Phần I - Lời mở đầu
Trong thời đại ngày nay, thời đại của khoa học công nghệ và thông tin, mở cửa và giao lưu hợp tác kinh tế quốc tế là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển kinh tế của các quốc gia. Trong cơ chế thị trường tự do cạnh tranh đã cho phép các quốc gia khai thác tối đa các nguồn lực trong nước, khai thác triệt để các lợi ích so sánh đầu tư, lựa chọn phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả nhất. Quá trình hội nhập kinh tế đã đẩy mạnh mức tăng trưởng kinh tế của các nước, đời sốn
38 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1313 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g của con người ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên, đi cùng với nó, các khuyết tật của cơ chế thị trường ngày càng thể hiện rõ và có chiều hướng gia tăng, các cuộc khủng hoảng kinh tế diễn ra trên quy mô lớn gây thiệt hại nặng nề cho nền kinh tế, khoảng cách chênh lệch giữa người giàu và người nghèo ngày càng một tăng,mất công bằng xã hội. Trước tình hình đó, các nước đều chọn mô hình phát triển kinh tế có sự quản lý, điều tiết của Nhà nước để ổn định mức tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội theo một hướng đã định trước.
ở nước ta từ đại hội VI của Đảng cộng sản Việt Nam đã chuyển nền kinh tế Việt Nam từ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cùng với quá trình chuyển đổi là cả quá trình chuyển đổi vai trò quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế. Từ thực tế tồn tại vai trò quản lý của Nhà nước còn nhiều yếu kém, chưa thích hợp, đặc biệt là qua cuộc khủng hoàn kinh tế Đông Nam á vừa qua, đòi hỏi chúng ta phải nghiên cứu để hoàn thiện vai trò lãnh đạo điều tiết kinh tế của Nhà nước, nâng cao hiệu quả sản xuất - kinh doanh, tăng trưởng kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội, sao cho vai trò quản lý của Nhà nước thích ứng với tình hình hiện nay, là nhân tố quan trọng tạo động lực thúc đẩy kinh tế phát triển.
Trong đề tài này chúng ta nghiên cứu một số vấn đề cơ bản về vai trò kinh tế của Nhà nước trong cơ chế thị trường hiện nay ở nước ta và các biện pháp để nâng cao vai trò đó. Đây là vấn đề mang tính cấp bách và trọng điểm hiện nay ở nước ta trong tình hình diễn biến kinh tế thế giới diễn ra vô cùng phức tạp. Đề tài được trình bày từ những vấn đề lý luận chung về vai trò kinh tế của Nhà nước và đi đến thực tiễn hiện nay ở Việt Nam, các giải pháp cần thực hiện trong quá trình đổi mới. Phần kết luận, đề này tổng kết những vấn đề đã trình bày và trình bày một số ý kiến cá nhân.
Phần II - Phần nội dung
I- Lý luận về vai trò kinh tế của Nhà nước
1.Vai trò kinh tế của Nhà nước nói chung trong lịch sử.
a. Sự ra đời của Nhà nước từ nguyên nhân kinh tế.
Lịch sử phát triển xã hội loài người đến nay đã trải qua bốn hình thái kinh tế - xã hội, đó là: chế độ chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và cao nhất là hình thái kinh tế - xã hội xã hội chủ nghĩa. Bắt đầu từ nền sản xuất tự cung, tự cấp, đời sống của con người ngày một cải thiện, của cải dư thừa đã làm xuất hiện các quan hệ sở hữu. Cùng với thời gian, quan hệ sở hữu ngày càng phát triển, nó phân tách xã hội loài người thành hai lớp là giai cấp tư sản và vô sản. Các hình thức sở hữu cũng ngày càng đa dạng và phong phú, quan hệ sở hữu đã gắn các tập đoàn có cùng lợi ích kinh tế với nhau thành các tầng lớp, giai cấp trong xã hội. Sự phát triển của nền sản xuất xã hội và lực lượng sản xuất ngày càng phân rẽ quyền lực của các giai cấp, tầng lớp trong xã hội. Trong xã hội có một giai cấp tiên tiến nhất, nắm trong tay quyền lực về kinh tế đã đứng lên thành lập Nhà nước của giai cấp mình nhằm bảo vệ lợi ích tối đa của giai cấp mình đồng thời dung hòa các lợi ích của các giai cấp, tầng lớp khác, lãnh đạo xã hội phát triển theo mục tiêu, quyền lực của đại đa số các tầng lớp giai cấp trong xã hội. ứng với giai đoạn lịch sử có một giai cấp tiên tiến và thành lập Nhà nước của giai cấp ấy. Trải qua một thời gian dài đã có các hình thức Nhà nước sau: Nhà nước chủ nô, Nhà nước phong kiến, Nhà nước tư bản chủ nghĩa, Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Như vậy Nhà nước ra đời là từ nguyên nhân kinh tế, từ lợi ích kinh tế của các giai cấp, tầng lớp trong xã hội.
Cũng từ đặc điểm trên cho thấy, Nhà nước bao giờp cũng bảo vệ lợi ích của một giai cấp nhất định. Nhà nước được do một giai cấp cơ bản tiên tiến thành lập ra để phục vụ quyền lợi kinh tế của mình một cách tối đa nhất. Giai cấp lãnh đạo thông qua Nhà nước của giai cấp mình để điều hành, quản lý xã hội, hướng các lợi ích kinh tế về phía giai cấp mình, bảo đảm lợi ích kinh tế của giai cấp mình thông qua các chính sách, các quy định pháp luật buộc xã hội phải tuân theo.
Khi còn giai cấp, còn sự phân chia quyền lợi thì còn có Nhà nước, chỉ khi nào trong xã hội mọi người đều bình đẳng về quyền lợi kinh tế, xã hội không còn giai cấp thì khi đó Nhà nước mới mất đi. Nhà nước hình thành từ kinh tế và tồn tại cùng với nền kinh tế.
b. Trong mỗi giai đoạn lịch sử, vai trò kinh tế của Nhà nước có các mức độ và hình thức biểu hiện khác nhau.
Trước hết xuất phát từ bản chất của Nhà nước: Nhà nước ra đời từ nguyên nhân kinh tế.Sự phát triển của nền sản xuất xã hội đã tạo tiền đề cho sự phát triển chung của toàn xã hội về mọi mặt, hình thành nên các quan hệ sở hữu đa dạng hơn về các tư liệu sản xuất, nó phân hoá xã hội loài người thành các tập đoàn người có lợi ích kinh tế khác nhau, thành các giai cấp có địa vị kinh tế và xã hội khác nhau. Và trong xã hội đó có một giai cấp tiên tiến nhất và là giai cấp chủ yếu lập nên Nhà nước của giai cấp mình để lãnh đạo xã hội, đồng thời bảo vệ lợi ích của giai cấp mình dung hoà đến mức tối đa lợi ích của các giai cấp khác trong xã hội. Trong mỗi giai đoạn lịch sử, nền kinh tế xã hội có các mức phát triển khác nhau, lợi ích và địa vị kinh tế - xã hội của các giai cấp cũng khác nhau, do đó vai trò điều tiết về kinh tế của Nhà nước cũng khác nhau. Song, sự phát triển của một nền sản xuất xã hội gắn liền với sự phát triển của lực lượng sản xuất và trình độ sản xuất, các nhận thức và đánh giá về kinh tế của con người ngày càng cao do đó nó đòi hỏi các cơ chế quản lý và các hình thức can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế phải có sự thay đổi cho phù hợp.
Nhà nước là công cụ của giai cấp thống trị được sử dụng để duy trì trật tự xã hội sao cho phù hợp với lợi ích của nó. Chức năng ban đầu của Nhà nước là quản lý hành chính bao gồm các lĩnh vực chủ yếu sau:
- Quản lý lãnh thổ, thiết lập quan hệ bang giao với các nước (chức năng đối ngoại).
- Quản lý trật tự xã hội, sắp xếp mối quan hệ giữa các cá nhân, giai cấp, các tầng lớp,các cộng đồng dân tộc... sao cho phù hợp với ý chí giai cấp đã sản sinh ra nó (chức năng đối nội).
Để thực hiện hai chức năng này các Nhà nước đều phải có những cơ sở kinh tế nhất định. Trong lịch sử phát triển các Nhà nước đã có các phương pháp khác nhau để nắm giữ kinh tế nhằm phục vụ chức năng quản lý của mình. Lịch sử xã hội loài người đã chứng tỏ rằng trong sự phát triển của mình, do yêu cầu quản lý xã hội, chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước luôn gắn liền với chức năng quản lý hành chính. Trong các Nhà nước đương đại không có Nhà nước nào đứng trên kinh tế hay ngoài kinh tế. Lịch sử cũng đã chứng minh chức năng kinh tế của Nhà nước được phôi thai ngay từ buổi ban đầu khi Nhà nước vừa mới chỉ xuất hiện,sau đó mới được nhận thức và ứng dụng vào thực tiễn quản lý kinh tế xã hội.
Trong thời đại chiếm hữu nô lệ: Nhà nước chủ nô - kiểu Nhà nước đầu tiên trong lịch sử đã trực tiếp dùng quyền lực của mình can thiệp vào việc phân phối của cải được sản xuất ra. Trong thời đại của Nhà nước chủ nô, của cải được sản xuất ra bởi những người nô lệ dưới sự chỉ huy điều khiển quá trình sản xuất của giai cấp chủ nô, nhưng khối lượng của cải ấy không được "phân phối" mà bị giai cấp chủ nô chiếm đoạt bằng bạo lực, các thủ đoạn bạo lực phi kinh tế ở đây được sử dụng làm công cụ để chiếm đoạt, cưỡng bấc kinh tế.
Trong thời đại phong kiến, Nhà nước phong kiến không chỉ can thiệp vào việc phân phối của cải mà còn đứng ra tập hợp lực lượng nhân dân xây dựng kết cấu hạ tầng cho sản xuất nông nghiệp, khuyến khích quan lại di dân đi mở mang các vùng đất mới, đề ra các chính sách ruộng đất thích hợp với từng thời kỳ. Nhìn chung các hoạt động diễn ra tự phát, tuy nhiên trong sự khác biệt với các Nhà nước phong kiến phương tây, chức năng quản lý kinh tế được các Nhà nước phong kiến phương đông nhận thức sớm hơn.
ở Việt Nam, tư tưởng Nhà nước can thiệp vào nền kinh tế cũng được hình thành rất sớm. Trên thực tế Nhà nước phong kiến đã can thiệp và đã thu được cả những thành công và cả không thành công, trong đó sự can thiệp sớm nhất xuất hiện vào triêu đại nhà Lý thế kỷ X trước công nguyên. Với chế độ phong cấp ruộng đất của nhà Lý đã dẫn đến sự hình thành các thái ấp và tất cả các thái ấp phải chịu sự kiểm soát của triều đình. Từ một số ít ruộng đất vĩnh viễn biến thành ruộng tư còn phần lớn ruộng đất phong cấp thuộc quyền sở hữu của Nhà nước phong kiến. Người được phong chỉ có quyền chiếm giữ và sử dụng. Đó là nguyên tắc phong cấp không triệt để nhằm bảo vệ chế độ sở hữu của Nhà nước về ruộng đất và duy trì quyền lực của chính quyền trung ương. Như vậy, ngoài các đặc điểm chung với các Nhà nước phong kiến phương tây, Nhà nước phong kiến Việt Nam ngay từ buổi đầu đã ý thức rất rõ về quyền sở hữu và quyền sử dụng ruộng đất nói riêng và của cải nói chung. Do đó một mặt trao quyền sử dụng cho quan lại, mặt khác áp dụng các biện pháp để củng cố quyền sở hữu và kiểm soát được hoạt động của quan lại, mặt khác áp dụng các biện pháp để củng cố quyền sở hữu và kiểm soát được hoạt động của quan lại, Nhà nước cũng liên tục đưa ra nhiều biện pháp để kiểm soát, duy trì và củng cố quyền lực của Nhà nước trung ương.
Trên thế giới vào thế kỷ thứ 15, chủ nghĩa tư bản được hình thành, quá trình tích luỹ nguyên thuỷ tư bản được thực hiện - nền kinh tế thị trường từng bước được hình thành. Để giúp cho kinh tế phát triển nhanh, giai cấp tư sản cần có "bà đỡ". Nói cách khác là cần có sự hỗ trợ của Nhà nước, chính vì vậy mà vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước tư sản ngày càng được xác lập và nâng cao.Trước hết, Nhà nước tư sản đã thực hiện được một chính sách tiền tệ hết sức nghiêm ngặt, họ tìm mọi cách tích lũy tiền tệ, không cho tiền tệ chạy ra ngoài. Nhà nước của các nước tư bản trong giai đoạn này đã đề ra luật buộc các thương nhân nước ngoài không được mang tiền ra khỏi nước họ, chỉ được phép mang hàng mà thôi. Nhà nước còn qui định những nơi được phép buôn bán để tiện lợi cho việc kiểm tra, kiểm soát. Trong chính sách ngoại thương họ dùng hàng rào thuế quan bảo hộ, đánh thuế nhập khẩu cao và thuế xuất khẩu các hàng sản xuất ở trong nước thấp, chỉ xuất thành phẩm chứ không xuất nguyên liệu, cấm nhập các mặt hàng xa xỉ phẩm. Mặt khác Nhà nước còn thực hiện việc hỗ trợ cho các thương nhân trong nước các phương tiện vật chất và tài chính khi họ tham gia buôn bán quốc tế. Đồng thời Nhà nước cũng qui định nghiêm ngặt tỷ giá hối đoái, cấm trả cho người nước ngoài cao hơn mức qui định của Nhà nước. Nhờ các chính sách đó, các nước tư bản đã tích luỹ được một lượng của cải và tiền tệ đáng kể. Vì vậy đầu thế kỷ 18 giai cấp tư sản tập trung phát triển mạnh lĩnh vực sản xuất. Nhờ áp dụng các kỹ thuật và công nghệ mới, nền sản xuất ở các nước tư bản phát triển rất nhanh- các nhà tư bản đua nhau phát triển các ngành nghề mới và mở rộng qui mô sản xuất. Tự do cạnh tranh đã trở thành đòi hỏi cấp thiết trong đời sống kinh tế của các nước này.
Như vậy, qua mỗi thời kỳ, ứng với một trình độ phát triển của sản xuất, mức độ can thiệp của Nhà nước vào kinh tế là khác nhau và bằng các phương thức khác nhau. Ngày nay, Nhà nước tham gia vào quản lý kinh tế như một tất yếu để tăng hoạt động sản xuất, kinh doanh, giải quyết các vấn đề xã hội, nhờ đó mà có điều kiện đẩy lùi khủng hoảng và tình trạng thất nghiệp.
2. Tính tất yếu khách quan của quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế ở nước ta.
Chuyển đổi nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước là bước ngoặt quan trọng làm thay đổi đời sống kinh tế, xã hội đất nước. Sự thành công hay không của quá trình chuyển đổi quyết định sự thắng lợi hay không của sự nghiệp đổi mới. Quá trình đổi mới kinh tế những năm qua cho thấy rằng việc chuyển nền kinh tế nước ta vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước là phù hợp với xu hướng phát triển tất yếu khách quan của nền kinh tế, phù hợp với xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế. Chúng ta có thể thấy điều đó như một tất yếu khách quan của đất nước.
a. Quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế ở nước:
* Thực trạng nền kinh tế nước ta tại xuất phát điểm xây dựng XHCN.
Kháng chiến thắng lợi, dựa vào kinh nghiệm của các nước XHCN, đất nước ta bắt đầu xây dựng mô hình kế hoạch hoá tập trung dựa trên hình thức sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất. Tuy nhiên, sau một thời gian dập khuoôn một mô hình kinh tế chưa thích hợp và kém hiệu quả, hiện trạng nền kinh tế xã hội đã thay đổi theo chiều hướng hết sức xấu. Trong một nền kinh tế cùng một lúc tồn tại cả 3 loại hình kinh tế tự cấp tự túc, nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung và kinh tế hàng hoá. Do các quan hệ kinh tế đã thay đổi rất nhiều, việc áp dụng cơ chế quản lý kinh tế cũ vào điều kiện nền kinh tế đã thay đổi làm xuất hiện rất nhiều hiện tượng tiêu cực. Do chủ quan cứng nhắc không cân nhắc tới sự phù hợp của cơ chế quản lý kinh tế mà chúng ta đã không quản lý các nguồn tài nguyên sản xuất của đất nước, trái lại đã dẫn đến việc sử dụng lãng phí một cách nghiêm trọng các nguồn tài nguyên đó. Tài nguyên thiên nhiên bị phá hoại, môi trường bị ô nhiễm, sản xuất kém hiệu quả, Nhà nước thực hiện bao cấp tràn lan. Những sự việc đó đã gây ra nhiều hậu quả xấu cho nền kinh tế, sự tăng trưởng kinh tế gặp nihều khó khăn, sản phẩm trở nên khan hiếm, ngân sách bị thâm hụt nặng nề, thu nhập từ nền kinh tế không đủ tiêu dùng, tích luỹ hàng năm hầu như khôngcó. Vốn đầu tư chủ yếu dựa vào vay và viện trợ của nước ngoài. Đến cuối những năm 80, giá cả leo thang, khủng hoảng kinh tế đi liền với làm phát cao làm cho đời sống nhân dân bị giảm sút, thậm chí một số địa phương nạn đói đang rình rập. Có thể nó thực trạng nền kinh tế nước ta trước khi chuyển sang kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hoá kém phát triển, còn mang nặng tính chất tự cấp, tự túc và chịu ảnh hưởng nặng nền của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Thực trạng đó được biểu hiện ở các mặt sau:
Kinh tế hàng hoá còn kém phát triển, nền kinh tế còn mang nặng tính tự cấp tự túc. ở đây thể hiện ra đó là trình độ cơ sở vật chất kỹ thuật và công nghệ sản xuất còn thấp kém, hệ thống kết cấu hạ tầng, dịch vụ sản xuất và dịch vụ xã hội chưa đủ để phát triển kinh tế thị trường ở trong nước và chưa có khả năng để mở rộng giao lưu với thị trường quốc tế. Cơ cấu kinh tế còn mất cân đối và kém hiệu quả, nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ cho nên cơ cấu kinh tế của nước ta còn mang nặng đặc trưng của một cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Hiện tượng độc canh cây lúa vẫn còn tồn tại. Ngành nghề chưa phát triển. Hơn nữa ở nước ta chưa có thị trường theo đúng nghĩa của nó: thị trường ở nước ta còn là thị trường ở trình độ thấp, dung lượng thị trường còn thiếu và có phần rối loạn. Thực trạng đó của thị trường nước ta là hậu quả của nhiều nguyên nhân khác nhau. Về mặt khách quan, đó là do trình độ phát triển của phân công lao động xã hội còn thấp, nền kinh tế còn mang nặng tính chất tự cấp tự túc. Về mặt chủ quan là do những nhận thức chưa đúng đắn về nền kinh tế XHCN, do sự phân biệt duy ý chí giữa thị trường có tổ chức và thị trường tự do. Mặc khác, do quản lý theo chiều dọc- theo chức năng kinh doanh của từng ngành một cách máy móc, cho nên đã dẫn tới hiện tượng cửa quyền, cắt đứt mối liên hệ tự nhiên giữa các ngành dẫn tới thị trường bị chia cắt và manh mún.
Năng suất lao động xã hội và thu nhập quốc dân tính theo đầu người còn thấp. Điều này nó phản ánh tổng hợp thực trạng kinh tế hàng hoá còn kém phát triển. Do trình độ cơ sở vật chất kỹ thuật và công nghệ còn thấp, kết cấu hạ tầng dịch vụ sản xuất và dịch vụ xã hội còn kém, cơ cấu kinh tế còn mất cân đối, thị trường trong nước chưa phát triển.... cho nên năng suất lao động xã hội và thu nhập bình quân đầu người ở nước ta còn rất thấp.
* Đặc trưng của cơ chế kinh tế cũ (cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung).
Cơ chế kế hoạch hoá tập trung có những đặc trưng chủ yếu sau:
Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính là chủ yếu, điều đó thể hiện ở sự chi tiết hoá các nhiệm vụ do trung ương giao bằng một hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh từ một trung tâm. Cơ chế quản lý chủ yếu theo lệnh tập trung nhưng lại được điều hành bởi nhiều đầu mối của các ngành chức năng do đó nó mang tính chất phân tán.
Các cơ quan hành chính - kinh tế can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở, nhưng lại không chịu trách nhiệm gì về mặt vật chất đối với các quyết định của mình. ở đây quan hệ kinh tế là quan hệ giao nộp, thu mua cấp phát. Sản xuất và kinh doanh được tiến hành gần như ở khu vực hành chính sự nghiệp hay hậu cần quân đội. Hậu quả của điều này là hết sức nặng nền: nó làm mất sức mạnh của tổ chức thống nhất theo kế hoạch trước hết đối với Nhà nước, sự chỉ huy tập trung theo nhiều mối và can thiệp quá sâu vào các doanh nghiệp đã gây ra gò bó, vướng mắc, cơ chế tập trung trở thành bất lực và buông lỏng cho thực tế tự phát, làm suy yếu, triệt tiêu động lực kinh tế, thậm chí gây tác động như khuyến khích sự ỷ lại, dựa dẫm, lười biếng gây thiệt hại đến tài sản quốc gia, cản trở sản xuất phát triển. Trong điều kiện tồn tại cơ chế giao nộp và cấp phát, dù có nói đến bao nhiêu về qui luật giá trị thì đó cũng chỉ là hình thức.
Bỏ qua quan hệ hàng hoá - tiền tệ và hiệu quả kinh tế, quản lý nền kinh tế và kế hoạch hoá bằng chế độ cấp phát và giao nộp sản phẩm, quan hệ hiện vật là chủ yếu, do đó hạch toán kinh tế chỉ là hình thức. Chế độ bao cấp được thực hiện dưới các hình thức. Bao cấp qua giá, bao cấp qua tiền lương hiện vật và bao cấp qua cấp phát vốn của ngân sách mà không ràng buộc vật chất đối với người được cấp phát vốn.
Từ những đặc điểm trên đã dẫn đến bộ máy quản lý rất cồng kềnh, có nhiều cấp trung gian và kém năng động, từ đó sinh ra một đội ngũ cán bộ kém năng lực quản lý, không thạo nghiệp vụ kinh doanh, nhưng phong cách thì quan liêu, cửa quyền.
* Những hạn chế của cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung.
Việc quản lý nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung đã giúp chúng ta giải quyết được một số vấn đề kinh tế- xã hội quan trọng, nhất là việc huy động nhân tài, vật lực phục vụ cho cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam thống nhất nước nhà. Nhưng khi đất nước đã được hoà bình, thống nhất và bước vào thời kỳ xây dựng, phát triển kinh tế thì cơ chế quản lý này đã bộc lộ nhược điểm cơ bản là nó thiếu động lực cho sự phát triển, điều này thể hiện ở những mặt hạn chế sau đây:
- Một là, nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch tập trung không gắn chặt người lao động với tư liệu sản xuất và sản phẩm họ làm ra. Việc sản xuất tốt hay xấu không liên quan gì đến quyền lợi của họ, bởi thế họ chẳng quan tâm đến sản xuất. Sản xuất xã hội trở nên thiếu động lực phát triển.
- Hai là, vì sản xuất và tiêu thụ sản phẩm theo mệnh lệnh của cấp trên nên người lao động và các cơ sở sản xuất kinh doanh không cần thiết phải nghiên cứu, ứng dụng các thành tựu mới của khoa học kỹ thuật và công nghệ. Bởi vậy cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế vỗn dĩ đã lạc hậu lại càng lạc hậu hơn.
- Ba là, cũng vì làm theo kế hoạch và mệnh lệnh của cấp trên, nên người lao động và các cơ sở sản xuất hoàn toàn thụ động, tính sáng tạo của họ ngày càng bị thui chột. Những hậu quả của cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung đã đẩy nền kinh tế nước ta lâm vào khủng hoảng hết sức trầm trọng suốt một thời gian dài từ cuối những năm 70 và gần hết thập kỷ 80 của thế kỷ này.
Chính vì vậy đại hội VII của Đảng đã khẳng định: "xoá bỏ triệt để cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp, hình thành cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và công cụ khác. Xây dựng và phát triển đồng bộ các thị trường hàng tiêu dùng, vật tư, dịch vụ, tiền vốn, sức lao động... thực hiện giao lưu kinh tế thoong suốt trong cả nước với thị trường thế giới". Điều đó hoàn toàn phù hợp với thực tế của nước ta, phù hợp với các qui luật kinh tế và xu thế của thời đại, với xu thế phát triển kinh tế của thế giới.
* Quá trình chuyển đổi nền kinh tế Việt Nam sang kinh tế thị trường theo định hướng XHCN.
Từ sự phân tích thực trạng của nền kinh tế nước ta trước khi chuyển sang kinh tế thị trường có thể rút ra kết luận: thực chất của quá trình chuyển nền kinh tế nước ta sang kinh tế thị trường theo định hướng XHCN là quá trình kết hợp giữa chuyển nền kinh tế còn mang nặng tính chất tự cấp tự túc sang nền kinh tế hàng hoá tiến tới nền kinh tế thị trường và quá trình chuyển cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Từ Đại hội VI của Đảng đã khẳng định việc chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường chính là quá trình đổi mới nền kinh tế với hai hình thức sở hữu toàn dân và tập thể sang nền kinh tế đan thành phần. Các thành phần kinh tế đều được bình đẳng trước pháp luật.
Lịch sử đã chứng minh rằng không thể chuyển nền sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn nếu thiếu "đòn bẩy" là kinh tế hàng hoá. Chính CácMác đã coi sự ppt của kinh tế hàng hoá là xuất phát điểm và là điều kiện quan trọng nhất không thể thiếu được đối với sự ra đời và phát triển của nền sản xuất lớn. Về thực chất, đó là việc phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần nhằm khơi dậy sự sống động của nền kinh tế, mở rộng giao lưu hàng hoá, thực hiện các quan hệ kinh tế bằng hình thức quan hệ hàng hoá tiền tệ trên thị trường. Việc đổi mới ở đây chính là việc tạo môi trường và điều kiện phát triển mạnh nền kinh tế hàng hoá, hình thành thị trường ngày càng hoàn chỉnh, giao lưu thông suốt trong cả nước và với nước ngoài, khắc phục xu hướng trợ cấp, tự túc, khép kín, nền kinh tế hàng hoá vận động theo cơ ché thị trường dưới tác động của các qui luật khách quan mà Nhà nước phải tôn trọng và vận dụng đúng đắn để đổi mới kế hoạch hoá và quản lý, điều tiết thị trường bằng nhiều công cụ và biện pháp, chủ yếu là biện pháp kinh tế. Nền kinh tế hàng hoá có cơ cấu nhiều thành phần với nhiều loại hình sở hữu, nhiều hình thức tổ chức kinh tế. Mọi công dân được tự do kinh doanh theo luật pháp, tự lựa chọn hình thức kinh tế và được pháp luật bảo vệ quyền sở hữu và thu nhập hợp pháp. Mọi đơn vị kinh tế không phân biệt quan hệ sở hữu và hình thức tổ chức đều bình đẳng trước pháp luật.
So với Liên Xô và các nước Đông Âu, quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở nước ta có nhiều đặc điểm khác biệt: những nước này đã có nền kinh tế phát triển, nền kinh tế đã được cơ khí hoá, không có tính tự nhiên tự cấp tự túc như nền kinh tế nước ta. Vì vậy, quá trình hình thành nền kinh tế thị trường ở nước ta trước hết là quá trình chuyển nền kinh tế kém phát triển mang nặng tính tự cấp tự túc sang kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Mặt khác, ở nước ta cũng đã tồn tại mô hình kinh tế chỉ huy với cơ chế kế hoạch hoá tập trung, cơ chế này nó gần như đối lập với cơ chế thị trường vì vậy quá trình chuyển nền kinh tế nước ta sang kinh tế thị trường còn là quá trình xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, hình thành đồng bộ cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Quá trình chuyển nền kinh tế nước ta sang cơ chế thị trường đồng thời cũng là quá trình thực hiện nền kinh tế mở, nhằm hoà nhập thị trường trong nước với thị trường thế giới. Kinh tế "mở" là đặc điểm và là xu thế của thời đại ngày nay mà bất kỳ một quốc gia nào cũng phải coi trọng. Trong điều kiện của nước ta, bài học về sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại trong cuộc đấu tranh giành độc lập tự do trước đây một lần nữa lại sống động trong công cuộc phát triển đất nước với bối cảnh và điều kiện mới.
Trong quan hệ kinh tế quốc tế chúng ta đã có nhiều đổi mới quan trọng. Chúng ta chuyến biến quan hệ kinh tế quốc tế từ đơn phương sang đa phương, quan hệ với tất cả các nước không phân biệt chế độ chính trị, theo nguyên tắc đối bên cùng có lợi và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.
Quá trình đổi mới đó đã thực sự khiến cho nền kinh tế Việt Nam có những thay đổi về chất. Việc áp dụng tối đa lợi ích so sánh, chính sách mở cửa trong nền kinh tế thị trường đã làm cho nền kinh tế quốc dân càng phát triển, đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao. Thực tế phát triển của nền kinh tế đã khẳng định con đường phát triển mà Đảng ta đã chọn là hoàn toàn đúng đắn.
b. Cơ chế thị trường và những ưu, khuyết tật của nó.
Qua việc phân tích trên ta thấy việc chuyển sang nền kinh tế thị trường ở nước ta là một tất yếu khách quan. Cơ chế thị trường không mang bản chất chế độ, mà chỉ có chế độ xã hội nào biết hay không biết tận dụng những lợi thế của kinh tế thị trường và sử dụng những lợi thế đó để phục vụ chế độ mìh. Thị trường được coi là một phương tiện quan trọng để xây dựng và phát triển kinh tế. Vậy cơ chế thị trường là gì mà nó như thế nào?
* Khái niệm cơ chế thị trường: Kinh tế thị trường là nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường. Đến lượt nó, cơ chế thị trường là tổng thể các nhân tố, các quan hệ cơ bản vận động dưới sự chi phối của các qui luật thị trường trong môi trường cạnh tranh, nhằm mục tiêu lợi nhuận. Nhân tố cơ bản của cơ chế thị trường là cung-cầu và giá cả thị trường.
* Đặc trưng của cơ chế thị trường:
Trước hết, thông qua cơ chế thị trường mà các vấn đề có liên quan đến việc phân bổ sử dụng các nguồn tài nguyên sản xuất khan hiếm như lao động, vốn, tài nguyên thiên nhiên về cơ bản được quyết định một cách khách quan thông qua sự hoạt động của các qui luật kinh tế đặc biệt là qui luật cung cầu. Thông qua qui luật cung - cầu mà hình thành nên giá cả thị trường, giá cả thị trường lên xuống xung quanh giá trị thị trường và nó là kết quả thoả thuận giữa người mua với người bán, nó tạo lên mức lợi nhuận trên thị trường mà từ đó có tác động chuyển dịch cơ cấu đầu tư sản xuất vào các lĩnh vực cho lợi nhuận cao. Mặt khác, trong cơ chế thị trường,tính tự chủ của các chủ thể kinh tế rất cao. Các chủ thể kinh tế tự bù đắp những chi phí và tự chịu trách nhiệm đối với kết quả sản xuất và kinh doanh của mình. Các chủ thể kinh tế được tự do liên kết, liên doanh,tự do tổ chức quá trình sản xuất theo luật định và kinh tế hàng hoá không bao dung hành vi bao cấp, do đó việc tác động của qui luật kinh tế làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng thu lợi nhuận cao là hoàn toàn khách quan, nó đồng nghĩa tính tự chủ năng động cảu các chủ thể kinh tế.
Thứ hai, trong cơ chế thị trường, tất cả các quan hệ kinh tế giữa các chủ thể kinh tế được tiền tệ hoá. Cơ chế thị trường tự do cạnh tranh với tính tự chủ cao của các chủ thể kinh tế đã khiến cho quá trình lưu thông hàng hoá diễn ra trôi chảy, các quan hệ kinh tế giữa các chủ thể kinh tế được tiền tệ hoá thông qua giá cả trên thị trường, mọi hoạt động kinh tế trong nền kinh tế đều được thực hiện thông qua tiền tệ và chính điều này làm cho các hoạt động kinh tế phát triển nhanh và dễ dàng hơn.
Thứ ba, cơ chế thị trường là động lực thúc đẩy sản xuất phát triển, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và lợi ích kinh tế được biểu hiện tập trung ở mức lợi nhuận. Việc mở rộng tự do cạnh tranh, nâng cao tính tự chủ của các chủ thể kinh tế đã khiến cho việc sản xuất và lưu thông hàng hoá trở nên dễ dàng hơn, nó hướng hoạt động sản xuất và lưu thông hàng hoá vào những mục tiêu có lai, tạo nên sự đa dạng và phong phú về số lượng và chủng loại của hàng hoá trên thị trường. Đồng thời, nó đòi hỏi các chủ thể kinh tế phải đầu tư sản xuất, nâng cao năng suất lao động để thu được mức lợi nhuận cao, đó là động lực của sự phát triển, là cơ sở để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Thứ tư, cơ chế thị trường tạo cho các chủ thể kinh tế tự do lựa chọn phương án sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng. Dựa trên các qui luật kinh tế và tính tự chủ, các nhà sản xuất, kinh doanh lựa chọn cho mình phương án sản xuất và kinh doanh phù hợp nhất để thu được lợi nhuận tối đa, và người tiêu dùng được tự do lựa chọn tiêu dùng vì các quan hệ kinh tế đã được tiền tệ hoá.
Thứ năm, thông qua sự hoạt động của các qui luật kinh tế, đặc biệt là sự linh hoạt của hệ thốn giá cả, nền kinh tế thị trường luôn duy trì được thế cân bằng giữa mức cung và cầu của tất cả các loại hàng hoá và dịch vụ, ít gây ra sự khan hiếm và thiếu thốn hàng hoá. Qua giá cả thị trường, hàng hoá sẽ di chuyển từ nơi có giá cao đến nơi có gí thấp, mở rộng qui mô sản xuất với các mặt hàng, dịch vụ còn thiếu thốn, từ đó tạo nên sự cân bằng của mức cung và cầu hàng hoá, dịch vụ.
Thứ sáu, cạnh tranh là một tất yếu của kinh tế thị trường. Nó tồn tại trên cơ sở những đơn vị sản xuất hàng hoá độc lập với nhau về lợi ích kinh tế. Theo yêu cầu của qui luật giá trị, tất cả các đơn vị sản xuất hàng hoá đều phải sản xuất và kinh doanh trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết. Trong điều kiện đó, muốn có nhiều lợi nhuận, các đơn vị sản xuất và kinh doanh phải đua nhau cải tiến kỹ thuật, áp dụng kỹ thuật mới vào sản xuất để nâng cao năng suất lao động cá biệt, giảm hao phí lao động cá biệt nhằm thu lợi nhuận siêu ngạch. Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh diễn ra một cách phổ biến trong cả lĩnh vực sản xuất và trong cả lĩnh vực lưu thông, hình thức và những biện pháp của cạnh tranh có thể rất phong phú nhưng động lực và mục đích cuối cùng cuả cạnh tranh chính là lợi nhuận. Như vậy cạnh tranh là động lực của sản xuất.
Thứ bảy, trong cơ chế thị trường, cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, mối quan hệ giữa mục tiêu tăng cường tự do cá nhân và mục tiêu và công bằng xã hội, giữa đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế và nâng cao chất lượng cuộc sống cũng có sự phát triển tương ứng.
Thứ tám, cơ chế thị trường đặt người tiêu dùng vào vị trí hàng đầu. Nhờ sự phát triển sức sản xuất mới và các nhu cầu mới, cơ chế thị trường có xu hướng thoả mãn nhu cầu biến đổi không ngừng của các nhóm dân cư sao cho phù hợp với lối sống của họ, thay cho nguyên tắc sản xuất, cung ứng hàng loạt, biết chấp nhận nhu cầu.
Thứ chín, nhà doanh nghiệp là nhân vật trung tâm trong hoạt động thị trường, là nhân tố sống động của cơ chế thị trường. Nhà nước không đứng ngoài cơ chế thị trường. Không có nhà doanh nghiệp thì không có cơ chế thị trường.
* Vai trò cơ chế thị trường đối với phát triển kinh tế nước ta.
ở trên chúng ta đã phân tích và thấy rằng việc chuyển đổi nền kinh tế nước ta sang kinh tế thị trường là một tất yêú khách quan phù hợp với sự phát triển đất nước, thế giới. Điều đó cũng có thể được giải thích bởi vai trò đặc biệt quan trọng của cơ chế kinh tế thị trường đối với phát triển ki._.nh tế ở nước ta.
Sự hình thành và phát triển thị trường ở nước ta gắn liền với quá trình đổi mới kinh tế từ cơ cấu đến cơ chế quản lý kinh tế, nhất quán chuyển sang kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, gắn liền với đổi mới một cách cơ bản chính sách kinh tế vĩ mô như giá cả, kế hoạch hoá, tài chính tiền tệ, đầu tư thương mại, chuyển hoạt động sản xuất - kinh doanh và tiêu dùng xã hội sang kinh tế thị trường, trong đó giải pháp có ý nghĩa quyết định là xử lý giá cả. Dù mới là sơ khai, thị trường đã là môi trường giải phóng sức sản xuất với sự bùng nổ của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh và kinh tế đối ngoại. Quan hệ hàng hoá thị trường ngày càng mở rộng và đi sâu vào các lĩnh vực của quá trình sản xuất- kinh doanh với sức mạnh tất yếu kinh tế, sức mạnh hồi sinh sau chiến tranh. Sức sản xuất phát triển làm bật dậy cách tiềm năng, hàng loạt các nhân tố mới xuất hiện xen lẫn những bề buộn phức tạp của sự chuyển đổi mang tính cách mạng. Hơn thế nữa, cơ chế thị trường để làm cho tư duy kinh tế thay đổi căn bản: Từ thục động an bài sang năng động sáng tạo, tự chủ, tư duy hiện vật sang tư duy giá trị; sự nhạy cảm về lợi ích, hiệu quả về thang giá trị, đạo đức lối sống v.v...
Như vậy cơ chế thị trường là nhân tố vô cùng quan trọng để phát triển kinh tế xã hội của đất nước, là công cụ để đất nước tiến lên CNXH, xây dựng đất nước giàu mạnh, công bằng văn minh. Nó giải phóng nền kinh tế khỏi cái vòng luẩn quẩn, không hiệu quả của cơ chế kinh tế tập trung, nó tạo ra môi trường giao lưu kinh tế quốc tế, phát huy triệt để các lợi thế so sánh của các chủ thể trong nền kinh tế cho phép lựa chọn phương thức kinh tế hiệu quả tối đa nhất là môi trường tốt để phát triển kinh tế đất nước.
* Ưu điểm của cơ chế thị trường:
Việc chuyển đổi nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước xuất phát từ việc cơ chế thị trường có những ưu điểm có thể giải quyết những vấn đề bất cập của cơ chế kinh tế tập trung và phát triển nền kinh tế đất nước. Những ưu thế đó là:
Cơ chế thị trường có khả năng tự động điều tiết nền sản xuất xã hội, tức là sự tự động phân bổ các nguồn tài nguyên sản xuất vào các khu vực, các ngành kinh tế mà không cần bất kỳ sự điều khiển từ trung tâm nào. Cơ chế thị trường kích thích việc áp dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật,tăng năng suất lao động, năng cao trình độ xã hội hoá sản xuất. Kinh tế thị trường lấy lợi nhuận siêu ngạch làm động lực hoạt động, động lực này đòi hỏi các doanh nghiệp hạ thấp chi phí lao động cá biệt thấp hơn chi phí xã hội cần thiết. Điều này đòi hỏi phải nâng cao năng suất lao động trên cơ sở áp dụng thành tựu mới của khoa học kỹ thuật.
Cơ chế tự động hoá kích thích sự phát triển sản xuất, tăng trưởng kinh tế theo cả bề rộng và chiều sâu, tăng cường chuyên môn hoá sản xuất. Điều này được thể hiện ở chỗ cơ chế thị trường có tính năng động và khả năng thích ứng nhanh, trong nền kinh tế thị trường nếu ai đưa ra thị trường một loạt hàng hoá mới và đưa ra sớm nhất sẽ thu được lợi nhuận nhiều nhất, điều đó tất yếu đòi hỏi phải năng động thường xuyên và đổi mới thường xuyên. Hơn thế nữa trong nền kinh tế thị trường hàng hoá rất phong phú và đa dạng do vậy, nó tạo điều kiện thuận lợi cho việc thoả mãn tốt hơn những nhu cầu vật chất, văn hoá và sự phát triển toàn vẹn của mỗi thành viên xã hội.
* Các khuyết tật của cơ chế thị trường:
Bên cạnh những ưu điểm của mình, cơ chế thị trường tự bản thân nó còn có những khuyết tật cần thấy rõ để khắc phục đó là:
Trong nền kinh tế hàng hoá, hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường, mỗi chủ thể kinh doanh, mỗi ngành, mỗi địa phương đều có lợi ích riêng của mình và tìm mọi cách tối ưu hoá lợi ích đó. Nhưng khi thực hiện các hoạt động nhằm tối ưu hoá lợi ích của mình, mỗi doanh nghiệp, mỗi ngành, mỗi vùng có thể nhìn thấy hoặc không nhìn thấy sự vi phạm đến lợi ích của người khác, của cơ sở, ngành, vùng khác nhau. Do đó, tất yếu nảy sinh hiện tượng: lợi ích cá nhân hay của bộ phận này tăng lên làm thiệt hại lợi ích cá nhân, bộ phận khác trong xã hội, xét trên phạm vi tổng thể nền kinh tế quốc dân. Biểu hiện về mặt xã hội của xu hướng này là các hoạt động kinh tế chồng chéo cản trở hoặc triệt tiêu lẫn nhau, các quan hệ tỷ lệ kinh tế quốc dân bị phá vỡ, sự phân bổ các nguồn lực không hợp lý, cơ cấu kinh tế bị đảo lộn, các vấn đề xã hội, chính trị phát sinh.
Nền kinh tế hàng hoá vận hành theo cơ chế thị trường không thể tách rời ra môi trường chính trị, kinh tế, xã hội, đối ngoại. Nếu môi trường không ổn định, thường xuyên có sự đụng độn và xung đột giữa các tầng lớp, giai cấp trong xã hội. Các quan hệ giao dịch mua bán trên thị trường không lành mạnh, mang tính chất lừa đảo, bạo lực thì kinh tế không phát triển. Cơ chế thị trường - cơ chế điều chỉnh hành vi của cả người sản xuất lẫn người tiêu dùng theo các qui luật của thị trường sẽ dẫn tới các sai lệch, nhược điểm và khuyết tật của cơ chế thị trường, sẽ khó có thể khắc phục sẽ đẩy mạnh môi trường chính trị, kinh tế xã hội, đối ngoại vào tình trạng rối loạn.
Xu hướng hoà nhập nền kinh tế của mỗi nước vào thị trường thế giới ngày càng cao. Những diễn biến kinh tế trong từng nước và giữa các nước gây ảnh hưởng rõ rệt đến lợi ích của nhau. Việc ngăn ngừa hay khắc phục những bất lợi cũng như việc khai thác và sử dụng những tác động có lợi, đòi hỏi phải có vai trò của Nhà nước và không một tổ chức nào có thể thay thế được. Vai trò quản lý về kinh tế của Nhà nước không chỉ là sự điều tiết, khống chế, định hướng bằng pháp luật, các đòn bẩy kinh tế, các chính sách, biện pháp kích thích mà còn bằng thực lực kinh tế của Nhà nước- tức sức mạnh của hệ thống kinh tế quốc doanh.
* Vai trò kinh tế của Nhà nước:
Việc khai thác các ưu điểm, hạn chế những khuyết tật của cơ chế thị trường để tạo điều kiện thuận lợi cho cơ chế này hoạt động có hiệu quả không thể thiếu được vai trò của Nhà nước với tư cách là chủ thể của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Nhà nước thực hiện chức năng quản lý kinh tế là đòi hỏi khách quan, là nhu cầu nội tại của nền kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường. Vai trò đó bao gồm:
Thứ nhất, Nhà nước với vai trò định hướng phát triển kinh tế xã hội và hướng dẫn hoạt động kinh tế. Tuỳ theo đặc điểm của mỗi nước, mỗi giai đoạn mà có mức độ can thiệp khác nhau. Vai trò định hướng của Nhà nước là rất quan trọng và cần thiết trong mỗi giai đoạn phát triển kinh tế. Việc định hướng đúng đắn sẽ làm cho nền kinh tế phát triển không ngừng và ngược lại. Việc định hướng phát triển kinh tế nhằm xác định hướng phân bổ tài nguyên, tạo ra cơ cấu kinh tế mới hợp lý, bảo đảm sử dụng có hiệu quả nhất của đất nước. Chức năng định hướng các hoạt động kinh tế được thực hiện bằng những công cụ sau:
- Kế hoạch hoá với chức năng định hướng phát triển kinh tế xã hội. Chính phủ các nước thường thông qua các đường lối phát triển của đất nước để xác định phương hướng phát triển. Song việc xác định phương hướng phát triển không thể chung chung mà phải đưa ra các chỉ tiêu phản ánh mức độ và cơ cấu của sự phát triển. Để cho các công cụ của kinh tế vĩ mô hoạt động có hiệu quả Chính phủ cần biết các dự báo về sự diễn biến trong tương lai và các biện pháp tác động đến sự diễn biến ấy. Mức độ quan trọng của kế hoạch hoá ở các nước khác nhau và các giai đoạn khác nhau là khác nhau. Ngày nay điều có thể khẳng định trong nền kinh tế thị trường dưới chủ nghĩa tư bản hay chủ nghĩa xã hội thì kế hoạch hoá đều tồn tại như một tất yếu khách quan cả ở tầm vĩ mô lẫn vi mô.
- Tạo môi trường để hướng dẫn sự hoạt động của nền kinh tế: sản xuất hàng hoá muốn phát triển đòi hỏi phải có môi trường thuận lợi bao gồm môi trường kinh tế và môi trường pháp luật. Môi trường kinh tế phải đảm bảo cho đầu vào và đầu ra của sản xuất hàng hoá luôn được thông suốt. Môi trường pháp luật nhằm bảo đảm quyền tự do, quyền bình đẳng của các thành phần kinh tế trong hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như bảo đảo quyền lợi và nghĩa vụ của mọi thành viên trong xã hội.
- Tổ chức chỉ đạo các hoạt động của nền kinh tế. Nhà nước chỉ đạo hoạt động của nền kinh tế thông qua các doanh nghiệp quốc doanh. Nhà nước là chủ, các doanh nghiệp quốc doanh tham gia trực tiếp vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Đây là những xí nghiệp quan trọng giữ vai trò then chốt trong nền kinh tế. Bởi vì, mà thông qua hoạt động của các xí nghiệp này mà Nhà nước chỉ đạo sự hoạt động của các xí nghiệp, thành viên khác.
Thứ hai, Nhà nước với vai trò điều tiết sản xuất kinh doanh: nền kinh tế thị trường bên cạnh những ưu điểm của nó còn có những mặt hạn chế đáng quan tâm, trong đó quan trọng nhất là sự phát triển tự do vô Chính phủ ngày càng tăng và sự phân hoá về kinh tế trong xã hội ngày càng lớn. Trách nhiệm của Nhà nước, đặc biệt là Nhà nước xã hội chủ nghĩa, là phải điều tiết mọi hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế đi đúng quĩ đạo đã định và thực hiện từng bước sự công bằng trong đời sống kinh tế xã hội của đất nước. Sự điều tiết này chủ yếu được thực hiện thông qua hệ thống đòn bẩy kinh tế, trong đó quan trọng nhất là chính sách thuế, chính sách lãi suất, lương, bảo trợ và bảo hiểm đối với sản xuất kinh doanh.
Thứ ba, bên cạnh vai trò trên, Nhà nước còn phải có vai trò kiểm soát nền kinh tế để đảm bảo cho nền kinh tế phát triển theo định hướng kế hoạch của Nhà nước. Nhà nước có trách nhiệm kịp thời phát hiện những sai sót, ách tắc, đổ vỡ của quá trình phát triển kinh tế quốc dân trong tương lai. Hiện nay, để tăng cường vai trò đòi hỏi Nhà nước phải có các biện pháp kiểm soát chặt chẽ hơn, đào tạo đội ngũ cán bộ có chuyên môn và đạo đức tốt, phải thường xuyên đánh giá, kiểm điểm và đề ra trách nhiệm , nhiệm vụ trước mắt.
II- Đặc trưng của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Cùng với sự đi lên của nền kinh tế thế giới, nền kinh tế nước ta chuyển sang cơ chế thị trường tự do cạnh tranh như một tất yếu lịch sử. Song khác với các nước khác, chúng ta xây dựng cơ chế thị trường mang bản sắc riêng của Việt Nam, theo định hướng XHCN với những đặc trưng riêng phù hợp với đặc điểm của nền kinh tế đất nước. Những đặc điểm đó là:
1. Sự phát triển kinh tế phải gắn liền với việc phát triển xã hội , giải quyết các vấn đề xã hội.
Trước hết cần khẳng định kinh tế thị trường ở Việt Nam sẽ được phát triển theo định hướng XHCN. Đó là định hướng của một xã hội mà sự hùng mạnh của nó nhờ vào sự giàu có và hạnh phúc của dân cư. Xã hội không còn chế độ người bóc lột người, dựa trên cơ sở nhân dân lao động làm chủ, con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công làm theo năng lực hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, có điều kiện để phát triển toàn diện cá nhân. Xã hội có nền kinh tế phát triển cao trên cơ sở khoa học, công nghệ và lực lượng sản xuất hiện đại. Cũng xuất phát từ bản chất của nền kinh tế thị trường nước ta là nền kinh tế mà ở đó kinh tế thị trường được sử dụng như một công cụ, một phương tiện phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế phục vụ lợi ích của đa số nhân dân lao động nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng văn minh.
Hiện nay, cơ chế thị trường tự do cạnh tranh cùng với sự hội nhập nền kinh tế quốc tế đã đặt ra nhiều vấn đề cần quan tâm, nảy sinh nhiều tiêu cực xã hội mà đòi hỏi Nhà nước phải chú trọng để giải quyết. Cùng với sự phát triển về kinh tế do cơ chế thị trường đem lại thì thực trạng bức xúc về mặt xã hội cũng ngày càng có chiều hướng gia tăng: Đó là việc chạy theo lợi nhuận, chạy theo đồng tiền mà làm phai mờ các giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc, các nạn tham ô, tham nhũng, làm hàng giả, buôn lậu; xuất hiện trong tầng lớp dân cư một số người ăn chơi chác táng sa hoa, không phù hợp với văn hoá Việt Nam, từ đó dẫn đến nạn trộm cắp, cướp giật, mại dâm, ma tuý v.v.. Đó là những khuyết tật, những hạn chế của cơ chế thị trường đem lại chúng làm mất ổn định tình hình an ninh -chính trị xã hội, đi ngược với mục đích phát triển mà Đảng và Nhà nước đề ra.
Xuất phát từ bản chất của cơ chế thị trường ở nước ta và những thực trạng bức xúc về mặt xã hội đó, đòi hỏi Nhà nước phải có các chính sách gắn phát triển kinh tế với phát triển xã hội. Chúng ta tận dụng những lợi thế của kinh tế thị trường kế thừa những thành tựu của loài người trong việc thực hiện kinh tế thị trường để phục vụ chế độXHCN nhưng biết hạn chế những khuyết tật của nó. Sử dụng cạnh tranh làm động lực phát triển nhưng không cạnh tranh dã man, tăng trưởng kinh tế đi đôi với công bằng xã hội, khuyến khích làm giàu gắn với xoá đói giảm nghèo và khắc phục sự phân cực giàu nghèo, gia tăng mức sống nhưng vẫn giữ gìn được bản sắc văn hoá dân tộc. Hai mặt kinh tế và xã hội của nền kinh tế thị trường nước ta được chủ động kết hợp với nhau ngay từ đầu thông qua pháp luật, chính sách kinh tế và chính sách xã hội trên tầm quản lý vĩ mô và vi mô. ở tầm vĩ mô, Nhà nước dùng hiệu quả KT-XH là mục tiêu quản lý nhằm thực hiện tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Nhà nước cũng có các biện pháp điều tiết mức thu nhập của các tầng lớp dân cư nhằm thực hiện một xã hội văn minh.
Như vậy, nền kinh tế thị trường ở nước là nền kinh tế có sự lãnh đạo của Đảng và có sự quản lý điều tiết của Nhà nước sao cho vừa bảo đảm phát triển kinh tế vừa đảm bảo phát triển xã hội và con người.
2. Trong nền kinh tế thị trường, phát triển kinh tế ở nước ta phải là phát triển bền vững.
Từ thực tế phát triển của nền kinh tế thị trường ở các nước trên thế giới đã chỉ ra rằng: trong nền kinh tế thị trường khi không có sự quản lý của Nhà nước, các hoạt động sản xuất kinh doanh lấy lợi nhuận tối đa làm mục tiêu, cạnh tranh gay gắt giữa các hãng sản xuất sẽ dẫn đến việc sản xuất thừa, đẩy nền kinh tế vào tình trạng khủng hoảng, lạm phát cao. Trong khi mức tăng trưởng kinh tế vừa được một chút thì qua mỗi lẫn khủng hoảng kinh tế nó lại dìm nền kinh tế xuống, thậm chí còn thấp hơn cả mức trước đó. Khủng hỏng kinh tế còn đi đôi với việc thất nghiệp,lạm phát, làm suy giảm các vấn đề xã hội, chính trị, gây mất ổn định xã hội, mất niềm tin vào sự phát triển của đất nước. Từ thực tế đó Đảng và Nhà nước ta đã chỉ ra rằng phát triển kinh tế ở nước ta đi đôi với sự bền vững. Chúng ta tiến lên XHCN bỏ qua giai đoạn CNTB trong điều kiện xuất phát điểm hết sức thấp, là một nước nông nghiệp lạc hậu chịu hâu quả nặng nề của hai cuộc chiến tranh, do đó phải theo kịp thời đại, chúng ta tiến thẳng vào cơ chế thị trường hiện đại, sử dụng nó nhhư là một công cụ để khai thác các lợi thế so sánh để xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển nền kinh tế đất nước lên CNXH. Do vậy việc phát triển kinh tế ở nước ta là việc phát triển ổn định, tránh tình trạng khủng hoảng kinh tế, có cơ chế mới đẩy nền kinh tế nước ta theo kịp nước khác, từng bước xây dựng cơ sở hạ tầng, khoa học kỹ thuật, nâng cao đời sống của nhân dân. Hơn thế nửa, việc phát triển bền vững xuất phát từ bản chất XHCN của nhà nước ta, có phát triển bền vững mới tạo niềm tin cho nhân dân, giữ được ổn định về kinh tế, chính trị, xã hội.
Phát triển bền vững ở đây bao gồm cả tăng trưởng kinh tế đi đôi với việc phát triển xã hội, nâng cao đời sống nhân dân và việc phát triển ở đây phải ổn định. Để đất nước có thể phát triển bền vững đòi hỏi phải có sự quản lý của Nhà nước. Bên cạnh "bàn tay vô hình" của cơ chế thị trường với các quy luật kinh tế khách quan, các quy luật giá cả ... đòi hỏi sự can thiệp của Nhà nước để điều tiết hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thông qua các chính sách kinh tế vĩ mô và vi mô, tạo môi trường ổn định cho sự phát triển kinh tế, bảo vệ môi trường sinh thái của đất nước, áp dụng các chính sách tài khoá quốc gia để ổn định tỷ giá, ổn định nền kinh tế, chống lạm phát, từ đó mới có cơ sở ổn định để nền kinh tế phát triển ổn định và ngày càng cao. Nhà nước điều tiết hoạt động của nền kinh tế đồng thời đề ra các biện pháp để phát triển xã hội khắc phục các khuyết tật của cơ chế thị trường, mang lại sự phát triển theo đúng nghĩa của nó cho toàn xã hội. Cuộc đấu tranh gian khổ và trường kỳ của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh nhằm giải phóng nhân dân lao động đem lại hạnh phúc và sự giàu có cho nhân dân lao động. Vì vậy, sự phát triển của Việt Nam trong hiện tại và tương lai phải là sự phát triển vì sự giàu có, phồn vinh và hạnh phúc của nhân dân lao động, của toàn xã hội, của toàn dân tộc, là sự phát triển mang tính chất xã hội chủ nghĩa, là sự phát triển hiện đại, phát triển bền vững.
3. Nền kinh tế thị trường ở nước ta là nền kinh tế phải đạt tốc độ tăng trưởng cao, là nền kinh tế có trình độ phát triển cao.
Phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế đã được Đảng ta khẳng định. Nền kinh tế thị trường trước hết và chủ yếu là tiến hành các hoạt động kinh tế theo quan hệ cung cầu trên thị trường, theo giá cả thị trường và chấp nhận cạnh tranh. Bất cứ nền kinh tế thị trường nào cũng đều phát triển thông qua cạnh tranh. Mục tiêu phát triển của nền kinh tế nước ta phải là nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao bởi vì nền kinh tế nước ta vẫn là một nước nghèo, lạc hậu so với các nước trên thế giới chúng ta xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện xuất phát điểm thấp, do đó tốc độ tăng trưởng kinh tế cao là nhân tốt bắt buộc phải có để chúng ta đẩy nhanh nền kinh tế đất nước theo kịp với thời đại. Nền kinh tế thị trường nước ta có khả năng đạt hiệu quả kinh tế cao, bởi vì nó đòi hỏi phân bố và sử dụng tốt nhất nguồn lực của đất nước, tính toán và lựa chọn tối ưu các quyết định kinh tế từ đó tạo được khả năng để tăng trưởng cao, làm cho dân giàu, nước mạnh. Tuy nhiên, cũng còn thấy rằng, trong nền kinh tế thị trường, vì động cơ chạy theo lợi nhuận một cách mù quáng, thì sẽ dẫn tới hậu quả như: doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, bị phá sản, số người thất nghiệp, sự phân hoá giàu nghèo, ô nhiễm môi trường sinh thái ngày càng tăng, những yêu cầu phát triển khu vực công cộng, bình đẳng, công bằng xã hội không được đảm bảo, con người không phát triển toàn diện... Thực tiễn phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta những năm qua cho thấy vai trò điều tiết của Nhà nước là một đòi hỏi khách quan. Nhà nước phải tiến hành các hoạt động điều tiết vĩ mô chính là nhằm hạn chế và khắc phục những khuyết tật những mặt trái của thị trường, của các hoạt động kinh tế vĩ mô. Việc tham gia điều tiết nền kinh tế thị trường của Nhà nước chính là nhằm đẩy mạnh hoạt động nền kinh tế, thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng cao và ổn định. Hướng các mục tiêu phát triển kinh tế vào mục tiêu phát triển xã hội. Nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là nền kinh tế phát triển cao. Nếu như kinh tế trì trệ, kém phát triển, tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân kém dẫn tới mức thu nhập bình quân của dân cư còn thấp, không có tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế thì không thể gọi là định hướng xã hội chủ nghĩa được. Đành rằng nếu chỉ có nội dung này thì chưa đủ, bởi vì nhiều nước có nền kinh tế phát triển cao nhưng đó lại không phải là nền kinh tế định hướng kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Để có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao thì đòi hỏi nền kinh tế nước ta phải là nền kinh tế dân tộc hoà nhập với kinh tế quốc tế. Xu hướng phát triển kinh tế mở, nội dung này có ý nghĩa rất lớn, một mặt nó phát huy được lợi thế so sánh của nền kinh tế nước ta về vị trí địa lý, về lao động và về tài nguyên thiên nhiên. Mặt khác nó làm cho nền kinh tế nước ta từng bước hoà nhập vào kinh tế khu vực và thị trường thế giới, từ đó có điều kiện tiếp thu những thành tựu mới của khoa học - kỹ thuật, công nghệ trên thế giới, thực hiện quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên trong tình hình thế giới diễn biến phức tạp hiện nay, việc mở rộng hợp tác giao lưu với bên ngoài cần phải có sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta hoà nhập chứ không hoà tan, tiếp tục phát huy các giá trị văn hoá dân tộc tốt đẹp, thực hiện phát triển kinh tế đi đôi với bảo vệ đất nước, giữ dìn toàn vẹn lãnh thổ.
4. Định hướng xã hội chủ nghĩa còn được thể hiện trong nền kinh tế nước ta.
Để có định hướng xã hội chủ nghĩa, trong cơ cấu kinh tế tổng hợp nhiều thành phần, kinh tế Nhà nước phát huy vai trò chủ đạo, nó cùng với kinh tế hợp tác là nền tảng của nên kinh tế.
Trước đây nền kinh tế nước ta vận hành theo cơ chế tập trung, làm xuất hiện các hiện tượng quan liêu, bao cấp, cửa quyền, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn, nền kinh tế lâm vào tình trạng khủng hoảng, suy thoái. Từ đại hội VI của Đảng cộng sản Việt Nam chúng ta đã nhìn thẳng vào sự thật, thấy được những hạn chế của cơ chế quản lý cũ và quyết tâm đổi nền kinh tế sang nền kinh tế hàng hoá vận động thoe cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Việc chuyển đổi đó hoàn toàn mang ý nghĩa khách quan vì nó phù hợp với tình hình kinh tế Việt Nam lúc bấy giờ, kinh tế hàng hoá trong cơ chế thị trường lại có ưu điểm rõ rệt so với kinh tế cũ, hơn nữa sự phát triển của lực lượng sản xuất, trình độ sản xuất và phân công lao động đã đến sự chín muồi, hoàn toàn đủ cơ sở để chúng ta chuyển sang nền kinh tế hàng hoá. Thực tiễn phát triển cho thấy việc chuyển đổi này của Đảng và Nhà nước ta là hoàn toàn đúng đắn và mang tính chất lịch sử, nền kinh tế đất nước đã từng ngày được nâng cao, đời sống nhân dân được nâng cao cả về chất lẫn tinh thần.
Bước vào nền kinh tế hàng hoá, Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định cơ cấu kinh tế nước ta gồm năm thành phần sau đây: thành phần kinh tế Nhà nước, thành phần kinh tế hợp tác, thành phần kinh tế tư bản Nhà nước, thành phần kinh tế cá thể và thành phần kinh tế tư bản tư nhân, trong đó kinh tế Nhà nước đóng vai trò chủ đạo. Sở dĩ có điều đó bởi vì thành phần kinh tế Nhà nước là thành phần nắm trong tay các vị trí then chốt của nền kinh tế, Nhà nước thông qua thành phần kinh tế này của mình để điều tiết vĩ mô nền kinh tế, hướng các thành phần kinh tế khác theo một quỹ đạo đã định sẵn. Bên cạnh việc ưu tiên phát triển thành phần kinh tế Nhà nước, Nhà nước cần đầu tư phát triển các doanh nghiệp trong các thành phần kinh tế khác nhằm tạo ra việc làm trong dân cư và góp phần tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội. Các thành phần kinh tế được phát triển một cách bình đẳng với nhau.
ở đây, vai trò của thành phần kinh tế Nhà nước (kinh tế quốc doanh) được củng cố ở các vị trí then chốt, có liên quan đến toàn bộ hoạt động nền kinh tế, cũng như an ninh, quốc phòng và các lĩnh vực cần thiết mà các thành phần kinh tế khác không có điều kiện, hoặc không muốn đầu tư vì không sinh lãi hoặc lãi ít. Thông qua hoạt động của thành phần kinh tế này, Nhà nước thực hiện các chính sách vĩ mô điều tiết nền sản xuất của xã hội, sự ổn định và phát triển của thành phần kinh tế Nhà nước là cơ sở để bảo đảm cho vai trò quản lý xã hội và điều tiết nền kinh tế quốc dân của Nhà nước. Do đó, trong các thành phần kinh tế thì kinh tế Nhà nước đóng vai trò chủ đạo để gắn kinh tế quốc doanh với cơ chế thị trường phải tách quyền sở hữu tài sản công hữu và quyền kinh doanh tài sản. Và do cơ cấu kinh tế như vậy đòi hỏi phải giải quyết vấn đề phân phối thu nhập một cách công bằng. Ngoài tiền lương, tiền công, người lao động còn được hưởng thu nhập từ các nguồn hữu sản của họ thông qua phân phối theo tài sản (hay theo vốn), người lao động làm theo năng lực và hưởng theo lao động. Cơ cấu kinh tế mới được hình thành một phần do sự điều chỉnh của các quan hệ thị trường, một phần do Nhà nước điều tiết. Phát triển kinh tế nhiều thành phần sẽ tạo được một môi trường cạnh tranh và huy động tối đa những nguồn lực của xã hội vào việc phát triển kinh tế - xã hội.
5. Vai trò quản lý của Nhà nước.
Cơ chế thị trường với những ưu điểm của nó còn có những khuyết tật cần phải quan tâm để khắc phục. Vai trò quản lý của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường là một tất yếu cần thiết để khắc phục các khuyết tật của cơ chế thị trường, là nhân tố đóng vai trò quan trọng đối với sự ổn định và phát triển kinh tế đất nước. Nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, là Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Thành tố quan trọng mang tính quyết định trong nền kinh tế thị trường hiện đại là Nhà nước tham gia vào các quá trình kinh tế. Nhưng khác với Nhà nước của nhiều nền kinh tế thị trường trên thế giới, Nhà nước ta là Nhà nước của đại đa số nhân dân lao động đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, nó có đủ bản lĩnh, khả năng và đang tự đổi mới để bảo đảm giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong việc phát triển kinh tế thị trường hiện đại ở nước ta. Sự khác biệt về bản chất Nhà nước là một nội dung và là một điều kiện, một tiền đề cho sự khác biệt về bản chất của mô hình kinh tế thị trường ở nước ta so với nhiều mô hình kinh tế thị trường khác trên thế giới. ở đây vai trò quản lý của Nhà nước là việc định hướng nền kinh tế đất nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước phát huy cao độ mặt tích cực của nền kinh tế thị trường để phát triển kinh tế, Nhà nước nắm vững thị trường để điều tiết kinh tế và hạn chế những mặt trái của kinh tế thị trường. Đồng thời thông qua các chính sách, công cụ, Nhà nước giảm đến mức thấp nhất mặt tiêu cực và hậu quả KT-XH do cạnh tranh gây ra nhằm bảo đảm phúc lợi xã hội cũng như công bằng xã hội và bảo bệ môi sinh môi trường.
Như vậy, dưới sự lãnh đạo của Nhà nước, sự can thiệp điều tiết vào nền kinh tế thị trường, nền kinh tế vừa tăng trưởng và xã hội ngày càng phát triển toàn diện, đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao. Trong nền kinh tế thị trường vai trò quản lý của Nhà nước là một vai trò đặc biệt, tất yếu và cần thiết, là cơ sở, điều kiện để phát triển bền vững nền kinh tế và xã hội.
III- Mục tiêu và các chức năng quản lý vĩ mô của Nhà nước.
1. Mục tiêu:
Mọi quốc gia, trong các trường hợp kinh tế phát triển thành công hay suy thoái, trì trệ, đều tìm thấy nguyên nhân chủ yếu của vai trò Nhà nước. ở nước ta, quản lý Nhà nước về kinh tế là sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước, là điều kiện đủ bên cạnh điều kiện cần là kinh tế thị trường để phát triển đất nước, tiến lên CNXH. Quản lý vĩ mô của Nhà nước trong nền kinh tế hiện nay nhằm hướng tới các mục tiêu sau:
Thứ nhất, cần thúc đẩy các yếu tố đảm bảo sự phát triển ổn định kinh tế. ổn định kinh tế là yếu tố hàng đầu của sự phát triển. Để đi đến ổn định, cần phải bảo đảm sự ổn định về mặt chính trị, xã hội. Nhà nước thông qua các cơ quan quản lý chức năng để đảm bảo cho đất nước có môi trường chính trị, xã hội ổn định, ít biến động để tạo môi trường thuận lợi cho việc đầu tư phát triển sản xuất, tạo niềm tin cho các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào thị trường trong nước. Bên cạnh đó, Nhà nước cần đổi mới công tác kế hoạch hoá nhằm phục vụ thị trường, phân rõ chức năng quản lý kinh tế với chức năng kinh doanh của các doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp Nhà nước. Xác lập một hệ thống chính sách và công cụ quản lý kinh tế để làm sao vừa bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, vừa tác động đến cầu và cung trên thị trường, đồng thời phải thi hành nhất quán các chính sách, các thể chế để tạo sự ổn định trong quá trình phát triển kinh tế. Song song với đó, mục tiêu của quản lý vĩ mô của Nhà nước là xây dựng hệ thống pháp luật kinh tế phù hợp với việc dân chủ hoá nền kinh tế theo cơ chế thị trường. Nền kinh tế thị trường của nước ta không phải là nền kinh tế tự do, vô Chính phủ, mà nó phải đảm bảo ổn định trên cơ sở pháp luật. Do đó, cần sớm xoá bỏ những luật lệ không phù hợp, từng bước qui định đầy đủ các quan hệ nảy sinh trong nền kinh tế thị trường, lấy luật pháp để ổn định quá trình phát triển các doanh nghiệp, từ đó mà ổn định nền kinh tế.
Thứ hai, Nhà nước quản lý vĩ mô nền kinh tế nhằm mục tiêu bảo đảm hiệu quả KT-XH. Trong điều kiện hiện nay Nhà nước ta phải thực hiện một lúc hai nhiệm vụ: vừa tạo lập thị trường, vừa điều tiết sự vận động của cơ chế thị trường. Nhà nước xuất phát từ các quan điểm, chính sách, để tạo lập thị trường, tạo lập môi trường các điều kiện cơ sở để nền kinh tế hàng hoá có khả năng phát triển tốt hơn, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đạt hiệu quả cao. Cùng với đó, Nhà nước với các chính sách kinh tế vĩ mô để định hướng, điều tiết tổng thể nền kinh tế, hướng sức mạnh thị trường đi đúng hướng, dựa vào luật pháp để tạo ra hành lang lao động, có trật tự cho các chủ thể kinh doanh, xác định mục tiêu phát triển, tác động gián tiếp thông qua công cụ chính sách kinh tế nhằm mục tiêu gắn tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội.
Thứ ba, Nhà nước quản lý nền kinh tế nhằm mục tiêu giải quyết các vấn đề nảy sinh trong quá trình phát triển, khắc phục các khuyết tật của cơ chế thị trường, trong đó quan trọng nhất là vấn đề giải quyết việc làm xã hội và phân phối thu nhập, nó vừa vấn để bức thiết trước mắt, vừa là vấn đề lâu dài để ổn định và tăng trưởng kinh tế. Giải quyết việc làm không chỉ là nhiệm vụ của kinh tế Nhà nước, mà phải khuyến khích mọi thành phần kinh tế, mọi gia đình, mọi thành viên cùng tham gia giải quyết. Thực hiện việc phân phối theo lao động và phải bảo đảm tính công bằng trong quá trình phân phối. Bên cạnh đó, một mục tiêu nữa là nâng cao đời sống tinh thần cho nhân dân. Phát triển văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, nâng cao dân trí, phát triển nhân tài và nhân lực cho đất nước. Văn hoá và giáo dục phải tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện, vì đó là nguồn lực quyết định sự tăng trưởng và phát triển của đất nước. Đi đôi với việc phát triển văn hoá, giáo dục hiện đại phải đảm bảo tính kế thừa, phát huy, nâng cao, hiện đại hoá truyền thống và bản sắc dân tộc Việt Nam. Đây là một trong những nhân tố quan trọng để đánh giá sự phát triển KT-XH.
2. Chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước.
Nhà nước thực hiện vai trò kinh tế của mình không chỉ bằng việc xây dựng và quản lý khu vực kinh tế Nhà nước mà quan trọng hơn là tổ chức và quản lý toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Để quản lý nền kinh tế quốc dân, Nhà nước với bộ máy của mình phải thực hiện rất nhiều công việc khác nhau, những công việc này hình thành nên chức năng quản lý của Nhà nước. Nó bao gồm:
Thứ nhất, tạo môi trường và điều kiện cho sản xuất kinh doanh. Nhà nước đảm bảo sự ổn định về chính trị, KT-XH cho mọi người yên tâm sản xuất kinh doanh. Duy trì luật pháp, trật tự và an toàn xã hội, thi hành nhất quán các c._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35005.doc