Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay

Đặt vấn đề Ngày hôm nay nhìn lại chặng đường lịch sử phát triển kinh tế của đất nước, chúng ta ai cũng tự hào vì những gì đã đang và sẽ có trong tay mình. Đất nước ngày càng phát triển, xã hội ngày càng văn minh giàu đẹp kiềm chế lạm phát, tăng trưởng kinh tế ở mức khá cao, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện nâng cao. Điều này đã khẳng định rằng: "Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước" là một chủ trương lâu dài của Đảng ta

doc43 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1389 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phát triển, xây dựng một nền kinh tế vững mạnh là mục tiêu hàng đầu của tất cả quốc gia trên thế giới vì vậy việc tìm ra một mô hình kinh tế sao cho đạt hiệu quả nhất là một vấn đề quan trọng, bấc thiết trong mọi thời đại. ở nước ta hiện nay đang tồn tại nhiều thành phần kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự điều tiết, quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là các thành phần kinh tế mang tính chất xã hội chủ nghĩa và các thành phần kinh tế chứa đựng nhân tố nội sinh trự phát tư bản chủ nghĩa, khi loại thành phần kinh tế này tồn tại đan xen nhau, vận động có xu hướng trái ngược, bài trừ và triệt tiêu lẫn nhau. Mặt khác cơ chế thị trường là mảnh đất thích hợp cho quá trình tự phát đi lên chủ nghĩa tư bản, xu hướng tự phát đó là mặt đối lập với quá trình tự giác đi lên chủ nghĩa xã hội, vì vậy để định hướng nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường hiện nay ở nước ta đi đúng định hướng xã hội chủ nghĩa thì vai trò của Nhà nước là rất quan trọng điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Thực tiễn trong những năm "đổi mới" vừa qua, nền kinh tế đã có được những bước phát triển đáng kể là nhờ Đảng và Nhà nước ta đã biết kết hợp vai trò điều tiết của mình với sự điều tiết của kinh tế thị trường. Đó là sự kết hợp hài hoà tương hỗ lẫn nhau giữa "bàn tay vô hình" và "bàn tay hữu hình" để thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng và phát triển ở mức cao nhất đồng thời khắc phục và hạn chế những khản lý kinh tế của Nhà nước có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xác định nội dung cấu thành của cơ chế thị trường gây ra. Bởi vì thực chất vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước là vai trò điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Đó là một chức năng cơ bản của Nhà nước nhằm phát huy tính ưu việt vốn có của cơ chế thị trường đồng thời hạn chế và khắc phục những khuyết tật vốn của nó như khủng hoảng kinh tế, bất công xã hội, lạm phát, thất nghiệp, tham nhũng, buôn lậu, làm hàng giả... Vì vậy để góp phần vào công cuộc xây dựng đất nước, xây dựng một nền kinh tế vững mạnh, xây dựng một xã hội công bằng, văn minh em đã chọn đề tài: "Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay". Giải quyết vấn đề I- Lý luận về vai trò kinh tế của Nhà nước. 1. Vai trò của Nhà nước nói chung trong lịch sử. Trong lịch sử xã hội loài người đã có một thời kỳ không có Nhà nước và pháp luật. Đó là thời kỳ cộng sản nguyên thuỷ, do trình độ phát triển thấp kém của lực lượng sản xuất, con người cùng chung sống, cùng lao động và cùng hưởng thành quả lao động chung. Mọi người đều bình đẳng trong lao động và hưởng thụ, xã hội không có người giàu, người nghèo, không phân chia thành giai cấp, không có đấu tranh giai cấp. Cơ sở kinh tế đó đã làm xuất hiện hình thức tổ chức xã hội là thị tộc. Thị tộc là tổ chức cơ sở đầu tiên của xã hội loài người trong chế độ cộng sản nguyên thuỷ. Nhiều thị tộc hợp lại thành bộ lạc. Quyền lực trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ là quyền lực xã hội với hệ thống quản lý rất đơn giản (hồi đồng thị tộc, hội đồng bào tộc, hội đồng bộ lạc) không mang tính giai cấp. Sự phát triển của lực lượng sản xuất và năng suất lao động xã hội đã làm thay đổi tổ chức xã hội thị tộc. Sau ba lần phân công lao động xã hội, chế độ tư hữu xuất hiện đã phân chia xã hội thành kẻ giàu, người nghèo, hình thành hai giai cấp cơ bản là chủ nô lệ và nô lệ..., những yếu tố mới xuất hiện đã làm đảo lộn đời sống thị tộc, làm cho chế độ thị tộc không thể đứng vững. Một xã hội mới với sự phân chia giai cấp và đấu tranh giai cấp gay gắt không thể điều hoà, đòi hỏi phải có một tổ chức mới có khả năng có thể dập tắt được cuộc xung đột giai cấp ấy, tổ chức đó là Nhà nước. Như vậy Nhà nước xuất hiện một cách khác quan, không phải là một lực lượng từ bên ngoài áp đặt vào xã hội, mà là "Một lực lượng nảy sinh từ xã hội, một lực lượng tựa hồ như đang trên xã hội, có nhiệm vụ làm dịu bớt sự xung đột và giữ cho sự xung đột đó nằm trong vòng bất tử" Mác - Ăng ghen: Tuyển tập VI, NXB sự thật 1984 Xuất phát từ việc nghiên cứu nguồn gốc của Nhà nước, các nhà kinh điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin đã đi đến kết luận rằng "Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà. Nhà nước chỉ ra đời và tồn tại trong xã hội có giai cấp và bao giờ cũng thể hiện bản chất giai cấp sâu sắc. Bản chất đó thể hiện trước hết ở chỗ Nhà nước là một bộ máy cưỡng chế đặc biệt nằm trong tay của giai cấp thống trị, là công cụ sắc bén nhất để duy trì sự thống trị giai cấp. Trong các nhà xã hội bóc lột, các Nhà nước bóc lột (Nhà nước chiếm hữu nô lệ, Nhà nước phong kiến, Nhà nước tư sản) đều có bản chất chung là bộ máy để thực hiện nền chuyên chính của giai cấp bóc lột là giai cấp chiếm một thiểu số trong xã hội. Ngược lại, Nhà nước xã hội chủ nghĩa với bản chất chuyên chính vô sản, là bộ máy để củng cố địa vị thống trị và bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, là lực lượng chiếm đa số trong xã hội để trấn áp những lực lượng thống trị cũ đã bị lật đổ và những phần tử chống đối cách mạng. Mặt khác, trong điều kiện của xã hội có nhiều giai cấp, Nhà nước không chỉ là người bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị mà còn phải quan tâm đến lợi ích chung của toàn xã hội. Nói một cách khác, bên cạnh tính giai cấp là mặt cơ bản thể hiện bản chất của Nhà nước thì tính xã hội cũng là một đặc trưng về tính chất của Nhà nước. Từ sự phân tích trên đây có thể kết luận rằng, Nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, một bộ máy luôn làm nhiệm vụ cưỡng chế và thực hiện các chức năng quản lý đặc biệt nhằm duy tri trật tự xã hội, thự hiện những mục đích của giai cấp thống trị và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị đó trong xã hội. Dựa vào cơ sở quyền lực của mình Nhà nước nắm tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội và duy trì lợi ích của giai cấp thống trị. Chức năng ban đầu của Nhà nước là quản lý hành chính bao gồm những lĩnh vực chủ yếu như: Quản lý lãnh thổ, thiết lập quan hệ bang giao với các nước láng giềng. Quản lý trật tự xã hội, sắp xếp mối quan hệ giữa các cá nhân, các giai cấp, các từng lớp, các cộng đồng dân tộc sao cho phù hợp với ý chí của giai cấp sinh sản ra nó. Như vậy, trước hết Nhà nước là một thể chế chính trị, là một trong những yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng xã hội. Tuy nhiên lịch sử xã hội loài người đã chứng tỏ rằng: trong sự phát triển của mình, do yêu cầu của quản lý xã hội, chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước luôn gắn liền với chức năng quản lý hành chính. Trong các Nhà nước đương đại, không có Nhà nước nào đứng trên kinh tế hay ngoài kinh tế. Sự phát triển của sản xuất hàng hoá, sự ra đời của kinh tế thị trường, đã đặt nhiệm vụ quản lý xã hội của Nhà nước nói chung thành hai chức năng: - Chức năng quản lý hành chính nhằm duy trì trật tự xã hội sao cho phù hợp với nguyện vọng của các thành viên. - Chức năng quản lý kinh tế nhằm duy trì các trật tự kinh tế với tính cách là cơ sở của trật tự xã hội, sao cho phù hợp với lợi ích của các thành viên. Trong thời đại chiếm hữu nô lệ, Nhà nước chủ nô, kiểu Nhà nước đầu tiên trong lịch sử đã trực tiếp dùng quyền lực của mình để can thiệp vào việc phân phối cuả cải được sản xuất ra. Trong thời đại của Nhà nước chủ nô, của cải được sản xuất ra bởi những người nô lệ dưới sự chỉ huy điều kiển quá trình sản xuất của giai cấp chủ nô. Nhưng khối lượng của cải ấy không được phân phối công bằng, mà bị giai cấp chủ nô chiếm đoạt bằng bạo lực. Trong thời đại phong kiến, Nhà nước phong kiến không chỉ can thiệp vào việc phân phối của cải mà còn đứng ra tập hợp lực lượng nhân dân xây dựng kết cấu hạ tầng cho sản xuất nông nghiệp, khuyến khích quan lại di dân đi mở mang các vùng đất mới, đề ra các chính sách ruộng đất thích hợp với từng thời kỳ. Nhìn chung các hoạt động diễn ra một cách tự phát. Tuy nhiên với sự khác biệt với các Nhà nước phong kiến phương tây, chức năng quản lý kinh tế được các Nhà nước phương đông nhận thức sớm hơn. Vào thế kỷ thứ 15, chủ nghĩa tư bản được hình thành, quá trình tích luỹ nguyên thuỷ tư bản được thực hiện - nền kinh tế thị trường từng bước được hình thành. Để giúp cho kinh tế phát triển nhanh, giai cấp tư sản cần có "bà đỡ". Nói cách khác là cần có sự hỗ trợ của Nhà nước, chình vì vậy mà vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước tư sản ngày càng được xác lập và nâng cao. Trước hết Nhà nước tư sản đã thực hiện được một chính sách tiền tệ hết sức nghiêm ngặt, họ tìm mọi cách tích lũy tiền tệ, không cho tiền tệ chạy ra ngoài. Nhà nước của các nước tư bản trong giai đoạn này đã đề ra luật buộc các thương nhân nước ngoài không được mang tiền ra khỏi nước họ, chỉ được phép mang hàng mà thôi. Nhà nước còn qui định những nơi được phép buôn bán để tiện lợi cho việc kiểm tra, kiểm soát. Trong chính sách ngoại thương họ dùng hàng rào thuế quan, bảo hộ, đánh thuế nhập khẩu cao. Mặt khác Nhà nước còn thực hiện sự hỗ trợ cho các thương nhân trong nước các phương tiện vật chất và tài chính khi họ tham gia buôn bán quốc tế. Đồng thời Nhà nước cũng quy định nghiêm ngặt tỷ giá hối đoái, cấm trả cho người nước ngoài cao hơn mức giá quy định của Nhà nước... nhờ các chính sách kinh tế đó, các nước tư bản đã tích luỹ được một lượng của cải và tiền tệ đáng kể. Nhờ áp dụng kỹ thuật và công nghệ mới, nền sản xuất ở các nước tư bản phát triển rất nhanh chóng, các nhà tư bản đua nhau phát triển các ngành nghề mới và mở rộng quy mô sản xuất. Tự do cạnh tranh đã đòi hỏi một cách cấp thiết trong đời sống kinh tế các nước này. Chính vì thế, các nhà kinh tế học cổ điển đã ủng hộ tự do cạnh tranh. Nổi bật nhất là Adam Smith (1723 - 1790) một nhà kinh tế học nổi tiếng người Anh - đã đưa ra thuyết "bàn tay vô hình" và nguyên lý "Nhà nước không can thiệp" vào hoạt động của nền kinh tế Adam Smith cho rằng việc tổ chức nền kinh tế do các quy luật kinh tế khách quan tự phát chi phối, sự vận động của thị trường là do quan hệ cung cầu và sự biến đổi của giá cả hàng hoá trên thị trường quyết định. Quan hệ giữa người với người là quan hệ lợi ích kinh tế. Ông cho rằng mỗi người hoạt động chỉ nhằm lợi nhuận siêu ngạch, song cho "bàn tay vô hình chi phối" buộc người ta phải phục tung tỷ suất lợi nhuận tuyệt đối bình quân điều này nằm ngoài ý định của từng nhà tư sản. Để cho nền kinh tế phát triển lành mạnh, Nhà nước không nên can thiệp vào nền kinh tế thị trường, vào hoạt động của các doanh nghiệp. Mặc dù coi trọng "bàn tay vô hình" song Adam Smith cũng cho rằng Nhà nước cũng có nhiệm vụ kinh tế nhất định. Đó là các nhiệm vụ kinh tế vượt quá khả năng của các doanh nghiệp như làm đường, xây dựng bến cảng... Đầu những năm 30 của thế kỷ XX, những cuộc khủng hoảng kinh tế nổ ra thường xuyên, đặc biệt là cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới xảy ra năm 1929 - 1933 đã chứng tỏ rằng "bàn tay vô hình" không thể đảm bảo được những điều kiện ổn định cho nền kinh tế thị trường phát triển. Hơn nữa, trình độ xã hội hoá sản xuất ngày càng cao đã chỉ cho các nhà kinh tế học thấy rằng: cần phải có sự can thiệp của Nhà nước vào quá trình hoạt động của nền kinh tế, điều tiết nền kinh tế, do đó nhà kinh tế học người Anh John Keynes (1884-1946) đã đưa ra lý thuyết "Nhà nước điều tiết nền kinh tế thị trường". Tư tưởng Nhà nước can thiệp vào kinh tế thị trường của Keynes xuất phát từ chỗ cho rằng: sự tăng thêm của sản xuất sẽ dẫn đến sự tăng thêm của thu nhập, do đó làm tăng tiêu dùng. Song do khuynh hướng tiêu dùng giới hạn nên tiêu dùng tăng chậm hơn so với thu nhập, vì vậy cầu sẽ giảm xuống. Sự giảm sút cầu tiêu dùng sẽ kéo theo sự giảm sút của giá cả hàng hoá, từ đó làm cho tỷ suất lợi nhuận giảm xuống. Nếu tỷ suất lợi nhuận nhỏ hơn hoặc bằng lãi suất vay thì các chủ doanh nghiệp sẽ không có lợi trong việc vay vốn để đầu tư, nên họ sẽ không đầu tư vào sản xuất kinh doanh nữa. Điều này chắc chắn sẽ dẫn nền kinh tế tới chỗ trì trệ, khủng hoảng và làm cho nạn thất nghiệp ngày càng tăng. Để khắc phục tính trạng đã nêu, Nhà nước phải can thiệp vào nền kinh tế, can thiệp vào thị trường, phải mở ra các cuộc đầu tư lớn. Có làm như vậy mới huy động được các nguồn tư bản nhàn rỗi để mở mang các hoạt động sản xuất kinh doanh, giải quyết công ăn việc làm và tăng thu nhập cho dân cư, làm cho nhu cầu tiêu dùng tăng lên. Tất nhiên khi nhu cầu tăng nhanh sẽ làm cho sản xuất tăng nhanh, nhờ đó mà có điều kiện đẩy lùi khủng hoảng và tình trạng thất nghiệp. Theo thuyết của trường phái Keynes, Nhà nước can thiệp vào nền kinh tế cả ở tầm vĩ mô và vi mô. ở tầm vĩ mô, Nhà nước sử dụng các công cụ như lãi suất, chính sách tín dụng điều tiết lưu thông tiền tệ, làm phát, thuế, bảo hiểm, trợ cấp ... ở tầm vi mô, Nhà nước trực tiếp phát triển các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh và dịch vụ công cộng. John Keynes và những người theo ông tin rằng sự can thiệp như vậy của Nhà nước vào nền kinh tế sẽ khắc phục đượ khủng hoảng, thất nghiệp, tạo ra sự ổn định cho phát triển kinh tế xã hội. Song những chấn động lớn trong nền kinh tế vẫn diễn ra. Hơn nữa, thêm vào đó là tình trạng khủng hoảng, thất nghiệp, lạm phát vẫn xảy ra ngày càng trầm trọng. Điều này làm tăng làn sóng phê phán học thuyết Keynes và làm xuất hiện làn sóng "bàn tay vô hình" với Nhà nước để điều chỉnh nền kinh tế thị trường. Đi theo xu hướng "hỗn hợp" hiện nay các nhà kinh tế đã thừa nhận rằng: các nền kinh tế hiện đại muốn phát triển được phải dựa vào cả cơ chế thị trường cũng như sự quản lý của Nhà nước. Đó là sự kết hợp hài hoà, tương hỗ lẫn nhau giữa "bàn tay vô hình" và "bàn tay hữu hình". Hay nói một cách khác là sự kết hợp giữa sự quản lý của Nhà nước và cơ chế thị trường để thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng và phát triển ở mức cao nhất, đồng thời hạn chế và khắc phục được những tệ nạn và hậu quả xã hội do chính cơ chế thị trường gây ra. Paul Sanuelson một nhà kinh tế học người Mỹ cho rằng: điều hành một nền kinh tế không có cả Chính phủ lẫn cơ chế thị trường cũng chẳng khác nào "giơ tay lên vỗ mà giơ một bàn tay". Cơ chế thị trường xác định giá cả và sản lượng trong nhiều lĩnh vực, trong khi đó Chính phủ điều tiết thị trường bằng các chương trình thuế, chi tiêu và luật lệ. Cả hai bên thị trường và Chính phủ đều có tính thiết yếu. 2. Tính tất yếu khách quan của quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay. a. Quá trình đổi mới cơ chế quản lý ở nước ta. Chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa là quá trình đầy khó khăn, phức tạp. Đó là cuộc tìm tòi sáng tạo không ngừng của toàn Đảng, toàn dân. Đó là sự đổi mới có ý nghĩa cách mạng cả về nhận thức, quan điểm và thể chế chính sách về bộ máy và cán bộ. Sau khi miền Bắc hoàn toàn giải phóng (1954) Nhà nước bắt tay vào khôi phục và xây dựng nền kinh tế miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Do điều kiện lịch sử lúc đó, Việt Nam đã sao chép gần như nguyên vẹn mô hình phát triển kinh tế xã hội và cơ chế quản lý kinh tế của các nước XHCN, đặc biệt là của Liên Xô (cũ). Vấn đề chủ yếu của cơ chế quản lý kinh tế giai đoạn này là: kế hoạch hoá được coi là cơ chế quản lý với kế hoạch là công cụ quản lý số một, có tính chất pháp lệnh bắt buộc trực tiếp hoặc gián tiếp đối với tất cả các ngành, các cấp, các tổ chức xã hội, các đơn v ị kinh tế, luật pháp về kinh tế và các công cụ quản lý khác đều xếp sau công cụ kế hoạch. Nhà nước bị biến thành "ông chủ của một doanh nghiệp lớn", thông qua hệ thống chỉ tiêu kế hoạch chi tiết, Nhà nước trực tiếp quyết định tất cả các vấn đề liên quan đến đời sống kinh tế, xã hội của đất nước. Trong giai đoạn này, cơ chế kinh tế của Nhà nước ta có những đặc trưng cơ bản như: cơ chế kinh tế được thiết kế dựa trên cơ sở của chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Nhà nước tập trung cải tạo XHCN đối với mọi thành phần kinh tế, nhưng trên thực tế thì Nhà nước chỉ thừa nhận một thành phần kinh tế XHCN với hai loại hình sở hữu: toàn dân và tập thể, các thành phần kinh tế khác bị hạn chế tới mức tối đa, thậm chí còn bị triệt tiêu, kinh tế tư nhân không được phép tồn tại và hoạt động; Nhà nước thực hiện quản lý kinh tế thông qua hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh chi tiết với chế độ cấp phát và giao nộp theo quan hệ hiện vật là chủ yếu. Nhà nước can thiệp quá sâu vào các hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, các hợp tác xã, quyết định tất cả mọi vấn đề liên quan đến sản xuất kinh doanh nhưng lại không chịu trách nhiệm vật chất gì với các quyết định của mình; Tiền tệ, một trong những công cụ năng động nhất của quản lý kinh tế, không được coi trọng và sử dụng đúng mức, các chức năng vốn có của đồng tiền bị hạn chế tối đa, giá trị của đất đai không được thừa nhận, sức lao động và các tư liệu sản xuất cơ bản không được coi là hàng hoá nên không được mua bán; Chế độ bao cấp được thực hiện dưới các hình thức: bao cấp qua giá, bao cấp qua tiền lương hiện vật (chế độ tem phiếu) và bao cấp qua cấp phát vốn của ngân sách, mà không ràng buộc vật chất đối với người được cấp phát vốn. Tóm lại, trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan hệ hàng hoá không được thừa nhận đầy đủ, các công cụ như lãi suất, giá cả, thuế, tiền công và tiền lương không được sử dụng để điều chỉnh các cân đối vĩ mô. Nhà nước tập trung mọi nguồn thu vào ngân sách trung ương vì vậy cũng chi mọi khoản cần thiết liên quan đến hoạt động của các doanh nghiệp và đời sống của người lao động theo lối bình quân. Bộ máy quản lý rất cồng kềnh, có nhiều cấp trung gian và kém năng động, từ đó sinh ra một đội ngũ cán bộ kém năng lực quản lý, không thạo nghiệp vụ kinh doanh, phong cách quan liêu cửa quyền. Như vậy cơ chế kế hoạch hoá tập trung đã tích góp những xu hướng tiêu cực, làm nảy sinh sự trì trệ, hình thành cơ chế kìm hãm sự phát triển kinh tế xã hội, và kết quả là nền kinh tế Việt Nam trong thời gian này bị rơi vào khủng hoảng: sản xuất đình trệ, hàng hoá khan hiếm, giá cả leo thang dẫn tới lạm phát, đời sống nhân dân rất khó khăn. Chính vì thế vấn đề đổi mới sâu sắc cơ chế đó là một yêu cầu bức bách được đặt ra. b. Cơ chế thị trường và những ưu, khuyết điểm của nó. Phương hướng cơ bản của sự đổi mới cơ chế quản lý kinh tế ở nước ta đã được đại hội VI của Đảng xác định và tiếp tục được Đại hội VII của Đảng khẳng định "tiếp tục xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, hình thành đồng bộ và vận hành có hiệu quả cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước". Như vậy cơ chế kinh tế đang hình thành ở nước ta là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vậy cơ chế thị trường là gì? Mọi hệ thống kinh tế đều được tổ chức bằng cách này hay cách khác để huy động tối đa các nguồn lực cuả xã hội và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đó nhằm sản xuất ra hàng hoá và dịch vụ để thoả mãn nhu cầu xã hội. Việc sản xuất ra những hàng hoá gì, việc sản xuất được tiến hành theo phương pháp nào là tốt nhất, việc phân phối hàng hoá được sản xuất ra sao cho đáp ứng tốt nhu cầu của xã hội, đó là vấn đề cơ bản của tổ chức kinh tế xã hội. Lực lượng nào quyết định những vấn đề cơ bản đó? Trong một nền kinh tế, mà người ta gọi là kinh tế chỉ huy những vấn đề cơ bản đó do các cơ quan của Nhà nước quyết định. Còn một nền kinh tế mà trong đó những vấn đề cơ bản của nó do thị trường quyết định được xem là nền kinh tế thị trường. Trong nền kinh tế hàng hoá có một loạt những quy luật kinh tế vốn có của nó hoạt động như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh, quy luật lưu thông tiền tệ.... và lợi nhuận là động lực cơ bản của sự vận động của nó. Các quy luật đó đều biểu hiện sự tác động của mình thông qua thị trường, thông qua sự vận động của giá cả thị trường. Nhờ sự vận động của hệ thống giá cả thị trường mà diễn ra sự thích ứng tự phát khối lượng và cơ cấu của sản xuất với khối lượng và cơ cấu nhu cầu của xã hội. Như vậy, có thể hiểu cơ chế thị trường là cơ chế tự điều tiết nền kinh tế hàng hoá do sự tác động của các quy luật kinh tế vốn có của nó, cơ chế đó giải quyết ba vấn đề cơ bản của tổ chức kinh tế là: cái gì? Như thế nào? và cho ai? Cơ chế thị trường bao gồm các nhân tố cơ bản là cung, cầu và giá cả thị trường. b1. Ưu điểm của cơ chế thị trường. Thực tiễn gồm 15 năm qua ở nước ta cũng như kinh nghiệm nhiều nước đã cho thấy quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, đồng thời gia nhập thị trường thế giới, là quá trình đổi mới tất yếu và tiến bộ, mang tính cách mạng sâu sắc và chính vì vậy cũng là quá trình rất khó khăn, phức tạp. Mọi quan niệm giản đơn, nóng vội không tránh khỏi dẫn tới sai lầm, gây rối loạn kéo dài, thậm chí đổ vỡ. Quá trình tìm tòi, đổi mới ở nước ta lại diễn ra trong tình hình khung hoảng kinh tế xã hội, do đó càng có khả năng làm đâu đúng đó, thong dong suôn sẻ. Sự nghiệp đổi mới sâu sắc có tính cách mạng khó tránh khỏi những sai sót. Nhưng chúng ta giám nhìn thẳng vào sự thật, không ảo tưởng "miễn dịch" cũng không hốt hoảng khi xảy ra khủng hoảng. Điều đáng chú ý là năm 1989, khi ta thẳng thắn thừa nhận có khủng hoảng kinh tế xã hội, thì cũng ngay trong năm đó, chúng ta đã đề ra được giải pháp khắc phục đúng đắn, làm cho khủng hoảng dịu hẳn đi và từ đó đến nay đã đạt được những bước tiến đáng kể. Thành tựu to lớn có ý nghĩa hàng đầu là đã khắc phục được một bước rất quan trọng tình trạng khủng hoảng kinh tế xã hội, Cuộc khủng hoảng thực tế đã nảy sinh từ cuối những năm 70, kéo dài mười mấy năm, gay gắt nhất là những năm 1986-1988 và ở thời điểm năm 1991 lại thêm một lần thử thách hiểm nghèo nhưng với sự quyết tâm kiên trì đường lối đổi mới, nền kinh tế nước ta không những đứng vững mà còn đạt được những thành tựu nổi bật, khắc phục được nhiều mặt đình đốn, suy thoái, đạt tốc độ tăng trưởng khá cao và liên tục trong nhiều năm. Cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN đã và đang trở thành cơ chế vận hành của nền kinh tế. Nhà nước có tiến bộ và tích luỹ thêm kinh nghiệm trong quản lý, điều hành vĩ mô nền kinh tế quốc dân. Việc giải quyết các vấn đề xã hội và thực hiện chính sách xã hội được quan tâm hơn. Đời sống nhân dân ở nhiều vùng được cải thiện. Là nền kinh tế hàng hoá phát triển ở mức độ cao, kinh tế thị trường có ưu thế hơn hẳn so với sản xuất tự nhiên tự cấp, tự túc bở vì: - Kinh tế thị trường thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, nâng cao năng suất lao động xã hội. Sự vận hành của cơ chế thị trường buộc những người sản xuất cạnh tranh với nhau để tìm lợi nhuận siêu ngạch. Trong điều kiện bình thường của cạnh tranh, con đường duy nhất để đạt lợi nhuận siêu ngạch là giảm giá trị cá biệt của hàng hoá bằng việc sử dụng chuyên môn hoá, hợp tác hoá và áp dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật. Quá trình đó làm cho năng suất lao động xã hội dần dần được nâng lên. Trong nền kinh tế hàng hoá, người sản xuất luôn phải quan tâm đến tiêu thụ hàng, do đó họ phải tính toán đến nhu cầu, sở thích của người tiêu dùng. Vì vậy dù xuất phát điểm của họ là lợi ích cá nhân, nhưng do hàng hoá của họ được thừa nhận trên thị trường nên bản thân hoạt động của họ đáp ứng được nhu cầu xã hội và góp phần thúc đẩy tiến bộ xã hội. Do đó có thể nói kinh tế thị trường đã thúc đẩy nhanh hơn sự phát triển của lực lượng sản xuất và tiến bộ xã hội. - Kinh tế thị trường đẩy mạnh quá trình xã hội hóa lực lượng sản xuất. Sản xuất hàng hoá lôi cuốn những người sản xuất riêng lẻ độc lập vào một hệ thống phân công lao động xã hội, hình thành mối liên hệ ràng buộc lẫn nhau, phụ thuộc vào thông qua mối liên hệ thị trường. Các mối liên hệ này dựa trên cơ sở phân công lao động xã hội và là kết quả của quá trình phát triển đó. Sự phát triển quá trình phân công lao động thúc đẩy xã hội hóa nền sản xuất xã hội, mà xã hội hoá nền sản xuất xã hội. Chính là điều kiện để nâng cao năng suất lao động, đồng thời là cơ sở để hình thành mối quan hệ sản xuất dựa trên quyền bình đẳng của mọi thành viên trong xã hội - Kinh tế thị trường đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung sản xuất. Tích tụ và tập trung sản xuất là hai con đường mở rộng quy mô sản xuất. Hiệu quả sản xuất - kinh doanh của các đơn vị kinh tế làm ăn giỏi, cho phép tích tụ, mở rộng quy mô xí nghiệp. Trên thị trường, quá trình cạnh tranh cho phép tập trung sản xuất vào các đơn vị kinh tế thực sự làm ăn có hiệu quả "đứng được" trên thị trường, loại bỏ những đơn vị làm ăn kém hiệu quả, do đó cho phép sử dụng có hiệu quả hơn tư liệu sản xuất, lao động của toàn xã hội. Cuộc chạy đua kinh tế là động lực thúc đẩy tích tụ và tập trung sản xuất. - Kinh tế thị trường kích thích quá trình nâng cao số lượng, chất lượng hàng hoá, dịch vụ và hiệu quả kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường, căn cứ vào nhu cầu thực tế của thị trường, người sản xuất dự báo nhu cầu và khả năng chấp nhận của thị trường để thúc đẩy sản xuất. Có thể nói nhu cầu càng cao, càng rộng thì sản xuất càng tăng. Vì vậy, số lượng và chất lượng hàng hoá ngày càng tăng lên, mẫu mã ngày càng đa dạng, đáp ứng được nhu cầu của muôn hình muôn vẻ của xã hội. Nhu cầu là điều kiện của xã hội và sản xuất thúc đẩy nhu cầu. - Kinh tế thị trường kích thích, nâng cao tính năng động và tự điều chỉnh của nền kinh tế. Thị trường là "phong vũ biểu" để đo thời tiết của nền kinh tế, nó chỉ rõ số lượng, cơ cấu, chất lượng, chủng loại sản phẩm trong nhu cầu tiêu dùng của xã hội, do đó các nhà sản xuất điều chỉnh kịp thời để bảo đảm cung cầu hợp lý hơn. Với cơ chế vận hành vốn là sự thể hiện tổng hợp các quy luật hoạt động khách quan trên thị trường kinh tế thị trường có khả năng thích ứng nhanh với những điều kiện thay đổi của sản xuất và trao đổi. b2. Những khuyết tật của nền kinh tế thị trường. Bên cạnh những ưu thế, nền kinh tế thị trường còn bộc lộ những khuyết tật sau: - Tính tự phát: Do cạnh tranh, chạy theo lợi nhuận, người sản xuất có thể đổ xô vào các ngành sản xuất có lợi nhuận cao nên sản xuất quá mức cần thiết hoặc do không dự kiến hết nhu cầu thị trường, nên sản xuất không đủ đáp ứng nhu cầu. Thị trường điều tiết các dòng hàng, những người buôn bán không thể tính hết được cầu của thị trường nên sẽ xảy ra tình trạng có lúc hàng hoá được tập trung vào một điểm trong một thời gian nhất định quá mức cầu thanh toán... cung lớn hơn cầu. Khi đó thị trường lại phải tự điều chỉnh. Tính tự phát cố hữu của thị trường gây ra cho xã hội những lãng phí không nhỏ. Tuy nhiên cần thấy rằng sự điều chỉnh tuy mang tính tự phát nhưng lại rất linh hoạt. - Chỉ chú ý đến nhu cầu có khả năng thanh toán và phân hoá thu nhập trong xã hội. Với mục đích bán được hàng, người sản xuất chỉ chú ý đến nhu cầu có khả năng thanh toán. Trong khi đó toàn xã hội còn có những nhu cầu khác, mà nếu đáp ứng nó có khi không có lãi, do đó các mặt hàng này bị mất nguồn cung. Do tác động của cạnh tranh, có người giàu lên và có người bị phá sản, thu nhập của các tầng lớp dân cư cũng không đều. - Cơ cấu kinh tế được hình thành một cách tự phát. Do tác động của cạnh tranh, các đơn vị kinh tế sẽ tập trung vào các ngành có lợi nhuận cao, để thu hồi vốn, còn các ngành lãi ít hoặc có cơ sở hạ tầng đòi hỏi nhiều vốn và thu hồi vốn lâu sẽ không được quan tâm. Quá trình tự phát này kéo dài sẽ dẫn đến mất cân đổi về cơ cấu ngành. - Gây mất cân bằng sinh thái. Lợi nhuận vừa là mục tiêu, vừa là động lực trong kinh doanh. Trong nền kinh tế thị trường, các nhà doanh nghiệp luôn luôn săn lùng lợi nhuận, tìm mọi cách nhằm đạt lợi nhuận tối đa chạy theo lợi nhuận kinh tế đơn thuần, trước mắt, cục bộ... dẫn đến khai thác tự nhiên bừa bãi phá huỷ môi trường... làm phương hại đến lợi ích chung, lợi ích lâu dài, gây nhiều hậu quả xấu về mặt xã hội. - Phát sinh các tệ nạn xã hội. Sự tác động cảu cơ chế thị trường đưa đến sự phân hoá giàu nghèo, tác động xấu đến đạo đức và tình người, do đó làm nảy sinh nhiều tệ nạn xã hội như tham nhũng, buôn lậu, làm hàng giả... c. Vai trò kinh tế của Nhà nước đối với sự vận động và phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay. Những khuyến tật vốn có của kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay đã được sách, báo chỉ ra từ lâu và đã qua nhiều thử nghiệm để khắc phục. Biện pháp cơ bản nhất để khắc phục các khuyết tật này là Nhà nước can thiệp, điều tiết, dùng các công cụ kinh tế và hành chính để điều chỉnh sự vận động của thị trường. Một là: Nhà nước cần điều tiết nền sản xuất, điều tiết hoạt động của các thành phần kinh tế bằng kế hoạch. Với các kế hoạch có nội dung phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của nước ta hiện nay, Nhà nước có khả năng điều chỉnh hoạt động của các thành phần kinh tế, các cấp,các ngành một cách đồng bộ, tránh chồng chéo, rối loạn, mất định hướng. Hai là: vai trò của Nhà nước trong quản lý, thanh tra, kiểm tra, kiểm soát hoạt động của các thành phần kinh tế theo định hướng XHCN. Nhà nước kiểm tra, kiểm soát các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật và theo cá chính sách kinh tế cụ thể. Kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có xu hướng tự do, tự phát tạo ra những yếu tố tư bản chủ nghĩa, tạo ra những yếu tố trái với qui định của luật pháp. Những hiện tượng làm hàng giả, buôn lậu, lừa đảo, trốn thuế... diễn ra làm rối loạn và suy yếu sự phát triển theo định hướng XHCN. Nhà nước phải kiểm tra, kiểm soát, điều chỉnh, quản lý các thành phần kinh tế hoạt động thông qua pháp luật, buộc các chủ thể kinh tế phải thực hiện tuân thủ theo pháp luật. Nếu Nhà nước lơi lỏng, không đủ mạnh để cho các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh và tập thể lấn át thì sẽ không giữ được vai trò định hướng XHCN. Vì vậy vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước thông qua" công cụ quản lý" để định hướng, điều chỉnh, điều tiết, kiểm tra hoạt động của các thành phần kinh tế là vấn đề có ý nghĩa quyết định định hướng XHCN cho sự sản phẩm kinh tế ở nước ta hiện nay. Ba là: Định ra khuôn khổ pháp luật nhằm khắc phục hạn chế những khuyết tật của cơ chế thị trường. Nền kinh tế nước ta hiện nay đang tồn tại nhiều thành phần kinh tế khác nhau, trong đó có những thành phần kinh tế đối lập nhau bài trừ và triệt tiêu lẫn nhau. Mặt khác các cơ chế thị trường cũng làm nảy sinh nhiều tệ nạn sản xuất như: làm hàng giả, buôn lậu, tham nhũng, lừa đảo.. chính vì vậy Nhà nước cần định ra khuôn khổ pháp luật cũng như các chính sách kinh tế nhằm hướng các thành phần kinh tế theo định hướng chung- định hướng XHCN. Mặt khác đưa ra các qui định pháp luật nhằm hạn chế, triệt tiêu các tệ nạn xã hội do cơ chế thị trường gây ra. Bốn là: Giữ ổ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35006.doc
Tài liệu liên quan