Vai trò kinh tế của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay

Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay Lời mở đầu Trong lịch sử phát triển nền kinh tế của các nước XHCN trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng, chúng ta chỉ thấy một mô hình kinh tế thuần nhất đó là mô hình kinh tế chỉ huy tập trung bao cấp. Có thể nói đây là một mô hình kinh tế kém năng động và khó thích nghi với sự phất triển chung của kinh tế thế giới, chính vì vậy mà một số các quốc gia và cả nước ta khi áp dụng mô hình này đã

doc34 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1499 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Vai trò kinh tế của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
gặp phải những khó khăn không nhỏ. Từ việc nhận thức đúng đắn những ưu khuyết tật trong thực tiễn tồn tại của nền kinh tế lúc bấy giờ nên đại hội đảng VI đã đi đến quyết định mang tính cách mạng trong con đường cái cách nền kinh tế. Bắt đầu từ đó mô hình nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN lần đầu tiên được áp dụng vào Việt Nam . Cũng bắt đầu từ đó thì có không ít ý kiến tranh luận cho rằng có phải cơ chế thị trường là sản phẩm của CNTB hay không và sự vận dụng của ta có phải là sự vận dụng kinh nghiệm của CNTB hay không ? Nhiều ý kiến thì cho rằng kinh tế thị trường và CNXH là như nước với lửa không thể dung nạp với nhau, bởi kinh tế thị trường tồn tại trong nó rất nhiều những khuyết tật không thể chấp nhận được. Như vậy, tư tưởng phát triển kinh tế hàng hoá thị trường dưới chế độ XHCN ở nước ta là chưa thống nhất. Việc vạch định ra ưu điểm và hạn chế của nền kinh tế hàng hoá-kinh tế thị trường là điều cần thiết. Vấn đề này đã được rất nhiều người quan tâm phân tích, và theo em thì dường như mọi người đã có những nhận định khá toàn diện về những ưu, những khuyết của nền kinh tế thị trường. Nhưng vấn đề chính lại là ở chỗ khi chung ta đã quyết tâm đi theo xây dựng nền kinh tế thị trường rồi thì chúng ta phải làm như thế nào, phải dùng những công cụ nào và ai là người đứng ra sử dụng những công cụ đó để hạn chế những khuyết tật, phát huy những ưu điểm của nó. Từ những lý do trên em lựa chọn đề tài : “Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay” Đi theo những định hướng nội dung mà thầy giáo đã cung cấp, em sẽ cố gắng nêu được trọn vẹn bốn ý chính: -Làm rõ tính tất yêu khách quan vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế. -Làm rõ những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường theo đinh hướng XHCN ở nước ta. -Phân tích những mục tiêu và chức năng quản lý vĩ mô của Nhà nước. -Nêu được một số giải pháp cơ bản nhằm đổi mới và tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước ta hiện nay. Theo em được biết, có rất nhiều các bạn cũng đã chọn đề tài này cho mục tiêu nghiên cứu của mình, điều này tất yêu dẫn đến rất nhiều sự trùng lặp, và do đó cũng gây ra cho thầy giáo không ít những khó khăn trong công việc đánh giá kết quả. Trong quá trình nghiên cưu về dề tài này, em đã cố gắng hết sức, song em tin chắc mình không thể tránh khỏi những thiếu xót. Dù vậy, em cũng mong ước rằng bài viết của em được kết quả tốt, được thầy giáo đánh giá cao. Điều này vô cùng quan trọng, tạo điều kiện ban đầu về kiến thức và sự tự tin cho việc thi hoặc viết luận văn tốt nghiệp của em sau này. Phần i đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta tính tất yêu khách quan vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế i. Tính tất yêu khách quan vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước Đẩi với nền kinh tế thị trường 1.Những điều kiện hình thành nền kinh tế hàng hoá & nền kinh tế thị trường *KTHH là sự phát triển kế tiếp và biến đổi về chất so với nền kinh tế tự nhiên trên cơ sở phân công lao động xã hội đã phát triển. KTHH là nền kinh tế hoạt động theo quy luật sản xuất và trao đổi hàng hoá, sản xuất sản phẩm cho người khác tiêu dùng thông qua trao đổi mua bán, trao đổi hàng-tiền. Nừu sản xuât để tư tiêu dùng thì không phảI là nền KTHH,mà là nền kinh tế tự nhiến tự cấp tự túc. Ngay cả khi sản xuất cho người khác tiêu dùng như phan phối dưới dạng hiện vạt ( hàng đổi hàng ) cũng không gọi là KTHH Vậy, KTHH hình thành dựa trên sư phát triển của phân công lao động xã hội, của trao đổi giữa những người sản xuất với nhau. Đó là kiểu tổ chưc kinh tế xã hội, trong đó quan hệ trao dổi giữa người và người được thực hiện thông qua quan hệ trao đổi hàng hoá giá trị(* *KTTT là nền kinh tế vận động theo những quy luật của thị trường trong đó quy luật giá trị giữ vai trò chi phối và được biểu hiện bằng quan hệ cung cấp trên thị trường. Các vấn đề về tổ chức sản xuất hàng hoá được giải quyết bằng sự cung ứng hàng hoá, dịch vụ và nhu cầu tiêu dùng trên thị trường. Các quan hệ hàng hoá phát triển mở rộng, bao quát trên nhiều lĩnh vực có ý nghĩa phổ biến đối với người sản xuất và tiêu dùng. Các hoạt động sản xuất, dịch vụ…được quyết định từ thị trường về giá, sản lượng, chất lượng vì động cơ đạt tới lợi nhuận tối đa. Nền KTTT là giai đoạn phát triển cao của sản xuất hàn hoá. Nó nằm trong tiến trình phát triển khách quan về kinh tế trong xã hội loài người. *Những đIều kiện bảo đảm cho nền KTTT hình thành và phát triển Thứ nhất : Phải có nền KTHH phát triển, đIều đó có nghĩa là phải có sự phân công lao động xã hội phát triển, có các hình thưc, các loạI hình sở hưu khác nhau về tư liệu sản xuất. Thư hai : Phải có sự tự do trong trao đổi hàng hoá trên thị trường, tự do lựa chọn bạn hàng giữa các chủ thể sản xuất kinh doanh. Trong một nền kinh tế có nhiều chủ thể cùng sản xuất một loại sản phẩm; và ngượi lại mỗi chủ thể sản xuất và tiêu dùng cũn cần nhiêu loại hàng hoá khác nhau. Việc tự do lựa chọn, xây dựng các mối quan hệ bạn hàng là điều kịên không thể thiếu được để các chu thể kinh tế lựa chọn cho mình những phương án tối ưu. Đó là một điều kiện rất quan trọng bảo đảm cho nền KTTT phát triển. Trước đây trong đIều kiện nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, toàn bộ yếu tố đầu vào, đầu ra, sản xuất cái gì, sản xuất bao nhiêu, bằng cách nào và phân phối theo địa chỉ nào…tất cả đều theo một hệ thống pháp lệnh chi tiết, cụ thể theo kế hoạch. Do vậy các quan hệ thị trường trao đổi ngang giá không còn đúng nghiã nữa mà biến dạng đi rất nhiều. Thứ ba : Sản xuất và trao đổi hàng hoá phải tuân theo những quy luật của thị trường, theo giá cả thị trường. + Quy luật giá trị đòi hỏi : hao phi lao động cá biệt của mỗi đơn vị sản phẩm của chủ thể sản xuất kinh doanh bất kì phải nhỏ hơn hao phí lao động xã hội để sản xuất ra đơn vị sản phẩm cùng loại trong cùng một thời gian và không gian nhất định. Đó là điều kiện tiên quyết cho các chủ thể sản suất kinh doanh tồn tại và phát triển. +Trong nền KTTT, một sản phẩm hàng hoá trao đổi phải thông qua giá cả thị trường. Giá cả là hình thái biểu hiện bằng tiền của giá trị, có thể cao hơn hay thấp hơn đối với một số hàng hoá nào đó.Song giá cả vẫn xoay quanh trục giá trị, xét trên một thời gian dài tổng giá cả luôn bằng tổng giá trị. Và giá cả thị trường là hạt nhân của cơ chế thị trường. Muốn hình thành và phát triển KTTT, mọi hoạt động sản xuất kinh doanh đều phải tuân thủ giá cả thị trường. Đương nhiên giá cả thị trường không phảI là yếu tố duy nhất có tác động quyết định đến người sản xuất. Căn cứ vào yêu cầu phát triển chung của nền kinh tế, Nhà nước có thể cần phải điều tiết giá cả ở một số mặt hàng thiết yếu quan trọng có, liên hệ chặt chẽ đến sự ổn định đời sống kinh tế xã hội, có lợi cho quốc kế dân sinh nhằm hạn chế những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường… Thứ tư: Trong điều kiện phân công lao động quốc tế đã vượt ra khỏi biên giới quốc gia, việc tham gia phân công lao động quốc tế, gắn thị trường trong nước với thị trường quốc tế là một yêu cầu khách quan. Không thể có một nền KTTT nào phát triển được nếu hoạt động của nó bó hẹp trong khuôn khổ một quốc gia nhất định. Do vậy việc tham gia phân công lao động quốc tế, mở rộng quan hệ với bên ngoài, gắn thị trường trong nước với thị trường nước ngoài là điều kiện quan trọng cho sự phát triển kinh tế nói chung và nền KTTT mang mầu sắc Việt Nam nói chung. 2. Các mô hình kinh tế thị trường. Trên thực tế thế giới đã tồn tại nhiều mô hình KTTT như sau: _ KTTT truyền thông Tây Âu. _ KTTT kiển Nhật Bản. _ KTTT xã hội Công Hoà Liên Bang Đức. _KTTT xã hội chủ nghĩa Trung Quốc. _ KTTT có sự quản lý của Nhà nước. Trong lịch sử, không ở đâu và không khi nào có hệ thống thị trường thuần tuý. ở bất kì nền kinh tế nào người ta cũng tìm thấy sự hiện diện vai trò của Nhà nước. Nhà nước đã và đang thục hiện những điều tiết kinh tế vĩ mô thông qua những công cụ của mình nhằm đạt được một trật tự nhất đinh trong nền kinh tế xã hội. Với sự phát triển nhanh chóng của lực lượng sản suất và của lợi ích của giai cấp thống trị –giai cấp tư sản- đã đòi hỏi sự can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế càng tăng lên. ở mỗi nước, đối với bất kỳ loại hình phương thức sản xuất nào, tuỳ theo mô hình và phương thức tổ chức nền kinh tế hàng hoá, đều có sự can thiệp của Nhà nước. Sự can thiệp đó chỉ khác nhau ở mức độ, phương thức can thiệp, phạm vi can thiệp và phụ thuộc vào bản chất của Nhà nước . Sau đây em xin nêu một số ví dụ cho vấn đề vừa nêu về sự điều tiết đối với nền kinh tế của một số nước trên thế giới. ở Mĩ, từ đầu thế kỷ này đã bắt đầu mở rộng sự can thiệp của Nhà nước liên bang đối với nền kinh tế .Vai trò của chính phủ liên bang biểu hiện trên các mặt sau đây: -Thứ nhất: Chính phủ liên bang bang chịu trách nhiệm xây dựng và không chế hoạt động thuộc kết cấu hạn tằng của nền kinh tế như đường xá giao thông, phương tiện vận chuyển, thông tin liên lạc và năng lượng. -Thứ hai: Tạo ra môi trường tự do cạnh tranh, xây dựng các đạo luật chống độc quyền. -Thứ ba: Kiểm soát các hoạt động kinh tế bằng các công cụ tài chính, tiền tệ, tổ chức hệ thông ngân hàng hai cấp, ngân hàng trung ương và ngan hàng thương mại. Trong đó, ngân hàng trung ương vừa làm chức năng dự trữ vữa làm chức năng điều tiết và kiểm soát lượng tiền tệ được cung ứng thông qua hệ thống ngân hàng thương mại. ở cộng hoà kiên bang Đức, phạm vi can thiệp của Nhà nước đối với nền kinh tế hẹp hơn. Sau chiến tranh thế giới lần thứ !! Nhà nước cộng hoà liên bang Đức xxây dựng nền kinh tế của mình theo mô hình “kinh tế thị trường xã hội”. Theo mô hình này, nền kinh tế được hình dung như một sân bóng, trong đó mỗi doanh nghiệp là một cầu thủ. Nhà nước không chơi mà đóng vai trò là người thiết kế luật chơi và dùng luật chơi để điều khiển làm cho nền kinh tế có thể tránh được khủng hoảng thất nghiệp, lạm phát. Khác với Mĩ và cộng hoà liên bang Đức, các Nhà nước Bắc Âu hình dung nền kinh tế như một quá trình vận động từ sản xuất đến tiêu dùng, thông qua mắt khâu trung gian là phân phối của cải dưới hình thức thu nhập. Bằng qyêfn lực hành chính Nhà nước có thể can thiệp vào tất cả các mắt khâu hoặc vào một trong những mắt khâu nào đó. Can thiệp vào đâu đó là tuỳ thuộc vào lợi ích thu được. Các Nhà nước bắc Âu đã lựa chọn phương thức can thiệp vàokhâu phân phối lại thu nhập bằng công cụ thuế. Thông qua việc điều chỉnh cơ cấu thuế và chi tiê các chính phủ Bắc Âu hướng nền kinh tế của họđến các mục tiêu: Thu hẹp khoảng cách giữa người giàu và người nghèo, bằng cách đem lại cho mọi thành viên trong xã hội một phúc lợi như nhau được tạo ra từ nguồn thu chủ yếu từ thuế. Các nước được kể ra trên đã rất thành công trong công việc tổ chức một nền kinh tế thị trường có cự quản lý của Nhà nước. Mặc dù cách hể hiện vai trò của Nhà nước là rất khác nhau. Điều này chứng tỏ vai trò điều tiết của Nhà nước là rất quan trọng, thêm nữa không có mô hình nào là toàn diện và có thể áp dụng trên toàn thế giới, mỗi nước phải tự tìm cho mình một cách thức riêng để điều tiết nền kinh tế của mình nhằm đạt được mục tiêu mong muốn. Về vai trò của Nhà nước, đây là vấn đề phức tạp, em xin được phép trình bày kỹ hơn trong phần sau trong mục “Vai trò của Nhà nước trong nền KTTT có sự quản lý” 3. Xét về mặt nội dung của các giai đoạn phát triển của nền KTTT. *Giai đoạn 1 : Những yêú tố cơ bản nhất của nền KTTT được tạo ra với ưu thế của bàn tay vô hình của thị trường, cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa quan liêu đòi chế độ tự quản.v.v..Nhưng ngay từ đầu đã có sự can thiệp của bàn tay hữu hình của Nhà nước, đồng thời phải tiến hành sự nghiệp công nghiệp hoá… *Giai đoạn 2 : Tạo lập một nền kinh tế thị trường hoàn chỉnh mà ở đó vai trỏ của Nhà nước ngày càng tăng. Trình độ quản lý kinh tế vĩ mô theo đó được nâng lên bao hàm một sự biến đổi căn bản trong các hình thức tổ chúc thị trường về cơ cấu quản lý KTTT. Sự tác động qua lạI và quy định lẫn nhau đó, theo nguyên tác tự dovà được kết hợp chặt chễ theo khuôn khổ mục tiêu của nền KTTTcó sự qủn lý của Nhà nước. *Giai đoạn 3: Những yêu tố mới của sự tiến bộ xã hội (khoa học công nghệ, dân trí, quốc tế hoá…) càng đòi hỏi ở nền KTTT sự phát triển cao, tính xã hội của nền KTTT càng tăng ,vai trò cuả Nhà nước càng lớn và tương ứng với nó là sự thay đổi phương thức quản lý thích hợp. 4. Những ưu thế của nền KTTT a)Những ưu thế của nền KTTT thể hiện: Thứ nhất: Thúc đẩy sản xuất, gắn sản xuất với tiêu thụ-mục tiêu của sản xuất. Do đó người ta tìm mọi cách rút ngắn chu kì sản xuất, thục hiện táI sản xuất mở rộng, áp dụng những thành tựu khoa học công nghệ…nhằm đật được lợi nhuận tối đa Thư hai: Thúc đẩy và đòi hỏi các nhà sản xuất năng động thích nghi với các đIều kiện biến động của thị trường. Thay đổi mẫu mã sản xuất,m tìm mặt hàng mới và thị trường tiêu thị, mở rộng quan hệ trong kinh doanh, tìm cách đạt lợi nhuận tối đa. Thư ba: Thúc đảy sự tiến bộ của khoa học công nghệ, kích thích tăng năng suất lao động , nâng cao trình độ xã hội háo sản xuất và nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ gía thành, đáp ứng yêu cầu nhiều mặt của khách hàng và của thị trường Thư tư: Thúc đẩy sự tăng trưởng dồi dào của sản phẩm hàng hoá dịch vụ, thúc đảy và kích thích sản xuất hàng hoá phát triển, đề cao trách nhiệm của nhà kinh doanh đối với khách hàng, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội. Thứ nam: Thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung tư bản, tập trung dsản xuất. Tích tụ và tập trung sản xuất là hai con đường để mở rộng quy mô sản xuất. Một mặt, các đơn xị chủ thể làm ăn giỏi, có hiệu quả cao cho phép mở rộng quy mô sản xuất. Mặt khác, chỉ những đơn vị làm ăn có hiệu quả thì mới tồn tạI, mới đứng được trên thị trường. Chính quá trình cạnh tranh kinh tế là động lực thúc đẩy tích tụ và tập trung sản xuất. a)Những khuyết tật của nền KTTT thể hiện: Thứ nhất: Nền KTTT mang tính tự phát tìm kiếm lợi nhuận bằng bất kì giá nào, không đi đúng hướng của kế hoạch nhà nước, mục tiêu về phát triển kinh tế vĩ mô của nền kinh tế. Tính tự phát của thị trường còn dẫn đến tập trung hoá cao, sinh ra độc quyền, thủ tiêu cạnh tranh, làm giảm hiệu quả chung. Thứ hai: KTTT, “cá lớn nuốt cá bé” dẫn đến phân hoá đời sống dân cư, một bộ phận dẫn đến phá sản, phân hoá giầu nghèo dẫn đến khủng hoảng kinh tế, thất nghiệp và số đông người lao động lâm vào cảnh nghèo khó. Thứ ba: Xã hội phát sinh nhiều tiêu cực, tệ nạn xã hội gắn liền với hiện trạng nền kinh tế sa sút, gây rối loạn xã hội. Nhà kinh doanh thường tìm đủ thủ đoạn, mánh khoé_làm hàng giả, buôn lậu, trốn thuế…không từ bỏ một thủ đoạn nào nhằm thu được lợi nhuận tối đa. Thứ tư: Vì mục tiêu lợi ích cá nhân, dẫn đến sự sử dụng bừa bãi, tàn phá các nguồn tài nguyên và huỷ diệt một cách tàn khốc tài nguyên môi trường sinh thái. Thứ năm: Nền KTTT vận hành theo CCTT, có chế này có thể gây ra sự mất ổn định thường xuyên, phá cõ cân đối trong nền sản xuất xã hội. Hởu quả tiêu cực của nó thường đi liền với những vấn đề nan giải.Thực tế phát triển nền KTTT trong mấy chục năm qua chỉ rõ vấn đề lạm phát, thất nghiệp và chu ky kinh doanh là những căn bênh kinh niên không thể khắc phục được nếu không có sự can thiệp của Nhà nước. Thêm nữa, trong nền KTTT thường tồn tại những ngành nghề kinh tế thiếu sự cạnh tranh vì ở đó có mức lợi nhuận thấp, số vốn đầu tư lớn, thời gian thu hồi vốn rất chậm nhưng rất càn cho sự ổn định phát triển kinh tế và rất cần cho việc giải quyết những vấn đề xã hội… Qua trên ta thấy, nền KTTT có khả năng tập hợp tự động được hành động, trí tuệ và tiềm lực của hàng triệu con người và hướng đến lợi ích chung của cả xã hội. Nhưng nền KTTT không phải là một hệ thống được tổ chức hài hoà mà trong hệ thống đó cũng chứa đựng rất nhiều các yếu tố phức tạp và nan giải. Vì vậy để khắc phục, hạn chế những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường (CCTT) cần thiết phải có sự can thiệp của chính phủ vào nền kinh tế. Từ đó hình thành khái niệm CCTT có sự quản lý của nhà nước. Đó là một dạng đặc biệt của loại hình KTTT. Nếu như sự vận động của nền KTTT truyền thống, cổ điển, hoang dã tuân theo sự điều khiển của “bàn tay vô hình” cung_cầu_giá cả thì sự vận động của nền KTTT có sự quản lý (điều khiển, điều tiết) của Nhà nước tuân theo sự điều khiển song hành, tức là sự tác động cùng một lúc của hai yếu tố :Yếu tố tự vận động bởi quan hệ cung_cầu và yếu tố nhà nước tức là vai trò của Nhà nước trong việc quản lý nền kinh tế. Theo bản chất của mình, nền KTTT có sự quản lý của nhà nước không chỉ vận động theo CCTT, cũng không chỉ vận động theo cơ chế chỉ huy mà vận động bởi sự tác động đồng thời của hai cơ chế ấy. Chính vì vậy người ta gọi đó là cơ chế hỗn hợp. Như vậy, nền kinh tế hỗn hợp là nền kinh tế vận động theo CCTT có sự quản lý của Nhà nước. Trong KTTT, Nhà nước với tư cách là người điều hành, quản lý xã hội, đồng thời là khách hàng lớn của các chủ thể kinh tế. Nhà nước thường bảo đảm các dịch vụ bưu điện, thông tin liên lạc, phát thanh, truyền hình, giao thông vận tải…Nhà nước dùng pháp luật để điều hành; dùng các chính sách như chính sách đối nội, đối ngoại, chính sách kinh tế và những công cụ khác để tác động, vạch ra kế hoạch phát triển, hạn chế những tiêu cực do KTTT sinh ra, chống khủng hoảng và thất nghiệp v.v.. Sự can thiệp của Nhà nước một mặt nhằm định hướng thị trường, phục vụ tốt các mục tiêu kinh tế-xã hội trong từng thời kỳ; mặt khác, nhằm sửa chữa, khắc phục những khuyết tật vốn có của KTTT, tạo ra những công cụ quan trọng điều tiết thị trường mà không vi phạm cơ chế tự đIều chỉnh ở tầm vĩ mô. Bằng cách đó, Nhà nước kiềm chế sưc mạnh nguy hiểm của tính tự phát chứa đựng trong lòng thị trường, đồng thời phát huy được những ưu thế vốn có của KTTT. Cũng từ những khuyết tật mà ta phân tích ở trên của nền KTTT , ta nhận thấy tính tất yếu khách quan vai trò của Nhà nước đối với nền KTTT mà không cần thiết phải đi sâu phân tích quá trình lịch sử rồi mới đi đến kết luận. (đây là suy nghĩ mang tính chất chủ quan của riêng em, nếu có sai xót em rất mang được sự chỉ bảo từ thầy). ii. cơ chế thị trường ở nước ta và Các đặc đIểm, đặc trưng của kttt định hướng XHCN . 1.Về đặc điểm của cơ chế thị trường hiện nay Có nhiều cách tiếp cận, phân tích, lý giải khác nhau khi nhìn vào sự vận động của nền kinh tế hiện nay. Trong mục này em xin được trinh bày những đặc trưng của cơ chế thị trường trên cơ sở nhìn lại những năm đổi mới, đồng thờicó kiên hệ đến bước đi, những quá trình có tính quy luật của bước chuyển từ nền kinh tế chỉ huy sang nền kinh tế thị trường có cự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Với cách tiếp cận như trên, những đặc điểm lớn của nền kinh tế thị trường_cơ chế thị trường hiện nay ở nước ta là: Từng bước thực hiện những quá trình mang tính quy luật của bước chuyển từ nên kinh tế tập trung bao cấp sang CCTT có sự quản lý của Nhà nước, với tự do hoá thương mại và tự do hoá giá cả là khâu trung tâm đột phá; từng bước chuyển lên CCTT đích thực. Cơ chế đó là phát huy vai trò điều tiết của thị trường, hình thành bước đầu một thị trường canh tranh, làm cho hàng hoá được lưu thông thông suốt, cung cầu được cân đối, khắc phục tình trạng khủng hoảng thiếu, giá cả ổn định dần, lạm phát được ngăn chặn. CCTT đã góp phần thúc đẩy việc phải xử lý những vấn đề mấu chốt làm đảo lộn cả hệ thống tư duy và quan điểm kinh tế cũ như vấn đề sở hữu, với sự thừa nhận và đánh giá cao chính sách kinh tế nhiều thành phần, chuyển từ thái độ kỳ thị và phân biệt đối xử với kinh tế tư nhân sang chính sách đối xử binh đẳng; đồng thời cũng xác định được những biện pháp nâng cao hiệu quả của khu vực kinh tế quốc doanh cho phù hợp với thực tiễn nước ta. Cơ chế tài chính, tiền tệ, tín dụng, giá cả, lãi suất… đã từng bước được đổi mới đặc biệt cơ chế giá và tỉ giá được hình thành thông qua thị trường đã tạo ra bước ngoặt trong cơ chế kinh tế. CCTT còn thiếu đồng bộ, mang nhiều yếu tố tự phát, rối loạn-sản phẩm của một nền kinh tế cơ bàn là sản xuất nhỏ, của sự yếu kếm của bộ máy quản lý Nhà nước, tình trạng quan liêu thiếu hiểu biết, thâm trí trì trệ bảo thủ trước bước ngoặt chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế. Trước hết có thể thấy thể chế thị trường chưa tạo môi trường ổn định và an toàn cho sản xuất kinh doanh, đặc biệt những yêu kém trong thể chế tài chình tín dụng là lực cản của quá trình chuyển đổi. CCTT còn thiếu đồng bộ, có sự không ăn khớp giữa hai thị trường: thị trường hàng hoá thì phát triển khá mạnh mẽ trong khi thị trường các nhân tố sản xuất thì có sự lạc hậu khá lớn. Thêm nữa, sự hình thành và vận độnh của nần KTTT còn mang nhiều yêu tó tự phát, cơ chế vận hanh thô sơ tạo đIều kiện cho làm ăn bất chính; cơ chế quản lý thì đổi mới thiếu triệt để tạo mội trường thuận lợi cho tệ nạn tham nhũng và các mặt tiêu cực của thị trường phát sinh, phát triển. CCTT có sự quản lý của Nhà nước trong nền kinh tế định hướng XHCN là vấn đề vẫn còn mới mẻ, chưa có tiền lệ trong lịch sử và không có mô hình vạch sẵn. Do vậy không thể ngay từ đầu hình dung toàn bộ các chi tiết của mô hình thị trường; cũng không thể vạch ngay được một lịch trình cứng nhắc của bước chuyển mà phải vừa thực hiện CCTT vừa tổng kết để tiếp tục thực hiện. Chúng ta chủ chương chuyển sang CCTT trên cơ sở ổn định chính trị; lấy ổn định chính trị làm tiền đề cho ổn định và cải cách kinh tế; mặt khác cũng cũng nhận thức rõ phải đổi mới mạnh mẽ trong kĩnh vực hành chính, trên cơ sở đổi mới quản lý Nhà nước, tiếp tục ổn định chính trị đưa cải cách tiến lên một bước tiên mới, kiên định phát triển kinh tế-chính trị theo con đường XHCN. Định hướng XHCN là không thay đổi, tuy vậy cũng có những nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội, khẳng định rằng CNXH có thể sử dụng những công cụ phổ biến mà CNTB đã từng sử dụng như thị trường , các quan hệ hàng hoá-tiền tệ, quy luật giá trị v.v.. cho mục tiêu của mình. Xuất phát từ thực tế thị trường nước ta đang trong thời kì hình thành và phát triển, trong nó còn tồn tại những yếu tố mất ổn định. Từ chỗ nền kinh tế thực chất từ lâu là nền kinh tế nhiều thành phần, nên đã không chủ chương tư nhân hoá một cách tràn làn, mà chủ chương phát triển một nền kinh tế nhiều thành phần và xây dựng thành phần kinh tế quốc doanh làm chỗ dựa của Nhà nước ở các khâu và các lĩnh vực then chốt để nhằm ổn định cho định hướng thị trường. Đảng ta khảng định vai trò của Nhà nước trong việc bảo đảm chính sách xã hội, xử lý hài hoà giữa tăng trưởng và ổn đinh; giữa phát triển kinh tế với việc thực hiện những chính sách xã hội và công bằng xã hội. Thêm nữa để tiếp tự thực hiện phương châm ổn định để phát triền, Nhà nước ta phải đổi mới hơn nữa, nhận thức rõ vai trò của mình trong điều kiện mới, phải thay đổi chất lượng, tác phong của bộ máy, chuyển tử tác phong chỉ huy mệnh lệnh sang tác phong hỗ trợ, tạo môi trường phuận lợi cho thị trường phát triển…Điều đó nói lên tầm quan trọng đặc biệt của Nhà nước XHCN trong hoạt động của thị trường nước ta. 2. Đặc trưng cơ bản của nền KTTT theo định hướng XHCN ở Việt Nam Nền KTTT định hướng XHCN cũng có tính chất chung của nền kinh tế, nên kinh tế vận động theo những quy luật vốn có của KTTT như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh. Thị trường có vai trò quyết định trong việc phân phối các nguồn lực kinh tế. Giá cả do thị trường quyết định Nhà nước thực hiện điều tiết kinh tế vĩ mô để giảm bớt những thất bại của thị trường. Nhưng bất cứ nền KTTT nào cũng hoạt động trong những điều kiện lịch sử-xã hội của một nước nhất định nên nó bị chi phối bởi những điệu kiện lịch sử và đặc biệt là chế độ xã hội của nước đó, và do đó có những đặc điểm riêng phân biệt với nền KTTT của các nước khác. Nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam có những đặc trưng sau đây. Thứ nhất : Nền kinh tế dựa trên cơ sở cơ cấu đa dạng về hình thức sỡ hữu.Trong đó sở hữu Nhà nước làm chủ đạo. Do đó nền kinh tế gồm nhiều thành phần,trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta, thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.Việc xác định thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo là sự khác biệt có tính chất bản chất giữa kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với KTTT của các nước khác.Tính định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường ở nước ta đã quy định kinh tế nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo trong cơ cấu kinh tế. Thứ hai : Trong nền KTTT định hướng XHCN ,thực hiện nhiều hình thức phân phối thu nhập; phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, phân phối dựa trên mức đóng góp các nguồn lực vào sản xuất kinh doanh; Phân phối thông qua các quỹ phúc lợi xã hội, trong đó phân phối theo kết quả lao động giữ vai trò nòng cốt, đi đôi với chính sách điều tiết thu nhập một cách hợp lý.Chúng ta không coi bình đẳng xã hội như là một trật tự tự nhiên, là điều kiện của sự tăng trưởng kinh tế, mà thực hiện mỗi bước tăng trưởng kinh tế gắn liền với cải thiện đời sống nhân dân, với tiến bộ và công bằng xã hội. Như đã biết, mỗi chế độ xã hội có một chế độ phân phối tương ứng với nó. Chế độ phân phối do quan hệ sản xuất thống trị, trước hết là quan hệ sản xuất quyết định. Phân phối có liên quan đến chế độ xã hội, chínhtrị. Dưới CNTB, việc phân phối tuân theo nguyên tắc giá trị; đối với người lao động theo giá trị sức lao động. Như vậy thu nhập của người lao động chỉ giới hạn ở giá trị sức lao động mà thôi. Chủ nghĩa xã hội có đặc trưng riêng về sỡ hữu, do đó chế độ phân phối cũng có đặc trưng riêng. Phân phối theo lao động là đặc trưng riêng của chủ nghĩa xã hội. Thu nhập của người lao động không chỉ giới hạn ở sức lao động mà nó phải vượt qua đại lượng đó, nó phụ thuộc chủ yếu vào kết quả lao động và hiệu quả kinh tế. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta gồm nhiều thành phần kinh tế. Vì vậy cần thực hiện nhiều hình thức phân phối thu nhập. Chỉ có như vậy mới khai thác được khả năng cơ cấu kinh tế nhiều thành phần kinh tế, huy động được mọi nguồn lực của đất nước vào phát triển kinh tế. Thứ ba : ở nước ta, cơ chế vận hành nền kinh tế là CCTT có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN cũng vận động theo những quy luật kinh tế nội tại của nền kinh tế thị trường nói chung, thị trường có vai trò quyết định đối với việc phân phối nguồn lực kinh tế. Sự quản lý nhằm hạn chế, nhằm khắc phục những thất bai của thị trường, thực hiện mục tiêu xã hội nhân đạo mà bản thân thị trường không thể làm được. Thứ tư : Nền kinh tế thị trường ở nước ta là nền kinh tế mở, hội nhập với kinh tế thế giới và khu vực, thị trường trong nước gắn với thị trường thế giới, thực hiện những thông lệ trong quan hệ kinh tế thế giới, nhưng vẫn giữ được độc lập chủ quyền và bảo vệ được lợi ích quốc gia dân tộc trong quan hệ kinh tế đối ngoai. Thực ra đây không phải là đặc trưng riêng của kinh tế thị trường định hướng mà là xu hướng chung của nền kinh tế thế giới hiện nay. Trong điều kiện hiện nay chỉ có mở cửa kinh tế hội nhập vào kinh tế thế giới và khu vực mới thu hút được vốn, kỹ thuật công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên tiến để khai thác tiềm năng và thế mạnh của nước ta, thực hiện phát triển kinh tế thị trường theo kiểu rút ngắn. thực hiện mở cửa kinh tế theo hướng đa phương hoá và đa dạng hoá. Các hình thức kinh tế đối ngoại hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu những sản phẩm kỳ mức sản xuất có hiệu quả. Phần II Mục tiêu và chức năng quản lý vĩ mô của Nhà nước và một số giải pháp cơ bản nhằm đổi mới và tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước ya hiện nay 1. Mục tiêu quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước 1. Mục tiêu Thông qua tác động đối với nền kinh tế, Nhà nước một mặt kiểm soát và hỗ trợ sự phát triển của bản thân nền kinh tế và mặt khác điều chỉnh cơ cấu và thúc đẩy tiến bộ xã hội. Tạo được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định là một thách thức đối với nền kinh tế Việt Nam hiện nay. Nhưng kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội còn là một thách thức lớn hơn. Có nhiều cách tiếp cận khác nhau đối với vấn đề này. Có ý kiến cho rằng cần tăng trưởng trước sau đó mới đảm bảo công bằng xã hội. Với cách tiếp cận này, kinh tế sẽ phải là lĩnh vực mà Nhà nước tập trung chú ý trước hết. Còn ý kiến khác lại cho rằng Nhà nước cần phải có các chính sách tác động đồng thời tới cả hai mặt kinh tế-xã hội để đảm bảo một sự phát triển cân đối nhất định và bền vững của toàn xã hội và của các cộng đồng dân cư khác nhau trong. Quan điểm về việc xây dựng nền kinh tế thị trường có định hướng XHCN chính là thuộc ý kiến này. Theo quan điểm này, việc đánh giá tác động của Nhà nước đối với nền kinh tế sẽ không chỉ dựa vào các chỉ tiêu tăng trưởng và hiệu quả kinh tế, mà còn dựa vào các kết quả về mặt xã hội. Xét trên phương diện kinh tế học, có thể nói chính phủ có ba chức năng kinh tế chính trong nền KTTT, đó là: nâng cao tính hiệu quả; khuyến khích công bằng và ổn định kinh tế vĩ mô. 2.Nhà nước Việt nam cần phải làm gì để hoàn thành chức năng quản lý nền KTTT. Quản lý nền kinh tế quốc dân là sử dụng hàng loạt các công cụ, chính sách kinh tế, pháp chế kinh tế, nhằm can thiệp, đIều tiết các quá trình kinh tế để nhằm đạt được mục tiêu ổn định và phát triển kinh tế. Trên cơ sở những kinh nghiệm đã đúc kết trong nước và quốc tế có thể cho rằng vai trò quản lý vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước ta trong nền kinh tế mới thể hiện ở những điểm sau: a.Nhà nước cần phải xây dựng các chương trình kế hoạch phát triển kinh tế xã hội phù hợp vơi điều kiện của nước ta theo các mục tiêu mong muốn. Trong nền kinh tế của chúng ta hiên nay, các doanh nghiệp được quyền tư do lựa chọn hững phương án sản xuất kinh doanh, Nhà nước không can thiệp vào hoạt động của họ vào việc sản xuất ra cái gì? bằng cách nào? Trong khi lựa chọn các phương thức sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp lấy lơi nhuận làm thước đo hiệu qủa, đồng thời làm mục tiêu định hướng cho hành vi của họ. Trong nền kinh tế của ta hiện nay có rất nhiều các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau và cạnh tranh có thể dẫn tới sự triệt tiêu các nguồn lực kinh tế, làm cho môi trường kinh doanh bị phá huỷ và nền kinh tế không thể nào phát triển. Khác với doanh nghiệp vai trò quản lý kinh tế của nhà nước là ở chỗ, Nhà nước theo mục tiêu chung của dân tộc là làm cho dâ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33694.doc
Tài liệu liên quan