ơn:Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Tô Đức Hạnh, trung ta Thong Tin Thư Viện trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân đã giup đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho em hoàn thành đề án này.
b.nội dung
I.Lý luận chung về vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa:
1.Nhà nước trong lịch sử và các chức năng của nó:
Nhà nước là công cụ của giai cấp thống trị được sử dụng để duy trì trật tự xã họi sao cho phù hợp với lợi ích của nó. Chức năng ban đầu của Nhà nước là quản lí hành chính bao gồm các lĩnh vực chủ yếu sau:
- Quản lí lãnh thổ , thiết lập quan hẹ bang giao với các nước láng giềng (chức năng đối ngoại).
- Quản lí trật tự xã hội, sắp xếp mối quan hệ giưa các cá nhân, các giai cấp, các tầng lớp,... sao cho phu hợp với ý chí của giai cấp đã sản sinh ra nó (chức năng đối nội).
Để thực hiện hai chức năng này các Nhà nước đều phải có những cơ sở kinh tế nhất đinh. trong lịch sử phát triển các Nhà nước đã có các phương pháp khác nhau để nắm giữ kinh tế nhằm phục vụ chức năng của mình.
Như vậy,trước hết Nhà nước là một thể chế chính trị, là một trong những yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng xã hội.Tuy nhiên trong lịch sử loài người chứng tỏ rằng trong sự phát triển do yêu cầu của quản lí xã hội chức năng quản lí kinh tế của Nhà nước luôn gắ liền với chức năng quản lí hành chính.Trong các nhà nước đương đại không có nhà nước nào đứng ngoài hay đứng trên kinh tế.
Sự phát triển của sản xuất hàng hoá, sự ra đời của nền kinh tế thị trường đã đặt nhiệm vụ quản lí của Nhà nước nói chung thành hai chức năng:
- Chức năng quản lí hành chính nhăm duy trì trật tự xã hội sao cho phù hợp với các nguyện vộng của các thành viên.
- Chức năng quản lí kinh tế nhằm duy trì các trật tự kinh tế với tính cách là cơ sở của trật tự xã hội, sao cho phù hợp với lợi ích của cá thành viên.
Thật ra lịch sử đã chứng minh chức năng kinh tế của nhà nước được phôi thai ngay từ buổi ban đầu, khi nhà nước chỉ vừa xuất hiện. Sau đó mới nhận thức và ứng dụng vào thực tiễn quản lí kinh tế xã hội.
2.Tính tất yếu khách quan phải có sự điều tiết của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa:
- ở Việt Nam, vai trò kinh tế của nhà nước được thể hiện qua nhiệm vụ tổ chức quản lí toàn bộ nền kinh tế quốc dân trong đó quản lí vĩ mô là chủ yếu, sở dĩ nhà nước ta có vai trò kinh tế nói trên là do:
Một là, nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân: là người đại diện cho toàn dân, toàn xã hội có nhiệm vụ quản lí đất nước về mặt hành chính kinh tế.
Hai là, nhà nước là người đại diện cho sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất, có nhiệm vụ quản lí các đơn vị kinh tế thuộc kinh tế nhà nước.
Ba là, kinh tế thị trường là một giai đoạn phát triển của kinh tế hàng hoá (hay một trình độ phát triển của kinh tế hàng hoá).Kinh tế thị trường là một sản phẩm khách quan của xã hội loài người.Thực tế cho thấy hình thức tổ chức kinh tế – xã hội có hiệu quả hơn kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường co khả năng tự tập hợp được hành động , trí tuệ và tiềm lực của hàng triệu con người và hướng tới lợi ích của xã hội, do đó thúc đẩy tăng trửơng kinh tế, tăng thu nhập và đời sống dân cư. Song, nền nền kinh tế thị trường không phải là một hệ thống được tổ chức một cách hoàn hảo, không có những vấn đề nan giải phức tạp. Người ta đã tổng kết được 5 mặt hạn chế, khuyết tật của cơ chế thị trường:
+ Cơ chế thị trường nếu không có sự điều tiết vĩ mô của nhà nước thì sẽ dẫn tới sản xuất “mù quáng”, gây nên các cuộc khủng khoảng thừa hoặc thiếu
+ Cơ chế thị trường cạnh tranh dẫn đến phá sản các doanh nghiệp gây ra hậu quả tiêu cực về mặt xã hội nhất là thất nghiệp.
+Trong cơ chế thị trường do chạy theo lợi nhuận các doanh nghiệp thường không đầu tư vào các lĩnh vực, các ngành ít lợi nhuận, không có lợi nhuận thậm chí thua lỗ, song xã hội rất cần các ngành đó nhất là các sản phẩm dịch vụ công cộng.
+ Cơ chế thị trường không có khả năng điều tiết sự phát triển ở các vùng kém lợi ích so sánh, vùng khó khăn so với vùng thuận lợi, đồng thời nó lại có xu hướng làm sâu sắc thêm sự phân hoá thu nhập.
+ Cơ chế thị trường là môi trường dễ nảy sinh tình trạng kinh doanh lừa đảo, làm hàng giiar, lối sống chạy theo đồng tiền, các tệ nạn xã hội, huỷ hoại môi trường sinh thái.
Để khắc phục, hạn chế khuyết tật, phát huy mặt tích cực của cơ chế thị trường cần có sự can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế thị trường.
- Sự khác nhau giữa mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa là:
Mô hình kinh tế nhà nước định hướng xã hội chủ nghĩa khẳng định tính chất và xu thế phát triển tất yếu xã hội chủ nghĩa của các quá trình kinh tế.Mô hình này thì: Thứ nhất kinh tế thị trường dựa trên cơ sở chế độ công hữu làm chủ thể hay chủ đạo bao gồm các hình thức sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu xã hội chiếm ưu thế. Hai là kinh tế thị trường phát triển có kế hoạch. Ba là, tác dụng phân hoá hai cực của kinh tế thị trường sẽ bị hạn chế đáng kể nhờ các chế độ bảo hiểm và an ninh xã hội cũng như công cụ thuế luý tiến đánh vào tài sản và thu nhập, tăng năng suất lao động, hạ thấp chi phí giá thành,...do đó cho phép một số người giàu lên trước làm gương và tất cả cùng giàu lên theo. Bốn là, kinh tế thị trường trong sạch và không có tham nhũng. Năm là, kinh tế thị trường do người lao động làm chủ. Sáu là, kinh tế thị trường không ngừng cải thiện lam cho nông dân giau lên cùng với toàn xã hội. Bảy là, kinh tế thị trường với các doanh nghiệp nhà nước được đổi mới và cơ cấu lại.
Còn kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa là: giai đoạn phát triển cao của kinh tế thị trường với sự vận hành đồng bộ, thông suốt của hệ thống các thị trường riêng, dựa chủ yếu vào các quy luật giá trị thặng dư, tích luỹ và tái sản xuất mở rộng không ngừng.Chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa chiếm địa vị chi phối bản chất, xu hướng phát triển cũng như các quy luật vận động của nền sản xuất; các nhà tư bản lớn ngày càng có điều kiên tích luỹ tư liệu sản xuất và của cải trong tay do đó thống trị nền kinh tế nhằm phục vụ lợi ích của họ. Tự do cạnh tranh của tư bản chủ nghĩa dẫn tới “cá lớn nuốt cá bé”, áp đặt “luật chơi của kẻ mạnh”, kẻ mạnh hốt bạc một cách sòng phẳng, lạnh lùng; trên thực tế một số các nhà tư bản cấu kết với các thế lực chính trị cầm quyền để thực hiện sự bốc lột thống trị đối với đa số nhân dân lao động nghèo khổ.
- Nước ta cũng đang trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội do đó sự điều tiết, can thiệp của nhà nước vào kinh tế là hết sức quan trọng để đảm bảo phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, đưa nước ta tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội.
3.Các chức năng kinh tế của nhà nước:
3.1. Khái niệm về chức năng kinh tế của nhà nước:
Trong lịch sử từ khi xuất hiện kiểu nhà nước đầu tiên đến nay thì không có nhà nước nào hoàn toàn tách rời các quá trình kinh té bởi nhà nước nào cũng tồn tại trên một cơ sở kinh tế nhất định. Muốn duy trì và phát triển mọi mặt của đời sống xã hội thì nhà nước phải quan tâm đến các diều kiện vật chất cũng như thúc đẩy sự phát triển của nền sản xuất xã hội. Hơn nữa không nhà nước nào không năm trong tay một khối lượng tài sản và tiềm lực kinh tế to lớn.Đó có phải là căn nguyên đầy dủ để kết luận rằng nhà nước vốn có chức năng kinh tế hay không thì cần phải tiép tục làm sáng tỏ trên cơ sở giải quết ở mức độ sâu hơn quan hệ giữa nhà nước và kinh tế thông qua phạm trù chức năng của nhà nước.Trước hết xuất phát từ việc nhận thức khái niệm chung về chức năng của nhà nước.Nhà nước là một hệ thống xã hội vì vậy theo sự phân tích có tính tự nhiên thì nhà nước có chức năng nhất định và nó được đặt trong mối liên hệ với tổng thể đời sống xã hội cũng như mỗi thực thể khác của xã hội nên: “chức năng nhà nước đó là vai trò của nhà nước, một nhiêm vụ cực kì to lớn có tính chất bao trùm của nhà nước đối với xã hội, quyết định sự sống còn của nhà nước”.
Từ đấy ta thấy rằng: “chức năng kinh tế cuả nhà nước là thể thống nhất giữa các dấu hiệu sau: là những nhiệm vụ kinh tế mà nhà nước cần phải làm vì yêu cầu của dời sống kinh tế; là những nhiệm vụ kinh tế mà nhà nước có năng lực giải quyết và phạm vi hoạt động hợp pháp của nhà nước trên lĩnh vực kinh tế”.
3.2.Các chức năng cơ bản của nhà nước:
3.2.1.Thiết lập khuôn khổ pháp luật:
Chức năng này có ý nghĩa quan trọng tới sự phát triển kinh tế. ở đây nhà nước đề ra các quy tắc trò chơi kinh tế mà các doanh nghiệp, người tiêu dùng và cả bản thân chính phủ đều phải tuân thủ. Nó bao gồm quy định về tài sản, các quy tắc về hợp đồng vào hoạt động kinh doanh, các trách nhiệm tương hỗ của các liên đoàn lao động và nhiều luật lệ để xác định môi trường kinh tế. Về nhiều mặt, các quyết định của khuôn khổ pháp luật xuất phát từ những mối quan hệ vượt ra ngoài lĩnh vực kinh tế đơn thuần. Nhưng khuôn khổ pháp luật có thể tác động tới các ứng xử của con người.
3.2.2. Hiệu quả:
Nhà nước sửa chữa những khiếm khuyết của thị trường để thị trường hoạt động có hiệu quả như: hạn chế ảnh hưởng của độc quyền, tình trạng vô chính phủ dẫn đến khủng hoảng kinh tế, thất nghiệp, nạn ôi nhiễm môi trường....
Trước hết, những thất bại mà thị trường gặp phải làm cho hoạt động của nó không hiệu quả là ảnh hưởng của độc quyền. Cần phải nói rằng, lợi dụng ưu thế cảu mình các tổ chức độc quyền có thể quy định giá cả để thu lợi nhuận, và do vậy phá vỡ ưu thế của cạnh tranh hoàn hảo. Vì vậy cần phải có sự can thiệp của nhà nước để hạn chế độc quyền, đảm bảo tính hiệu quả của cạnh tranh thị trường. Điều đó đảm bảo được ganh đua của những người kinh doanh, đảm bảo tính hiệu quả của nền kinh tế.
Thứ hai, những tác động bên ngoài cũng dẫn đến tính không hiệu quả của hoạt động của thị trường và cũng đòi hỏi nhà nước phải can thiệp. Tác động bên ngoài xẩy ra khi doanh nghiệp tạo ra chi phí lợi ích cho doanh nghiệp khác hoặc người khác mà các doanh nghiệp đó không phải trả đúng số chi phí phải trả hoặc không được nhận những lợi ích nhẽ ra anh ta được nhận. Vì vậy nhà nước phải sử dụng đến luật lệ để điều hành kinh tế như là một phương pháp để ngăn chặn những tác động tiêu cực bên ngoài như ô nhiễm nước và không khí, khai thác đến cạn kiệt khoáng sản....Nhà nước phải đảm bảo nhiệm vụ sản xuất hàng hoá công cộng.
Thứ ba là thuế. Trên thực tế phần chi phí của chính phủ phải được trả bằng thuế thu được. Tất cả mọi người đều phải chịu theo luật thuế. Sự thực là toàn bộ công dân tự mình lại đặt gánh nặng thuế lên mình và mỗi công dân cũng được hưởng phần hành công cộng do chính phủ cung cấp.
Như vậy, Nhà nước phải can thiệp vào thị trường để nâng cao hiệu quả của thị trường. Nhà nước đề ra luật đi đường và bảo đảm hàng hoá công cộng như đường sá, do đó tạo điều kiện dễ dàng cho tư nhân hoạt động, ngăn cản sự lạm dụng của các doanh nghiệp khi họ trở thành những kẻ tham lam, độc quyền chiếm đường và kiềm chế hoạt động của các doanh nghiệp khác.
3.2.3. Đảm bảo sự công bằng:
Mục đích của chức năng này là để vừa đảm bảo ổn định xã hội, vừa không làm triệt tiêu tích tích cực sản xuất kinh doanh của các thành viên trong xã hội. Để thực hiện chức năng này, một mặt nhà nước phải tạo ra những cơ sở về tổ chức để mọi người có cơ hội ngang nhau và đều được hưởng phần tương xứng với kết quả lao động và phần đóng góp của mình; mặt khác, trong điều kiện hoạt động hoàn hảo nhất, lí tưởng nhất của cơ chế thị trường, vẫn thấy rằng sự phân hoá, bất bình đẳng sinh ra từ kinh tế thị trường là tất yếu. Một hệ thống thị trường có hiệu quả vẫn có thể gây ra sự bất bình đẳng lớn. Vì vậy chính phủ cần thiết phải thông qua những chính sách để phân phối lại thu nhập. Công cụ quan trọng nhất của chính phủ trong lĩnh vực này là thuế thu nhập, thuế người giầu theo tỷ lệ thu nhập lớn hơn người nghèo. Thông thường thuế luỹ tiến áp dụng cho thuế thu nhập và thuế thừa kế.
Bên cạnh thuế, phải có hệ thống hỗ trợ thu nhập để giúp cho người già, người tàn tật, người phải nuôi con và bảo hiểm thất nghiệp cho người không có công ăn việc làm. Hệ thống thanh toán chuyển nhượng này tạo ra mạng lưới an toàn bảo vệ những người không may khỏi bị huỷ hoại về kinh tế.
Cuối cùng, chính phủ đôi khi phải trợ cấp tiêu dùng cho những nhóm người có thu nhập thấp bằng cách phát tem phiếu thực phẩm, trợ cấp y tế, cho thuê nhà với giá rẻ...
3.2.4. ổn định kinh tế vĩ mô:
Nhà nước thực hiện chức năng này thông qua các công cụ: các loại thuế, các khoản chi tiêu và những quy định hay kiểm soát vè tiền tệ. Thông qua thuế, chính phủ điều tiết tiêu dùng, đầu tư tư nhân,khuyến khích hoặc hạn chế hoạt động kinh doanh của các doanh nhân. Các khoản chi têu của chính phủ khuyến khích các doanh nghiệp hay công nhân sản xuất ra một số hàng hoá hay dịch vụ và những việc chuyển tiền nhằm trợ cấp thu nhập. Những quy định hay kiểm soát của chính phủ nhằm hướng dẫn nhân dân đi vào hoặc từ bỏ những hoạt động kinh doanh.
Nhưng trong nền kinh tế ngày nay không thể có đủ việc làm mà không có lạm pháp.Trong thực tế, cho đến nay người ta thấy, những nước thực hiện tốt các chức năng kinh tế trên đây đều thành công trong việc quản lí kinh tế. Vượt quá những chức năng đó hoặc là dẫn đến chi tiêu tốn kém tạo ra bộ may quan liêu cồn kềnh kém hiệu quả hoặc làm cho nền kinh tế rối ren,dẫn đến tình trạng quản lí kém hiệu quả của nhà nước.
4.Nội dung sự can thiệp của nhà nước:
Vai trò kinh tế của nhà nước được thể hiện thông qua: kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, Nhà nước quản lí và điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
4.1.Nội dung quản lí kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam:
- Nhà nước xây dựng các chương trình, kế hoạch phát triển phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội ở nước ta theo các muc tiêu mong muốn. Bằng việc định hướng sự phát triển của nền kinh tế nhà nước quản lí và can thiệp vào các doanh nghiệp với mục tiêu làm giàu cho đất nước.Thực chất của việc định hướng sự phát triển của nền kinh tế là thống nhất các lợi ích khác nhau, qui tụ các lợi ích khác nhau về một lợi ích để định hướng nền kinh tế phát triển bền vững.Chính vì vậy Nhà nước đã đề ra:
+ Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội trong dài hạn: nước hoạch định các chương trình phát triển kinh tế xã hội mà mỗi chương trình là mỗi cơ hội đầu tư mở rộng phát triển sản xuất cho các doanh nghiệp.Từ đó nhà nước dẫn dắt các doanh nghiệp cho họ thấy chỗ nào có thể và cần phải đầu tư vào nơi nào.Và Nhà nước có thể thực hiện ý đồ chuyển dịch cơ cấu theo ngành, theo vùng lãnh thổ khai thác sử dung có hiệu quả các nguồn tài nguyên, đưa thị trường trong nước hoà nhập vào thị trường thế giới cho nền kinh tế phát triển bền vững ổn định có hiệu quả và công bằng.
+ Kế hoạch hoá định hướng, kế hoạch chương trình phát triển kinh tế xã hội do nhà nước đề ra.Kế hoạch mang tính định hướng; Kế hoạch hoá không phải chỉ là giao chỉ tiêu thực hiện mà còn là điều phối sự thực hiện theo dự án.
- Tạo môi trường thuận lợi cho nền sản xuất nhiều hàng hoá nhiều thành phần phát triển: Nhà nước tạo điều kiện cho quá trình tự do hoá giá cả, thương mại hoá nền kinh tế; quy định và bảo đảm các quyền của người chủ sở hữu về tư liệu sản xuất; đa dạng hoá chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất; xây dựng hệ thống pháp luật của nền kinh tế thị trường; ổn định về chính trị và xã hội.
- Phân phối thu nhập quốc dân một cách công bằng- hiệu quả tạo ra động lực sản xuất: trong nền kinh tế thị trường thị trường càng mở rộng càng dẫn đến sự phân hoá thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, rất dễ xảy ra tình trạng bất bình đẳng gây ra sự mâu thuẫn giữa các giai cấp tạo ra môi trường không lành mạnh cho các doanh nghiệp làm ăn nên nhà nước cần phân phối thu nhập của các tầng lớp dân cư sao cho thoả mãn yêu cầu công bằng và hiệu quả. Mặt khác trong nền kinh tế thị trường sự khác nhau về sở hữu của cải, về năng lực sở trường, trình độ tay nghề và may mắn dẫn tới sự khác nhau trong thu nhập. Nhà nước cần phải biết lựa chọn phương pháp phân phối lại sao cho các hoạt động kinh tế có hiệu quả trong sự bất bình đẳng cho phép.
Cần chú ý rằng phân phối lại thu nhập, hình thành các quỹ trợ cấp là một trong những công cụ có hiệu lực nhất để định hướng XHCN. Thể hiện tính cộng đồng dân tộc trong các chương trình phát triển kinh tế xã hội.
- Can thiệp vào quá trình kinh tế khi cần thiết. Định hướng, tạo môi trường, phân phối thu nhập là những công việc cần thiết thể hiện vai trò của nhà nước trong một chiến lược dài hạn. Trong quá trình thực hiện các chiến lược đó, dưới ảnh hưởng của cơ chế cung cầu giá cả trong thị trường nội địa, đồng thời dưới ảnh hưởng của quan hệ quốc tế, làm mục tiêu định hướng của các chương trình dài hạn những “ cú sốc “ làm chệch mục tiêu là điều không thể tránh khỏi. Trong trường hợp đó nhà nước cần phải sử dụng những công cụ như lãi suất, thuế, khối lượng tiền tệ và chi tiêu ngân sách để làm giảm những chấn động do cú sốc gây ra đưa nền kinh tế theo định hướng chủ nghĩa xã hội.
- Quản lý tài sản quốc gia, phân bổ các nguồn tài sản một cách hợp lý: trong nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta nhà nước điều khiển sự vận động của nền kinh tế bằng cách hoạch định các chiến lược phát triển kinh tế xã hội dài hạn và ngắn hạn, quyết định các phương án phân phối và phân phối lại thu nhập quốc dân sao cho bình đẳng công bằng, hiệu quả tạo môi trường thuận lợi, hướng dẫn các doanh nghiệp can thiệp vào nền kinh tế. Mặt khác nhà nước còn đóng vai trò người quản lý tài sản quốc gia, phân bố các nguồn lực của sản xuất một cách hợp lý. Về mặt đối ngoại nhà nước có trách nhiệm bảo vệ và phát triển các nguồn lực, ngăn chặn mọi âm mưu từ bên ngoài; về mặt đối nội nhà nước là người chủ sở hữu các nguồn lực nên phân bố sử dụng giữa các thành phần kinh tế sao cho hợp lý.
Với tư cách là chủ sở hữu của doanh nghiệp nhà nước, nhà nước quản lý và đóng vai trò độc quyền ở các thị trường quan trọng, quyết định sự tồn tại của thể chế. Với tư cách là người chủ quản lý đất nước, là người trọng tài, là chủ thể của quá trình phân công lại vai trò giữa các thành phần kinh tế không làm triệt tiêu lợi ích chung của toàn xã hội.
4.2.Các công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước XHCN ở Việt Nam:
- Hệ thống pháp luật:
Hệ thống pháp luật đặc biệt là luật kinh tế là công cụ quan trọng thông qua đó nhà nước tạo lập hành lang pháp lí để duy trì kỉ cương trật tự, hướng dẫn các doanh nghiệp hoạt động theo pháp luật chống mọi hiện tượng làm ăn phi pháp. Chính vì vậy nhà nước phải tạo môi trường pháp lí thuậ lợi cho các cá nhân, doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế hoạt động.Hiện nay ở nước ta đã ban hành các luật về các quyền như: sở hữu, chiếm hữu, thừu kế, chuyển nhượng,...; các luật hợp đồng; luật thương mại;....
- Kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân:
Nhà nước soạn thảo kế hoạch, quy hoạch, các chương trình phát triển kinh tế xã hội và ban hành các chính sách để hướng các chủ thể thị trường thực hiện thông qua các chính sách tài chính, tiền tệ, sử dụng các đòn bẩy kinh tế như: ưu đãi về thuế, về lãi suất cho vay cho những ai đầu tư vào lĩnh vực mà nhà nước khuyến khích. Đây là công cụ quan trọng của nhà nước để hoạch định các chương trình, định hướng mục tiêu trong từng thời kì đó là loại hạt tự giác của nhà nước để quản lí toàn bộ nền kinh tế theo mục tiêu thống nhất đã định trước trên cơ sở nhận thức và vận dụng các quy luật kinh tế khách quan nhằm xác định tốc độ, quan hệ tỷ lệ cơ cấu kinh tế hợp lí để không ngừng mở rộng sản xuất với hiệu quả kinh tế xã hội ngày càng cao; nên có thể nói quá trình kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân chính là quá trình cụ thể hoá đường lối chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước thành những chỉ tiêu cụ thể để dẫn dắt nỗ lực của toàn xã hội thực hiện thành công đường lối chủ chương chính sách của Đảng à nhà nước đề ra bởi vậy, có thể coi kế hoạch là cương lĩnh thứ hai của Đảng.
- Hệ thống các chính sách kinh tế xã hội:
Các chính sách kinh tế – xã hội bao gồm các chính sách về tài chính tiền tệ, chính sách thuế, chính sách thu nhập,...Đây là công cụ góp phần tạo ra môi trương kinh tế xã hội ổn định và có lợi cho sự tăng trưởng phát triển kinh tế xã hội, thực hiện mục tiêu gắn tăng trưởng kinh tế với công bằng tiến bộ xã hội.
- Sức mạnh vật chất của kinh tế nhà nước:
Nhà nước sử dụng thực lực kinh tế vật chất của mình như: tiềm lực kinh tế của các doanh nghiệp nhà nước, ngân sách nhà nước, dự trữ quốc gia,.. để tác động vào nền kinh tế thị trường nhằm đảm bảo cân đối vĩ mô, đieeuf tiết thị trường ngăn ngừa những đột biến xấu của thị trường để đảm bảo những điều kiện có lợi cho sự phát triển kinh tế xã hội.
Thông qua việc sử dụng hiệu quả hệ thống các công cụ nói trên nhà nước thực hiẹn được vai trò chức năng kinh tế của mình nhằm mục đích cuối cùng là quản lí, phân bổ, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực của đất nước, tạo điều kiện cần thiết để thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững kết hợp với công bằng tiến bộ xã hội, đưa nên kinh tê phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
II.Thực trạng vai trò kinh tế của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta:
1.Những thành tựu đạt được:
Nhờ những chính sách, quyết định đúng đắn về kinh tế xã hội của Nhà nước mà đã tác động thúc đẩy kinh tế nước ta tiến lên một bước, làm cho nền kinh tế thị trường hoạt động hiệu quả, đạt được nhiều thành tựu :
Tốc độ tăng trưởng của tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2004 – năm thứ tư của kế hoạch 5 năm (2001-2005) đạt 7,7% xếp thứ 2 thế giới về tóc độ tăng trưởng sau Trung Quốc, tốc độ này là rất đáng tự hào trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động những năm vừa qua.Trong đó khu vực nông- lâm- ngư nghiệp tăng 3,5%, đóng góp 0,7% vào tốc độ tăng trưởng chung; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 10,2%, đóng góp 3,9%, khu vực dịch vụ tăng 7,5% đóng góp 3%. Đây là mức tăng trưởng cao nhất trong 8 năm qua và cũng là sự tăng trưởng liên tục trong nhiều năm.
Kim ngạch xuất khẩu đạt 26 tỷ USD, tăng 30% và là tốc độ tăng cao nhất từ năm 1997 đến nay. Năm 2004 cũng là năm đầu tiên kim ngạch xuất khẩu đạt được bình quân trên 2 tỷ USD/tháng
Thu ngân sách nhà nước vượt xấp xỉ 12% dự đoán cả năm, bằng 23,5% GDP và tăng 17,4% so với năm 2003.
Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá, các ngành sản xuất dịch vụ đã có sự chuyển dichjtheo hướng tích cực và hiệu quả, góp phần tăng trưởng kinh tế. Tỉ trọng ngành công nghiệp và xây dựng tiếp tục tăng từ 40% năm 2003 lên 41,1% năm 2004; tỉ trọng thành phần nông- lâm- ngư nghiệp giảm từ 21,8% năm 2003 xuống còn 20,4% năm 2004. Cơ cấu nội bộ ngành,cơ cấu các thành phần cơ cấu sản phẩm cũng đã có sự chuyển dịch đáng kể làm cho các thành phần kinh tế được phát huy.
Tình hình tài chính quốc gia và tài chính công có nhiều cải thiện: tỉ lệ huy động vào ngân sách nhà nước bình quân năm đạt xấp xỉ trên 21% GDP; khối lượng huy động vốn đầu tư đưa vào thực hiện tăng khá; tỉ lệ huy động vốn đầu tư trong GDP tăng từ 31% năm 2001 lên khoảng37% năm 2005; tổng vốn đầu tư đưa vào nền kinh tế 5 năm qua vượt 13-15,8% kế hoạch đề ra; nguồn vốn trong nước đã được khai thác khá hơn và chiếm trên 70% tổng số vốn đầu tư (khoảng 24-25% GDP)
Kinh tế đối ngoại có bước phát triển.Quan hệ kinh tế quốc tế được mở rộng.Thực hiện cam kết trong ASEAN, tiếp tục đàm phán gia nhập WTO, thúc đẩy sự thực hiện các cam kết quốc tế đa phương và song phương. Việc thu hút nguồn vốn hỗ trợ phát triển chinh thức (ODA) đã đạt được những kết quả đáng kể; ước giải ngân nguồn vốn ODA đạt khoảng 8,2 tỷ USD. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài tuy có gặp khó khăn nhưng do môi trường thuận lợi nên cũng duy trì được khả năng thu hút vốn.Trong % năm, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cấp mới và bổ sung đạt từ 15-16 tỷ USSD; ước tổng số vốn thực hiện của khu vực đầu tư nước ngoài khoảng 13 tỷ USD, vượt 21% kế hoạch.
Thông qua chính sách tiền tệ đã kiềm chế được lạm phát tỉ lệ lam phát năm 2004 xấp xỉ 9%, tạo ra công ăn việc làm cho nhiều người trung bình khoảng hơn 7 triệu người/năm
Mặt khác Nhà nước ta cũng đảm bảo thực hiện công bằng xã hội thông qua các chính sách xã hội, bảo hiểm, phúc lợi xã hôi,...Tỉ lệ hộ nghèo giảm dần từ 13,33% (1999) xuống còn 9,96 %(2001) và 9% (2003),mỗi năm trung bình có khoảng 300 nghìn hộ thoát khỏi cảnh nghèo; các chương trình về phát triển các mặt chăm sóc sức khoẻ cộng đồng, dân số- kế hoạch hóa gia đình và các hoạt động văn hoá xã hội được triển khai và thu được nhiều kết quả đáng khích lệ.
Nhà nước đã cung cấp một phương pháp lý đầy đủ, tương đối đồng bộ, minh bạch và vững chắc, không chỉ là hệ thống luật lệ và quy định, mà còn bao hàm các định chế cần thiết để thực hiện và cưỡng chế việc thi hành luật và giải quyết tranh chấp - bao gồm tòa án và các cơ quan cường chế thi hành pháp luật. Trong các nền kinh tế thị trường, phần lớn các giao dịch dựa trên hợp đồng. Do đó mà khi những luật lệ quy định quyền sở hữu được rõ ràng và cơ chế cưỡng bức thi hành luật tốt thì chi phí hoạt động kinh doanh tốt hơn và thị trường vận hành hiệu quả hơn, trong thời kỳ kế hoạch hóa tập trung, Nhà nước quản lý kinh tế chủ yếu bằng công cụ kế hoạch. Khi chuyển sang quản lý nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, việc ban hành khuôn khổ pháp luật cho sự hoạt động của nền kinh tế chuyển đổi này trở thành một đòi hỏi rất cấp bách trước mắt, vừa rất cơ bản lâu dài, trong đó có những thứ có thể sửa đổi, bổ sung từ hệ thống pháp luật đã có mặc dù rất ít. (Như hiến pháp) nhưng chiếm đại bộ phận là hoàn toàn mới, phải làm từ đầu (như luật đầu tư nước ngoài). Như ta đã biết, nền kinh tế nước ta trước đây là nền kinh tế đóng do đó mà hoàn toàn không quan hệ gì với các nước trên thế giới ngoại trừ các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa. Từ khi chuyển đổi, hệ thống pháp luật được hoàn chỉnh nước ta thực hiện cơ chế mở. Tạo nhiều điều kiện, ban hành luật, chính sách để thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài như. Luật đầu tư, chính sách ưu đãi đầu tư… tạo động lực thúc đẩy đầu tư trong nước, tăng khả năng cạnh tranh của nền kinh tế. Đồng thời ta còn tranh thủ học hỏi những tiến bộ khoa học kỹ thuật, những dây chuyền công nghệ tiên tiến hiện đại của các nước bạn ứng dụng vào nền sản xuất trong nước. Đẩy mạnh tăng năng suất tăng khối lượng hàng hóa và dịch vụ.
Giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất xã hội đã bị kìm nén bấy lâu nay, nổi bật là sự phát triển đa dạng hóa các loại hình doanh nghiệp. Nhờ đó, đưa nước ta từ một nước nhập khẩu lương thực trở thành nước xuất khẩu lớn của thế giới về lương thực, cà phê, hạt tiêu. Từ chỗ đầu tư để phát triển đất nước, chủ yếu (hay về cơ bản) là từ nguồn ngân sách Nhà nước đến chỗ thu hút được nhiều chủ đầu tư ngoài khu vực Nhà nước, làm cho tổng đầu tư toàn xã hội tăng nhanh. Đồng thời, đảm bảo cho cả thời kỳ đổi mới, kinh tế nước ta có tốc độ tăng trưởng vào loại cao so với các nước trong khu vực và thế giới.
Từng bước tạo điều kiện hình thành và thúc đẩy các yếu tố thị trường bộ phận để phát triển hệ thống thị trường cơ bản, như: thị trường hàng hóa dịch vụ thị trường tài chính, thị trường bất động sản, thị trường lao động, thị trường khoa học và công nghệ. Do các loại thị trường cơ bản được hình thành và phát triển làm cho nền kinh tế hoạt động ngày càng có hiệu quả hơn, sôi động hơn.
2. Những mặt hạn chế trong vai trò kinh tế của Nhà nước ta:
Tuy đã đạt được những thành tựu đáng kể nhưng trong quá trình quản lí và điều tiết nền kinh tế Nhà nước ta không thể không tránh khỏi những khiếm khuyết và hạn chế nhất định.Điều đó được thể hiện rõ ở những điểm sau:
- Sản xuất hàng hóa trong các lĩnh vực, tiểu thủ công nghiệp còn ở trình độ thấp, công nghệ sản xuất còn lạc hậu, chất lượng sản phẩm làm ra còn xấu. Vì thế thị trường tiêu thụ hết sức hạn chế. Nếu có thị trường thì sức cạnh tranh của hàng hóa trên thị trường kém.
- Tuy sản xuất nông lâm nghư nghiệp là ngành sản xuất chiếm tỷ trọng lớn nhất, chiếm nhiều lao động xã hội trong cơ cấu kinh tế nhưng quá trình thương phẩm hóa sản phẩm nông lâm nghư chỉ diễn ra ở một số nơi có cơ sở hạ tầng, giao thông vận tải thuận lợi. Gần thị trường lớn và có bình quân ruộng đất trên đầu người tương đối cao. Chỉ có ở những nơi này là sản xuất được hàng hóa, và cũng mới có một số sản phẩm nông nghiệp hàng hóa, với khối lượng tương đối lớn và tỷ suất hàng hóa tương đối cao, phần còn lại vẫn trong tình trạng sản xuất tự cung, tự cấp.
- Các hoạt động dịch vụ đã phát triển mạnh mẽ, nhưng chỉ mới tập trung vào một số ngành như ăn uống, buôn bán nhỏ các hàng công nghiệp tiêu dùng v.v. các ngành như du lịch, bảo hiểm, cung ứng kỹ thuật và công nghệ chưa tương xứng, chất lượng các hàng hóa dịch vụ nhìn chung còn thấp.
- Nhiều điều kiện cần thiết cho sự ra đời của sản xuất hàng hóa như thị trường đất đai, thị trường sức lao động thị trường tiền tệ chưa được thiết lập một cách hoàn chỉnh, công khai. Một số các yếu tố cấu thành đầu vào của sản phẩm chưa phải là hàng hóa, hoặc đang trong trạng thái độc quyền.
Chính vì nền kinh tế còn đang trong bước quá độ của sự chuyển đổi như vậy nên Nhà nước cũng chưa ki._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28060.doc