Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay

A. đặt vấn đề Đại hội VI của Đảng là một mốc lịch sử quan trọng trên con đường đổi mới toàn diện và sâu sắc ở nước ta.Trên cơ sở nhận thức đứng đắn và đầy đủ hơn về chủ nghĩa xã hội (CNXH) và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam, đại hội đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước nhằm thực hiện có hiệu quả hơn công cuộc xây dựng CNXH.Đại hội đã chính thức thừa nhận sự tồn tại khách quan của sản xuất hàng hoá và kinh tế thị trường, chủ trương xây dựng nền kinh tế nước ta là “kinh tế thị trường đị

doc24 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1504 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh hướng XHCN”. Kinh tế thị trường, trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hoá, thành tựu chung của văn minh nhân loại- là một bước phát triển quang trọng mà tất cả các nước trên thế giới đều phải trải qua.Việc xây dựng một nền kinh tế thị trường ở Việt Nam là một tất yếu khách quan, một nhiệm vụ kinh tế cấp bách vì nó không chỉ phù hợp với điều kiện nền kinh tế nước ta, phù hợp với xu thế phát triển chung của nhân loại, mà nó còn phù hợp với quá trình xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, kết hợp với chủ động hội nhập vào sự phân công lao động quốc tế. Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam, đó mới chỉ là hướng đi, là con đường mà ta đã lựa chọn.Nhưng xây dựng như thế nào và phát triển ra sao là cả một thách thức lớn.Thứ nhất, là so với các nước trên thế giới, Việt Nam vẫn còn là một nước nghèo, nền kinh tế yếu kém, chậm phát triển, những tàn dư của một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp còn tồn tại đã phần nào kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế.Thứ hai, do sự băn khoăn của một số người trong xã hội, chưa tin tưởng vào khả năng có thể xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam, coi rằng kinh tế thị trường và XHCN là hai phạm trù đối lập, không thể dung hoà.Thêm vào đó là những thách thức mới đày khắc nghiệt và những cạm bẫy đặt ra đối với nền kinh tế khi hội nhập vào kinh tế thế giới.Chính vì vậy, để có thể đảm bảo cho nền kinh tế có thể vận hành đúng hướng, có thể đối chọi và vươt qua mọi thử thách khó khăn thì cần phải có sự quản lí kinh tế của Nhà nước. B- GiảI quyết vấn đề I. Tính tất yếu khách quan vai trò quản lí vĩ mô của nhà nước đối với nền kinh tế 1. Thế nào là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Lịch sử xã hội loài người đã chứng kiến nhiều mô hình kinh tế khác nhau, mỗi mô hình là sản phẩm của trình độ nhận thức nhất định trong những điều kiện lịch sử cụ thể. Trong các mô hình kinh tế đó, tất cả các nước trên thế giới đã và đang hướng tới xây dựng một nền kinh tế thị trường – trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hoá. Cùng với xu thế phát triển chung của thời đại, cùng với thời gian và kinh nghiệm thực tế, Việt Nam đã lựa chọn con đường riêng cho mình, đó là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Kinh tế thị trường là một kiểu kinh tế, xã hội mà trong đó, sản xuất và tái sản xuất xã hội gắn chặt với thị trường, tức là gắn chặt với quan hệ hàng hoá, quan hệ tiền tệ và quan hệ cung cầu. Kinh tế thị trường từ khi ra đời cho đến nay đã trải qua các giai đoạn phát triển khác nhau từ thấp đến cao, mỗi giai đoạn lại có những đặc điểm và tính chất riêng biệt.Đầu tiên là kinh tế hàng hoá giản đơn, sau đó chuyển sang nền kinh tế thị trường.Đó là quá trình chuyển từ sản xuất nhỏ giản đơn sang sản xuất hàng hoá với qui mô, tính chất phát triển hơn.Tiếp theo là giai đoạn kinh tế thị trường tự do, và cuối cùng là kinh tế thị trường hiện đại mà trong đó Nhà nước can thiệp vào thị trường và mở rộng giao lưu với nước ngoài.Mỗi giai đoạn đó đã từng có các nền kinh tế thị trường theo những đinh hướng khác nhau.Việt Nam đã lựa chọn cho mình nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Kinh tế thị trường định hướng XHCN là nền kinh tế mà thị trường đóng vai trò quyết định trong việc phân bổ các nguồn lực.Các quan hệ kinh tế giữa các tổ chức, cá nhân thông qua qui luật của thị trường , trước hết là qui luật giá trị; đồng thời có sự bổ sung, kết hợp các qui luật của CNXH như qui luật phát triển có kế hoạch, cân đối, công bằng giữa các vùng, các thành phần kinh tế. 2. Quan niệm của Đảng về vấn đề xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. Đại hội VI của Đảng (tháng 12/1986) là một mốc lịch sử quan trọng trên con đường đổi mới toàn diện và sâu sắc ở nước ta.Trên cơ sở nhận thức đúng đắn và đầy đủ hơn về CNXH và con đường đI lên CNXH ở Việt Nam, đại hội đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước nhằm thực hiện có hiệu quả hơn công cuộc xây dựng CNXH. Đại hội đã chính thức thừa nhận sự tồn tại khách quan của sản xuất hàng hoá và kinh tế thị trường, phê phán triệt để cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp, và khẳng định phải chuyển hẳn sang hạch toán kinh doanh. Đại hội cũng chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần với những hình thức kinh doanh phù hợp, coi trọng việc kết hợp lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội; chăm lo toàn diện và phát huy nhân tố con người, đồng thời có nhận thức mơi về chính sách xã hội. Hội nghị TW 6 khoá VI (3/1989) phát triển thêm một bước, đưa ra quan điểm phát triển nền kinh tế hàng hoá có kế hoạch, gồm nhiều thành phần đi lên CNXH; coi” chính sách kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên CNXH”. Đại hội VII của Đảng cộng sản Việt Nam(6/1991) tiếp tục nói rõ hơn về chủ trương này, và khẳng định đây là chủ trương chiến lược, là con đường đi ên CNXH ở Việt Nam. Cương lĩnh năm 1991 của Đảng khẳng định:”phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN,vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lí của Nhà nước.” Đại hội VIII cuả Đảng tháng 6 năm 1996 đưa ra một kết lụân rất quan trọng:” sản xuất hàng hoá không đối lập với CNXH mà là thành tựu phát triển của văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng CNXH và cả khi CNXH đã được xây dựng.” Tuy nhiên đại hội VIII mới nói đến nền kinh tế hàng hóa và cơ chế thị trường mà chưa dùng đến kháI niệm “ kinh tế thị trường”.Đại hội IX, tháng 4 năm 2001 của Đảng đã khẳng định:”phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là đường lối chiến lược nhất quán, mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kì đi lên CNXH ở Việt Nam.” Nghị quyết đại hội IX đã chỉ rõ: Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam là một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo qui luật cuả thị trường, vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của CNXH, thể hiện trên cả 3 mặt:sở hữu, tổ chức quản lí và phân phối. Nói cách khác, một cách khái quát nhất , kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lí của nhà nước, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. 3. Tính tất yếu khách quan tồn tại vai trò quản lí vĩ mô của nhà nước đối với nền kinh tế. Trong các văn kiện đại hội Đảng đã chỉ rõ việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam cần có sự quản lí của nhà nước.Trên thực tế người ta cũng nhận thấy, ngay tại các nước mà hệ thống kinh tế thị trường đã ngự trị từ lâu và phát triển rất cao thì sự can thiệp của công quyền vào nền kinh tế cũng là một trong những yếu tố tạo nên sự phát triển nổi bật. Nhà nước đóng vai trò hết sức quan trọng trong tiến trình phát triển của các quốc gia, thực hiện quản lí vĩ mô đối với nền kinh tế.Tính tất yếu khách quan của sự điều tiết của Nhà nước là xuất phát từ những mặt sau đây: Thứ nhất: Từ sứ mệnh lịch sử của Nhà nước.Nhà nước là tổ chức quyền lực chung, quản lí mọi mặt của đời sống xã hội, thông qua đó mà giai cấp thống trị thực hiện được sự thống trị của mình đối với toàn xã hội.Nhà nước XHCN cũng vậy, thông qua quản lí tốt mọi mặt đời sống xã hội mà thực hiện được sự thống trị của giai cấp công nhân và nhân dân lao động đối với xã hội, thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Một khi nhà nước đã không thể quản lí xã hội có hiệu quả dẫn tới khủng hoảng kinh tế, thì giai cấp thống trị cũng khó lòng giữ vững được địa vị thống trị của mình. Thứ hai: Nền kinh tế thị trường không phải là một hệ thống được tổ chức hoàn hảo.Ngoài những ưu điểm, phản ánh tiến trình lịch sử khách quan phát triển của nhân loại như: Cơ chế thị trường kích thích hoạt động của chủ thể kinh tế, tạo điều kiện cho hoạt động tự do cuả họ, làm nền kinh tế phát triển năng động hiệu quả, tạo động lực cho con người thông qua cạnh tranh.Sự tác động của cơ chế thị trường giúp thoả mãn tốt tiêu dùng cá nhân về hàng ngàn sản phẩm, kính thích đổi mới kĩ thuật, hợp lí hoá sản xuất, nâng cao năng suất lao động, thúc đẩy xã hội hoá sản xuất.Cơ chế thị trường thực hiện việc phân phối nguồn lực một cách tối ưu, phân phối tài nguyên và thu nhập hợp lí.Tuy nhiên thị trường tự do vốn nảy sinh nhiều thất bại, gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới sản xuất và đời sống xã hội. Một là, kinh tế thị trường thừa nhận nguyên tắc tự do cạnh tranh, cạnh tranh trong kinh doanh, kiếm việc làm, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp…Từ đó một mặt có thể dẫn đến cạnh tranh không lành mạnh, mang tinh chất phá hoại, dẫn đến phá sản các doanh nghiệp, làm thất nghiệp. Mặt khác, có thể xuất hiện hiện tượng độc quyền của các doanh nghiệp. Hai là, sự vận động của cơ chế thị trường là theo nguyên tắc tối đa hoá lợi nhuận. Sự sản xuất mù quáng sẽ gây ra những cuộc khủng hoảng thừa, thiếu, lạm dụng tài nguyên xã hội, gây ô nhiễm môI trường sống của con người, hiệu quả kinh tế –xã hội không được đảm bảo. Ba là, do lợi thế từng ngành dẫn đến cơ cấu đầu tư không cân đối. Như các ngành dịch vụ công cộng, mặc dù rất cần thiết nhưng do lợi nhuận ít nên ít được chú ý đầu tư. Bốn là, phân phối thu nhập không công bằng, dẫn đến sự phân hoá giàu nghèo, sự phân cực về của cảI, tác động xấu đến đạo đức, tình người, quan hệ con người bị bóp méo và thường bị chị phối bởi dục vòng thấp hèn. Tệ nạn xã hội phát triển nhanh, như tham nhũng, gian lận trong thương mại và các tệ nạn khác. Edgar Morin đã nhận xét:”Trong các nền văn minh được xem là phát triển của chúng ta, tồn tại một tình trạng kém phát triển thảm hại về trí não, văn hoá, tình người.” Vì vậy để phát huy những tác động tích cực và hạn chế, ngăn chặn những tiêu cực của thị trường, đảm bảo tính hướng dẫn, điều chỉnh nền kinh tế phát triển hướng tới CNXH cần có sự điều tiết vĩ mô của nhà nước. 4. Quan điểm của các nhà kinh tế học về vai trò của nhà nước trong nền kinh tế. Trên đây ta đã phân tích, và chỉ ra sự tất yếu khách quan tồn tại vai trò quản lí vĩ mô của nhà nước đối với nền kinh tế.Vậy quan điểm của các nhà kinh tế học về vấn đề này như thế nào? Xét theo thời gian thì quan điểm của các nhà kinh tế học theo những trường phái khác nhau cung có sự khác nhau.: Đặc điểm lí luận của chủ nghĩa trọng thương là họ chưa biết và không thừa nhận quy luật kinh tế.Họ đánh giá cao các chính sách kinh tế của nhà nước,dựa vào chính quyền nhà nước vì họ cho rằng dựa vào nhà nước mới có thể phát triển kinh tế. A.Smith với lí thuyết về “bàn tay vô hinh “ ông đã phủ nhận vai trò kinh tế của nhà nước. “bàn tay vô hình “ theo A.Smith thì đó là sự hoạt động của các quy luật kinh tế khách quan. A.Smith quan niệm hệ thống các quy luật kinh tế khách quan là một “trật tự tự nhiên”.Nền kinh tế cần thiết phảI được phát triển trên cơ sở tự do kinh tế. Cần thiết phảI có tự do sản xuất, tự do liên doanh, liên kết, tự do mậu dịch. A.Smith cũng cho rằng cần phảI tôn trọng trật tự tự nhiên, tôn trọng “ bàn tay vô hình”. Hoạt động sản xuất và lưu thông hàng hoá được phát triển dựa theo sự điều tiết của bàn tay vô hình. Nhà nước không nên can thiệp vào kinh tế, hoạt động kinh tế vốn có cuộc sống riêng của nó. Nhà nước có chức năng bảo vệ quyền sở hữu của các nhà tư bản, đấu tranh chống thù trong giặc ngoài, và trừng phạt những kẻ phạm pháp. Vai trò kinh tế của nhà nước được thể hiện khi những nhiệm vụ kinh tế vượt quá sức của các doanh nghiệp như nhiệm vụ xây dựng đường xá, đào sông, đắp đê hay nhiệm vụ xây dựng những công trình kinh tế lớn..A.Smith cho rằng quy luật kinh tế là vô địch, mặc dù những chính sách kinh tế của nhà nước có thể kìm hãm hoặc thúc đẩy sự phát triển của các quy luật kinh tế. Sismondi (1773-1842) quan điểm của ông lại chia làm hai giai đoạn: trong giai đoạn đầu, ông ủng hộ quan điểm “tự do kinh tế “ không có sự can thiệp của nhà nước của A.Smith. Trong giai đoạn sau, do sự phát triển của cách mạng công nghiệp làm cho những tệ nạn của CNTB càng trầm trọng thì ông phê phán CNTB và các quan điểm của phái cổ điển. Trường phái “tân cổ điển” giữ vai trò thống trị vào những năm cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX. Cũng giống như trường phái cổ điển, các nhà kinh tế học trường pháI “tân cổ điển”ủng hộ tự do cạnh tranh, chống sự can thiệp của nhà nước vào kinh tế. Họ tin tưởng chắc chắn vào cơ chế thị trường tự phát sẽ đảm bảo cân bằng cung cầu, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển. Trường phái Keynes ( 1884-1946) lại đề cao vai trò của nhà nước. Dùng thuyết nhà nước can thiệp vào kinh tế thay cho thuyết tự do kinh doanh. Keynes phủ nhận chính sách kinh tế thả nổi của chủ nghĩa tự do tư bản, không cần có sự can thiệp của nhà nước.Ông chủ trương mở rộng chức năng của nhà nước, nhà nước can thiệp toàn diện vào kinh tế.Ông cho rằng đây là con đường duy nhất để chế độ kinh tế hiện hành tránh được “huỷ diệt toàn diện”. Trong đó, nhà kinh tế học P.A. Samuelson người Mỹ chủ trương phát triển kinh tế dựa vào cả “hai bàn tay”., là cơ chế thị trường và nhà nước. Ông cho rằng, “điều hành một nền kinh tế không có chính phủ hoặc thị trường thì cũng như vỗ tay băng một bàn tay”. Đó là những quan điểm khác nhau về vai trò kinh tế của nhà nước trong nền kinh tế thị trường.Sự khác nhau đó là do sự nhận thức khác nhau, trong những điều kiện phát triển của lịch sử khác nhau. Nhưng cho đến tận bây giờ, quan niệm của nhà kinh tế hoc Samuelson vẫn được coi là đúng đắn nhất, phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế. II. Những đặc trưng bản chất của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, một mặt vừa có tính chất chung của nền kinh tế thị trường: Một là, các chủ thể kinh tế có tính độc lập, có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh. Hai la, giá cả do thị trường quyết định, hệ thống thị trường được phát triển đầy đủ và nó có tác dụng làm cơ sở cho việc phân phối các nguôn lực kinh tế vào trong các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế.Ba là, nền kinh tế vận động theo những qui luật vốn có của kinh tế thị trường, như qui luật giá trị, qui luật cung cầu, qui luật cạnh tranh…Sự tác động của các qui luật đó hình thành nên cơ chế tự điều tiết của nền kinh tế.Bốn là, nền kinh tế có sự điều tiết vĩ mô của nhà nước, thông qua pháp luật kinh tế, kế hoạch hoá, các chính sách kinh tế, nhằm làm giảm bớt những “thất bại thị trường”. Mặt khác, kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam dựa trên cơ sở và được dẫn dắt chi phối bởi nguyên tắc và bản chất của CNXH, do đó, nó còn có thêm những đặc trưng bản chất sau đây: Mục tiêu hàng đầu của phát triển kinh tế thị trường ở nước ta là giảI phóng sức sản xuất, động viên mọi nguồn lực trong nước và ngoàI nước để thực hiện công nghịêp hoá, xây dựng cơ sơ vật chất kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội, cải thiện từng bước đời sống nhân dân; ở nước ta, thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối đổi mơí của Đảng, lấy sản xuất gắn liền với cải thiện đời sống nhân dân, tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, khuyến khích làm giàu hợp pháp, gắn liền với xoá đói giảm nghèo. Nền kinh tế thị trường gồm nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.Trong nền kinh tế thị trường ở nước ta tồn tại 3 loại hình sở hữu cơ bản: sở hữu toàn dân, sở hưu tập thể, và sở hữu tư nhân.Từ 3 loại hinh sở hữu đó hình thành nhiều thành phần kinh tế, nhiều tổ chức sản xuất kinh doanh.Các thành phần đó tồn tại một cách khách quan, và là những bộ phận cần thiết của nền kinh tế trong thời kì quá độ lên CNXH. Do đó không chỉ ra sức phat triển các thành phần kinh tế thuộc chế độ công hữu, mà còn phaỉ khuyến khích các thành phần kinh tế thuộc sở hữu tư nhân cùng nhau phát triển dựa trên cạnh tranh lành mạnh.Trong nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.Việc xác định kinh tế nhà nước gĩư vai trò chủ đạo là sự khác biệt có tính chất bản chất giữa kinh tế thị trường định hướng XHCN, với kinh tế thị trường ở các nước khác.Bởi vậy kinh tế nhà nước cần phải được xây dựng và phát triển có hiệu qủa để thực hiện tốt vai trò chủ đạo của mình. Bên cạnh đó, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN thực hiện nhiều hình thức phân phối thu nhập, trong đó lấy phân phối theo lao động là chủ yếu. Trong thời kì quá độ lên CNXH, nhiều chế độ sở hữu cùng tồn tại, mỗi chế độ sở hữu lại có nguyên tắc, hình thức phân phối tương ứng với nó, vì thế, trong thời kì này ở nước ta tồn tại cơ cấu đa dạng về hình thức phân phối theo thu nhập. Các hình thức phân phối theo thu nhập gồm có: phân phối theo lao động, theo vốn hay theo tài sản đóng góp; theo giá trị sức lao động, phân phối thông qua các quĩ phúc lợi tập thể và xã hội.Phân phối theo lao động là đặc trưng bản chất của kinh tế thị trường định hướng XHCN, nó là hình thức thể hiện về mặt kinh tế của chế độ công hữu, vì thế nó được xác định là hình thức phân phối chủ yếu trong thời kì quá độ lên CNXH. Cơ chế vận hành của nền kinh tế là cơ chế thị trường có sự quan lí của nhà nước XHCN.Nhưng điều khác biệt trong cơ chế vận hành nền kinh tế ở nước ta là ở chỗ, nhà nước quản lí nền kinh tế không phải là nhà nước tư sản, mà là nhà nước XHCN, nhà nứoc của dân, do dân, vì dân, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Cơ chế đó mang tính hướng dẫn, điều khiển hướng tới đích XHCN của nền kinh tế theo phương châm: nhà nước điều tiết vĩ mô, thị trường hướng dẫn doanh nghiệp. Vai trò quản lí của nhà nước XHCN là hết sức quan trọng, đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng ổn định, đạt hiệu quả cao, đảm bảo sự công bằng và tiến bộ xã hội. Không có ai ngoài nhà nước có thể giảm bớt sự chênh lệch giữa giàu và nghèo, giữa thành thị và nông thôn, giữa công nghiệp và nông nghiệp, giữa các vùng của đất nước. Và đặc trưng cuối cùng đó là, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN cũng là nền kinh tế mở, hội nhập.Đặc điểm này phản ánh sự khác biệt giữa nền kinh tế thị trường định hướng XHCN mà chúng ta đang xây dựng với nền kinh tế đóng và khép kín trước đổi mới, đồng thời phản ánh xu hướng hội nhập của nền kinh tế nước ta trong điều kiện toàn cầu hoá kinh tế. Chỉ có mở cửa hội nhập mới giúp ta thu hút được vốn, kĩ thuật công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lí tiên tiến của các nước để khai thác tiềm năng và thế mạnh của nước ta, thực hiện phát huy nội lực, tranh thủ ngoai lực để xây dựng và phát triển kinh tế thị trường hiện đại theo kiểu rút ngắn. Thực hiện mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại theo xua hướng đa phương hoá, đa dạng hoá các hình thức đối ngoại, gắn thị trường trong nước với thị trường khu vực và trên thế giới, thực hiện những thông lệ trong quan hệ kinh tế quốc tế nhưng vẫn giữ được độc lập chủ quyền và bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc trong quan hệ kinh tế đối ngoại. III. Vai trò và chức năng quản lí kinh tế vĩ mô của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. 1. Vai trò và chức năng kinh tế của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam. Xét về mặt vai trò của nhà nước đối với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, ta có thê thấy:Nhà nước giữ vai trò quan trọng đối với sự vận hành cuả nền kinh tế thị trường.Để hoạt động một cách có hiệu quả, nền kinh tế thị trường phải nằm trong một mô trường pháp lí mang tính tổng thể mà chỉ có nhà nước mới có thể tạo ra được. Đây là một trong những vấn đề cốt yếu để đảm bảo một sự chuyển đổi thành công từ một nền kinh tế chịu sự quản lí nghiêm ngặt sang nền kinh tế thị trường. Vai trò của nhà nước trong kinh tế thị trường đinh hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải phát hiện ra những khuyết tật của kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa để tìm ra những định chế có khả năng xoá bỏ những khuyết tật đó và tạo ra dần dần một kinh tế thị trường định hướng XHCN.Sự điều tiết vĩ mô của nhà nước nhằm phát huy những tác dụng tích cực và ngăn chặn những tác động tiêu cực của thị trường, nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, đảm bảo cho mọi người có cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc; nhằm đảm bảo tính hướng dẫn, điều khiển nền kinh tế hướng tới CNXH. Nhà nước XHCN có những chức năng kinh tế sau đây: Thứ nhất, nhà nước kiến tạo và bảo đảm môi trường kinh doanh an toàn, ổn định, thuận lợi và bình đẳng để thúc đẩy xã hội phát triển. Nhà nước trước hết phải tạo được khung pháp luật phù hợp với cơ chế thị trường và sử dụng công cụ pháp luật một cách có hiệu quả để thực hiện chức năng này, trong đó khuyến khích cạnh tranh và kiểm soát độc quyền, đảm bảo môi trường kinh doanh bình đẳng.Nhà nước tạo môi trường pháp lí thuận lợi cho các cá nhân, các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế họat động. ở nước ta hiện nay các cá nhân, các doanh ngiệp thuộc các thành phần kinh tế được quyền tự chủ sản xuất kinh doanh; các cá nhân, các doanh nghiệp khi lựa chọn phương án sản xuất kinh doanh đều lấy lợi nhuận làm thước đo hiệu quả, đồng thời làm mục tiêu định hướng các hoạt động kinh tế của mình. Tất nhiên, tự chủ kinh doanh theo pháp luật và mọi hành vi đều phải tuân theo pháp luật. Do đó, nhà nước phải xây dựng và ban hành một hệ thống pháp luật đầy đủ và đồng bộ, như luật về các quyền (sở hữu, chiếm hữu sử dụng, thừa kế, chuyển nhượng…) luật hợp đồng, luật về sự bảo đảm của nhà nước…. Thứ hai, nhà nước định hướng cho sự phát triển kinh tế và thực hiện điều tiết các hoạt động kinh tế. Nhà nước tạo sự bình ổn qua các chính sách kinh tế vĩ mô, mà chủ yếu là chính sách ngân sách, chính sách tiền tệ, chính sách hối đoái nhằm duy trì tăng trưởng kinh tế, tận dụng các yếu tố sản xuất, bình ổn giá cả và cân bằng ngoại thương. Chính Keynes là người đã triển khai ý tưởng về một ngân sách “chủ động”. Nhà nước cần phải đảm nhận trách nhiệm về chính sách ngân sách, nghĩa là tác động đến thuế khoá và chi tiêu công cộng, nhằm giảm bớt các dao động kinh tế; tạo điều kiện cho việc duy trì một nền kinh tế tăng trưởng, đảm bảo công ăn việc lam ở mức độ cao, vượt qua được lạm phát hoặc giảm phát quá mạnh. Nhà nước soạn thảo kế hoạch, các chương trình phát triển kinh tế và ban hành các chính sách để hướng dẫn các chủ thể thị trường thực hiện kế hoạch, quy hoạch, và chương trình ấy thông qua các chính sách tài chính, tiền tệ, sử dụng các đồ bẩy kinh tế như: ưu đãi về thuế, về lãi xuất cho vay cho các nhà đầu tư vào những lĩnh vực mà nhà nước khuyến khích. Nhà nước can thiệp và bổ sung thị trường.Hình thức và mức độ can thiệp và các biện pháp kinh tế của nhà nước vào nền kinh tế là rất phong phú và khác nhau.Cùng với chính sách mậudịch nhằm bảo vệ sản xuất trong nước thông qua hệ thống thuế quan và hạng ngạch nhập khẩu, quản lí buôn bán qua biên giới, nhà nước còn thực hiện chính sách can thiệp thị trường bằng lực lượng hàng dự trữ.Đi đôi với biện pháp xóa bỏ sự ngăn cách thị trường khu vực khuyên khích mở rộng giao lưu hàng hoá trong cả nước. Ba là, những chính sách của Keynes đã đưa đến sự phát triển vai trò của nhà nước với tư cách là người sản xuất hàng hoá. Từ lợi ích tổng thể, kinh tế nhà nước cần được đầu tư vào những khâu then chốt để phát triển trong những khu vực như: công nghiệp, nông nghiệp, thương mại, dịch vụ, kết cấu hạ tầng kinh tế.Bên cạnh đó, nhà nước phải đầu tư xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng công cộng.Đây là lĩnh vực không thể thiếu, phục vụ cho sự phát triển của xã hội, nhưng do cần vốn đâù tư nhiều, khả năng thu hồi vốn chậm nên rất ít các doanh nghiệp đứng ra đầu tư trong lĩnh vực này. Bốn là, nhà nước cần hạn chế và khắc phục những mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, thực hiện công bằng xã hội. Sự tác động của cơ chế thị trường có thể đưa lại hiệu quả kinh tế cao, nhưng nó không tự động mang lại những giá trị mà xã hội cố gắng vươn tới, không tự động đưa đến sự phân phối thu nhập công bằng. Nhà nước thực hiện phân phối thu nhập quốc dân một cách công bằng, thực hiện tăng trưởng kinh tế gắn với cải thiện đời sống nhân dân, với tiến bộ và công bằng xã hội. Điều nay thể hiện rõ rệt nhất tính định hướng xã hội của nền kinh tế thị trường ở nước ta. 2. Nội dung quản lí kinh tế của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam. Những nội dung chủ yếu quản lí kinh tế của nhà nước ta bao gồm: Quyết định chiến lược phát triển kinh tế-xã hội: Toàn bộ sự phát triển của nền kinh tế phụ thuộc trước hết vào đường lối và chiến lược phát triển kinh tế.Để xây dựng chiến lược đúng đắn, có căn cứ khoa học, cần phân tích đúng thực trạng kinh tế, xã hội, xác định rõ mục tiêu phát triển, lựa chọn phương án tối ưu.Muốn vậy, cần thực hiện, dân chủ hoá, khoa học hoá, thể chế hoá quyết sách. Kế hoạch:kế hoạch nói ở đây là kế hoạch thực hiện các mục tiêu của quyết định chiến lược, nó là sự phát triển và cụ thể hóa quyết định chiến lược.Kế hoạch xác định mục tiêu dài hạn, trung hạn và ngắn hạn, nêu ra các biện pháp và thực hiện mục tiêu đó. Kế hoạch là công cụ để xác lập cân đối một cách chủ động, hoặc chủ động loại trừ tiêu cực nào đó, hoặc phối hợp hành động của các thành viên và doanh nghiệp trong xã hội theo một quỹ đạo. Tổ chức: Tổ chức là một nội dung của quản lí nhằm đảm bảo thực hiện kế hoạch đã định. Nó bao gồm việc bố trí hợp lí cơ cấu, xác định rõ chức năng, quyền hạn, trách nhiệm của các tổ chức và dựa vào yêu cầu cụ thể của các cơ cấu để lựa chọn và bố trí cán bộ thích hợp. Chỉ huy và phối hợp: Nền kinh tế là một hệ thống phức tạp, bao gồm nhiều chủ thể khác nhau, vì thế để cho nền kinh tế hoạt động bình thường, có hiệu quả, cần có sự chỉ huy thống nhất. Để có thể chỉ huy nền kinh tế cần phai có cơ quan quản lí thống nhất, cơ quan đó có quyền lực, có đầy đủ thông tin về các mặt để điều hoà, phối hợp các hoạt động của nền sản xuất xã hội, giải quyết kịp thời các vấn đề nảy sinh để đảm bảo cân bằng tổng thể của nền kinh tế. Khuyến khích và trừng phạt:Bằng các đòn bẩy kinh tế và động viên tinh thần, khuyến khích mọi tổ chức kinh tế hoạt động theo định hướng của kế hoạch, cố gắng thực hiện nhiệm vụ của kế hoach.Muốn vậy phải có chế độ thưởng phạt rõ ràng, hoạt động theo định hướng kế hoạch, làm lợi cho nền kinh tế thì được khuyến khích; ngược lại, không làm theo định hướng của kế hoạch, làm hại thì phải ngăn chặn và trừng phạt. 3. Các công cụ điều tiết vĩ mô của nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam Một là, hệ thống pháp luật .Hệ thống pháp luật là một công cụ quản lí vĩ mô của nhà nước, nó tạo ra khuôn khổ pháp luật cho các chủ thể kinh tế hoạt động, phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển theo định hướng XHCN.Các luật đó điều chỉnh hành vi của các chủ thể kinh tế buộc các doanh nghiệp phải chấp nhận sự điều tiết của nhà nước Hai là, kế hoạch hoá. Cơ chế vận hành nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là kế hoach kết hợp với thị trường. Kế hoạch và thị trường là hai công cụ quản lí của nhà nước, chúng được kết hợp chặt chẽ vơi nhau. Sự điều tiết của thị trường là cơ sở phân bố các nguồn lực, còn kế hoạch khắc phục tính tự phát của thị trường, làm cho nền kinh tế phát triển theo định hướng cuả kế hoạch.Sử dụng đồng thời cả kế hoạch và thị trường là điều cần thiết và có hiệu quả, vì như thế điểm mạnh cuả nhân tố này sẽ khắc phục điểm yếu của nhân tố kia, như vậy nền kinh tế sẽ giảm bớt được những hậu quả tiêu cực đông thời tăng cường và giữ lại được những mặt tích cực của chúng trong quản lí và vận hành nền kinh tế. Ba là, Lực lượng kinh tế của nhà nước. Nhà nước quản lí nền kinh tế không chỉ bằng các công cụ pháp luật, kế hoạch hoá mà còn bằng lực lượng kinh tế của tập thể để chúng dân trở thành nền tảng của nền kinh tế , hỗ trợ các thành phần kinh tế khác phát triển theo định hướng XHCN, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và bên vững. Nhờ đó nhà nước có sức mạnh vật chất để điều tiết, hướng dẫn nền kinh tế theo mục tiêu kinh tế-xã hội do kế hoạch đặt ra. Bốn là, Chính sách tài chính và tiền tệ. Đối với nền kinh tế thị trường, nhà nước quản lí bằng các biện pháp kinh tế là chủ yếu. Những biện pháp kinh tế điều tiết vĩ mô của nhà nước chủ yếu là chính sách tài chính và chính sách tiền tệ. Chính sách tài chính, đặc biệt là ngân sách nhà nước có ảnh hưởng quyết định đến sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế và xã hội.Thông qua việc hình thành và sử dụng ngân sách nhà nước, Nhà nước điều chỉnh phân bố các nguồn lực kinh tế, xây dựng kết cấu hạ tầng, đảm bảo công bằng trong phân phối và thực hiện các chức năng của mình.Nội dung của ngân sách nhà nước bao gồm các khoản thu và các khoản chi. Bộ phận chủ yếu của các khoản thu là thuế. Chính sách thuế đúng đắn không tạo nguồn thu cho ngân sách, mà còn khuyến khích sản xuất và tiêu dùng. Chính sách tiền tệ.Là một công cụ quản lí vĩ mô trọng yếu, vai trò của nó trong nền kinh tế vĩ mô ngày càng tăng cùng với sự phát triển cuả kinh tế thị trường định hướng XHCN.Trong chính sách tiền tệ, lãi xuất là công cụ quang trọng, là phương tiện để điều tiết cung, cầu tiền tệ.Việc thắt chặt hay nới lỏng cung ứng tiền tệ, kìm chế lạm phát thông qua hoạt động cuả hệ thống ngân hàng sẽ tác động trực tiếp đến nền kinh tế. Năm là, các công cụ điều tiết kinh tế đối ngoại. Để mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, Nhà nước sử dụng nhiều công cụ, trong đó chủ yếu là thuế xuất nhập khẩu, bảo đảm tín dụng xuất khẩu, trợ cấp xuất khẩu…Thông qua các công cụ đó, nhà nước có thể khuyến khích xuất khẩu, bảo hộ hợp lí sản xuất trong nước, nâng cao khả năng cạnh tranh hàng hoá của nước ta, giữ vững được độc lập, chủ quyền, bảo vệ được lợi ích quốc gia trong quan hệ kinh tế quốc tế. IV. Một số giải pháp cơ bản nhằm đổi mới và tăng cường vai trò kinh tế của nhà nước ta hiện nay. 1. Những thành tựu mà nhà nước bước đầu gặt hái được từ năm 1986 đến nay. Qua 15năm thực hiện đường lối đổi mới, toàn đảng, toàn dân ta đã vựơt qua nhiều khó khăn thử thách, đưa nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng khá cao và ổn định. Nhịp độ tăng GDP bình quân trong 5 năm (1991-1995) đat 8,2 % ; cơ cấu kinh tế có sự chuyển đổi theo hướng tích cực; bắt đầu có tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế, quan hệ sản xuất được điều chỉnh phù hợp với trình độ và tính chất cuả lực lượng sản xuất, nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước tiếp tục được xây dựng, đời sống vật chất của phần lớn công nhân được cải thiện. Những thành tựu quan trọng này đã góp phần quyết định đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế, và chuyển sang một thời kì mới. Có nhiều yếu tố hợp lực đưa đến n._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35699.doc
Tài liệu liên quan