Phần I: Đặt vấn đề
Lịch sử phát triển của xã hội loài người từ trước đến nay đã trải qua nhiều hình thái kinh tế xã hội khác nhau. Mỗi hình thái kinh tế xã hội ở mỗi giai đoạn phát triển của lịch sử đều có tính logic của nó, vì vậy nên nó đem lại được khá nhiều thành công tốt song nó cũng chưa thật được mỹ mãn vì nó có nhiều thiếu sót cần phải khắc phục. Chúng ta hiện nay đang ở giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ lê chủ nghĩa xã hội vì vậy điều tất yếu của chúng ta là phải nghiên cứu con đường mà
26 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1333 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đảng và Nhà nước ta đã lựa chọn. Để góp phần vào xây dựng cơ chế tổ chức quản lý kinh tế sao cho phù hợp với điều kiện của nước ta và phù hợp với xu thế của thế giới là nguyên nhân để em chọn đề tài:
Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Việt Nam chúng ta vừa mới bắt đầu công cuộc đổi mới từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường nên có nhiều vấn đề được đặt ra. Bởi thực tế đã cho thấy ở các nước đi trước, khi họ để nền kinh tế vận dụng theo cơ chế thị trường không có sự quản lý của Nhà nước thì không đạt được mục tiêu kinh tế mà còn hơn thế nữa nó còn đẩy lùi nền kinh tế, điển hình là cuộc khủng hoảng 1929 1933. Song nếu có sự can thiệp của Nhà nước và có chiến lược đúng đắn thì nó lại là động cơ thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế. Vì vậy chúng ta cần phải có sự can thiệp của Nhà nước ở tầm vĩ mô để đưa nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay đang còn nhiều tranh cãi mà chúng ta cần phải làm sáng tỏ, mặc dù có sự hướng dẫn tận tình của các thầy cô giáo cùng với những nỗ lực của cá nhân em, song do lượng kiến thức còn hạn chế nên trong đề án này em chỉ trình bày được một số quan điểm.
Phần II: Giải quyết vấn đề
I. Vai trò kinh tế của Nhà nước và tính tất yếu khách quan về vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế.
1. Vai trò của Nhà nước nói chung trong lịch sử.
Ngay từ thời xa xưa,người đã biết sống lại từng bầy, từng đàn nhằm tạo điều kiện cho việc săn bắn để phục vụ cho đời sống và hơn thế nữa họ còn để bảo vệ những gì mình kiếm được. Của cải ngày một nhiều hơn các tập đoàn người này cần phải bảo vệ của cải của họ bằng hình thái liên kết lại nhau, bầu ra những người đứng đầu để cai quản. cùng với lịch sử, xã hội loài người ngày càng phát triển hơn và kéo theo sự phát triển của lực lượng sản xuất và năng suất lao động xã hội chế độ tư hữu (lợi ích kinh tế ) xuất hiện đã phân chia xã hội thành kẻ giàu người nghèo hình thành hai giai cấp, cơ bản là chủ nô và nô lệ nên hình thành một xã hội mới với sự phân chia giai cấp và đấu tranh giai cấp gay gắt không thể điều hoà, đòi hỏi phải có một tổ chức mới có khả năng có thể dập tắt được xung đột giai cấp ấy, tổ chức đó là Nhà nước. Xuất phát từ việc nghiên cứu nguồn gốc của Nhà nước, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin đã kết luận rằng “Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà” . Nhà nước chỉ ra đời và tồn tại trong xã hội có giai cấpvà bao giờ cũng thể hiện bản chất giai cấp sâu sắc. Bản chất đó được thể hiện trước hết ở chỗ Nhà nước là bộ máy cưỡng chế đặc biệt nằm trong tay giai cấp thống trị, là công cụ sắc bén nhất để duy trì sự thống trị giai cấp. Vì vậy nên Nhà nước bao giờ cũng bảo vệ lợi ích của một giai cấp nhất định. Song vai trò kinh tế của Nhà nước thì có sự khác nhau về mức độ, hình thức biểu hiện nhằm phù hợp với điều kiện của từng giai đoạn.
Thực ra lịch sử đã chứng minh chức năng kinh tế của Nhà nước được phôi thai ngay từ buổi ban đầu khi Nhà nước mới chỉ vừa xuất hiện sau đó mới được nhận thức và ứng dụng vào thực tiễn quản lý kinh tế xã hội. Trong thời đại chiếm hữu nô lệ Nhà nước chủ nô kiểu Nhà nước đầu tiên trong lịch sử đã trực tiếp dùng quyền lực cuả mình can thiệp vào việc phân phối của cải được sản xuất ra bởi những người nô lệ dưới sự chỉ huy điều khiển quá trình sản xuất của giai cấp chủ nô chiếm đoạt bằng bạo lực. Các thủ đoạn bạo lực phi kinh tế ở đây được sử dụng làm công cụ để chiếm đoạt, cưỡng bức kinh tế.
Trong thời đại phong kiến Nhà nước phong kiến khong chỉ can thiệp vào việc phân phối của cải mà đứng ra tập hợp lực lượng nhân dân xây dựng kết cấu hạ tầng cho sản xuất nông nghiệp, khuyến khích quan lại, di dân đi mở mang các vùng đất mới đề ra các chính sách ruộng đất thích hợp với từng thời kỳ, nhìn chung các hoạt động này diễn ra một cách tự phát.
2. Tính tất yếu khách quan quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế.
Cơ chế cũ và những ưu khuyết tật của nó:
Sau kháng chiến thắng lợi, dựa vào kinh nghiệm của các nước xã hội chủ nghĩa (XHCN) đất nước ta đã bắt đầu xây dựng mô hình kế hoạch hoá tập trung dựa trên hình thức sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất (TLSX). Với sự nỗ lực của nhân dân ta và có thêm sự giúp đỡ tận tình của các nước XHCN. Mô hình kế hoạch hoá đã phát huy được những tính ưu việt của nó.
Nhưng sau ngày giải phóng miền Nam bức tranh mới về hiện trạng kinh tế xã hội đã thay đổi, trong một nền kinh tế cùng một lúc tồn tại cả ba loại hình kinh tế là tự cấp tự túc, kinh tế kế hoạch hoá tập trung và kinh tế hàng hoá. Đó là thực tế khách quan tồn tại sau những năm 1975 nhưng chúng ta vẫn tiếp tục chủ trương xây dựng nền kinh tế chỉ huy như ở miền Bắc trước đây. Do các quan hệ kinh tế đã thay đổi rất nhiều, việc áp dụng cơ chế ql kinh tế cũ vào điều kiện nền kinh tế đã thay đổi làm xuất hiện rất nhiều hiện tượng tiêu cực. Do chủ quan không cân nhắc tới sự phù hợp của cơ chế quản lý kinh tế mà chúng ta đã không quản lý có hiệu quả, Nhà nước thực hiện bao cấp tràn lan. Những sự việc này gây ra nhiều hậu quả xấu cho nền kinh tế, sự tăng trưởng kinh tế gặp nhiều khó khăn, sản phẩm trở nên khan hiếm, tích luỹ hàng năm hầu như không có. Vốn đầu tư chủ yếu dựa vào vay và viện trợ của nước với lạm phát cao làm cho đời sống nhân dân bị giảm sút thậm chí có một số địa phương nạn đói đang rình rập. Nguyên nhân sâu xa vì sự suy thoái nền kinh tế ở nước ta là do đã rập khuôn một mô ihnhf kinh tế chưa thích hợp và kém hiệu quả. Những sai lầm cơ bản là:
Ta đã thực hiện một chế độ sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất trên một quy mô lớn trong điều kiện chưa cho phép. Điều này đã dẫn đến một bộ phận tài sản vô chủ và đã không sử dụng nguồn lực rất khan hiếm của đất nước trong khi dân số ngày càng gia tăng.
Thực hiện việc phân phối theo lao động cũng trong điều kiện chưa cho phép khi tổng sản phẩm quốc dân thấp đã dùng hình thức vừa phân phối bình quân vừa phân phối lại một cách gián tiếp đã làm mất động lực của sự phát triển.
Việc ql kinh tế của Nhà nước lại sử dụng các công cụ hành chính mệnh lệnh theo kiểu thời gian chiến tranh không thích hợp với yêu cầu tự do lựa chọn của người sản xuất và người tiêu dùng đã không kích thích sự sáng taọ của hàng triệu người lao động.
Chế độ hạch toán trên thực tế còn nặng nên hình thức, lợi ích kinh tế, đặc biệt là lợi ích cá nhân người lao động, một động lực trực tiếp của hoạt động xã hội chưa được quan tâm đúng mức, vì thế sự vận động của nền kinh tế nhìn chung là chậm chạp, kém năng động.
b. Quá trình chuyển đổi từ cơ chế cũ sang cơ chế mới:
Đứng trước tình hình kinh tế như trên vấn đề cấp bách đối với Nhà nước ta là phải đổi mới cơ chế quản lý kinh tế sao cho phù hợp với điều kiện đất nước hiện nay. Xuất phát từ vấn đề này nhiều nhà khoa học của chúng ta đã đi sâu vào nghiên cứu học thuyết kinh tế mà trọng tâm là của Keynes và Samuelson. Keynes là người đầu tiên đề cao vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường thông qua sự phân tích lý thuyết chung về việc làm, ông đã đi đến kết luận muốn thoát khỏi khủng hoảng, thì không thể dựa vào cơ chế thị trường tự điều tiết, mà cần phải có sự can thiệp của Nhà nước vào kinh tế để tăng cầu có hiệu quả, kích thích tiêu dùng, sản xuất, kích thích đầu tư, bảo đảm việc làm và tăng thu nhập. Vì vậy ông đề nghị Nhà nước phải duy trì đầu tư thông qua sử dụng hệ thống tài chính tín dụng và lưu thông tiền tệ, Keynes tài chính tín dụng và lưu thông tiền tệ là công cụ kinh tế vĩ mô rất quan trọng.
Và “tư tưởng can thiệp” đã được nhiều nhà khoa học khác ở thời sau đó phân tích và nghiên cứu cụ thể như trường phái thể chế mới. Với họ “tư tưởng Nhà nước can thiệp” là tư tưởng trọng tâm của trường phái. Họ kế thừa những tư tưởng này, phê bình lý luận truyền thống coi tự do cạnh tranh không thể đảm bảo được cân đối cung cầu, tích cực chủ trương Nhà nước can thiệp vào đời sống kinh tế, chủ trương xã hội thực hiện thống trị kinh tế. Galbaraith cho rằng, chính sách buông thả tự do từ lâu đã không thích hợp và tuyên bố: quản lý, điều tiết, kế hoạch mới là nhu cầu bức xúc của thời đại ngày nay. Do vậy ông đã đề xuất “phương án” Nhà nước can thiệp kinh tế. Vấn đề này quan điểm mà Galbraith và Keynes rất gần nhau. Đặc điểm chung của họ là: thừa nhận trong điều kiện TBCN luôn tồn tại thất nghiệp, không sử dụng đầy đủ mọi nguồn lực sản xuất, tốc độ tăng trưởng kinh tế không ổn định. CNTB có “khuyết điểm” không phải mọi cái đều rất thuận lợi. Họ cho rằng trong kinh tế TBCN thiếu lực lượng tự động, duy trì cân đối và tăng trưởng kinh tế, thừa nhận CNTB tự phát triển sẽ không tạo ra được kết quả tốt nhất. Nhà nước can thiệp được xem như điều kiện tất yếu để CNTB thường xuyên phát huy tác dụng nhất là trong lĩnh vực kinh tế, và qua nghiên cứu tổng thể nền kinh tế quốc dân, và Nhà nước phải can thiệp tổng thể nền kinh tế, chứ không can thiệp vào công việc kinh tế nội bộ của các xí nghiệp.
Còn đối với Samuelson thì ông lại xuất phát từ “kinh tế hỗn hợp”. Nếu các Nhà nước kinh tế học phái cổ điển và cổ điển mới sang mà với bàn tay vô hình và “cân bằng tổng quát”, trường phái Keynes và Keynes mới say sưa nối với “bàn tay Nhà nước ”Samuelson chủ trương phát triển kinh tế phải dựa vào cả hai bàn tay là cơ chế thị trường và Nhà nước. Ông cho rằng điều hành một nền kinh tế không có cả Chính phủ lẫn thị trường thì cũng như địn vỗ tay như một bàn tay. Đây là một quan điểm rất đúng đắn.
Thực tiễn vận dụng của nền kinh tế thế giới những năm gần đây cho thấy mô hình phát triển kinh tế theo xu hướng thị trường có sự điều tiết vĩ mô từ trung tâm trong bối cảnh của thời đại ngày nay là mô hình hợp lý hơn cả. Mô hình này về đại thế nó đáp ứng được những thách thức của sự phát triển. Nhận thức được những vấn đề này Đảng và Nhà nước chúng ta quyết định đổi mới và Đại hội VI của Đảng được đánh giá như một cái mốc quan trọng trong việc chuyển đổi cơ chế trên cơ sở phê phán một cách nghiêm khắc cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp mà nguồn gốc từ kinh tế hiện vật và những hậu quả của nó. Đảng nhất quán chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Cũng từ đó tạo ra những tiền đề cần thiết để chuyển sang nền kinh tế thị trường.
Vậy nền kinh tế thị trường là gì? đó là nền kinh tế mà trong đó các vấn đề kinh tế cơ bản được quyết định chủ yếu bằng sự cung cầu trên thị trường. Động lực phát triển của nền kinh tế thị trường là lợi ích cá nhân thông qua lợi nhuận của người sản xuất và lợi ích của người tiêu dùng.
Từ khái niệm trên và thực tế ta có thể thấy rằng kinh tế thị trường hoạt động đặc trưng nhất của nó là cơ chế thị trường và nó này sinh ra nhiều vấn đề, trong đó vấn đề trung tâm nhất đối với người tiêu dùng và các nhà doanh nghiệp là:
Sản xuất cái gì?
Sản xuất như thế nào?
Sản xuất cho ai?
Với cơ chế thị trường hoạt động theo các quy luật cạnh tranh, quy luật lưu thông tiền tệ…. Với sự tác động của cơ chế thị trường đưa đến sự thích ứng tự phát giữa khối lượng và cơ cấu của sản xuất với khối lượng và cơ cấu nhu cầu của xã hội. Nhờ đó có thể thoả mãn được nhu cầu tiêu dùng cá nhân và sản xuất nhiều loại sản phẩm khác nhau và nhiều vấn đề khác. P.Samuelson đã nói rằng “cơ chế thị trường không phải là sự hỗn độn mà là một trật tự kinh tế, một nền kinh tế thị trường là một cơ chế tinh vi phối hợp một cách không tự giác của cá nhân và doanh nghiệp thông qua hệ thống giá cả và thị trường. Nó là một phương tiện giao tiếp để tập hợp tri thức và hành động của hàng triệu các cá nhân khác nhau. Không có bộ não trung tâm mà nó vẫn giải được bài toán mà máy tính lớn nhất ngày nay không thể giải nổi. Nó tự nhiên, và cũng như xã hội loài người, nó đang thay đổi”. Cơ chế thị trường tự động kích thích sự phát triển sản xuất, tăng trưởng kinh tế theo cả chiều rộng lẫn chiều sâu, nhu cầu xã hội, nhu cầu con người không ổn định , đa dạng và chỉ có thị trường mới hoàn thành chức năng sứ giả nối người sản xuất với người tiêu dùng lên hàng đầu “khách hàng là thượng đế”. Và cũng nhờ cơ chế thị trường mới giải quyết tốt 3 vấn đề cơ bản của nền sản xuất đó là sản xuất cái gì? như thế nào? cho ai? Thông qua lợi nhuận. Đây là điều mà các cơ chế kinh tế trước đây không thể giải quyết được hoặc giải quyết được nhưng còn nhiều vướng mắc. Song bất kỳ một tấn huy chương nào cũng có hai mặt trái của nó. Nhà kinh tế học nổi tiếng Samuelson đã nói rằng “sau khi tìm hiểu về bàn tay vô hình, chúng ta không nên quá say mê với vẻ đẹp của cơ chế thị trường, coi đó là hiện thân của sự hoàn hảo là tích luỹ của sự hài hoà, của đấng cao siêu, nằm ngoài tầm tay con người” Cùng với báo cáo của ban chấp hành trung ương tại Đại hội VII đã nêu rõ “sẽ là sai lầm nếu cho rằng nền kinh tế thị trường là liều thuốc vạn năng. Cùng với sự kích thích của sản xuất phát triển, kinh tế cũng là môi trường thuận lợi làm nảy sinh ra và phát triển nhiều loại tiêu cực xã hội, thị trường như hiện tượng thai nghén, chưa biết sẽ ra sao. Điều đó bao hàm cả khả năng thất bại”.
Cơ chế thị trường không bảo đảm được việc tạo ra một cơ cấu sản phẩm tối ưu phù hợp với yêu cầu xã hội, gây khủng hoảng thừa nên lãng phí lao động và tài nguyên gắn liền với khủng thừa là thất nghiệp, một căn bệnh nan giải. Do chạy theo lợi nhuận nên các nhà sản xuất có thể gây nên những tác động tiêu cực cho xã hội như ô nhiễm môi trươngf, cạn kiệt tài nguyên, phân hoá giàu nghèo và tình trạng độc quyền xoá bỏ cạnh tranh làm nền kinh tế mất tính hiệu quả….. những hậu quả này toàn xã hội phải gánh chịu.
c. Tính tất yếu khách quan quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế:
Với những ưu điểm trên trong lâu dài sẽ ảnh hưởng lớn đến đời sống kinh tế – xã hội – môi trường nên nó đòi hỏi phải có sự can thiệp của Nhà nước vào nền tk để bảo đảm sự ổn định, công bằng và hiệu quả, từ đó ta thấy vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước bắt nguồn từ sự cần thiết phải phối hợp hành động chung và do tính chất xã hội hoá cao của sản xuất quy định. Lực lượng sản xuất càng phát triển, trình độ xã hội hoá càng cao thì phạm trù thực hiện vai trò này ngày càng rộng và mức độ đổi mới càng cao.
Thực tế cho thấy từ khi đổi mới nền kinh tế nước ta đã có những thay đổi căn bản. Những nền kinh tế thị trường ở nước ta mới chỉ sơ khai, chưa đầy đủ. Trong kinh tế thị trường Nhà nước với tư cách là người điều hành, quản lý xã hội, đồng thời là khách hàng lớn, các chủ thể kinh tế . Nhà nước thường bảo đảm các dịch vụ bưu điện, thông tin liên lạc, phát thanh, truyền hình, giao thông vận tải…. Nhà nước dùng pháp luật để điều hành, dùng các chính sách đối ngoại, chính sách kinh tế và những công cụ khác để tác động, vạch ra kế hoạch phát triển, hạn chế những tiêu cực do kinh tế thị trường gây ra, chống khủng hoảng và thất nghiệp.
Sự can thiệp của Nhà nước một mặt nhằm định hướng thị trường phục vụ tốt các mục tiêu kinh tế – xã hội trong từng thời kỳ, mặt khác nhằm sửa chữa, khắc phục những khuyết tật vốn có của kinh tế thị trường tạo ra những công cụ quan trọng điều tiết thị trường ở tầm vĩ mô mà không vi phạm cơ chế điều chỉnh ở tầm vi mô, nhờ sự can thiệp của Nhà nước ở tầm vĩ mô đã kìm chế được một phần sức mạnh nguy hiểm của tính tự phát chứa đựng trong lòng thị trường, đồng thời phát huy được những ưu thế vốn có của nền kinh tế thị trường.
II. vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường.
Vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước bắt nguồn từ sự cần thiết phải phối hợp hoạt động chng và do tính chất xã hội hoá của sản xuất quy định. Lực lượng sản xuất ngày càng phát triển, trình độ xã hội hoá càng cao thì phạm trù thực hiện vai trò này ngày càng rộng và mức độ đổi mới càng cao.
Vai trò cnn trong nền kinh tế thị trường được thực hiện qua các chức năng cơ bản sau.
a. Định hướng:
Có thể nói vận mệnh của nền kinh tế phụ thuộc rất lớn vào sự định hướng của Nhà nước. Nếu Nhà nước ta đi chệch hướng thì dù chúng ta có làm tốt đến đâu thì kết quả cũng chỉ là con số không và còn tệ hơn nữa. Vì vậy đòi hỏi Nhà nước chúng ta phải nắm bắt các quy luật vận động và phát triển của nền sản xuất xã hội và chỉ bảo được các biến động có thể xảy ra, từ đó đưa ra những ưu sách nhằm tác động, khống chế, điều tiết các sự việc xấu có thể xảy ra. Và cũng qua đó đem ra những quyết định đúng đắn về con đường mà chúng ta sẽ đi sao cho nó phù hợp với quy luật nhưng lại hạn chế những sự việc xấu có thể xảy ra ở mức tối thiểu nhằm mục đích đẩy mạnh sự phát triển nền kinh tế.
b. Thiết lập khuôn khổ pháp luật:
Chức năng này có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển kinh tế. ở đây Nhà nước đề ra các quy tắc, trò chơi kinh tế mà các doanh nghiệp, người tiêu dùng và cả bản thân Chính phủ đều phải tuân thủ. Nó bao gồm quy định về tài sản, các quy tắc về hợp đồng và hoạt động kinh doanh, các trách nhiệm tương hỗ của các liên đoàn lao động, ban quản lý và nhiều luật lệ để xác định môi trường kinh tế.
Về nhiều mặt, các quyết định của khuôn khổ pháp luật xuất phát từ những mối quan hệ vượt ra ngoài lĩnh vực kinh tế đơn thuần. Các luật lệ đưa ra nhằm đáp ứng những giá trị và quan điểm được đồng tính rộng rãi về sự công bằng hơn là qua một sự phân tích kinh tế được mài dũa rất cẩn thận về chi phí và lợi lộc. Những khuôn khổ pháp luật có thể tác động sâu sắc tới các ứng xử kinh tế của con người.
c. Điều phối, điều tiết:
Nhà nước cần sửa chữa những khiếm khuyết của thị trường để thị trường hoạt động có hiệu quả bằng hình thức điều phối, điều tiết mọi hoạt động cũng như vật chất một cách hợp lý, phù hợp với điều kiện địa lý và môi trường sống để hạn chế những sự lãng phí không cần thiết từ ddó nâng cao hiệu quả kinh tế.
d. Đảm bảo sự công bằng:
Mục đích của chức năng này là để vừa đảm bảo ổn định xã hội, vừa không làm triệt tiêu tính tích cực sản xuất kinh doanh của các thành viên trong xã hội. Để thực hiện chức năng này, một mặt Nhà nước phải tạo ra những cơ sở về tổ chức để mọi người có cơ hội ngay nhau và đều được hưởng phần tương xứng với kết quả lao động và phần đóng góp của mình. Mặt khác trong điều kiện hoạt động hoàn hảo nhất, lý tưởng nhất của cơ chế thị trường, vẫn phải thấy rằng sự phân hoá, bất bình đẳng sinh ra từ kinh tế thị trường là tất yếu. Một hệ thống thị trường có hiệu quả vẫn có thể xảy ra sự bất bình đẳng lớn. Vì vậy Chính phủ cần thiết phải thông qua những chính sách để phân phối lại thu nhập lớn hơn người nghèo mà điển hình là giá điện loại hai.
Bên cạnh đó còn phải có hệ thống hỗ trợ thu nhập để giúp đỡ cho người già, người tàn tật, người không nơi nương tựa….
e. Kiểm soát ổn định kinh tế vĩ mô:
Từ khi ra đời CNTB từng gặp những thăng trầm chu kỳ lạm phát (giá cả tăng) và suy thoái (nạn thất nghiệp rất cao). Đôi khi những hiện tượng này rất dữ dội, như thời kỳ siêu lạm phát ở Đức những năm 3.
Nhờ học thuyết của John Meynar Keynes và những người theo học thuyết ông mà chúng ta hiểu được làm thế nào để kiểm soát những thăng trầm của chu kỳ kinh doanh. Nhà nước cần phải sử dụng quyền lực của mình một cách thận trọng gián tiếp thông qua luật pháp để kiểm soát nền kinh tế một cách có hiệu quả nhằm ổn định nền kinh tế. Vì một nền kinh tế phát triển thì trước hết mức độ dao động của nó phải thấp, đều và hiện có xu hướng phát triển.
Tóm lại: Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN đòi hỏi phải phát hiện ra những khuyết tật của kinh tế thị trường TBCN để tìm ra những định chế có khả năng xoá bỏ được những khuyết tật đó và tạo ra một kinh tế thị trường XHCN.
Vai trò này cũng đòi hỏi phải thay thế dần phương thức phân phối tư bản bằng phương thức phân phối thông qua phúc lợi xã hội. Nói rộng ra là sáng tạo ra những cách quản lý mới để hướng tới XHCN.
Tuy nhiên để thực hiện vai trò của Nhà nước trong kinh tế thị trường theo định hướng XHCN là cực kỳ khó khăn vì không thể chia tách thị trường nước ta ra khỏi thị trường thế giới bao gồm cả thị trường các nước tư bản. Bởi lẽ học thuyết Ken – dơ đã chỉ rõ XHCN có hai khuyết tật là khủng hoảng kinh tế chu kỳ và thất nghiệp. Bây giờ khuyết tật thứ ba đã xuất hiện đó là dung túng cho đầu cơ ở thị trường chứng khoán phát triển đến mức cực kỳ nguy hiểm từ thập niên 7 với sự lợi dụng những công cụ tài chính và biến chúng những công cụ bán không vì vậy nên chúng ta paỉ thực hiện bằng hai cách.
Đối thoại với các nước tư bản để họ thấy được các khuyết tật và tự điều chỉnh.
Khéo léo dùng những giải pháp đặc biệt để ngăn chặn tác động xấy của liên Ngân hàng như việc cấm bán khôngs trong Nghị định 48/1998/NĐ-CP về chứng khoán và thị trường chứng khoán của ta.
III. Đặc trưng của kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và thực trạng nền kinh tế nước ta.
1. Đặc trưng của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Nhìn lại thực tiễn những năm đối với cùng với những bước đi có tính quy luật của bước chuyển từ nền kinh tế chỉ huy sang kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước cùng với kinh nghiệm tổng kết được của những bước đã và đang tìm kiếm con đường tương tự.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII thông qua các năm 1991 đã nêu lên bảng đặc trưng bản chất của xã hội chủ nghĩa và những phương hướng quan điểm tổng quát và phát triển kinh tế – xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Thứ nhất, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN mà nước ta sẽ xây dựng là nền kinh tế thị trường hiện đại với tính chất xã hội (xã hội chủ nghĩa). Mặc dù nền kinh tế nước ta đang nằm trong tình trạng lạc hậu và kém phát triển nhưng khi nước ta chuyển sang phát triển kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường thì thế giới đã chuyển sang giai đoạn kinh tế thị trường hiện đại. Bởi vậy chúng ta không thể và không nhất thiết phải trải qua giai đoạn kinh tế hàng hoá giản đơn và giai đoạn kinh tế thị trường tự do mà đi thẳng vào phát triển kinh tế thị trường hiện đại. Đây là nội dung và yêu cầu của sự phát triển rút ngắn. Mặt khác, thế giới đang nằm trong thời đại quá độ từ CNTB lên chủ nghĩa xã hội, cho nên sự phát triển kinh tế – xã hội nước ta phải theo định hướng xã hội chủ nghĩa là cần thiết, khách quan và cũng là nội dung, yêu cầu của sự phát triển rút ngắn. Sự nghiệp “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, và văn minh” vừa là mục tiêu vừa là nội dung nhiệm vụ cả việc phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. Đảng và Nhà nước khuyến khích mọi người dân trong xã hội làm giàu một cách hợp pháp. Dân có giàu thì nước với mạnh, nhưng dân giàu phải làm cho nước mạnh bảo đảm độc lập, tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia.
Thứ hai, nền kinh tế của nước ta là nền kinh tế hỗn hợp nhiều thành phần với vai trò chủ đạo của nền kinh tế Nhà nước trong một số lĩnh vực, một số khâu quan trọng có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Nền kinh tế hàng hoá, nền kinh tế thị trường phải là một nền kinh tế đa thành phần, đa hình thức sở hữu. Thế nhưng nền kinh tế thị trường mà chúng ta sẽ xây dựng là nền kinh tế thị trường hiện đại, cho nên cần có sự tham gia bởi “bàn tay hữu hình” của Nhà nước trong việc điều tiết, quản lý nền kinh tế đó. Đồng thời chính nó sẽ bảo đảm sự quản lý, điều tiết, định hướng phát triển nền kinh tế thị trường của Nhà nước thông qua các công cụ chính sách kinh tế vĩ mô và vai trò chủ đạo của khu vực kinh tế Nhà nước.
Kinh tế Nhà nước phải nắm giữ vai trò chủ đạo ở một số lĩnh vực then chốt, có ý nghĩa là “đài chỉ huy”, là “mạch máu” của nền kinh tế. Cùng với việc nhấn mạnh vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước, cần coi trọng vai trò của khu vực kinh tế tư nhân và kinh tế hỗn hợp, đặt chúng trong mối quan hệ gắn bó, hữu cơ, thống nhất, không tách rời, biệt lập.
Thứ ba, Nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường theo đinh hướng XHCN ở nước ta là Nhà nước pháp quyền XHCN, là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Thành tố quan trọng mang tính quyết định trong nền kinh tế thị trường hiện đại là Nhà nước tham gia vào các quá trình kinh tế. Và khác với Nhà nước của nhiều nền kinh tế thị trường trên thế giới. Nhà nước ta là Nhà nước “của dân, do dân, vì dân”, Nhà nước công nông, Nhà nước của đại đa số nhân dân lao động, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Nó có đủ bản lĩnh, khả năng và đang tự đổi mới đã bảo đảm giữ vững định hướng XHCN trong việc phát triển kinh tế thị trường hiện đại ở nước ta. Sự khác biệt về bản chất Nhà nước là một nội dung và là một điều kiện, một tiền đề cho sự khác biệt về bản chất của mô hình kinh tế thị trường ở nước ta so với nhiều mô hình kinh tế thị trường khác hiện có trên thế giới.
Thứ tư, cơ chế vận hành của nền kinh tế được thực hiện thông qua cơ chế thị trường với sự tham gia quản lý, điều tiết của Nhà nước. Mọi hoạt động sản xuất – kinh doanh trong nền kinh tế được thực hiện thông qua thị trường. Các quy luật của kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường (quy luật giá trị, quy luật giá trị, quy luật cung – cầu, quy luật cạnh tranh – hợp tác ….) sẽ chi phối các hoạt động kinh tế. Quy luật giá trị quy định mục đích theo đuổi trong hoạt động kinh tế và lợi nhuận (là giá trị không ngừng tăng lên), quy định phân bổ các nguồn lực vào các lĩnh vực kinh tế trong một cuộc cạnh tranh quyết liệt. Thông qua các công cụ, chính sách kinh tế vĩ mô, cùng với việc sử dụng các lực lượng kinh tế của mình (kinh tế Nhà nước ), Nhà nước tác động lên mối quan hệ tổng cung – cầu thực hiện sự điều tiết nền kinh tế thị trường. Như vậy cơ chế thị trường hoạt động của nền kinh tế là: thị trường điều tiết nền kinh tế, Nhà nước điều tiết thị trường và mối quan hệ Nhà nước – thị trường – các chủ thể kinh tế là mối quan hệ hữu cơ, thống nhất.
Thứ năm, mở cửa, hội nhập nền kinh tế trong nước với nền kinh tế thế giới, trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia là nội dung quan trọng của nền kinh tế thị trường ở nước ta. Quá trình phát triển của kinh tế thị trường đi liền với xã hội hoá nền sản xuất xã hội. Tiến trình xã hội hoá trên cơ sở phát triển của nền kinh tế thị trường là không có biên giới quốc gia về phương diện kinh tế. Một trong những đặc trưng quan trọng của nền kinh tế thị trường hiện đại là mở rộng giao lưu kinh tế với nước ngoài. Xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế với những khu vực hoá và toàn cầu hoá đang ngày càng phát triển và trở thành xu thế tất yếu trong thời đại của cách mạng khoa học công nghệ hiện nay. Tất cả các nước trên thế giới, dù muốn hay không muốn, ít nhiều đều bị lội cuốn, thu hút vào các quan hệ kinh tế quốc tế. Tranh thủ thuận lợi và cơ hội, tránh nguy cơ tụt hậu xa hơn và vượt quá thách thức là yêu cầu nhất thiết phải thực hiện. Để phát triển trong điều kiện của kinh tế thị trường hiện đại, Việt Nam không thể đóng cửa, khép kín nền kinh tế trong trạng thái tự cung tự cấp, mà phải mở cửa, hội nhập với nền kinh tế thế giới. Sự mở cửa, hội nhập được thực hiện trên ba nội dung chính là: thương mại, đầu tư và chuyển giao khoa học – công nghệ. Tuy nhiên sự mở cửa hội nhập không có nghĩa là sự hoà tan, đánh mất mình, mà phải trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh và không ngừng nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, giữ vững độc lập, tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.
Thứ sáu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đồng thời với việc đảm bảo công bằng xã hội cũng là một nội dung rất quan trọng trong nền kinh tế thị trường ở nước ta phát triển trong công bằng và phát triển bền vững là những thuật ngữ phổ biến và là xu thế của thời đại ngày nay. Phát triển trong công bằng được hiểu là những chính sách phát triển phải đảm bảo sự công bằng xã hội, là tạo cho mọi tầng lớp nhân dân đều có cơ hội tham gia vào quá trình phát triển và được hưởng những thành quả tương xứng với sức lực, khả năng và trí tuệ của họ bỏ ra, làm giảm khoảng cách chênh lệch giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư và giữa các vùng. Khác với nhiều nước chúng ta phát triển kinh tế thị trường nhưng chủ trương bảo đảm công bằng xã hội trong tất cả các giai đoạn của sự phát triển kinh tế ở nước ta. Tuy nhiên, cũng cần nhấn mạnh rằng sự bảo đảm công bằng trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hoàn toàn xa lạ và khác hẳn về chất đối với chủ nghĩa bình quân, mức độ bảo đảm công bằng xã hội phụ thuộc rất lớn vào sự phát triển, khả năng và sực mạnh kinh tế của quốc gia. Vì vậy nếu quá nhấn mạnh tới công bằng xã hội trong điều kiện nền kinh tế còn kém phát triển, ngân sách còn eo hẹp, thì chắc chắn sẽ làm triệt tiêu động lực phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.
Thứ bẩy, giải quyết mối quan hệ giữa lao động và tư bản (vốn), thông qua phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta, được thực hiện theo kết quả lao động là chủ yếu kết hợp với một phần theo vốn và tài sản. Đây là điểm khác biệt giữa nền kinh tế thị trường trong CNTB, với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. Trong mối quan hệ giữa lao động và tư bản (vốn), giữa lao động sống và lao động quá khứ (lao động đã được vật hoá), CNTB nhấn mạnh đến yếu tố tư bản (vốn ) hơn là nhân tố lao động (lao động sống), nhấn mạnh đến yếu tố tích luỹ – đầu tư hơn là yếu tố tiền lương – thu nhập của người lao động. Ngược lại chủ nghĩa xã hội đặt con người ở vị trí trung tâm của sự phát triển, cho nên trong phân phối thu nhập và thành quả lao động của xí nghiệp, XHCN nhấn mạnh đến nhân tố lao động (lao động sống) và yếu tố tl – thu nhập của người lao động. Tuy nhiên, trong khi nhấn mạnh đến vai trò chủ yếu của lao động, chúng ta không thể coi trọng đến vai trò chủ yếu của yếu tố vốn, đến tăng cường tích luỹ đầu tư (cả Nhà nước và tư nhân) và đến mối quan hệ biện chứng giữa tư bản (vốn) và điều bình thường. Chỉ có trên cơ sở đó mới tăng số người giàu có trong xã hội. Tăng số người có thu nhập cao đồng thời giảm số người có thu nhập cao đồng thời giảm số người có thu nhập thấp trong xã hội và thu hẹp dần khoảng cách chênh lệch giàu nghèo, vừa là mục tiêu vừa là nội dung quan trọng của chính sách thu nhập và chính sách điều tiết thu nhập của Nhà nước trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta.
Tóm lại, quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta phải là “quá trình thực hiện dân giàu nước mạnh, tiến lên hiện đại trong một xã hội nhân dân làm chủ, nhân ái có văn hoá, có kỷ cương, xoá bỏ áp bức, bất công, tạo điều kiện cho mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc”. Việc phát triển nền kinh tế gắn liền với việc giải quyết các vấn đ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34588.doc