Tài liệu Vai trò kinh tế của nhà nước trong nền Kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay: MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Sự phát triển của xã hội loài người từ trước đến nay đã trải qua nhiều hình thái kinh tế xã hội khác nhau . Mỗi hình thái kinh tế xã hội ở mỗi giai đoạn phát triển của lịch sử đều có tính logic của nó
Nói đến kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế quản lý theo kiểu tập trung quan liêu , bao cấp như trước đây nhưng nó không phải là nền kinh tế thị trường tự do theo cách của các nước tư bản chủ nghĩa , và cũng chưa hoàn toàn là nền kinh tế thị trường x... Ebook Vai trò kinh tế của nhà nước trong nền Kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay
28 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1417 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Vai trò kinh tế của nhà nước trong nền Kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ã hội chủ nghĩa . Bởi vì chúng ta đang trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội còn có sự đan xen , đấu tranh giữa cái cũ và cái mới , vừa có , vừa chưa có đầy đủ yếu tố xã hội chủ nghĩa .Vì vậy điều tất yếu của chúng ta là phải nghiên cứu con đường mà Đảng và nhà nước đã lựa chọn . Để góp phần vào xây dựng cơ chế tổ chức quản lý kinh tế sao cho phù hợp với điều kiện kinh tế nước ta và phù hợp với xu thế thế giới là lý do em chon đề tài :
“Vai trò kinh tế của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay”
Việt Nam đang bắt đầu công cuôc đổi mới từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường nên có nhiều vấn đề đặt ra . Thực tế rút ra từ các nước đi trước nếu có sự can thiệp và quản lý của Nhà nước và có chiến lược đúng đắn thì nó là động cơ thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế .Vì vậy chúng ta cần có sự can thiệp của nhà nước ở tầm vĩ mô để đưa nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay đang còn nhiều tranh cãi mà chúng ta cần phải nhiên cứu .Sau đây em xin trình bày một số quan điểm của mình .
CHƯƠNG IVAI TRÒ KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC VÀ TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN VỀ VAI TRÒ QUẢN LÝ VĨ MÔ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ
1.Vai trò của Nhà nước nói chung trong lịch sử :
Cùng với lịch sử , xã hội loài người ngày càng phát triển hơn và kéo theo sự phát triển của lực lượng sản xuất và năng suất lao động xã hội chế độ tư hữu xuất hiện đã phân chia xã hội thành kẻ giàu người nghèo hình thành giai cấp cơ bản là chủ nô và nô lệ nên hình thành một xã hội mới với sự phân chia giai cấp và đấu tranh giai cấp gay gắt không thể điều hòa , đòi hỏi phải có một tổ chức mới có khả năng dập tắt được xung đột giai cấp ấy , tổ chức đó là Nhà nước . Nhà nước chỉ ra đời và tồn tại trong xã hội có giai cấp .Nhà nước là bộ máy cưỡng chế đặc biệt nằm trong tay giai cấp thống trị ,nhà nước bao giờ cũng bảo vệ lợi ích cho giai cấp nhất định , song vai trò của nhà nước thì có sự khác nhau về mức độ , hình thức biểu hiện nhằm phù hợp với điều kiện từng giai đoạn
Chức năng cơ bản của nhà nước :
Dưới góc độ tính chất của quyền lực chính trị, Nhà nước có chức năng thống trị chính trị của giai cấp và chức năng xã hội. Dưới góc độ phạm vi tác động của quyền lực, Nhà nước có chức năng đối nội và chức năng đối ngoại. Đặc biệt là chức năng kinh tế của Nhà nước
Chức năng thống trị của giai cấp – Chức năng giai cấp – Chức năng Nhà nước làm công cụ chuyên chính của giai cấp nhằm bảo vệ sự thống trị của giai cấp đó đối với toàn thể xã hội.Chức năng giai cấp của Nhà nước bắt nguồn từ lý dỏa đời của Nhà nước và tạo thành bản chất của nó.
Chức năng xã hội của Nhà nước là chức năng Nhà nước thực hiện sự quản lý những hoạt động chung vì sự tồn tại của xã hội, thỏa mãn một số nhu cầu chung của cộng đồng dân cư nằm dưới sự quản lý của Nhà nước.
Trong hai chức năng đó thì chức năng thống trị chính trị là cơ bản nhất, chức năng xã hội phải phụ thuộc và phục vụ cho chức năng thống trị chính trị. Giai cấp thống trị bao giờ cũng biết giới hạn chức năng xã hội trong khuôn khổ lợi ích của mình. Song chức năng giai cấp chỉ có thể được thực hiện thông qua chức năng xã hội. Ph.Ăngghen viết ‘ Ở khắp nơi, chức năng xã hội là cơ sở của sự thống trị chính trị, và sự thống trị chính trị cũng kéo dài chừng nào nó còn thực hiện chức năng xã hội đó của nó”
Sự thống trị chính trị và sự thực hiện chức năng xã hội của Nhà nước thể hiện trong lĩnh vực đối nội cũng như đối ngoại.
Chức năng dối nội của Nhà nước nhằm duy trì trật tự kinh tế - xã hội – chính trị và những trật tự khác hiện có trong xã hội theo lợi ích của giai cấp thống trị. Thông thường điều đó phải được pháp luật hóa và được thực hiện nhờ sự cưỡng bức của Nhà nước. Ngoài ra, Nhà nước còn sử dung nhiều phương tiện khác (bộ máy thông tin, tuyên truyền, các cơ quan văn hóa, giáo dục...) để xác lập, củng cố tư tưởng, ý chí của giai cấp thống trị, làm cho chúng trở thành chính thống trong xã hội.
Chức năng đối ngoại của nhà nước nhằm bảo vệ biên giới lãnh thổ quốc gia thực hiện các mối quan hệ kinh tế, chính trị - xã hội với các nhà nước khác vì lợi ích của giai cấp thống trị cũng như lợi ích quốc gia. Khi lợi ích quốc gia không mâu thuẫn với lợi ích của giai cấp thống trị. Ngày nay, trong xu thế hội nhập khu vực và quốc tế, việc mở rộng chức năng đối ngoại của Nhà nước có tầm quan trọng đặc biệt.
Cả hai chức năng đối nội và đối ngoại của Nhà nước đều xuất phát từ lợi ích của giai cấp thống trị. Chúng là hai mặt của một thể thống nhất. Tính chất của chức năng đối nội quyết định tính chất của chức năng đối ngoại của Nhà nước; ngược lại tính chất và những nhu cầu của chức năng đối ngoại có tác dụng mạnh mẽ trở lại chức năng đối nội.
2.Tính tất yếu khách quan quản lý vĩ mô của nhà nước đối với nền kinh tế .
a .Cơ chế cũ và những ưu khuyết điểm của nó :
Sau kháng chiến thắng lợi ,dựa vào kinh nghiệm của các nước xã hội chủ nghĩa đi trước đất nước ta đã bắt đầu xây dưng mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung dự trên hình thức sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất
Nhưng sau ngày giải phóng miền Nam bức tranh mới về hiện trạng kinh tế xã hội đã thay đổi , do các quan hệ kinh tế đã thay đổi nhiều , việc áp dụng cơ chế quản lý quan liêu bao cấp cũ vào điều kiện nền kinh tế đã thay đổi làm xuất hiện rất nhiều hiện tượng tiêu cực .Do chủ quan không cân nhắc tới sự phù hợp với cơ chế quản lý kinh tế mà chúng ta đã quản lú không có hiệu quả . nhà nước đã thực hiện bao cấp tràn lan .Những việc làm này gây ra hậu quả xấu cho nền kinh tế , sự tăng trưởng nền kinh tế gặp nhiều khó khăn , sản phẩm trở nên khan hiếm , tích lũy hàng năm hầu như không có .Vốn đầu tư chủ yếu dựa vào vay và viện trợ nước ngoài , lạm phát cao làm cho đời sống nhân dân bị giảm sút . Nguyên nhân sâu xa vì sự suy thoái nền kinh tế ở nước ta là do đã rập khuôn một mô hình kinh tế chưa thích hợp và kém hiệu quả . Những sai lầm cơ bản :
Ta đã thực hiện một chế độ sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất trên một quy mô lớn trong điều kiện chưa cho phép . Điều này dẫn đến một bộ phận tài sản vô chủ đã không sử dụng nguồn lực của đất nước trong khi dân số ngày càng gia tăng
Thực hiện việc phân phối theo lao động cũng trong điều kiện chưa cho phép khi tổng sản phẩm quốc dân thấp đã dùng hình thức vừa phân phối bình quân , vừa phân phối lại một cách gián tiếp đã làm mất động lực của sự phát triển
Việc kinh tế của nhà nước sử dụng các công cụ hành chính mệnh lệnh theo kiểu thời gian chiến tranh không thích hợp với yêu cầu tự do lựa chọn của người sản xuất và người tiêu dùng đã không kích thích sự sáng tạo của người lao động
Chế độ hạch toán trên thực tế còn nặng nên hình thức , lợi ích kinh tế, đặc biệt là lợi ích cá nhân của người lao động chưa được quan tâm đúng mức, vì thế sự vận động của nền kinh tế nhìn chung là chậm chạp , kém năng động.
b .Qúa trình chuyển đổi từ cơ chế cũ sang cơ chế mới :
Đứng trước tình hình kinh tế như trên , vấn đề cấp bách đối với nhà nước ta là phải đổi mới cơ chế quản lý sao cho phù hợp với điều kiện đất nước ta hiên nay .Xuất phát từ những vấn đè này nhiều nhà khoa học đã đi sâu vào nghiên cứu những học thuyết kinh tế mà trọng tâm là Keynes và Samuelson .
Thực tiễn vận dụng nền kinh tế của thế giới những năm gần đâycho thấy mô hình phát triển kinh tế theo xu hướng thiij trường có sự điều tiết vĩ mô của nhà nước trong điều kiện hiện nay là hợp lý hơn cả . Mô hình này đáp ứng được những thách thức của sự phát triển . Nhận thức được điều náy Đảng và nhà nước chúng ta đã quyết định đổi mới , và đại hội VI của Đảng được đánh giá như một cái mốc quan trọng trong việc chuyển đỏi cơ chế tập trung , quan liêu , bao cấp sang nền kinh tế thị trường
Vậy “nền kinh tế thị trường “là gì ? Đó nền kinh tế mà trong đó các vấn đè kinh tế cơ bản dduocj quyết định chủ yếu bằng sự cung cầu trên thị trường. Động lực phát triển của nền kinh tế thị trường đó là lợi ích cá nhân thông qua lợi nhuận của người sản xuất và lợi ích của người tiêu dùng
Ta có thể thấy rằng nền kinh tế thị trường hoạt động đặc trưng nhất của nó là cơ chế thị trường và nó nảy sinh ra nhiều vấn đề ,trong đó vấn đề trung tâm nhất đối với người tiêu dùng và doanh nghiệp là : sản xuất là gì ? sản xuất như thế nào , sản xuất cho ai ?
Cơ chế thị trường hoạt động theo các quy luật cạnh tranh , quy luật lưu thông tiền tệ . Vói sự tác đông qua lại của cơ chế thị trường đưa đến sự thích ứng tự phát giữa khối lượng và cơ cấu của sản xuất và khồi lượng và cơ cấu của nhu cầu xã hội . Nhờ đó có thể thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng cá nhân và sản xuất nhiều loại sản phẩm khác nhau . Cơ chế thị trường đã giải quyết tốt 3 vấn đề cơ bản của nền sản xuất đó là :” sản xuất là gì , sản xuất như thế nào , sản xuất cho ai ?” thông qua lợi nhuận . Đây là điều mà các cơ chế kinh tế trước đây chưa giải quyết được hoặc là giải quyết còn nhiều vướng mắc
c. Tính tất yếu khách quan quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế
Cơ chế thị trương là cơ chế tốt nhất điều tiết nền kinh tế thị trường, tuy nhiên cơ chế thi trường cũng có những khuyết điểm vốn có của nó. Cùng với sự kích thích sản xuất phát triển, kinh tế cũng là môi trường thuận lợi làm nảy sinh ra và phát triển nhiều loại tiêu cực của xã hội, thị trường như hiện tượng thai nghén, chưa biết sẽ ra sao. Điều đó bao hàm cả khả năng thất bại, nếu như chúng ta không có sự can thiệp để sửa chứ những khuyết tật sau:
Thứ nhất: cơ chế thị trường chỉ phát huy tác dụng đầy đủ khi có cạnh tranh hoàn hảo, khi xuất hiện cạnh tranh không hoàn hảo, thì hiệu lực của cơ chế thi trường bị giảm. Chẳng hạn xuất hiện độc quyền, các nhà độc quyền có thể giảm sản lượng, tăng giá để thu lợi nhuân cao, mặt khác, khi xuất hiện độc quyền, thì không có sức ép của cạnh tranh đối với việc đổi mới kỹ thuật.
Thứ hai: mục đích hoạt động của các doanh nghiệp là lợi nhuận tối đa, vì vậy họ có thể lạm dụng tài nguyêncủa xã hội, gây ô nhiễm môi trường sống của con người, do đó hiệu quả kinh tế - xã hội khônh được bảo đảm.
Thứ ba: phân phối thu nhập khônh công bằng, vì vậy sự tác động của cơ chế thị trường sẽ dẫn đến sự phân hóa giàu nghèo, sự phân cực về của cải, tác đông xấu đến đạo đức và tình người.
Thứ tư: một nền kinh tế do cơ chế thị trường thuần túy điều tiết khó tránh khỏi những thăng trầm, khủng hoảng kinh tế do tính chu kỳ và thất nghiệp.
Để ngăn ngừa, khắc phục những khuyết tật của thị trường và để thị trường hoạt động có hiệu quả, nhà nước cần phải can thiệp, tức là phải quản lý nền kinh tế thị trường.
Trong điều kiện hiện nay , hầu như tất cả các nền kinh tế của các nước trên thế giới đều có sự quản lý của nhà nước để sửa chữa một mức độ nào đố “ những thất bại của thị trường “ . Khác với cơ chế quản lý của các nước khác nhà nước ta là nhà nước xã hội chủ nghĩa , nhà nước của dân , do dân , vì dân và được dặt dưới sự lãnh đạo của Đảng công sản việt nam
Thực tế cho thấy từ khi đổi mới nền kinh tế , nước ta có nhiều thay đổi căn bản. Những nền kinh tế thị trường ở nước ta chỉ mới sơ khai , chưa đầy đủ . Trong kinh tế thị trường nhà nước ,với tư cách là người điều hành ,quản lý xã hội. Nhà nước dùng pháp luật để điều hành , dùng chính sách đối ngoại chính sách kinh tế và các công cụ khác để tác động, vạch ra kế hoạch phát triển , hạn chế những tiêu cực do kinh tế thị trường gây ra , chống khủng hoảng và thất nghiệp
Sự can thiệp của nhà nước một mặt nhằm định hướng thị trường phục vụ tôt các mục tiêu kinh tế- xã hội trong từng thời kì, mặt khác nhằm sửa chữa khắc phục những khuyết điểm vốn có của nền kinh tế thị trường tạo ra những công cụ quan trọng điều tiết thị trường ở tầm vĩ mô mà không vi phạm cơ chế điều chỉnh ở tầm vi mô, nhờ sự can thiệp của nhà nước ở tầm vi mô đã kiềm chế được 1 phần sức mạnh nguy hiểm của tính tự phát chứa đựng trong lòng thị trường, đồng thời phát huy được nền kinh tế thị trường.
Vai trò kinh tế của Nhà nước lại càng cần thiết và hết sức quan trọng đối với nước ta dể đảm bảo cho nền kinh tế thị trường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng ổn định, đạt hiệu quả cao và đặc biệt đảm bảo công bằng xã hội
CHƯƠNG IIVAI TRÒ CỦA NỀN KINH TẾ NHÀ NƯỚC TRONGNỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.Chức năng của thành phần kinh tế nhà nước:
Vai trò quản lý của nhà nước đối với nền kinh tế nước ta :
a.Định hướng :
Nhà nước phải nắm bắt các quy luật vân dông và phát triển của nền sx xã hội và kiểm soát được các biến động có thể xảy ra từ đó đưa ra những ưu sách nhằm tác động , khống chế, điều tiết nền kinh tế 1 cách có hiệu quả
b.Thiết lập khuôn khổ pháp luật :
Nhà nước đề ra các quy tắc,trò chơi kinh tế mà các doanh nghiệp , người tiêu dùng và cả bản thân chính phủ đều phải tuân thủ , tạo hành lang pháp lý,đặc biệt là hành lang pháp lý về kinh tế cho hoạt động kinh doanh của các thành phần kinh tế
c.Điều phối ,điều tiết
Nhà nước cần sửa chữa những khuyết điểm của thị trường để thị trường hoạt động có hiệu quả bằng cách điều tiết mọi hoạt động cũng như vật chất một cách hợp lý , tạo sân chi bình đẳng cho các thành phần kinh tế
Nhà nước có vai trò hỗ trợ , đặc biệt là hỗ trợ về vốn và thị trường cho các doanh nghiệp
d.Đảm bảo sự công bằng :
Nhà nước tạo những cơ sở về tổ chức để mọi người có cơ hội ngang nhau
e. Kiểm soát , ổn định nền kinh tế vĩ mô:
Nhà nước có vai trò kiểm soát nền kinh tế ổn định lạm phát , và tránh khủng hoảng kinh tế
Nhà nước tạo sân chi bình đẳng cho các nhà kinh tế
Tuy nhiên để thực hiện vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là cực kì khó khăn vì không thể chia tách thị trường nước ta ra khỏi thị trường thế giới bao gồm thị trường các nước tư bản
Như ta đã biết:nền kinh tế thị trường khó tránh khỏi chấn động tư các cuộc khủng hoảng kinh tế và lạm phát, vì vậy Nhà nước ta cần phải tăng cường sử dụng các chính sách tài chính và chính sách tiền tệ để ổn định môi trường kinh tế vĩ mô, tạo điều kiện để phát triển kinh tế. Nhà nước cần phải sử dụng quyền lực của mình một cách thận trọng gián tiếp thông qua pháp luật để kiểm soát nền kinh tế một cách có hiệu quả nhằm ổn định nền kinh tế.
2. Đặc trưng của kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và thực trạng kinh tế nước ta
2.1 .Đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng XHXN ở nước ta
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam một mặt có tính chất chung của nền kinh tế thị trường là:
- Các chủ thể kinh tế có tính độc lập , có quyền tự chủ trong sản xuất , kinh doanh
- Giá cả do thị trường quyết định , hệ thống thị trường được phát triển đầy đủ và nó có tác dụng làm cơ sở cho việc phân phối các nguồn lực kinh tế vào trong các nghành , các lĩnh vực kinh tế
- Nền kinh tế vận động theo những quy luật vốn có của nền kinh tế thị trường như quy luật cung cầu , quy luật cạnh tranh…
- Nền kinh tế thị trường hiện đại có sự điều tiết vĩ mô của nhà nước thông qua pháp luật kinh tế kế hoạch hóa .các chính sách kinh tế …
Tuy nhiên mặt khác : kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam dựa trên cơ sở và được dẫn dắt chi phối bởi nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII thông qua các năm 1991 đã nêu lên bảng đặc trưng bản chất của xã hội chủ nghĩa và những phương hướng quan điểm tổng quát và phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng XHCN ở nước ta.
Thứ nhất : nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà nước ta sẽ xây dựng là nền kinh tế thị trường hiện đại với tính chất XHCN . Mặc dù nền kinh tế nước ta đang nằm trong tình trạng lạc hậu và kém phát triển nhưng khi nước ta chuyển sang nền kinh tế hàng hóa , kinh tế thị trường thì thế giới đã chuyển sang nền kinh tế thị trường hiện đại .Mặt khác , thế giới đang trong thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH cho nên sự phát triển kinh tế - xã hội nước ta phải theo định hướng XHCN là cần thiết , khách quan và cũng là nội dung, yêu cầu của sự phát triển nhảy vọt . Sự nghiệp “ dân giàu , nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh “ vừa là mục tiêu, vừa là nội dung nhiệm vụ cả việc phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta .
Đảng và nhà nước khuyến khích mọi người dân trong xã hội làm giàu một cách hợp pháp ,đan có giai\ù thì nước mới mạnh nhưng dân giàu phải làm cho nước mạnh bảo đảm độc lập , tự chủ và độc lập toàn vẹn lãnh thổ quốc gia
Thứ hai : nền kinh tế nước ta là nền kinh tế hỗn hợp nhiều thành phần với vai trò chủ đạo của nền kinh tế nhà nước trong một số lĩnh vực , một số khâu quan trọng có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển kinh tế - xã hội của đát nước ,Nền kinh tế hàng hóa ,nền kinh tế thị trường phải là một nền kinh tế đa thành phần ,đa hình thức sở hữu .Thế nhưng nền kinh tế thị trường mà chúng ta sẽ xây dựng là nền kinh tế thị trường hiện đại ,nên cần có sự tham gia quản lý , điều tiết của nhà nước
Kinh tế nhà nước phải nắm giữ vai trò chủ đạo ở một số lĩnh vực then chốt , nó như mạch máu của nền kinh tế . Cùng với việc nhấn mạnh vai trò chư đạo của kinh tế nhà nước ,cần coi trọng vai trò của khu vực tư nhân và kinh tế hỗn hợp , đặt chúng trong mối quan hệ gắn bó
Thứ ba: nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN là nhà nước pháp quyền XHCN , là nhà nước của dân , do dân , vì dân
Thứ tư : cơ chế vận hành của nền kinh tế được thực hiện thông qua cơ chế thị trường với sự tham gia và quản lý , điều tiết của nhà nước . Mọi hoạt động sản xuất – kinh doanh trong nền kinh tế được thực hiện thông qua thị trường . Các quy luật kinh té hàng hóa, kinh tế thị trường sẽ chi phối các hoạt động kinh tế
Thứ năm : mở cửa ,hội nhập nền kinh tế trong nước với nền kinh tế thế giới (gia nhâp WTO táng 11-2006 ) trên cơ sở giữ vững độc lập ,tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia là nội dung quan trọng của nền kinh tế thị trường nước ta . Qúa trình phát triển của kinh tế thị trường đi liền với xã hội hóa nền sản xuất xã hội ,Tiến trình xã hội hóa trên cơ sở phát triển nền kinh tế thị trường là không biên giới quốc gia về phương diện kinh té
Thứ sáu : thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đông thời với việc đảm bảo công bằng xã hội cũng là một nội dung quan trọng trong nền kinh tế thị trường ở nước ta phát triển trong công bằng và phát triển bền vững .
Thứ bẩy : giải quyết mối quan hệ giữa lao động và vốn , thông qua phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta , được thực hiện theo kết quả lao đọng và chủ yếu kết hợp với 1 phần theo vốn và tài sản. Đây là điểm khác biệt giữa nền kinh tế thị trường trong CNTB với nền kinh tế thị trường XHCN ở nước ta
Tóm lại : quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hương xã hội chủ nghĩa ở nước ta phải là” quá trình thục hiện dân giàu nước mạnh , tiến lên hiện đại trong một xã hội nhân dân làm chủ, nhân ái , có văn hóa , có kỷ cương, xóa bỏ áp bức, bất công tạo điều kiện cho mọi người có cuộc sống ám no, tự do, hạnh phúc” Việc phát triển nền kinh tế gắn liền với giải quyết các vấn đề xã hội, phát triển kinh tế ở nước ta là phát triển bền vững. Chúng ta phải biết kế thừa và phát triển những thành tựu của loài người. Trước hết phải sử dụng văn minh của kinh tế thị trường , loại bỏ những khuyết tật vốn có của nó để xây dưng xã hội chủ nghĩa có kết quả. Ở nước ta nếu biết sử dụng kinh tế thị trường với động lực cạnh tranh làm cho của cải dồi dào cộng thêm yếu tố chính trị một Nhà nước của dân, do dân, vì dân thì lý tưởng về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa sẽ thực hiện được.
2.2 Thực trạng nền kinh tế nước ta:
Sau hơn 10 năm đổi mới nền kinh tế nước ta đã có nhiều khởi sắc vượt qua khủng hoảng triền miên kéo dài hàng chục năm, tư năm 1991 đến nay nền kinh tế bắ đầu có sụ tăng trưởng, năm sau cao hơn năm trước, thời kỳ sau cao hơn thời kỳ thước.
Tuy nhiên khó khăn và thách thức vẫn đang còn lớn điển hình là nền kinh tế nước ta vẫn mang tính chất nông nghiệp lạc hậu,công nghiệp nhỏ bé què quặt, kết cấu hạ tầng còn kém phát triển, năng xuất chất lượng và hiệu quả còn thấp.
- Cụ thể trong nông nghiệp còn lạc hậu, chủ yếu bằng công cụ thô sơ nên năng xuất thấp . Trong khi đó công nghiệp chủ yếu nhập máy móc, thiết bị từ nước ngoài về và phải phụ thuộc vào họ.Công nghiệp chưa phục vụ tích cực cho nông nghiệp, điều này lam cho kinh tế nước ta mang tính chất nông nghiệp lạc hậu.
(bộ kế hoạch và đầu tư)
-Đầu tư khoa học công nghệ tuy có tăng nhưng còn thấp so với nhu cầu sử dụng. Chúng ta còn thiếu những chính sách cụ thể để tạo môi trường thuận lợi cho việc ứng dụng rộng rãi hơn nữa các thành tựu của khoa học công nghệ.
- Việc sử dụng, đãi ngộ đối với cán bộ khoa học kỹ thuật còn chậm, thêm vào đó là cơ sở hạ tầng còn kém gây ra lãng phí nguồn chất xám quý giảm
- Khả năng kiềm chế lạm phát chưa được triệt để. Ngân sách thu và chi chưa được cân đối. Nợ nước ngoài còn nhiều và chưa có khả năng thanh toán. Trong khi đó nhiều ngành, nhiều cơ sở, nhiều cán bộ quản lý chưa có ý thức tiết kiệm làm thất thoát, lẵng phí rất lớn. Tình trạng tham nhũng buôn bán lậu còn phổ biến như vụ Minh Phụng và Vũ Xuân Trường là điển hình và đây cũng là vấn đề mà cả xã hội quan tâm. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến những tệ nạn này, trong đó phải kể đến sự tác động của kinh tế thị trường.
Cụ thể tình hình lạm phát : hiện tượng quan hệ không bình thường, không cân đối giữa khối lượng hàng hoá lưu thông và khối lượng tiền phát hành nó được thể hiện bằng một sự gia tăng đáng kể mức giá chung do số lượng tiền phát hành quá mức cần thiết so với yêu cầu của lưu thông hàng hóa Nó cũng là kết quả và tình trạng chung của biện pháp điều tiết một cách bị động những sự căng thẳng của nền kinh tế quốc dân bằng biện pháp phát hành tiền tệ, được đặc trưng bằng tình hình tăng phổ biến mức giá cả chung hay tỉ lệ tăng mức giá chung trên thị trường xã hội vượt quá mức tăng của khối lượng hàng hoá lưu thông, và do đó là sự mất giá tương ứng của đồng tiền. Nguyên nhân trực tiếp là sự tràn ngập tiền giấy trong lưu thông do phát hành quá mức (so với các nhu cầu tiền thực chất - vàng); nó có thể là kết quả của việc giảm sút khối lượng hàng hoá trong lưu thông, trong khi khối lượng tiền đã phát hành không thay đổi hoặc tăng lên, làm cho tổng số cầu vượt xa tổng số cung xét về mặt giá trị (tức cũng là xét về mặt hiện vật); nó biểu hiện giá cả tăng một cách phổ biến, đồng tiền mất giá một cách tương ứng, đi liền với việc giảm thấp tiền lương thực tế , thu nhập thực tế của người lao động. Nếu LP làm tăng giá từ 3 - 4% năm là LP nhẹ, không gây đảo lộn kinh tế; trong những điều kiện kinh tế - xã hội bình thường, một nền kinh tế mà giá tăng dưới 2% thì được xem như ổn định; nếu LP 5 - 10% thậm chí đến 20% là LP chính thức, công khai, có tác động xấu đến kinh tế - xã hội; nếu từ 20% trở lên thì kinh tế rối loạn, mất ổn định. ở mức cao hơn là LP phi mã. Có những nước có những thời kì LP 100% trở lên thì xem là siêu LP. Hệ thống những biện pháp kinh tế - tài chính mà các quốc gia thường thi hành để chống LP là tăng tổng cung (đẩy mạnh sản xuất, nhập khẩu...), giảm tổng cầu (giảm chi ngân sách, hạn chế tín dụng dài hạn, không tăng tiền lương thực tế), tận thu thuế, phát hành công trái, tăng lãi suất tiết kiệm, giảm bội chi, thực hiện cân đối ngân sách, cân đối xuất - nhập khẩu, cân đối tiền - hàng nhằm mục tiêu ổn định và phát triển kinh tế, ổn định lưu thông tiền tệ và sức mua của đồng tiền. Ở Việt Nam, trong những năm đầu của thập kỉ 80, LP ở mức trầm trọng, năm 1988: LP 398,8 %, đến đầu thập kỉ 90 trở đi, LP đã giảm bớt đến mức dần dần xem như ổn định tương đối (năm 1990: 67,5%, năm 1995: 12,7%; năm 1996: 4,5%, năm 1997: 3,6%). Đó là nhờ có những biện pháp chỉ đạo mạnh mẽ và thích hợp, nhất là từ cuối 1996 và đầu 1997; trong đó có những giải pháp tình thế nhằm tháo gỡ khó khăn cho nền kinh tế, đầu tư hợp lí và đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu, tiết kiệm chỉ tiêu và cân đối ngân sách, nới lỏng cơ chế tín dụng hỗ trợ cho các doanh nghiệp, kích thích cầu như cung ứng lượng tiền cần thiết để tăng dự trữ ngoại tệ quốc gia, hỗ trợ vốn cho các công ti lương thực mua hết thóc hàng hoá của nông dân, điều chỉnh hạ lãi xuất cho vay, vv. Kết quả là năm 1997, chỉ số giá tăng rất ít, 6 tháng đầu năm tăng 1,1%, 6 tháng cuối năm tăng 2,5%, cộng với mức tương ứng với mức tăng giá, LP cả năm 1997 là 3,6%. Nhờ kiềm chế LP nên từ 1996 - 98, chỉ số tăng giá luôn luôn thấp dưới 10% (1996: 4,5%; 1997: 3,6%; 1998: khoảng 9,1%). Mức tăng trưởng GDP từ 9,5% năm 1995, 9,3% năm 1996; 9% năm 1997.
- Một hiện tượng đáng lưu ý nổi lên trong giai đoạn đầu bước sang kinh tế thị trường ở Việt Nam là tình trạng đọng vốn lòng vòng, thất thoát tài sản của Nhà nước, làm ăn thua lỗ trước sự cạnh tranh của thị trường ngày càng tăng. Nếu tính từ giai đoạn một khi tổng thanh toán nợ với trên 10.000 doanh nghiệp Nhà nước kê khai xác nhận 8.841 tỷ đồng tiền nợ, 4.624 doanh nghiệp đang hoạt động nợ lẫn nhau với tổng số 2.459 tỷ đồng
- Kinh tế quốc doanh và kinh tế hợp tác còn thấp, chưa phát huy và đầy đủ sức mạnh của cơ chế thì trường. Đối với kinh tế tư nhân chưa tháo hết những trở ngại gây khó khăn cho sự phát triển sản xuất, thiếu sự quản lý, hướng dẫn. Tình trạng làm ăn trái pháp luật diễn ra khá phổ biến ở nước ta hiện nay, các doanh nghiệp Nhà nước, kinh tế tập thể. Hiện nay kinh tế hàng hóa mới phát triển, lực lượng sản xuất còn ở tình trạng thấp, chưa phát triển cân đối, mô hình sở hữu lúc này có các đặc trưng sau:
Vốn trong tay Nhà nước dưới hình thức các xí nghiệp quốc doanh bị phân tán ở các vùng.
Chủ sở hữu tài sản ở các xí nghiệp quốc doanh không rõ ràng.
Quyền sở hữu tài sản của Nhà nước với kinh doanh của các xí nghiệp vẫn bị nhập lại làm một.
Một số vấn đè khác:
a. trình độ phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta còn ở giai đoạn sơ khai.Đó là do:
- Cơ sở vật chất –kĩ thuật còn ở trình độ thấp ,bên cạnh một số lĩnh vực , một số cơ sở đã được trang bị kĩ thuật và công nghệ hiện đại ,trong nhiều nghành kinh tế máy móc cũ kĩ , công nghệ lạc hậu .
- Kết cấu hạ tầng như đường giao thông , bến cảng , thông tin liên lạc,còn kém phát triển
- Cở sở vật chất – kĩ thuật còn thấp làm cho công nhân lao động kém phát triển , sự chuyển dịch cơ cấu chậm
- Khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường trong nước , cũng như thị trường nước ngoài còn yếu
b. thị trường dân tộc thống nhất đang trong quá trình hình thành nhưng chưa đồng bộ
- Do GTVT kém phát triển nên chưa lôi cuốn được tất cả các vùng trong nước vào một mạng lưới lưu thông hàng hóa thống nhất
- Thị trường hàng hóa – dịch vụ đã hình thành nhưng còn hạn hẹp và còn có nhiều tiêu cực
c , nhiều thành phần kinh tế tham gia thị trường
Do vậy nền kinh tế nước ta có nhiều loại hình sản xuất hàng hóa cùng tồn tại , đan xen nhau , trong đó sản xuất hàng hóa nhỏ còn phổ biến
d. Sự hình thành thị trường trong nước gắn với mở rộng kinh tế đối ngoại hội nhập vào thị trường khu vực và thế giới , trong hoàn cảnh trình độ phát triển kinh tế- kĩ thuật của nước ta thấp xa so với hầu hết các nước khác
e. quản lý nhà nước về kinh tế xã hội còn yếu kém
2.3 Vai trò của Nhà nước Việt Nam trong thời kỳ chuyển nền kinh kế sang vận hành theo cơ chế thị trường
Ở Việt Nam Nhà nước đóng vai trò rất quan trọng để rút ngắn chăng đường lịch sử hàng trăm năm trong thời gian vài chục năm . Vì vậy Nhà nước ta cẩn thực hiện những nhiêm vụ sau:
- Nhà nước sử dụng quyền lực kinh tế - chính trị của mình để tiêp tục tự do giá cả,thương mại hóa nền kinh tế
- Nhà nước đảm nhận vai trò thiết lập quyền sở hữu các nguồn lực kinh tế theo hướng xác định.
- Nhà nước đóng vai trò đỡ đầu cho sự ra đời của cơ chế thị trường.
- Xây dưng kết cấu hạ tầng kỹ thuật,tạo môi trường hấp dẫn cho các doanh nghiệp
- Cải tổ bộ máy hành chinh sao cho gọn nhẹ,năng động,đôn giản hóa các thu tục hành chính
Với vai trò này,Nhà nước ta tiến hành quản lý nền kinh tế quốc dân vơi nội dung chủ yếu như sau:
- Quyết định chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
Cung cấp tầm nhìn dài hạn, làm cơ sở cho việc xây dựng quy hoạch và kế hoạch phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta
- Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội : cụ thể hóa cho việc triển khai chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
- Tổ chức đảm bảo việc thực hiện kế hoạch đã định
- Chỉ huy và phối hợp nhằm bảo đảm cho hoạt động của các chủ thể kinh tế dược thực hện trôi chảy, giải quyết kịp thời các vấn đề nảy sinh.
- Khuyến khích và trừng phạt: khuyến khích các hoạt động tích cực trong việc thực hiện chiến lược và kế hoạch của Nhà nước.Ngăn chặn và trừng phạt những hành vi không làm theo định hướng kế hoạch ,vi phạm pháp luật
CHƯƠNG IIIMỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM ĐỔI MỚI VÀ TĂNG CƯỜNG VAI TRÒ KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC TA HIỆN NAY
Trong thời đại ngày nay việc nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước là xu hướng khách quan đối với tất cả các nước không phân biệt chế độ chính trị .Ngày nay không có một Nhà nước nào đứng ngoài đời sống kinh tế, không có một nền kinh tế thị trường nào đứng ngoài đời sống kinh tế, không có một nền kinh tế thị trường nào thuần túy mà ở những góc độ khác nhau đều có sự can thiệp của Nhà nước.
Mỗi quốc gia trong các trường hợp kinh tế phát triển thành công, hay suy thoái trì trệ, giàu hay nghèo, ổn định hay rối loạn đều tim thấy nguyên nhân chủ yếu ở vai trò của nhà nước. Vì thế chuyển sang kinh tế thị trương chỉ là điều kiện cần, điều kiện đủ lchinhs là vai trò của Nhà nước. Ở nước ta quản lý Nhà nước về mặt kinh tế là sư quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước và tất cả chúng ta. Vì trong một thời gian dài đã tồn tại tronh kinh tế hiện vật với sự cường điệu quá mức vai trò của Nhà nước trở thành nhân tố kìm hãm sự phat triển kinh tế tạo ra mô hình xã hội chủ nghĩa hành chính Nhà nước . Vì vậychuyển sang nền kinh tế thị trường, vai trò của nhà nước trong kinh tế là quan trọng và là xu hướng tất yếu.Vì vậy chúng ta luôn luôn phải củng cố và nâng cao các công cụ quản lý vĩ mô.Thông qua đó đưa ra các giai pháp
Nhà nước sử dụng các công cụ quản lý vĩ mô nhằm củng cố và nâng cao sự phát triển của nền kinh tế :
- Luật pháp : công cụ nhăm quy định’’ quy tăc trò chơi kinh tế’’,dung để tạo lập các tiêu chuẩn có tính bắt buộcđối với mọi chủ thể tham dự nền kinh tế, là công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước, nó tạo ra khuôn khổ pháp luật cho c._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 11195.doc