mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Gia đình là tế bào của xã hội, nơi cuội nguồn sinh ra và lớn lên, nơi trẻ em được chăm lo về thể chất trí tuệ, đạo đức và nhân cách để hòa nhập với cộng đồng xã hội. Trong một chế độ xã hội nhất định tuy gia đình không phải là thiết chế duy nhất có vai trò trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em nhưng chúng ta cũng khẳng định rằng: Gia đình là môi trường đầu tiên và có tầm quan trọng quyết định việc hình thành nhân cách của trẻ ảnh hưởng lâu dài và t
103 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1698 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Vai trò gia đình trong việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em ở tỉnh Hà Giang hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
oàn diện với mỗi cá nhân trong suốt cuộc đời, nhà trường, xã hội là nền tảng bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em rất quan trọng, song vai trò của nó chỉ có thể được phát huy có hiệu quả khi lấy bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em ở gia đình làm nền tảng.
Sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em là một sự nghiệp lớn lao và hệ trọng. Với tầm nhìn xa trông rộng “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dày công chăm sóc vun trồng thế hệ mầm non của đất nước. Người nói: “Ngày nay các cháu là nhi đồng, ngày sau các cháu là người chủ của nước nhà, của thế giới”. Người đặt niềm tin vào lớp trẻ: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các cháu” [22, tr.33].
Thấm nhuần tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước, chiến lược phát triển con người được đặc biệt coi trọng, trong đó ưu tiên cho trẻ em chiếm vị trí hàng đầu. Việt Nam là quốc gia đầu tiên ở châu á và là nước thứ hai trên thế giới phê chuẩn công ước hành động quốc gia về quyền trẻ em. Ngay sau đó, chương trình hành động Quốc gia vì trẻ em được thông qua, khẳng định việc dành ưu tiên cho trẻ em các các quyền được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe, giáo dục, vui chơi giải trí và phát triển văn hóa.
Mặc dù còn nhiều khó khăn về kinh tế xã hội Đảng, Nhà nước và nhân dân ta vẫn tập trung mọi nỗ lực, huy động nhiều nguồn lực trong đó có sự giúp đỡ quốc tế nhằm giải quyết các vấn đề quan trọng về trẻ em, như sức khỏe, dinh dưỡng, giáo dục… đặc biệt là các đối tượng thiệt thòi vùng sâu, vùng xa; đồng thời thường xuyên giám sát việc thực hiện xây dựng bổ sung luật pháp cho phù hợp với việc bảo vệ quyền trẻ em, phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của Việt Nam. Tuy nhiên hiện nay dưới sự tác động mặt trái của nền kinh tế thị trường, tốc độ đô thị hóa nhanh, hội nhập và giao lưu rộng cũng đã du nhập vào những văn hóa phẩm độc hại đã và đang ảnh hưởng trực tiếp đến vai trò chức năng của gia đình đặc biệt là các gia đình nghèo, đến phụ nữ và trẻ em khó khăn, thường không đủ điều kiện bảo vệ, chăm sóc, giáo dục con cái của mình theo ý muốn.
Hà Giang là một tỉnh miền núi, trình độ dân trí còn thấp, không đồng đều với 22 dân tộc anh em, địa bàn đi lại khó khăn. Do đó công tác bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em còn nhiều hạn chế, nhất là trẻ em dân tộc thiểu số chịu thiệt thòi hơn trong các lĩnh vực đời sống xã hội, tình trạng lao động nặng nhọc ngay từ khi còn bé. Điều đó đã ảnh hưởng đến quyền học tập, vui chơi giải trí và phát triển thể chất của các em.
Do đó tôi chọn đề tài: “Vai trò gia đình trong việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em ở tỉnh Hà Giang hiện nay” với hy vọng đề tài này sẽ góp phần nhỏ bé vào việc nâng cao nhận thức xã hội vào việc dành cho trẻ em có những điều kiện tốt nhất để phát triển.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Vấn đề gia đình cũng như vấn đề bảo vệ, chăm sóc trẻ em, từ lâu đã được các nhà giáo dục, Tâm lý học, xã hội nghiên cứu.
Tiêu biểu là một số công trình của Pêtrecnhicôva: “Giáo dục trong gia đình Mác”, Nxb thanh niên, Hà nội.1977; A. Macarencô: “Nói chuyện về giáo dục Gia đình” Nxb Kim Đồng, Hà Nội.1978 ; I.A Pêtecnhicôva, “Dạy con yêu lao động”, Nxb phụ nữ, Hà Nội.1980.
Các công trình này đã đề cập một số khía cạnh về giáo dục trẻ em trong môi trường gia đình. A. Macarencô nhấn mạnh: Giáo dục trẻ em phải được bắt đầu từ thời thơ ấu và từ gia đình. Nếu tuổi thơ không được gia đình giáo dục ngay từ đầu, thì công việc giáo dục sẽ tốn kém rất nhiều về công sức không chỉ của gia đình mà còn của xã hội. Theo I.A Pêsecnhicôva: Muốn con cái lớn lên khỏe mạnh, vui tươi yêu đời và cống hiến được nhiều cho xã hội, thì lúc còn nhỏ phải được giáo dục về lao động (lao động học tập, lao động gia đình và lao động xã hội…), bởi con người được hình thành, trước hết phải trải qua quá trình lao động.
Tháng 12/1989, Đại hội đồng liên hiệp quốc đã thông qua “Công ước quốc tế về quyền trẻ em”. Nội dung của công ước quy định từng vấn đề cụ thể liên quan đến toàn bộ cuộc sống tinh thần và vật chất của trẻ em. Người thực hiện Công ước này là toàn thể nhân loại, trong đó có đề cập đến trách nhiệm của gia đình trong việc bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em.
ở Việt Nam ngay từ đầu Cách mạng tháng Tám - 1945, Bác Hồ và Đảng ta đã rất quan tâm đến vấn đề gia đình và trẻ em, đã có nhiều văn bản bài viết, bài phát biểu về gia đình và bảo vệ, chăm sóc trẻ em. ủy Ban bảo vệ, chăm sóc trẻ em Việt Nam “Một số văn kiện của Đảng và nhà nước về bảo vệ, chăm sóc giáo dục trẻ em”. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.1996 và “Chương trình hành động quốc gia về trẻ em Việt Nam giai đoạn 2001 - 2010” Nxb Văn hóa phẩm, Hà Nội.2002; TS Vũ Văn Cương (tuyển chọn), “Hồ Chí Minh về bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em” Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.1997; Nguyễn Văn Minh (sưu tầm, tuyển chọn), “Việt Nam và các văn kiện quốc tế về quyền trẻ em” Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.1997; Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, “Luật giáo dục”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.1998. Tất cả các bài viết, các văn bản trên đã tạo điều kiện tốt về mặt pháp lý để đáp ứng đầy đủ các quyền của trẻ em, và ngăn chặn sự xâm hại đối với trẻ em, tạo môi trường nhận thức và pháp lý tốt nhất để trẻ em được bảo vệ, chăm sóc và giáo dục.
Trong những năm gần đây, ở nước ta đã có một số công trình nghiên cứu về vấn đề này như: “Tìm hiểu tâm lý trẻ em” do Nguyễn Khắc Viện chủ biên, Nxb Kim Đồng, Hà Nội. 1993 ; “Gia đình và vấn đề giáo dục gia đình” do GS Lê Thi (chủ biên) Nxb KHXH, Hà Nội.1994 ; “Gia đình Việt Nam với chức năng xã hội hóa” của TS Lê Ngọc Văn - Nxb Giáo dục, Hà Nội. 1996; “ Vai trò gia đình trong sự hình thành nhân cách con người Việt Nam” của GS Lê Thi (chủ biên) - Nxb Phụ nữ, Hà Nội.1997.
Các bài viết này đã cung cấp cho các bậc cha mẹ những hiểu biết về gia đình trang bị những kiến thức khoa học để nuôi dạy con cái thành những công dân tốt có ích cho xã hội với những nội dung chăm sóc gia đình hết sức cơ bản: Đức, trí, thể, mỹ và lao động.
Dưới góc độ chuyên ngành, cũng có một số luận văn, luận án nghiên cứu các vấn đề Gia đình, Phụ nữ; Gia đình - Giáo dục gia đình: Luận văn Th.s của Phan Thanh Hùng: “Sự biến đổi chức năng gia đình trong kinh tế thị trường hiện nay” Hà Nội.1996; Luận văn Th.s Phạm Thị Xuân “Gia đình trong việc bảo vệ, chăm sóc trẻ em ở nước ta hiện nay” Hà Nội.2004; Luận án T.s của Đặng Thị Linh, “Vấn đề phụ nữ trong gia đình Việt Nam hiện nay - Thực trạng và giải pháp” Hà Nội. 1997; Luận án T.s của Nghiêm Sỹ Liêm “Vai trò của Gia đình Việt Nam hiện nay trong việc giáo dục thế hệ trẻ ở nước ta hiện nay” H. 2001; Luận án TS của Dương Thị Minh “Gia đình Việt Nam vai trò người phụ nữ hiện nay” Hà Nội. 2003; Luận văn tốt nghiệp Đại học chính trị khóa I của Đồng Minh Lại “Phát huy vai trò của gia đình trong xây dựng con người mới ở tỉnh Bình Thuận hiện nay” Hà Nội. 2001.
Các công trình này góp phần làm rõ thêm về mặt lý luận cũng như thực tiễn về vai trò của gia đình trong việc hình thành nhân cách của con người. Tuy nhiên căn cứ vào điều kiện thực tiễn ở tỉnh Hà Giang vấn đề bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em còn nhiều hạn chế. Tôi thấy rằng việc làm rõ vai trò của gia đình trong việc bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em ở tỉnh Hà Giang hiện nay là một vấn đề bức xúc, không trùng lặp với các luận văn, luận án sau đại học và các công trình nghiên cứu đã được công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích:
Luận văn làm rõ thực trạng việc bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em của gia đình ở tỉnh Hà Giang trong giai đoạn hiện nay. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao vai trò của gia đình trong công tác bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em ở tỉnh Hà Giang.
* Nhiệm vụ:
+ Làm rõ thực trạng bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em trong gia đình ở tỉnh Hà Giang trong giai đoạn hiện nay.
+ Phân tích những nội dung cơ bản của công tác bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em trong gia đình ở tỉnh Hà Giang trong giai đoạn hiện nay.
+ Từ đó rút ra những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân đề xuất một số giải pháp kiến nghị để từ đó nhằm nâng cao vai trò của gia đình trong việc bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em ở tỉnh Hà Giang trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn tập trung nghiên cứu vai trò của gia đình trong lĩnh vực bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em ở địa bàn tỉnh Hà Giang hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về gia đình, trẻ em và vai trò của gia đình trong việc bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em.
Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu như: Phân tích, tổng hợp, lôgic, lịch sử, so sánh, điều tra xã hội học.
6. Đóng góp mới của Luận văn
- Luận văn góp phần làm sáng tỏ thêm về mặt lý luận vai trò của gia đình trong việc bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em và thực tiễn ở một tỉnh còn nhiều khó khăn như Hà Giang.
- Luận văn thành công sẽ cung cấp nguồn tư liệu để các cấp ủy chính quyền các tổ chức xã hội các gia đình ở Hà Giang tham khảo, từ đó làm tốt hơn công tác bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, luận văn có 3 chương.
Chương : Gia đình với việc bảo vệ, chăm sóc,giáo dục trẻ em
1.1. Gia đình và trẻ em
1.1.1. Gia đình và chức năng của gia đình
* Khái niệm gia đình:
Gia đình có vị trí đặc biệt quan trọng và là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học. Những chủ đề nghiên cứu về gia đình luôn thu hút được sự quan tâm của các nhà khoa học không chỉ ở Việt Nam mà trên cả thế giới. Đến nay khái niệm về gia đình vẫn chưa được xác định một cách thống nhất và rõ ràng nhưng nhiều quốc gia đồng thuận một cách hiểu chung nhất: “Gia đình là đơn vị cơ bản của tổ chức xã hội và là môi trường tự nhiên cho sự phát triển và hạnh phúc của mỗi thành viên, nhất là trẻ em” (Tuyên bố của liên hiệp quốc về tiến bộ xã hội trong phát triển).
Theo C.Mác “…hàng ngày tái tạo ra đời sống của bản thân mình, con người bắt đầu tạo ra những người khác, sinh sôi, nảy nở - đó là quan hệ giữa chồng và vợ, cha mẹ và con cái, đó là gia đình” [19, tr.41].
Với quan điểm này khái niệm về gia đình được nhìn nhận với 3 nội dung:
Một là, gia đình ra đời và tồn tại cùng với sự ra đời và tồn tại của xã hội loài người, con người cùng với quá trình tái tạo ra chính bản thân mình thì đồng thời cũng tái tạo ra gia đình.
Hai là, chức năng chính của gia đình là tái tạo, sinh sôi nảy nở con người.
Ba là, gia đình được tạo bởi hai mối quan hệ chủ yếu; quan hệ hôn nhân (chồng, vợ), quan hệ huyết thống (cha mẹ con cái).
Tổ chức UNESCO của Liên hiệp quốc đã quyết định lấy năm 1994 là năm quốc tế gia đình và thống nhất khẳng định: “Gia đình là một yếu tố tự nhiên cơ bản, một đơn vị kinh tế xã hội. Gia đình được coi như một giá trị vô cùng quý báu của nhân loại, cần được giữ gìn và phát huy” trên tinh thần đó UNESCO đã đưa ra định nghĩa: “Gia đình là một nhóm người có quan hệ họ hàng, cùng sống chung và có ngân sách chung với các thành viên trong gia đình gắn bó với nhau về trách nhiệm và quyền lợi về mọi mặt được pháp luật thừa nhận”.
ở Việt Nam cũng có nhiều nghiên cứu về gia đình. Xét từ góc độ xã hội học một định nghĩa về gia đình được thừa nhận là:
Gia đình là một nhóm xã hội hình thành trên cơ sở các quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc nuôi dưỡng các thành viên trong gia đình gắn bó với nhau về trách nhiệm và quyền lợi (kinh tế, văn hóa, tình cảm) giữa họ, là những quan hệ có tính pháp lý được nhà nước thừa nhận và bảo vệ, đồng thời có những qui định rõ ràng về quyền được phép và những cấm đoán trong quan hệ tình dục giữa các thành viên trong gia đình [1, tr.190].
Xét từ góc độ tâm lý học: Gia đình là một nhóm xã hội có quan hệ gắn bó về hôn nhân hoặc huyết thống, tâm sinh lý, có chung những giá trị vật chất, tinh thần, ổn định trong các thời điểm lịch sử. Gia đình là một đơn vị nhỏ nhất của xã hội có mối quan hệ chặt chẽ với xã hội và là tấm gương phản chiếu mọi thành tựu, cũng như mâu thuẫn của xã hội.
Tổng hợp và toàn diện hơn các nội dung trên tác giả Lê Thi cho rằng:
Khái niệm gia đình được sử dụng để chỉ một nhóm xã hội hình thành trên cơ sở quan hệ hôn nhân và huyết thống nảy sinh từ quan hệ hôn nhân đó và cùng chung sống (cha mẹ, con cái, ông bà, họ hàng, nội ngoại), gia đình có thể bao gồm một số người được gia đình nuôi dưỡng, tuy không có quan hệ huyết thống, các thành viên trong gia đình gắn bó với nhau về trách nhiệm và quyền lợi (kinh tế, văn hóa, tình cảm), giữa họ có những điều ràng buộc bởi tính pháp lý, được nhà nước thừa nhận và bảo vệ (được ghi rõ trong luật hôn nhân và gia đình của nước ta). Đồng thời trong gia đình có những quy định rõ ràng về quyền được phép và những cấm đoán trong quan hệ tình dục giữa các thành viên [33, tr.20-21].
Khái niệm về gia đình mang tính pháp lý ở Việt Nam được ghi rong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 (Điều 8) xác định: Gia đình là là tập hợp những người gắn bó với nhau do quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, hoặc do quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh các nghĩa vụ và quyền lợi giữa họ với nhau theo luật định.
Qua một số quan niệm về gia đình của các tác giả có thể thấy rằng gia đình được nhận diện trên các khía cạnh sau đây:
Một là, gia đình là một thiết chế xã hội được hình thành trước hết trên cơ sở của quan hệ hôn nhân. Quan hệ hôn nhân là sự liên kết lại các cá nhân (Nam - nữ) theo quy định của luật pháp, nhằm để cùng sống với nhau và xây dựng gia đình hạnh phúc. Quan hệ hôn nhân được biểu hiện là một loại quan hệ xã hội gắn liền với thân nhân đó là quan hệ vợ chồng kết hợp với nhau để sinh sản và cùng nuôi dạy con cái. Trong các xã hội có giai cấp, quan hệ hôn nhân là một hiện tượng xã hội mang tính giai cấp. Mỗi hình thái kinh tế xã hội có các kiểu hôn nhân đặc trưng và các giai cấp thống trị dùng luật để điều chỉnh các quan hệ hôn nhân cho phù hợp với ý chí và lợi ích của gia cấp mình.
Hai là, quan hệ huyết thống là quan hệ giữa cha mẹ và con cái, là sự tiếp tục và là hệ quả tất yếu của quan hệ hôn nhân, nó chỉ phát triển tốt đẹp dựa trên quan hệ tình yêu và hôn nhân chính đáng, hợp pháp.
Ba là, quan hệ nuôi dưỡng là loại quan hệ hình thành giữa chủ thể và đối tượng được nuôi dưỡng, họ gắn bó với nhau vì trách nhiệm, quyền lợi, nghĩa vụ, được họ hàng ủng hộ và được pháp luật thừa nhận, bảo vệ.
Như vậy, không thể có một định nghĩa duy nhất về gia đình cho mọi nền văn hóa, song với quan niệm như trên chúng ta có thể thống nhất về cơ bản: Gia đình là một cộng đồng người được xây dựng trên cơ sở hai mối quan hệ cơ bản là hôn nhân và huyết thống, được xã hội thừa nhận.
* Các chức năng cơ bản của gia đình:
Do khái niệm về gia đình không đồng nhất cho nên cũng có nhiều cách lý giải về chức năng của gia đình, tuy nhiên trong các tài liệu chính thức thường trình bày những chức năng cơ bản sau:
Thứ nhất, chức năng tái sản xuất ra con người.
Đây là chức năng đặc thù của gia đình, chức năng này đáp ứng nhu cầu tình cảm riêng, rất tự nhiên của các cá nhân là sinh con đẻ cái, đồng thời mang ý nghĩa chung lớn lao là cung cấp lớp người mới, đảm bảo sự phát triển liên tục và trường tồn của xã hội loài người. Trong mỗi gia đình, việc coi trọng chức năng sinh đẻ thể hiện ở việc trực tiếp quan tâm đến điều kiện vật chất và tinh thần thuận lợi cho việc mang thai sinh nở của các bà mẹ; việc sinh đẻ diễn ra ở từng gia đình nhưng lại quyết định đến mật độ dân cư, số lượng, chất lượng dân cư của mỗi quốc gia.
Hiện nay ở Việt Nam, việc thực hiện tái sản xuất ra con người đang diễn ra theo hai chiều hướng khác nhau.
Một là, nhiều gia đình đã nhận thức được sự cần thiết phải kế hoạch hóa gia đình, thực hiện gia đình ít con, khỏe mạnh, tạo điều kiện để có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Kế hoạch hóa gia đình vừa đảm bảo sức khỏe cho người mẹ vừa có điều kiện để chăm sóc sức khỏe tốt cho những đứa con mà mình sinh ra, có điều kiện nghỉ ngơi giải trí tham gia các hoạt động xã hội, học tập để nâng cao trình độ đa số. ở đây thường là những gia đình có trình độ dân trí cao sống ở thành phố, thị xã.
Hai là, một bộ phận gia đình chịu ảnh hưởng của các phong tục tập quán cũ với quan niệm đông con nhiều cháu, tư tưởng “Nối dõi tông đường” nên tỷ lệ sinh con còn cao. Bộ phận này thường là ở các gia đình nông thôn miền núi, vùng sâu, vùng xa nơi trình độ dân trí còn thấp. Đây cũng là nguyên nhân của tình trạng đói nghèo suy dinh dưỡng, và thất học ở trẻ em.
Tái sản xuất ra con người là một chức năng đặc biệt mà chưa có cộng đồng xã hội nào có thể thay thế được. Hiện nay nhờ có sự phát triển của khoa học kỹ thuật việc sinh sản của các gia đình có nhiều thuận lợi, tạo ra nhưng thế hệ con người có tương lai sức khỏe, có trí lực.
Do vậy trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhà nước, xã hội và gia đình không chỉ chú ý đến chất lượng dân số như một lực lượng lao động chủ yếu của sự phát triển xã hội mà điều quan trọng hơn là cần xem việc nâng cao chất lượng dân số như mục tiêu của sự phát triển kinh tế xã hội.
Đảng và Nhà nước ta rất chú trọng đến chính sách dân số làm sao điều tiết để có quy mô, cơ cấu dân số hợp lý. Gia đình phải nhận thức đúng đắn việc thực hiện chức năng “Tái sản xuất ra con người”. Đặc biệt chú ý đến người mẹ, người phụ nữ bởi vì nếu người phụ nữ suốt ngày quanh quẩn với công việc gia đình sẽ không có điều kiện để giao lưu học hỏi, không có kinh nghiệm nuôi dạy bảo vệ, chăm sóc giáo dục con cái. Mặt khác, phần đông các gia đình khi sinh nhiều con, khó thoát khỏi sự thiếu ăn, nghèo đói… trẻ em không được bảo vệ, chăm sóc, giáo dục chu đáo, do đó việc thực hiện chức năng tái sản xuất ra con người phải theo hướng “Xây dựng quy mô gia đình ít con, no ấm, bình đẳng tiến bộ hạnh phúc và bền vững” [5, tr.175].
Thứ hai, chức năng kinh tế.
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, từ khi xuất hiện nhà nước dù còn sơ khai hay hiện đại, gia đình đều được xem là một đơn vị kinh tế.
Chức năng kinh tế là chức năng cơ bản của mỗi gia đình góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho mỗi thành viên trong gia đình và nó tạo điều kiện cho các chức năng khác thực hiện có hiệu quả, đồng thời qua chức năng này sẽ đóng góp cho sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia.
Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ, xã hội loài người tồn tại và phát triển là do hai loại sản xuất quyết định, sản xuất ra con người và sản xuất ra của cải vật chất. Nhận định đó cho thấy vai trò to lớn của hoạt động kinh tế gia đình đối với xã hội nói chung và gia đình nói riêng. Hoạt động kinh tế là chức năng của mọi gia đình, trong mọi thời đại (tất nhiên với mức độ không giống nhau) đã làm cho gia đình không những là đơn vị kinh tế tiêu dùng mà còn là đơn vị sản xuất ra của cải vật chất để thỏa mãn nhu cầu của mọi thành viên trong gia đình và làm giàu cho xã hội. Cùng với quá trình xã hội hóa lực lượng sản xuất ở từng lúc, từng nơi kinh tế gia đình biến đổi phong phú và có vị trí khác nhau: có thể là một đơn vị kinh tế cơ sở chủ động và tự chủ dưới dạng kinh tế hộ gia đình, hay gia đình làm kinh tế không hoạt động như một đơn vị kinh tế độc lập tự chủ mà các thành viên của gia đình sản xuất làm việc ở các đơn vị quốc doanh, tập thể hay xí nghiệp tư nhân. Dù trong điều kiện nào, dưới bất kỳ hình thức nào gia đình vẫn đảm bảo nhu cầu sinh hoạt vật chất, tinh thần của các thành viên trong gia đình, làm giàu cho xã hội.
Trong thời kỳ đầu của xã hội xã hội chủ nghĩa còn sản xuất hàng hoá, còn nhiều thành phần kinh tế và khi kinh tế tập thể, kinh tế nhà nước chưa đáp ứng đầy đủ nhu cầu phong phú của cuộc sống, thì kinh tế cá thể và tiểu chủ hoạt động phần lớn dưới hình thức hộ gia đình là một bộ phận đông đảo có tiềm năng to lớn, và có vị trí quan trọng lâu dài. Hoạt động kinh tế hộ gia đình có những mức độ và hình thức khác nhau ở mỗi dạng gia đình cụ thể, nhưng đều vì mục đích tăng thu nhập làm giầu chính đáng, tạo lên nhiều loại sản phẩm vật chất để thúc đẩy các chức năng khác của gia đình và xã hội. Do đó cần có chính sách giúp đỡ hỗ trợ để kinh tế gia đình vận động đúng hướng và hài hòa với nền kinh tế chung của đất nước.
Thứ ba, chức năng tiêu dùng.
Việc tiêu dùng của gia đình hướng vào mua sắm những sản phẩm phục vụ đời sống vật chất cũng như đời sống tinh thần của gia đình. Chức năng này thường phụ thuộc nhiều vào thu nhập và đóng góp chung từ kết quả lao động của các thành viên trong hoạt động kinh tế gia đình hoặc xã hội.
Xã hội càng phát triển càng thúc đẩy việc mua sắm các sản phẩm, các thiết bị, các dụng cụ phục vụ sinh hoạt hàng ngày của gia đình ngày càng nhiều hơn và thuận tiện hơn. Thực tế cho thấy việc tiêu dùng vật chất và tinh thần ngày càng được mở rộng và đa dạng hơn bằng hệ thống các dịch vụ và phúc lợi xã hội, nhưng điều đó không thay thế hoàn toàn chức năng tiêu dùng của gia đình. Tổ chức tiêu dùng về đời sống vật chất và tinh thần của gia đình có chiều hướng đi sâu vào đáp ứng nhu cầu phong phú, duy trì sắc thái và sở thích sinh hoạt riêng của từng gia đình, của các thành viên, công việc nội trợ gia đình vẫn cần thiết và mang tính chất của một bộ phận hoạt động kinh tế - xã hội nhằm tái tạo và phát triển sức lao động, cũng như trí lực và thể lực nói chung của mọi thành viên trong gia đình, trong đó việc chăm sóc những thành viên là trẻ em thiệt thòi là nhiệm vụ rất đáng lưu ý, và cần được ưu tiên và bằng phương thức phù hợp với tâm lý, khoa học và điều kiện của gia đình và xã hội. Quan tâm lẫn nhau giữa các thành viên trong gia đình vừa là trách nhiệm vừa là đạo lý, hơn nữa ngày nay nhiều quốc gia đã xác định đó là một quyền: “Quyền được hưởng sự chăm sóc giữa các thành viên trong gia đình”.
Trong chủ nghĩa xã hội cần tạo cho gia đình có những điều kiện thuận lợi để nghỉ ngơi, hưởng thụ hợp lý và chính đáng thành quả lao động của mình. Việc động viên các gia đình nâng cao thu nhập trên cơ cở đó định hướng cho sự tiêu dùng lành mạnh, tạo điều kiện tốt để kiến thức khoa học và các phương tiện kỹ thuật đi vào công việc nội trợ góp phần giải phóng phụ nữ là những vấn đề thiết thực cho sự nghiệp xây dựng gia đình mới.
Thứ tư, chức năng giáo dục.
Sinh con, nuôi con,, dạy dỗ con cái là những hoạt động không thể tách rời nhau trong gia đình. Cha mẹ có nghĩa vụ thương yêu, nuôi dưỡng giáo dục con cái, chăm lo việc học tập và sự phát triển lành mạnh của con cái về cả thể chất lẫn tinh thần.
Chúng ta khẳng định đây là một chức năng hết sức quan trọng của gia đình, góp phần tạo ra những thế hệ công dân mới có ích cho gia đình và cho xã hội, là lớp người kế cận lớp người đi trước, là những chủ nhân tương lai của đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
C.Mác đã khẳng định rằng, con người là một sinh vật - xã hội. Sau khi lọt lòng mẹ, nếu đứa trẻ không được sống trong môi trường xã hội, không được hưởng chế độ giáo dục của gia đình, và của xã hội, đứa trẻ không trở thành một con người đúng nghĩa. Khoa học đã chứng minh thuyết phục vấn đề này. Bởi vậy có thể khẳng định rằng, quá trình chuyển biến đứa trẻ thành một con người thực sự được diễn ra trong môi trường xã hội, trong đó đặc biệt là chăm sóc của gia đình.
Những thành tựu của khoa học ngày nay và thực tiễn cuộc sống vẫn khẳng định: Chăm sóc giáo dục gia đình có vai trò đặc biệt to lớn, vì nuôi dưỡng, giáo dục gia đình mang tính cá biệt và đậm nét giáo dục thông qua tình cảm. Trong khi giáo dục nhà trường, giáo dục xã hội không phân biệt giới tính, trí tuệ sức khỏe, đặc điểm nhân cách, hoàn cảnh sống trong cá nhân, thì giáo dục gia đình lại tính đến tất cả những yếu tố đó của đối tượng giáo dục, gia đình là môi trường đầu tiên cho con người lớn lên.
Chức năng giáo dục của gia đình là rất quan trọng và có nội dung lớn. Nội dung giáo dục gia đình chính là những yếu tố của văn hóa gia đình và văn hóa cộng đồng nhằm tạo lập và phát triển nhân cách của con người như đạo đức, lối ứng xử, tri thức lao động và tri thức khoa học…giáo dục gia đình được thực hiện ở mọi chu trình sống của con người: lúc còn ẵm ngửa, giai đoạn tuổi thơ, khi trưởng thành, lúc già cả.. ở từng chu trình ấy có những nội dung và hình thức giáo dục cụ thể như lời ru của mẹ, tấm gương sống và làm việc của những người thân, những nhắn nhủ của cha mẹ, giảng giải của ông bà… ngay trong hoạt động tiêu dùng để thực hiện tổ chức đời sống vật chất và tinh thần cho các thành viên cũng một phần lớn phục vụ chức năng giáo dục gia đình.
Trong chủ nghĩa xã hội chức năng giáo dục gia đình thực sự góp phần lớn lao vào việc đào tạo thế hệ trẻ xây dựng con người mới nói chung, vào việc duy trì và phát triển đạo đức, văn hóa dân tộc. Giáo dục gia đình là bộ phận của giáo dục xã hội, giáo dục trong gia đình mới đòi hỏi sự cố gắng cao và những hiểu biết về khoa học, tâm lý…của cha mẹ và của mọi thành viên khác, kết hợp chặt chẽ môi trường giáo dục (gia đình, nhà trường, xã hội) để tiến tới mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước là một yêu cầu quan trọng.
Với sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cơ chế quản lý và sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ vai trò chăm sóc của gia đình cũng có nhiều thay đổi, không ít gia đình đã phá vỡ đi nền tảng đạo đức của gia đình, không ít cha mẹ cảm thấy lúng túng bất lực trước sự giáo dục con. Một số gia đình ít quan tâm đến việc học tập của con cái, phó mặc cho nhà trường, người giúp việc, buông lỏng giáo dục đạo đức và cách ứng xử đúng đắn, tình nghĩa đã gây hậu quả tiêu cực. Có những gia đình đã dung túng cho tính tham lam, ích kỷ, ngang ngược của con cái, để cho quan niệm tư lợi, “Đồng tiền trên hết” ngự trị lưu hành trong mọi hoạt động sống của của gia đình, thậm chí có những gia đình cha mẹ sống buông thả, có hành vi thất đức, không ý thức được rằng những điều này đã làm ảnh hưởng không tốt đến việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
Thứ năm, chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý, tình cảm trong gia đình.
Đây là chức năng có ý nghĩa quan trọng trong việc chia sẻ tình yêu thương gắn bó giữa các thành viên của gia đình, đặc biệt là tình yêu hạnh phúc lứa đôi, tổ ấm của gia đình vừa là điểm xuất phát cho con người trưởng thành, vững tin để bước vào cuộc sống xã hội đồng thời cũng là niềm bao dung an ủi cho mỗi cá nhân trước những rủi ro sóng gió của cuộc đời. Càng về cuối đời, con người càng tin thấm thía và khát khao tìm về sự bình ổn, thỏa mãn nhu cầu bằng trạng thái tâm lý, trong sự chăm sóc đùm bọc của gia đình. Sống trong một gia đình tâm lý được thoải mái, tình cảm lành mạnh, trong sáng, trẻ em sẽ lớn lên với tâm hồn trong sáng.
Như vậy, gia đình là một thiết chế đa chức năng, trên đây là những chức năng cơ bản nhất. Thông qua việc thực hiện những chức năng mà gia đình tồn tại và phát triển, đồng thời tác động đến tiến bộ chung của xã hội. Các chức năng được thực hiện trong sự thúc đẩy hỗ trợ lẫn nhau, việc phân chia nội dung các năng chỉ là tương đối. Nhiều khi các chức năng được thực hiện tổng hợp trong một công việc hoặc nhiều hoạt động của gia đình ở từng nơi và các giai đoạn lịch sử khác nhau, nội dung và vị trí của mỗi chức năng có sự biến đổi phù hợp. Các chức năng đều ảnh hưởng sâu sắc đến việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
1.1.2. Trẻ em trong gia đình và trong phát triển xã hội
1.1.2.1. Trẻ em
Trẻ em là một thuật ngữ nhằm chỉ một nhóm xã hội thuộc về một độ tuổi nhất định trong giai đoạn đầu của sự phát triển con người. Đó là những người chưa trưởng thành, còn non nớt về thể chất và trí tuệ, dễ bị tổn thương, cần được bảo vệ và chăm sóc đặc biệt, kể cả sự bảo vệ thích hợp về mặt pháp lý. Về vị thế xã hội, trẻ em là một nhóm thành viên xã hội ngày càng có khả năng hội nhập xã hội với tư cách là chủ thể tích cực, có ý thức, nhưng cũng là đối tượng cần được gia đình và xã hội quan tâm bảo vệ, chăm sóc và giáo dục.
Khái niệm “Trẻ em” đã được đề cập trong tuyên bố Giơ ne vơ (1924) và tuyên bố của Liên Hợp Quốc về Quyền trẻ em (1959). Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (1966). Tuyên ngôn về quyền con người (1968).. Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966, công ước của liên hợp quốc về quyền trẻ em (1990)…
Theo điều I của Công ước liên hợp quốc về quyền trẻ em, “Trẻ em có nghĩa là mọi người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ em đó qui định tuổi thành niên sớm hơn” [2, tr.15]. Tuy nhiên, luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em ở nước ta (15/6/2004) xác định trẻ em là “Công dân Việt Nam dưới 16 tuổi” [17, tr.21].
Từ những ý kiến đã nêu trên về phương diện pháp lý có thể đi đến thống nhất khái niệm trẻ em theo pháp luật Việt Nam là: “Trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi” là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất cũng như về tâm sinh lý, trình độ nhận thức và kinh nghiệm sống của trẻ bị hạn chế, thiếu những điều kiện và bản lĩnh tự lập khả năng kiềm chế chưa cao, dễ bị kích động lôi kéo vào hoạt động phiêu lưu mạo hiểm.
Quy định trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi sẽ tạo điều kiện tập trung hơn cho những đối tượng thuộc nhóm tuổi nhỏ. Quy định này sẽ là căn cứ chính để xây dựng chiến lược bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em trong giai đoạn tới. Tuy nhiên, trong thực tiễn hoạt động, lứa tuổi 16 - 18 vẫn cần được coi là trẻ em vì đây là lứa tuổi thuộc nhóm vị thành niên mà công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em cần đặc biệt quan tâm. Để làm rõ khái niệm về trẻ em, cần phân tích đặc điểm tâm lý trẻ em.
* Đặc điểm tâm lý của trẻ em:
Tâm lý là sự phản ánh thế giới khách quan bằng hoạt động của bản thân mỗi người. Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng, thế giới khách quan là tất cả những gì tồn tại ngoài ý thức của con người. Các hiện tượng tâm lý cảm giác, ý thức của chúng ta chỉ là hình ảnh của thế giới bên ngoài.
Tâm lý người là một loại hiện tượng tinh thần được tạo ra do thực tại khách quan tác động vào não của một người cụ thể bằng hoạt động của người ấy. Tâm lý người bao giờ cũng là cái “riêng” của từng người, nhưng “cái riêng” ấy từ “cái chung” của loài người, dân tộc, địa phương gia đình mà ra, “cái riêng” là “c._.ái chung” ở trong một con người cụ thể. Bằng giáo dục, vui chơi, lao động, giao tiếp, gia đình hay xã hội truyền đạt các tri thức ấy từ thế hệ này qua thế hệ khác. Mỗi người lĩnh hội vốn liếng đó, biến thành vốn sống kinh nghiệm, tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, tình cảm, ý chí…của riêng mình. Đó chính là tâm lý của bản thân mỗi người, cuộc sống phức tạp đa dạng sinh động chừng nào thì tâm lý phức tạp, đa dạng, sinh động chừng đó.
Trẻ em bắt đầu bằng các quan hệ với cha mẹ, sau dần giao tiếp với các thành viên khác trong gia đình… bạn bè, làng xóm, thầy cô…Trẻ em tiếp thu nếp sống hàng ngày thói quen tập tục của gia đình, làng xóm, địa phương biến thành vốn sống, kỹ năng kỹ xảo, ý chí tình cảm, động cơ thái độ của riêng, đó là quá trình hình thành tâm lý. Trẻ em là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất và trí tuệ, sự non nớt của trẻ em về mặt tâm sinh lý, những thiếu hụt và khiếm khuyết mà bản thân trẻ em không thể tự giải quyết được luôn luôn tồn tại như những đặc điểm của lứa tuổi. Do đó đòi hỏi người lớn phải có sự quan tâm đúng mức để tạo ra định hướng tích cực cho sự phát triển nhân cách ở trẻ em từ đó bảo vệ, chăm sóc hỗ trợ trẻ.
Khi còn nhỏ mối quan hệ xã hội của trẻ chủ yếu là gia đình hoạt động giao tiếp cảm xúc trực tiếp của trẻ đầu tiên là người mẹ. Trẻ em phụ thuộc hầu như hoàn toàn vào môi trường bên ngoài, chúng cần có sự đáp ứng về vật chất và sự chăm sóc trực tiếp của cha mẹ.
Lớn lên trẻ em mở rộng các mối quan hệ ra bên ngoài như bạn bè thầy cô giáo, những người trong khu phố, lối xóm…Trong giai đoạn này trẻ rất háo hức và sẵn sàng học nhiều điều mới, hay bắt chước những người lớn tuổi mà chúng kính phục. Các em thường xây dựng cho mình những thần tượng hoặc hình mẫu để phấn đấu theo. Các em có tình cảm vô tư trong sáng tin yêu ở cha mẹ và người lớn.
Các em đang trong quá trình vận động từ nhóm nhỏ sang nhóm lớn. Nhân cách của trẻ em bị giằng co giữa những xu hướng trái ngược nhau, khi hăng hái, lúc chán nản bi quan có thể dẫn đến trầm lặng, điều đó không phải là ngẫu nhiên, vì trẻ có những biến đổi về chất trong sinh lý. Sự phát triển cơ thể và sự chín muồi giới tính đã nhanh chóng tạo ra cuộc cách mạng sinh lý, điều đó gây ra nỗi sợ hãi lo lắng của các em (thể hiện rõ nhất ở tuổi thiếu niên).
Cuộc sống đậm màu sắc tình cảm, không dấu được tình cảm khi vui, buồn, yêu ghét, dễ xúc cảm, dễ có ấn tượng mạnh mẽ, định kiến sâu sắc là đặc điểm nổi bật của lứa tuổi thiếu niên nhi đồng. Vì thần kinh hưng phấn chiếm ưu thế, ức chế rất kém lên trẻ rất dễ bị xúc động, kích động hành vi không ổn định, rất dễ hành động theo cảm tính mà bản thân không kịp nhận biết hành động đúng, sai, lợi, hại như thế nào, bởi vậy đòi hỏi cha mẹ phải có kiến thức hiểu biết về tâm sinh lý của trẻ em để định hướng cho trẻ một cách tế nhị, không áp đặt ý muốn chủ quan. Bố mẹ lúc này không chỉ đóng vai trò là người cha hay người mẹ đầy đủ uy quyền mà còn phải là người bạn để chia sẻ và đồng cảm với những xung đột tâm lý xã hội mà trẻ đang gặp phải, để củng cố lòng tự trọng, người lớn cần tôn trọng ước muốn không phụ thuộc của trẻ đồng thời cần cho chúng biết giới hạn của mọi hành vi nhằm giữ an toàn cho chúng. Lòng trung thực sự bao dung của cha mẹ ở giai đoạn này là vô cùng cần thiết sẽ giúp cho trẻ độc lập suy nghĩ, có quan hệ tốt với người khác giới.
* Đặc điểm về sự phát triển của trẻ em:
Sự phát triển của trẻ em “Được hiểu là một quá trình biến đổi tổng thể, cải biến toàn vẹn tổng thể sức mạnh thể chất, tinh thần và xă hội, cũng như các năng lực của trẻ em có tính đến các lứa tuổi” [25, tr.46]. Sự phát triển về thể chất biểu hiện sự tăng trưởng về chiều cao, trọng lượng, cơ bắp, sự hoàn thiện các giác quan, sự phối hợp các vận động, sự phát triển về tâm lý biểu hiện ở những biến đổi cơ bản trong quá trình nhận thức, cảm xúc, ý chí, ở sự hình thành các thuộc tính tâm lý mới của nhân cách. Sự phát triển về mặt xă hội biểu hiện ở những biến đổi trong cách cư xử với những người xung quanh, trong việc tích cực tham gia vào đời sống xă hội. Với ý nghĩa như vậy, nói đến sự phát triển của trẻ em cũng là nói đến sự phát triển toàn diện, hài hòa nhân cách của trẻ em.
Sự phát triển nhân cách của trẻ diễn ra theo thời gian, mang tính quy luật, tính chu kỳ nhất định trong sự luân phiên các hình thái phản ánh các hoạt động chủ đạo. Nhân cách của trẻ em chỉ có thể hình thành và phát triển trong hoạt động và giao lưu. Hoạt động cơ bản của trẻ em là vui chơi và học tập, thông qua học tập và vui chơi trẻ em lĩnh hội được những giá trị văn hóa của loài người để biến thành những thuộc tính, nhân cách của bản thân, nắm được các tri thức, kỹ năng, hình thành thái độ và phát triển được những năng lực cần thiết để tham gia các loại lao động xã hội, đặc biệt là lao động sản xuất.
* Đặc điểm về sự tham gia của trẻ em:
Trước hết, đó là việc trẻ em được tham gia ý kiến, bày tỏ suy nghĩ, nguyện vọng của mình đối với người lớn trong những việc liên quan đến các em. Những ý kiến của các em cần được người lớn coi trọng, xem xét trong khi quyết định những việc liên quan, nhằm bảo đảm lợi ích tốt đẹp nhất cho trẻ em. Mặt khác, đó còn là sự tham gia của trẻ em vào các vấn đề của cuộc sống, ngay từ tuổi nhỏ với mục đích chuẩn bị cho trẻ em trở thành những công dân có trách nhiệm, năng động và sáng tạo. Mức độ tham gia này tùy theo sự phát triển của trẻ em, như Bác Hồ đã căn dặn “Tuổi nhỏ làm việc nhỏ tùy theo sức của mình", sự tham gia của trẻ em được coi là nhóm quyền cơ bản của trẻ em trong luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em của nước ta (Điều 8) cũng như Công ước quốc tế về quyền trẻ em (Điều 12, 13, 14, 15, 16). Để thực hiện quyền tham gia của trẻ em, các thành viên trong gia đình, nhà trường, xã hội cần tạo điều kiện và khuyến khích trẻ em được biết về những vấn đề có liên quan đến các em, khuyến khích và giúp đỡ các em có suy nghĩ độc lập, phù hợp với những chuẩn mực giá trị đạo đức, mạnh dạn nói lên suy nghĩ của mình đồng thời biết lắng nghe ý kiến của các em.
* Giáo dục gia đình:
Giáo dục là một trong những chức năng cơ bản của gia đình. Do sự phát triển của xã hội, nhất là của văn hóa và văn minh nhân loại thì chức năng giáo dục đang trở thành một trong những chức năng chủ yếu của gia đình. Giáo dục gia đình là sự tác động thường xuyên và có mục đích của những con người, nhất là người lớn trong gia đình và toàn bộ nếp sống của gia đình đến đứa trẻ.
Mục đích của giáo dục gia đình và giáo dục xã hội (bao gồm giáo dục nhà trường) là thống nhất với nhau. Song mục tiêu giáo dục của gia đình là rất linh hoạt và thay đổi theo thời gian, phụ thuộc vào sự biến đổi và phát triển của trẻ, vào sự vận động phát triển của xã hội xung quanh, vào chính cuộc sống của gia đình và những định hướng giá trị của mình.
Mặc dù không có được một chương trình kế hoạch nhất định được soạn thảo bằng văn bản như ở nhà trường, nội dung giáo dục gia đình là rất phong phú, không chỉ giáo dục đạo đức, trí tuệ, lao động… mà còn góp phần không nhỏ vào việc giáo dục tinh thần, tư tưởng, thể chất, thẩm mỹ, nghề nghiệp truyền thống, giáo dục giới tính và pháp luật.
Tri thức, kỹ năng do gia đình cung cấp cho trẻ em không phải là những lý thuyết trừu tượng mà nó gắn liền với cuộc sống hàng ngày, những kinh nghiệm đời thường. Tính chất đúng đắn của nội dung này phụ thuộc vào trình độ của cha mẹ và người lớn trong gia đình, đặc điểm đời sống gia đình và khả năng sư phạm của các thành viên đó. Môi trường gia đình là môi trường đặc hiệu của giáo dục gia đình trong suốt cuộc đời mỗi người. Văn hóa gia đình với nhiều yếu tố phong phú sâu sắc tác động tự nhiên đến quá trình xã hội hóa cá nhân một cách hiệu quả.
1.1.2.2. Trẻ em trong gia đình và trong sự phát triển của xã hội Việt Nam
Đối với gia đình, trẻ em là hạnh phúc của gia đình. Mỗi người làm cha làm mẹ, con cái là niềm hạnh phúc lớn lao, là niềm hy vọng, nếu như chúng khôn lớn khỏe mạnh, trưởng thành, giúp ích cho đời, cho dân cho nước, hiếu thảo với ông bà, cha mẹ, sống hòa thuận và hạnh phúc. Ngược lại sẽ trở thành nỗi bất hạnh lớn nếu như con cái bị tật nguyền, và nhất là chúng bị hư đốn, bất hiếu, phản phúc, hại dân, hại nước. Nói như vậy để thấy rằng việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em trước tiên là trách nhiệm và bổn phận của cha mẹ, của mỗi gia đình. Trong các tài sản của mỗi gia đình thì con cái là tài sản quý báu nhất. Trong các tình cảm của mỗi bậc làm cha, làm mẹ thì đây là tình cảm gần gũi sâu nặng nhất; trong trách nhiệm của gia đình, bố mẹ thì đây là trách nhiệm trực tiếp nhất; trong các hy vọng của cha mẹ thì đây là hy vọng cao nhất. Vì vậy, bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em phải bắt đầu từ cái nôi của gia đình.
Đối với xã hội và dân tộc, trẻ em là lớp công dân đặc biệt vì các em còn nhỏ tuổi, là nguồn nhân lực tương lai. (Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em quy định trẻ em là công dân việt nam dưới 16 tuổi, theo Công ước quốc tế về quyền trẻ em thì trẻ em là những người dưới 18 tuổi). Các em còn ngây thơ, trong trắng, chưa hoàn thiện về thể chất và tinh thần, dễ vị tổn thương, còn phụ thuộc, chưa đủ điều kiện để tự chăm sóc và bảo vệ mình. nhưng các em ham hiểu biết, ham hoạt động và đầy ước vọng. Vì vậy các em cần sự yêu thương quý trọng để được sống khỏe mạnh trong cuộc sống thanh bình, được vui chơi, được học tập và được phát triển. Tương lai của trẻ cần được hình thành trong sự chăm sóc, giúp đỡ, bảo vệ của người lớn một cách đặc biệt cho phù hợp với đặc điểm yêu cầu của lứa tuổi, phù hợp với lý tưởng xă hội với vai trò tương lai mà các em sẽ đảm nhận.
Trẻ em là những lực lượng lao động tương lai, người làm chủ xă hội về mọi mặt. Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn đề cao vai trò những người chủ tương lai của đất nước. Bác Hồ nói: “Thiếu niên, nhi đồng là người chủ tương lai của nước nhà… chăm sóc và giáo dục tốt các cháu là nhiệm vụ của toàn Đảng toàn dân … vì tương lai con em chúng ta, dân tộc ta, mọi người, mọi ngành phải có quyết tâm chăm sóc và giáo dục các cháu bé cho tốt” [23, tr.74].
1.1.2.3. Trẻ em được cả thế giới quan tâm
Trẻ em là niềm hạnh phúc của gia đình, tương lai của dân tộc, “Trẻ em hôm nay thế giới ngày mai”. Khẩu hiệu đó đã và đang trở thành phương châm hành động của nhiều quốc gia trên thế giới.
Hạnh phúc và quyền của trẻ em đã được Liên Hiệp Quốc quan tâm từ khi tổ chức này mới thành lập. Một trong những hành động đầu tiên của Liên hiệp Quốc là thành lập quỹ nhi đồng liên hiệp quốc (UNICEF) vào ngày 11/12/1946, ngày nay nó trở thành trụ cột chính của sự viện trợ quốc tế cho trẻ em. Trong Tuyên ngôn thế giới về quyền con người, Liên Hiệp Quốc đã tuyên bố rằng “Trẻ em có quyền được chăm sóc và giúp đỡ đặc biệt”. Tư tưởng này đã được nêu ra rất sâu sắc trong bản Tuyên ngôn Giơ ne vơ năm 1924 về quyền trẻ em. Tuyên ngôn năm 1959 quả quyết rằng “Loài người có trách nhiệm trao cho trẻ em những cái tốt đẹp nhất”.
Trong thời gian chuẩn bị cho năm quốc tế trẻ em năm 1979, ủy ban Liên Hiệp Quốc về nhân quyền đã soạn thảo một Công ước về quyền trẻ em. Sau 10 năm sửa đổi và tu chỉnh với sự đóng góp tích cực, hiệu quả của các nước và các tổ chức quốc tế, được các cơ quan Liên Hiệp Quốc như ủy ban về quyền con người và hội đồng kinh tế - xă hội chuẩn y Công ước đă được Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc chính thức thông qua ngày 20/11/1989. Công ước có hiệu lực và trở thành luật quốc tế từ ngày 2/09/1990. Tính đến nay đã có 195 quốc gia thành viên gia nhập hoặc phê chuẩn công ước, nhiều hơn bất kỳ hiệp ước nào khác về nhân quyền trong lịch sử. Công ước không chỉ là những hiệp ước mới nhất mà được chấp nhận rộng rãi nhất về nhân quyền quy định những quyền mà trẻ em trên thế giới được hưởng. Đó là các quyền được sống, được phát triển, quyền được bảo vệ và quyền được tham gia. Việt nam là một trong những nước đầu tiên ở Châu á phê chuẩn Công ước này (ngày 20/2/1990) trở thành quốc gia thành viên của công ước về quyền trẻ em.
1.2. Vai trò của gia đình trong việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
1.2.1. Những nội dung cơ bản của việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em trong gia đình
Gia đình có trách nhiệm đầu tiên đối với việc nuôi dưỡng bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Để cho trẻ em phát triển đầy đủ, hài hòa tính cách cho mình, trẻ em cần được lớn lên trong một gia đình ổn định, hòa thuận no ấm, tiến bộ và hạnh phúc, được nuôi dưỡng và phát triển trong môi trường gia đình an toàn, lành mạnh.
Bảo vệ chăm sóc và giáo dục của gia đình có tính đa dạng và nhiều chiều qua các quan hệ:
Cá nhân với cá nhân (cha me với con cái, ông bà với cháu); ảnh hưởng của tập thể gia đình: sự liên kết gắn bó với nhau thông qua lối sống, nếp sống văn hóa, truyền thống của gia đình, dòng họ tác động đến cá nhân. Do đó gia đình cũng đem lại tính đa dạng trong kiến thức cung cấp cho trẻ, cách cư xử kinh nghiệm học tập, làm ăn và hiểu biết xã hội… tính đa dạng về phương pháp bảo vệ, chăm sóc giáo dục bằng lời nói, tình cảm yêu thương không chỉ bằng lý thuyết mà bằng việc làm cụ thể để trẻ dễ hiểu và làm theo.
Đại hội Đảng lần IX cũng đặt ra yêu cầu phải “Chăm lo giáo dục, bồi dưỡng, đào tạo phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, văn hóa sức khỏe, nghề nghiệp, giải quyết việc làm, phát triển tài năng và sức sáng tạo, phát huy vai trò xung kích trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [7, tr.126].
Bảo vệ, chăm sóc sức khỏe trẻ em:
Sức khỏe luôn là vốn quý nhất của mỗi con người, mỗi gia đình, của toàn xã hội và được đánh giá là một nhân tố quan trọng trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực của đất nước; việc chăm sóc sức khỏe của mỗi người dân của mỗi gia đình, của các ngành các cấp, của toàn thể xã hội.
Theo tổ chức Y tế thế giới: Sức khỏe là một trạng thái thoải mái cả về thể chất tinh thần và xã hội chứ không đơn thuần là một trạng thái không bệnh tật.
Như vậy nói đến sức khỏe là nhấn mạnh sự phối hợp hài hòa của cả ba yếu tố: Thể chất, tinh thần và xã hội, đồng thời tác động qua lại giữa chúng với nhau hợp thành sức khỏe của con người.
Sức khỏe tốt hay xấu phụ thuộc phần lớn vào gia đình, đặc biệt là người mẹ lúc mang thai. Vì vậy người mẹ phải được chăm sóc tốt về thể chất và tinh thần trong giai đoạn này để thai nhi được phát triển khỏe mạnh; ngoài ăn uống nghỉ ngơi ra các bà mẹ phải thực hiện các quy định khám sức khỏe tiêm chủng theo kế hoạch của y tế cơ sở. Khi đứa trẻ ra đời và lớn lên gia đình cần quan tâm đến ăn uống đầy đủ, vệ sinh…rèn luyện thân thể phù hợp.
Giáo dục học tập vui chơi giải trí:
Giáo dục trẻ em ở gia đình tuy không có chương trình kế hoạch được soạn thảo thành văn bản như ở nhà trường, nhưng vẫn có những nội dung phong phú. Đó là giáo dục giá trị truyền thống, trí tuệ, lao động, nghề truyền thống, tri thức kỹ năng do gia đình cung cấp cho trẻ gắn liền với kinh nghiệm thực tiễn cuộc sống.
Trước hết là giáo dục tính cần cù, sáng tạo, chịu thương chịu khó, đoàn kết đạo đức truyền thống của dân tộc. Đó là những mảng giá trị truyền thống của người Việt Nam.
Giáo dục tinh thần ham học, nâng cao tri thức cho con cái trong xã hội hiện đại. Trí tuệ có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của xã hội, vì vậy cần đầu tư vật chất và tinh thần khơi dậy khả năng học tập sáng tạo của trẻ em.
Vui chơi giải trí là một nhu cầu văn hóa không thể thiếu của trẻ em “Học mà chơi, chơi mà học”. Các hoạt động vui chơi giải trí rèn luyện cho các em những phẩm chất cơ bản của trí tuệ, đạo đức, thể chất; trẻ em được vui chơi giải trí sẽ phát triển tư duy, phân biệt đúng sai, tôn trọng kỷ luật.
Hoạt động vui chơi giải trí có những nội dung hết sức phong phú, phải tổ chức một cách khoa học làm sao khơi dậy tính sáng tạo của trẻ, giúp trẻ phát triển tốt nhất cả về thể chất lẫn tinh thần.
Bảo vệ, chăm sóc trẻ em về tính mạng, nhân phẩm, danh dự:
Trẻ em phải được bảo vệ, chăm sóc ngay từ khi mới sinh ra và được hưởng mọi quyền lợi như: Quyền không phân biệt đối xử, không bị lạm dụng ngược đãi và bị áp bức bóc lột dưới mọi hình thức. Bảo vệ, chăm sóc trẻ về tính mạng nhân phẩm, danh dự đã được ghi trong các văn bản pháp lý quốc tế quốc gia có tính pháp lý chặt chẽ mà mọi người phải thực hiện.
Thứ nhất, tôn trọng nhân cách và phẩm giá của trẻ, tôn trọng quyền được làm người của trẻ, không đánh đập không mắng nhiếc xỉ vả, đặc biệt không được dùng những ngôn ngữ thiếu văn hóa để làm nhục trẻ.
Thứ hai, không được mang trẻ em ra nước ngoài bất hợp pháp; chống bắt cóc, buôn bán trẻ em vì bất kỳ mục đích gì hay dưới hình thức nào. Trẻ phải được bảo vệ, chống mọi hình thức xâm hại, bắt các em làm những công việc gì có thể gây nguy hại đối với sức khỏe, hoặc ảnh hưởng đến việc học hành, sự phát triển về thể chất, trí tuệ, tinh thần đạo đức của trẻ em.
Cấm xúi giục hay ép buộc trẻ tham gia bất kỳ hành vi tình dục việc sử dụng có tính chất bóc lột trẻ em trong mại dâm, trong các cuộc biểu diễn có tính chất khiêu dâm, sử dụng, buôn bán các chất ma túy.
Thứ ba, bảo vệ trẻ em về nhân phẩm, tính mạng phải tuân thủ theo những quy định của pháp luật Việt Nam cũng như luật quốc tế. Cá nhân, cộng đồng, gia đình và các tổ chức xã hội phải tuân thủ theo pháp luật đã quy định.
1.2.2. Vai trò của cha mẹ trong việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
Vai trò của cha, mẹ là bảo đảm gia đình luôn ấm no bình đẳng và hạnh phúc; bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em mang tính cá biệt cụ thể cho từng trẻ. Cha mẹ là người sinh thành vì thế biết tính nết của từng đứa con của mình, đứa con có những ưu điểm nào cần phát huy, những gì cần uốn nắn, nhắc nhở; giữa con trai và con gái, giữa trẻ nhỏ và trẻ lớn cần có những biện pháp giáo dục khác nhau. Khoa học đã chứng minh ở giai đoạn đầu đứa trẻ tiếp thu ngôn ngữ, văn hóa, kinh nghiệm xã hội không phải bằng lý trí và tư duy khái niệm mà đơn giản chỉ bằng những bắt chước thông qua âm thanh, cử chỉ tình cảm của nhũng người xung quanh, trước hết là cha mẹ.
Trẻ em là một sinh thể còn non nớt, lúc còn nhỏ phụ thuộc hoàn toàn vào sự bảo vệ, chăm sóc và giáo dục của cha mẹ. Do quan hệ huyết thống, quá trình sống gần gũi một cách tự nhiên với cha mẹ vì thế cha mẹ là người hiểu hơn ai hết đứa con mà mình sinh ra. Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục là người cha người mẹ, mỗi người có thiên hướng riêng đối với đứa trẻ mà không ai có thể thay thế cho ai.
Người mẹ “Cô giáo đầu tiên” của trẻ bằng những dòng sữa ngọt lành của chính cuộc đời của người mẹ, bằng lời ru, bằng cử chỉ âu yếm ân cần chăm sóc nhân hậu, đức tính kiên nhẫn, chịu đựng cần cù, chịu thương chịu khó… đã gây dựng cho trẻ tình cảm yêu thương con người, cảnh vật, tình yêu quê hương đất nước, lao động tốt. Tất cả những điều đó sẽ đặt nền móng cho sự hình thành nhân cách của trẻ sau này.
ở Việt Nam, bằng những lời hát ru mang đậm bản sắc văn hóa riêng của dân tộc, người mẹ đã truyền cho con tất cả tình yêu thương, sự quan tâm chăm sóc đặc biệt, bởi vì hát ru là một loại hoạt động có giá trị lớn lao đối với trẻ em. Trải qua năm tháng trẻ em cảm nhận được nét đẹp của văn hóa gia đình, dân tộc đồng thời tình cảm tốt đẹp này được nảy sinh hình thành những năng khiếu thẩm mỹ, hướng trẻ đến cái thiện, tạo cho trẻ lòng nhân ái. Đó là phẩm chất cơ bản của đạo đức con người, hình thức dạy con bằng những tiếng hát ru là hình thức đầu tiên mang lại hiệu quả tuyệt vời về cả mặt tâm lý cũng như mặt sinh lý.
Gia đình Việt Nam, mặc dù chịu ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng Nho giáo, nhưng vị trí, vai trò của người phụ nữ trong gia đình vẫn được khẳng định. Điều đó trước hết khẳng định bản lĩnh tự chủ của dân tộc ta trong việc tiếp thu nền văn hóa ngoại nhập, hơn nữa, điều kiện của một nước với nền kinh tế nông nghiệp, đòi hỏi phải có sụ phân công lao động giữa vợ và chồng vì thế vai trò của người phụ nữ trong gia đình ngày càng được khẳng định. Văn hóa Việt Nam là văn hóa nông nghiệp trồng lúa nước mà đặc trưng của nó trong ứng xử xã hội là ưa trọng tình thương dẫn đến thái độ trọng đức, trọng văn và trọng phụ nữ. Mặt khác, đất nước ta luôn có chiến tranh, các thế hệ con trai, người cha, ra trận, để lại đằng sau một hậu phương lớn, với gánh nặng đè lên đôi vai của người phụ nữ, người mẹ trong gia đình.
Tuy nhiên, để giúp trẻ em phát triển hài hòa cần có sự dẫn dắt chỉ bảo của cha. Cùng với mẹ người cha sẽ giúp cho con mình hình thành nhân cách và những giá trị tinh thần của gia đình, của dòng họ và của thân tộc. Quá trình ấy diễn ra từ khi đứa trẻ mới sinh cho đến lúc trưởng thành và cả đến khi lập gia đình. Nếu như trong giai đoạn tuổi thơ, nhân cách của trẻ được hình thành chủ yếu chịu sự tác động của người mẹ thì ở giai đoạn sau (thiếu nhi, thanh niên) cùng với sự tác động tình cảm của người mẹ, người cha mang đến cho trẻ những thức tỉnh mới của nhân cách là lý trí, cách tư duy, tính quyết đoán...
Trước hết cùng với người mẹ, người cha giáo dục nhân cách con cái, những giá trị tinh thần, văn hóa của gia đình, dân tộc đó cũng chính là quá trình xã hội hóa con người. Việc giáo dục nhân cách và những giá trị văn hóa tinh thần cho con cái được diễn ra từ khi mới sinh cho đến khi con cái trưởng thành và cả đến sau khi lập gia đình. Nếu trong giai đoạn tuổi thơ, vai trò quan trọng trong việc hình thành nhân cách của con cái là thuộc về người mẹ, thì ở giai đoạn thiếu niên thanh niên khi con bắt đầu đi học tiếp xúc với thế giới xung quanh hình thành dần những quan hệ xã hội, thì ảnh hưởng giáo dục của người cha sẽ tăng lên. Tuy nhiên nhân cách của trẻ em hình thành ngày càng đầy đủ hơn, sâu sắc hơn trong thời kỳ này cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa cha và mẹ, không để có tình trạng “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”.
Người con ngoan hay hư thường diễn ra ở giai đoạn này. Khi người con đã đến tuổi trưởng thành bản thân đã thu lượm những kinh nghiệm xã hội nhất định, bản sắc “Cái tôi” đã phát triển, nhân cách đã dần định hình thì việc định hướng như theo học ngành nghề nào, trường nào…vai trò của người cha rất quan trọng nhiều khi quyết định tương lai cho con cái sau này. Bản sắc cá nhân của con đã phát triển, ý thức tự chủ đã có, việc áp đặt ý muốn của cha hay mẹ trong học tập hay trong hôn nhân sẽ dẫn đến những phản ứng làm sứt mẻ quan hệ gia đình. Con cái đã có công ăn việc làm, có vợ, có chồng thì vai trò giáo dục của cha mẹ đã giảm hẳn vì chúng đã độc lập biết suy nghĩ và chịu trách nhiệm trước xã hội. Khi đó có thể cha mẹ chỉ nên đóng vai trò “cố vấn” bằng những kinh nghiệm trong cuộc sống, sự từng trải của cha mẹ sẽ chỉ ra cho con những khiếm khuyết để người con vượt khó đi đến thành công.
Vai trò của cha mẹ trong việc giáo dục nhân cách cho con ở tuổi thiếu niên và thanh niên là hết sức quan trọng. Trách nhiệm của những người làm cha làm mẹ là hết sức to lớn:
“Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra".
1.2.3. Vai trò của ông bà với việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
ở Việt Nam bên cạnh những gia đình hạt nhân đang có xu hướng phát triển, những gia đình truyền thống (gia đình nhiều thế hệ) cũng còn chiếm tỉ lệ cao. Cho dù gia đình hạt nhân hay gia đình truyền thống thì vai trò của ông bà cũng có ảnh hưởng rất lớn đến trẻ em đúng với đạo lý Việt Nam “Trẻ cậy cha già cậy con”. Với suy nghĩ của người phương đông sống để đức cho con cháu. Hình ảnh của ông bà đối với các cháu rất gần gũi thấm đượm tình cảm, ông bà thường kể truyện cổ tích cho các cháu nghe, đọc thơ ca cổ, hò, vè… chỉ bảo điều hay, khuyên bảo các cháu, dạy dỗ các cháu sống phải biết kính trên nhường dưới, lễ phép với mọi người, hòa nhã với bạn bè, hướng dẫn các cháu ăn uống nghỉ ngơi, giữ gìn vệ sinh. Khi có khuyết điểm ông bà ân cần chỉ bảo để cháu nhìn ra đúng, sai mà sửa chữa, khắc phục.
Hiện nay hướng gia đình trẻ có tâm lý không muốn sống chung với người già, mặt khác do có dịch vụ nhà trẻ mẫu giáo, trường học, người giúp việc trong gia đình đã làm cho vai trò của ông bà không còn trực tiếp như trước đây. Tuy nhiên vấn đề này còn thuộc vào nhiều yếu tố, nhưng chúng ta thấy rằng ông bà có vai trò quan trọng trong gia đình, nó phù hợp với đạo lý của người Việt Nam “Uống nước nhớ nguồn”.
1.2.4.Vai trò của anh chị đối với việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
Anh chị là những thành viên của gia đình. Với truyền thống của gia đình Việt Nam anh chị trong gia đình có vai trò rất lớn trong việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Vai trò đó thể hiện đến đâu còn phụ thuộc vào nề nếp gia phong của gia đình và bản thân, sự gương mẫu của anh, chị. Trong gia đình truyền thống con trai trưởng có quyền cao, có vị trí đứng sau cha, khi cha mất con trưởng thay cha quyết định mọi việc trong và ngoài gia đình theo nguyên tắc “Quyền huynh thế phụ”. Khi đã được trao quyền con trai trưởng đảm đương trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc và giáo dục các em, lo cho các em trưởng thành, dựng vợ, gả chồng. Nếu loại bỏ yếu tố gia trưởng trọng nam khinh nữ dẫn tới sự bất bình đẳng trong anh em ruột thịt, thì tinh thần đoàn kết, yêu thương, sự nhường nhịn và trách nhiệm đối với nhau giữa anh chị em trong gia đình Việt Nam là những giá trị cao đẹp.
Hiện nay, quan hệ giữa anh chị em trong gia đình “Là giọt máu sẻ đôi” vẫn được tôn trọng và giữ gìn; anh chị cũng có vai trò trong việc nuôi dạy các em khôn lớn thành người.
Tuy nhiên dưới sự tác động mặt trái của nền kinh tế thị trường môi trường xã hội, nhà trường, vai trò ảnh hưởng của anh chị đối với việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục em có phần lỏng lẻo nhất là các khu đô thị “kiến giải nhất phận” ảnh hưởng không tốt đến quan hệ giữa anh chị đối với các em.
1.2.5. Vai trò của dòng họ đối với việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
Trong những năm gần đây, việc tìm về cội nguồn của người Việt Nam là một tinh thần thiêng liêng, một sinh hoạt tâm linh không thể thiếu của người cao tuổi trong nước cũng như nước ngoài. Với hàng triệu người Việt Nam sống xa Tổ quốc thì đó còn là niềm khát vọng cháy bỏng, còn là niềm day dứt khôn nguôi khi nhìn quanh mình toàn là “Xứ người” không một cây đa bến nước sân đình. Tìm về với cội nguồn trước hết là tìm về với những người trong dòng họ cùng huyết thống máu mủ ruột thịt con chú con bác, chi trên chi dưới, cùng họ cùng xóm, cùng làng.
Tục ngữ Việt Nam có câu: “Chim có tổ người có tông”. Nhớ về ông bà cụ kỵ, tổ tiên là một đạo lý từ ngàn xưa của người Việt Nam, là lẽ tự nhiên, là lương tri, là tình cảm là sức mạnh của mỗi người chúng ta. Lẽ sống của người Việt Nam từ khi lớn lên tới khi nhắm mắt xuôi tay là mang một trách nhiệm đối với những người xung quanh, với gia đình, họ hàng. Tục ngữ có câu “Anh em như chân với tay; tay đứt ruột sót; chị ngã em nâng” đã nói lên tính tập thể, vì gia đình họ hàng của người Việt Nam.
Phát huy truyền thống gia đình và dòng họ đối với mỗi người Việt Nam trong lịch sử và hiện nay luôn là nhu cầu tinh thần chính đáng, vừa là biểu hiện của đạo lý uống nước nhớ nguồn, vừa có tác dụng giáo dục thế hệ trẻ nối tiếp làm cho cuộc sống ngày càng tươi đẹp. Nhìn lại lịch sử dân tộc, chúng ta đều thấy rất rõ nhiều anh hùng dân tộc, nhiều danh nhân lịch sử văn hóa của đất nước đều được nuôi dưỡng từ những gia đình, dòng họ có truyền thống lâu đời như Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Lê Quý Đôn, Nguyễn Du…
Chúng ta nhận thấy vai trò dòng họ cũng rất quan trọng nó phát huy truyền thống tốt đẹp và đoàn kết tương trợ tạo nên sức mạnh, ý thức trách nhiệm trước cộng đồng và lòng yêu nước nồng nàn, cho nên dù ở chân trời góc bể nào cũng hướng về gia đình, dòng họ và đất nước. Khơi đậy và nhân lên những điều tốt đẹp đáp ứng những nhu cầu tình cảm, tinh thần của mỗi người, phát huy truyền thống của dòng họ Việt Nam, nhất định sẽ góp phần làm cho cuộc sống thêm ý nghĩa và tốt đẹp hơn, xã hội ngày càng văn minh hơn.
1.2.6. Vai trò của gia đình trong quan hệ với nhà trường, xã hội đối với việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
Gia đình là tế bào của xã hội, nơi con người sinh ra và lớn lên hình thành nhân cách của mình, nuôi dưỡng và giáo dục con cái trưởng thành đó là trách nhiệm của những bậc làm cha, làm mẹ. Để bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ trước hết là gia đình phải thực hiện những việc sau đây:
Thứ nhất, cha mẹ và những thành viên trong gia đình phải nhận thức được vai trò quan trọng của gia đình trong việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
Trong những năm đầu tiên trẻ rất nhạy cảm, dễ tiếp thu những gì chúng nghe thấy, dễ đón nhận những lời chỉ bảo mà chúng chưa đủ lý trí phán đoán có lợi hay cái hại cho tương lai. Tất cả những điều đó dần dần ăn sâu vào tiềm thức, góp phần tạo lên cá tính tốt hay xấu tùy thuộc theo tính chất những điều người lớn dạy bảo. Nếu cha mẹ không chú ý đến vấn đề này thì đứa trẻ sẽ bị hư, gây ảnh hưởng không tốt cho gia đình và cho xã hội. Thực tiễn cuộc đấu tranh phòng chống phạm tội ở người chưa thành niên cho thấy, người chưa thành niên phạm tội thường rơi vào hoàn cảnh: Cha mẹ không quan tâm đến việc giáo dục con, phó mặc cho nhà trường, xã hội; giữa cha mẹ hoặc giữa các thành viên trong gia đình còn có mâu thuẫn về việc đối xử với con em, cha mẹ đánh đập chửi mắng con, đối xử thiên lệch với con cái; cha mẹ không thông cảm với những nhu cầu chính đáng của con về vui chơi, giải trí, bố mẹ và các thành viên khác trong gia đình có lối sống không lành mạnh, sai trái vi phạm luật pháp đạo đức hoặc quan hệ vợ chồng không tốt đẹp, đáng chê trách.
Để trẻ em trưởng thành sống có ích cho xã hội không tham gia vào các hoạt động vi phạm pháp luật phải phấn đấu xây dựng gia đình lành mạnh theo các tiêu trí sau:
+ Có được một gia đình đầy đủ cả cha mẹ trong đó mọi thành viên yêu thương kính trọng nhau.
+ Cha mẹ và các thành viên khác trong gia đình phải là tấm gương sáng cho con, cháu noi theo về đạo đức, học tập lao động và cuộc sống.
+ Cha mẹ và các thành viên khác trong gia đình phải hiểu và nắm được những đặc điểm tâm lý lứa tuổi của trẻ em, để từ đó có phương pháp nuôi dưỡng giáo dục cho phù hợp.
+ Có bầu không khí tâm lý đạo đức phong cách sinh hoạt lối sống lành mạnh. Nếu gia đình đáp ứng được các tiêu chí trên thì trẻ em sẽ ít có hành vi sai lệch chuẩn mực của xã hội, mà nếu có thì sẽ được uốn nắn ngay.
Thứ hai, cha mẹ và những thành viên khác trong gia đình phải có ý thức phối hợp với nhà trường trong việc giáo dục trẻ em.
Nhiệm vụ của giáo dục gia đình là hình thành và phát triển cho trẻ em toàn diện về các mặt tư tưởng, chính trị, đạo đức, trí tuệ, thẩm mỹ, thể chất, lao độ._. Các gia đình phải luôn ý thức phấn đấu thực hiện tốt chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước như phát triển kinh tế, sinh đẻ có kế hoạch, phòng chống các tệ nạn xã hội như rượu chè, cờ bạc,mại dâm, ma túy.
3.2.3. Tăng cường mối quan hệ giữa gia đình, nhà trường, xã hội tạo môi trường thống nhất cho việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
Sự phát triển của trẻ em không thể tách khỏi môi trường xã hội mà các em đang sống. Vì vậy môi trường xã hội lành mạnh là yếu tố hàng đầu bảo đảm cho trẻ em được phát triển hài hòa về thể chất, trí tuệ, tinh thần và đạo đức có cuộc sống hạnh phúc đảm bảo tính bền vững của công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
Con người sinh ra và lớn lên không chỉ được gia đình nuôi dưỡng mà còn phải đến trường học tập kiến thức văn hóa. Do đó, trong hệ thống giáo dục của nước ta, nhất là bậc tiểu học và trung học cơ sở có sự kết hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội trong quá trình giáo dục cho mỗi học sinh để trẻ em được phát triển toàn diện về đức, trí, thể, mỹ, lao động kỹ thuật v.v Trẻ em được học tập vui chơi hoạt động xã hội phù hợp với mỗi lứa tuổi mới phát huy tính thông minh, tính sáng tạo, khả năng giao tiếp ở trẻ em, ngăn ngừa ảnh hưởng của văn hóa phẩm đồi trụy, tệ nạn xã hội như nghiện hút, cờ bạc, xâm hại tình dục, bóc lột sức lao động của trẻ em.
Xây dựng và củng cố gia đình mới tiến bộ là nhiệm vụ của mỗi người, của mỗi lực lượng và tổ chức xã hội. Xây dựng gia đình mới mang tính toàn diện, cho nên ở những góc độ khác nhau nhà nước và các tổ chức xã hội cần phối hợp và tham gia xây dựng gia đình mới trong đó Hội phụ nữ và Đoàn thanh niên, ủy ban dân số kế hoạch hóa gia đình, ủy ban bảo vệ, chăm sóc trẻ em, ngành văn hóa và giáo dục… là những đơn vị, tổ chức có trách nhiệm chăm lo một cách trực tiếp và thường xuyên.
Đối với Hà Giang, các xã, huyện vùng cao mang tính đặc thù để có sự phối hợp chặt chẽ giữa các môi trường, gia đình-nhà trường-xã hội:
- Các thầy cô giáo có vai trò hết sức quan trọng trong việc giáo dục các em. Phải tạo được niềm tin ở nhân dân, am hiểu phong tục tập quán, lối sống văn hóa.
- Đi sâu, đi sát vào từng điều kiện và từng gia đình cụ thể nắm bắt được tâm tư, nhu cầu, tình cảm để từ đó giúp cho các gia đình họ hiểu rõ và quan tâm chăm sóc con cái, chu đáo, cẩn thận hơn để trẻ em khỏi bị thiệt thòi.
- Gia đình có vai trò hết sức to lớn phải luôn quan tâm chăm sóc, giáo dục các em tạo điều kiện tốt nhất để các em có thể phát triển.
Các bậc cha mẹ và mọi người trong gia đình phải hòa thuận, dân chủ, nhất trí và có sự phối hợp thống nhất về thái độ và phương pháp dạy dỗ con cái, nhằm loại trừ đầu những tàn dư tư tưởng và tác phong cũ, lạc hậu trong giáo dục con người mới.
Như thế vẫn chưa đủ, vì rằng gia đình không chỉ là cơ sở giáo dục con người biệt lập mà gia đình còn là một bộ phận giáo dục thuộc hệ thống giáo dục chung của xã hội. Tuy nhiên cha mẹ không thể phó mặc con cái cho nhà trường, khoán trắng cho đoàn đội mà không theo dõi, phối hợp chặt chẽ để cùng các môi trường đó thiết lập mối quan hệ trong giáo dục con cái với tinh thần chủ động sát sao… Mối quan hệ đó nhằm mục đích thống nhất yêu cầu của giáo dục và nhanh chóng xây dựng ở trẻ em những phẩm chất và thói quen tốt. Song mỗi môi trường phải căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của mình để có phương pháp và hình thức giáo dục thích hợp. Nhà trường và đoàn đội, các tổ chức xã hội khác không thể thay thế gia đình được, nhưng cũng cần quan tâm phối hợp chặt chẽ với gia đình trong công tác giáo dục trẻ em. Gia đình, nhà trường và các tổ chức chính trị xã hội liên kết hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng. Những nhân tố này có quan hệ trực tiếp đến hình thành nhân cách của trẻ em và là điều kiện để thực hiện tốt các quyền của trẻ em, mặc dù mỗi nhân tố có vai trò có nhiệm vụ riêng.
3.2.4. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy Đảng và chính quyền các cấp đối với công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
+ Đảng và Nhà nước tiếp tục lãnh đạo thực hiện tất cả chính sách xã hội nói chung và các chủ trương chính sách về trẻ em nói riêng. Rà soát để hoàn chỉnh và xây dựng mới các chính sách về: y tế, giáo dục, văn hóa, kinh tế v.v... liên quan tới trẻ em, để có điều kiện phấn đấu đạt các mục tiêu đã đề ra. Chú trọng các chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế gia đình, các chính sách thực hiện công bằng trong công tác tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, giáo dục, văn hóa như chính sách bảo hiểm y tế, tăng cường y tế cơ sở, học phổ thông, nội trú, ưu tiên trẻ em vùng khó khăn.
+ Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng và chính quyền cơ sở, nơi trực tiếp tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
- Lãnh đạo xây dựng và thực hiện chương trình kế hoạch hành động trẻ em ở các cấp. Cấp xã, phường cần nêu ra những biện pháp cụ thể để thực hiện các mục tiêu quan trọng như: giảm tỉ lệ tử vong trẻ em, giảm tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng, phổ cập giáo dục, phòng ngừa và giải quyết trẻ em rơi vào hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, phát triển nhà trẻ mẫu giáo, sân bãi địa điểm sinh hoạt văn hóa, thể thao, vui chơi cho trẻ em.
- Lãnh đạo việc lồng ghép và ưu tiên giải quyết các mục tiêu về trẻ em trong các kế hoạch, chương trình, dự án phát triển y tế, văn hóa, tạo việc làm, xóa đói giảm nghèo, cải thiện đời sống nhân dân.
- Lãnh đạo các ban ngành, đoàn thể xây dựng kế hoạch và thực hiện cam kết các mục tiêu về trẻ em; giúp đỡ ít nhất một thôn bản, xã, phường khó khăn, giải quyết mọi vấn đề về trẻ em…
+ Lãnh đạo công tác tuyên truyền giáo dục sâu rộng trong toàn Đảng, toàn dân, trong mỗi gia đình nhằm nâng cao nhận thức xã hội về vai trò của gia đình với việc chăm sóc, bảo vệ, giáo dục trẻ em. ở đây cần có sự thống nhất cả nội dung, phương pháp tuyên truyền giáo dục của 3 cơ quan: ủy ban dân số - kế hoạch hóa gia đình, ban tuyên giáo tỉnh ủy và ban tuyên truyền giáo dục pháp luật của chính quyền tỉnh.
+ Lãnh đạo lồng ghép các chương trình xây dựng gia đình văn hóa, chương trình bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em với các chương trình phát triển kinh tế của tỉnh như chương trình định canh định cư, xóa đói giảm nghèo, chương trình phổ cập giáo dục…
+ Duy trì phong trào toàn xã hội bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em cần được tiến hành thường xuyên liên tục, đồng thời biết phát động thành từng đợt nhằm vào các ngày: 1/6, Trung thu, tháng hành động vì trẻ em, ngày khai trường, ngày tiêm chủng mở rộng…
- Phân công đảng viên phụ trách một số gia đình giúp họ bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em. Đặc biệt, là những gia đình khó khăn, đói nghèo, tan vỡ, mắc vào các tệ nạn xã hội
- Mỗi thành viên gia đình tham gia các tổ chức xã hội (phụ nữ, thanh niên, hội cựu chiến binh, hội khuyến học, tổ hòa giải). Trong nội dung sinh hoạt phải đưa ra được những giải pháp nhằm khắc phục những tồn tại làm ảnh hưởng đến công tác chăm sóc, bảo vệ và giáo dục trẻ em.
- Lãnh đạo củng cố nền móng nâng cao chất lượng hoạt động của ban bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em ở cơ sở, lãnh đạo sự phối hợp của các ban ngành, của các thành viên của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị xã hội nghề nghiệp đơn vị kinh tế … ở địa phương trong công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
+ Riêng đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, cần phải giải quyết tận gốc những nguyên nhân xã hội sâu xa tác động đến trẻ em. Đó là: tình trạng kinh tế gia đình khó khăn, gia đình đổ vỡ (bố mẹ ly hôn), bố mẹ đối xử thô bạo với con cái, gia đình có người mắc vào các tệ nạn xã hội. Sự buông lỏng quản lý của chính quyền địa phương, thiếu quan tâm của nhà trường, sự đua đòi của một số trẻ em chưa ngoan, môi trường xã hội thiếu lành mạnh cần phải được khắc phục. Đặc biệt là các chính sách hạn chế sự phân hóa giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn. Lồng ghép bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em trong các chương trình xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm, đào tạo nghề và cao hơn trong phát triển hệ thống luật và chính sách.
+ ủy ban dân số, gia đình và trẻ em có kế hoạch phối hợp với Ban tuyên giáo tỉnh ủy và Ban tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật của ủy ban nhân dân tỉnh triển khai chỉ đạo tốt công tác tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng chính sách pháp luật của nhà nước về công tác dân số gia đình và trẻ em trên địa bàn toàn tỉnh.
- Chủ động mở các chiến dịch truyền thông lồng ghép với dịch vụ kế hoạch hóa gia đình đến các xã, thôn xóm vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn.
- Nghiên cứu, chuyển thể xây dựng các tài liệu tuyên truyền phù hợp với vùng dân tộc.
+ Hoàn thiện cơ chế lồng ghép, phối hợp liên ngành trong bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
+ Hoàn thiện môi trường pháp luật, bao gồm hệ thống pháp luật (các văn bản quy phạm, các thiết chế thực hiện pháp luật, tổ chức pháp luật và ý thức pháp luật của từng cá nhân, từng cộng đồng và toàn xã hội)
- Chiến lược bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em phải thể hiện được tính đa ngành, liên ngành dựa trên các mục tiêu chung vì sự phát triển của trẻ em, những vấn đề của trẻ em phải được đặt ở tầm vĩ mô, vừa có sự phối hợp liên ngành vừa có sự phân công, chuyên môn hóa, vừa có sự quản lý thống nhất, tập trung, vừa có sự phân cấp trách nhiệm và sự quản lý theo ngành và địa phương cần chú ý sự phối hợp liên ngành trên các mặt.
Tạo dựng cơ sở vật chất cơ bản, cần thiết cho trẻ em nhỏ, nhà ở, bệnh viện, trường học, đồ chơi, nơi vui chơi, thư viện, phòng đọc, sách vở, báo chí, phim ảnh.
Tổ chức hướng dẫn nhân dân tham gia bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
Thông qua các phong trào cụ thể, như Tháng hành động vì trẻ em, Ngày tiêm chủng mở rộng cho trẻ em, Nuôi con theo khoa học, Toàn dân đưa trẻ đến trường, Tìm hiểu luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
Hướng dẫn, tổ chức các hoạt động của trẻ em giúp cho trẻ em có ý thức chủ động, tự giác và hình thành nhu cầu rèn luyện trau dồi về thể chất, tri thức, đạo đức thẩm mỹ…
Xây dựng các mục tiêu vì trẻ em và lồng ghép vào kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của địa phương
Kiểm tra giám sát việc thực hiện quyền của trẻ em, kiểm tra quá trình chỉ đạo của cấp trên, kiểm tra liên ngành, kiểm tra toàn diện việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
Ví dụ: Việc thu học phí và các khoản đóng góp của trẻ em việc sử dụng lao động trẻ em.
Biện pháp tăng cường phối hợp liên ngành trong bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em là: Nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các ngành, đoàn thể và của nhân dân trong công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, phát động sâu rộng phong trào bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em tới mọi tầng lớp nhân dân; Xây dựng cơ chế lồng ghép, phối hợp một cách hợp lý và có hiệu quả, xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác trẻ em có đủ năng lực thực hiện chức năng quản lý nhà nước và tổ chức phối hợp liên ngành. Xây dựng môi trường xã hội lành mạnh cho sự phát triển của trẻ em, bảo đảm quyền tham gia của trẻ em.
3.2.5. Nâng cao trình độ hiểu biết, cải tiến nội dung, phương pháp bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em trong gia đình
Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến gia đình, coi gia đình là nền tảng của xã hội và thường xuyên tạo điều kiện để nâng cao mức sống vật chất, văn hóa tinh thần cho mỗi gia đình, đồng thời có chính sách để phát huy những đạo lý tốt đẹp của truyền thống gia đình Việt Nam trong bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
Thực trạng bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em ở tỉnh Hà Giang cho ta thấy, một trong những nguyên nhân ảnh hưởng không tốt đến bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em trong gia đình là do trình độ văn hóa thấp, trình độ nhận thức, ý thức trách nhiệm chưa cao, cũng như nội dung phương pháp nuôi dạy con nghèo nàn. Một số người suy nghĩ nuôi dạy trẻ em chỉ cần có một số kinh nghiệm của dòng tộc là đủ.
Để nâng cao nhận thức cho các bậc phụ huynh trong bảo vệ, chăm sóc và giáo dục con cái, ngoài sự nỗ lực của các bậc cha mẹ, nhà nước cũng cần có chính sách chú ý đến các chương trình và phương pháp học tập của người lớn, nhất là với các bậc cha mẹ ở vùng dân tộc thiểu số. Chương trình giáo dục cho người lớn cần cơ bản, toàn diện, nhất là các kiến thức thuộc các lĩnh vực về tâm sinh lý lứa tuổi, pháp luật, chăm sóc sức khỏe sinh sản, phòng chống các loại bệnh thông thường, biết cách chăm sóc, bảo vệ trẻ em.
Nội dung chăm sóc sức khỏe phải được nhìn nhận: Giảm bệnh tật nâng cao và tạo ra sức khỏe, tăng tuổi thọ và cải tạo nòi giống, đảm bảo cho mọi trẻ em đều có sức khỏe tốt, đồng thời người mẹ được chăm sóc thích hợp về sức khỏe dinh dưỡng. Chăm sóc sức khỏe trẻ em phải là một quá trình liên tục ngay từ khi hình thành bào thai cho đến hết tuổi vị thành niên nhưng trong mỗi giai đoạn phát triển của trẻ cần phải có nhưng ưu tiên và có giải pháp mang tính đặc thù như thời kỳ sơ sinh, dưới một tuổi, vị thành niên…Trong điều kiện còn nhiều khó khăn nhưng ủy ban nhân dân tỉnh Hà Giang đã chỉ đạo phấn đấu mục tiêu đến năm 2010:
- 100% phụ nữ mang thai được khám thai và tiêm phòng uốn ván.
- 80% gia đình trong toàn tỉnh có đủ nước sạch.
- Giảm tỉ lệ suy dinh dưỡng xuống còn 17%.
- Giảm tỉ lệ tử vong trẻ < 5 tuổi xuống dưới 3,5 0/00.
Nguồn: Chương trình công tác phổ cập giáo dục và trẻ em 5 năm (2006 - 2010) tỉnh Hà Giang [40, tr.35].
Để đạt những mục tiêu trên cần chú ý đến một số điểm sau:
- Nhận thức đúng sức khỏe toàn diện và chăm sóc sức khỏe toàn diện cho trẻ em là cơ sở để phát triển con người toàn diện trong tương lai.
- Bảo vệ, chăm sóc sức khỏe toàn diện cho trẻ em bao gồm cả chăm sóc thể chất, tinh thần xã hội.
- Chăm sóc sức khỏe ban đầu tại gia đình, tại cộng đồng là một chiến lược đặc biệt quan trọng.
- Sức khỏe sinh sản cần phải được chú ý ngay từ khi trẻ còn nhỏ, thường xuyên quan tâm chăm sóc nhất là đối với lứa tuổi vị thành niên cần phải có giải pháp giáo dục giới tính, giáo dục tiền hôn nhân.
- Chăm sóc bà mẹ về thể chất, tinh thần nhằm hạ thấp suy dinh dưỡng bào thai, thực hiện sinh đẻ an toàn, vệ sinh.
Phương pháp chăm sóc sức khỏe. Cần kết hợp gia đình, y tế cơ sở, trường học, trong đó gia đình là môi trường quan trọng bậc nhất và tác động sớm nhất, trực tiếp đến việc chăm sóc sức khỏe trẻ em. Cha mẹ là những người chăm sóc chúng có tác động rất tích cực tới mọi khía cạnh liên quan đến sự tồn tại và phát triển của các em. Cùng với gia đình, nhà trường là nơi chuẩn bị hành trang bước vào đời cho trẻ, giúp trẻ trang bị kiến thức, phát triển trí tuệ, hình thành nhân cách, đồng thời góp phần bảo vệ và nâng cao sức khỏe thông qua dịch vụ chăm sóc sức khỏe, rèn luyện các hoạt động thể chất tại trường học. Sự phối hợp tốt giữa nhà trường và gia đình sẽ là một điều kiện quan trọng để bảo vệ, chăm sóc sức khỏe tâm thần và xã hội cho trẻ, trong đó có nội dung giáo dục nâng cao văn hóa ứng xử cho trẻ em. Mạng lưới y tế, với các chương trình chăm sóc y tế thiết yếu và đồng bộ cho trẻ em như chương trình chăm sóc sức khỏe ban đầu, chương trình phòng chống suy dinh dưỡng, chương trình lồng ghép chăm sóc đã góp phần quan trọng cho việc hạ thấp tỷ lệ bệnh tật tử vong cho trẻ em.
Tuyên truyền tăng cường sự hiểu biết cho các gia đình về dinh dưỡng hợp lý và chăm sóc trẻ em, về quyền lợi khả năng lựa chọn các dịch vụ y tế. Giáo dục vệ sinh môi trường sống xanh, sạch và trong lành, sử dụng nước sạch phòng bệnh.
Nội dung, phương pháp học tập trong gia đình đã có sự thay đổi phù hợp với nội dung phương pháp phát triển giáo dục- đào tạo của xã hội. Ngày nay thông tin đa dạng, phong phú cho nên việc giáo dục văn hóa cho trẻ, cha mẹ phải hướng con cái vào học tập để có trình độ học vấn cao đáp ứng được nhu cầu phát triển của xã hội.
Nhân cách trẻ em hình thành và phát triển trong hoạt động giao lưu, vì vậy cùng với việc khẳng định trẻ em là chủ thể của sự phát triển, tích cực tạo ra tương lai của mình, cần phải coi trọng vai trò của giáo dục, của các hình thức vui chơi, sinh hoạt tập thể, hoạt động xã hội của trẻ em. Chỉ qua các hoạt động học tập, vui chơi giao tiếp trẻ mới lĩnh hội được các giá trị văn hóa, nắm được các tri thức, kỹ năng, hình thành thái độ và phát triển được những năng lực cần thiết. Cũng chính trong quá trình học tập và trong đời sống xã hội hàng ngày, trẻ em được tham gia vào các quan hệ xã hội đa dạng, từng bước hoàn thiện quá trình xã hội hóa.
Trong bối cảnh hiện nay, Đảng ta đã khẳng định: Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của cộng cuộc CNH, HĐH.
Chăm sóc giáo dục trẻ em cần phát huy tính chủ động sáng tạo bằng sự tham gia của trẻ, định hướng khích lệ trẻ với bầu không khí, bình đẳng dân chủ trong gia đình, không quá nghiêm túc khắt khe, song cũng không nuông chiều quá mức gây cho chúng tâm lý thụ động, ỷ lại ít chăm sóc đến cha mẹ và những người xung quanh. Gia đình phải phối hợp chặt chẽ với nhà trường và cộng đồng chăm lo học tập, vui chơi, giải trí thể thao cho trẻ, nâng cao nghĩa vụ và trách nhiệm của cha mẹ trong việc đảm bảo quyền học tập, vui chơi và tham gia các hoạt động xã hội.
Nội dung phương pháp bảo vệ trẻ em, đảm bảo tối đa số trẻ em được bảo vệ khỏi sự phân biệt đối xử, bị xâm hại và được bảo vệ trong các tình huống đặc biệt, để trẻ em không rơi vào hoàn cảnh đặc biệt, tăng cường hỗ trợ các trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt được phát triển khả năng ở mức tối đa như chỉ tiêu cả tỉnh đặt ra đến năm 2010;
- 100% trẻ mồ côi được chăm sóc tại cộng đồng hoặc trung tâm bảo trợ xã hội tỉnh.
- 100% trẻ em đặc biệt được giúp đỡ hòa nhập với cộng đồng.
Gia đình giúp cho trẻ vị thành niên sắp bước vào tuổi lập gia đình kiến thức về sự phát triển của trẻ em, về trách nhiệm của gia đình theo qui định của pháp luật và biết cách chăm sóc, bảo vệ con em mình, định hướng cho trẻ không đọc xem, nghe hoặc mua văn hóa phẩm có nội dung xấu.
Gia đình nâng cao nhận thức các loại phương tiện thông tin hiện có tầm quan trọng của việc sử dụng, tiếp cận thông tin khác nhau, đồng thời giải quyết các nguyên nhân cội rễ của sự hiểu biết không đầy đủ, thiếu ý thức trách nhiệm và thiếu hụt nguồn lực của gia đình trong việc bảo vệ chăm sóc trẻ em. Thông qua các biện pháp truyền thông - tư vấn - giáo dục; cung cấp cho trẻ những thông tin liên quan tới loại hình và chất lượng dịch vụ mà trẻ em cần.
Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em mang tính khoa học và nghệ thuật, là một bộ phận trong chiến lược chăm lo xây dựng con người, liên quan đến nhiều lĩnh vực, đòi hỏi phải có sự tham gia của các ngành khoa học cụ thể, không thể làm tùy tiện, tự phát. Nội dung bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em yêu cầu đảm bảo tính hệ thống khách quan và xác định theo qui luật hình thành và phát triển của con người, của trẻ em trong xã hội. Phương pháp bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em phải thích hợp từng vùng, từng hoàn cảnh gia đình, với những đặc điểm lứa tuổi, nhu cầu đa dạng. Vấn đề này Hà Giang còn nhiều hạn chế, đặc biệt trong gia đình các bậc cha mẹ thiếu phương pháp, kỹ năng tiếp cận với trẻ, vì vậy cần tăng cường đổi mới nội dung phương pháp bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
Kết luận
Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi thân yêu nuôi dưỡng cả đời người, là môi trường quan trọng hình thành nhân cách và giáo dục nếp sống lành mạnh cho con người với chức năng mà không có một thiết chế nào có được. Gia đình khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của mình trong tiến trình phát triển của xã hội loài người dù hình thức gia đình có thay đổi nhưng vị trí và tầm quan trọng của gia đình đối với xã hội không bao giờ thay đổi.
Gia đình có vai trò quan trọng trong của sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em dựa trên nền tảng huyết thống tính yêu thương, nghĩa vụ và trách nhiệm. Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em trong gia đình bao gồm nội dung toàn diện: chăm sóc sức khỏe, học tập, lao động, vui chơi giải trí, bảo vệ nhân phẩm giá trị. Phương pháp bảo vệ, chăm sóc trẻ em phải có sự kế thừa và phát huy những giá trị tốt đẹp của gia đình truyền thống với việc tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hóa giáo dục của nhân loại.
Trong những năm qua bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em đã được gia đình và xã hội quan tâm nhiều hơn và đã đạt được những tiến bộ đáng khích lệ. Đồng thời nó cũng còn chịu nhiều tác động khách quan và chủ quan, điều kiện kinh tế xã hội, truyền thống văn hóa và phong tục tập quán do đó cũng gặp không ít khó khăn phức tạp.
Kinh tế đất nước phát triển, đời sống của đa số hộ gia đình được nâng lên là điều kiện thuận lợi để bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em được tốt hơn. Các em được hưởng thụ thành quả đó, các bậc cha mẹ có cơ hội đầu tư cho con cái mình học tập, chăm sóc sức khỏe, vui chơi giải trí; các phương tiện thông tin đại chúng đã cung cấp phương pháp, cách thức, chăm sóc giáo dục trẻ em góp phần không nhỏ vào điều kiện xã hội hóa trẻ em giúp các em phát triển và trưởng thành sớm. Nhưng mặt khác, trước thực trạng đời sống kinh tế xã hội, sự giao lưu hội nhập với thế giới sự vận động phát triển của gia đình, của kinh tế thị trường, công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em cũng đang đứng trước khó khăn thách thức đòi hỏi phải nhận thức đúng và có hướng giải quyết, trình độ văn hóa, điều kiện kinh tế của nhiều làm cha mẹ chưa đáp ứng được sự phát triển của con cái. Nội dung, phương pháp năng lực nuôi dưỡng, giáo dục con của cha mẹ còn lúng túng hạn chế, ý thức của một số cha mẹ chưa đầy đủ, một số gia đình kinh tế khó khăn, chịu ảnh hưởng nặng nề của phong tục tập quán lạc hậu chưa chú ý đến việc học tập của con cái. Có những cha mẹ bắt con nghỉ học ở nhà để làm nương rẫy, mặt khác ảnh hưởng của môi trường xã hội, của văn hóa phẩm không lành mạnh các tệ nạn xã hội, mại dâm ma túy… làm vẩn đục môi trường xã hội lôi cuốn một số trẻ em vào con đường phạm tội…
Trên sơ sở làm rõ thực trạng và những yếu tố ảnh hưởng đến gia đình trong việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em luận văn đã đưa ra một số giải pháp và kiến nghị chủ yếu mang tính cấp thiết nhằm phát huy cao hơn nữa vai trò gia đình trong bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Phát huy vai trò của gia đình trong việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em trong thời gian tới phải thực hiện tốt các giải pháp: Đẩy mạnh phát triển kinh tế, đặc biệt là kinh tế hộ gia đình, xây dựng gia đình ấm no bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc bền vững ít con, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước và chính quyền các cấp, tăng cường mối quan hệ giữa gia đình - nhà trường - xã hội, đổi mới tổ chức, quản lý công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, nâng cao trình độ hiểu biết, cải tiến nội dung phương pháp bảo vệ, chăm sóc giáo dục trẻ em của gia đình. Thực hiện các giải pháp này đòi hỏi sự nỗ lực của Đảng, Nhà nước, toàn dân, mọi ban ngành đoàn thể, tổ chức xã hội đặc biệt là trách nhiệm của gia đình, nhằm xây dựng lớp trẻ hôm nay trở thành những công dân Việt Nam cường tráng về thể chất phong phú về tinh thần, xã hội, trong sáng về đạo đức, và đạt tầm cao mới về trí tuệ…
* Một số kiến nghị nhằm tăng cường vai trò của gia đình trong việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
+ Kiến nghị với Trung ương:
- Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung hoàn thiện chính sách, đối với gia đình trong công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
Thứ nhất, các chính sách đổi mới gia đình nhằm vào mục tiêu số một là phát triển kinh tế gia đình, như chính sách xóa đói giảm nghèo, nhà nước nên thực hiện theo hướng giúp các gia đình có vốn kiến thức để thực hiện chức năng kinh tế, tạo cơ hội cho các gia đình nghèo có việc làm có thu nhập.
Thứ hai, ban hành các chính sách cần lưu ý chính sách hỗ trợ trẻ em nghèo, trẻ em dân tộc thiểu số, trẻ em vùng sâu vùng xa vùng đặc biệt khó khăn và trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn.
Thứ ba, chính sách xã hội của nhà nước nên nhằm vào các mục tiêu không ngừng nâng cao trình độ văn hóa gia đình, bởi vì, yếu tố kinh tế, văn hóa gia đình là yếu tố có tính quyết định đảm bảo cho gia đình thực hiện xã hội hóa con người mà trước hết là trẻ em. Chính sách đối với gia đình hướng vào việc giữ gìn và phát huy, nâng cao những giá trị truyền thống phù hợp với yêu cầu thực tại và tương lai của mỗi gia đình trong việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
Thứ tư, chính sách đối với gia đình trong sự nghiệp việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em phải đặt trong tổng thể chính sách gia đình, chiến lược gia đình, là nguồn lực cho con người tương lai cho xã hội.
Hỗ trợ các phương tiện truyền thông đáp ứng nhu cầu chuyển đổi hành vi (nhất là các xã đặc biệt khó khăn).
Hỗ trợ thêm cho tỉnh kinh phí hoạt động và sự nghiệp trẻ em, sự nghiệp gia đình.
Hỗ trợ kinh phí hoạt động xã nghèo biên giới.
Hỗ trợ các điểm vui chơi giải trí, trang thiết bị trường học.
Mở các lớp tập huấn, đào tạo nhằm nâng cao kỹ năng tuyên truyền, quản lý đội ngũ cán bộ làm công tác dân số gia đình và trẻ em.
+ Đối với tỉnh:
Cấp kinh phí để thực hiện tốt chương trình công tác gia đình và các mục tiêu của trẻ em.
Hỗ trợ thêm kinh phí (ngoài kinh phí trung ương hỗ trợ) động viên đội ngũ cộng tác viên dân số xã tích cực tham gia nhằm đem lại hiệu quả cao trong công tác dân số, gia đình và trẻ em.
danh mục tài liệu tham khảo
Chung á - Nguyễn Đình Tấn (1996), Nghiên cứu xã hội học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Công ước Liên Hiệp Quốc về quyền trẻ em, Điều 1.
Văn Thị Kim Cúc (2005), "Tác động của mức độ kỳ vọng của bố mẹ tới sự đánh giá bản thân của trẻ", Tạp chí Tâm lý học (2), tr. 18-22.
Cục Thống kê Hà Giang (2005), Báo cáo số 60CTK/XHMT số lượng giáo viên và học sinh phổ thông giữa năm học 2005-2006 (có đến 31/12/2005).
Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam - Đảng bộ tỉnh Hà Giang (2005), Văn kiện đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV.
Lê Thanh Hà (1999), Kế thừa, phát huy những giá trị đạo đức của gia đình truyền thống trong việc xây dựng văn hoá gia đình văn hoá ở nước ta hiện nay, Luận văn thạc sĩ khoa học Triết học, Đại học quốc gia Hà Nội.
Trần Thị Thanh Hằng (2001), Vấn đề giảm nghèo trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, Nxb Thống kê, Hà Nội.
Đinh Thị Phương Hoài (2001), Nghiên cứu các yếu tố nguy cơ đối với đẻ con thấp cân và tử vong chu sinh ở một số vùng miền núi phía Bắc Việt Nam, Luận án tiến sĩ Y học.
Lê Công Hoàn (2005), "Nhu cầu đối với sự hình thành hành vi đạo đức ở trẻ lứa tuổi mầm non", Tạp chí Tâm lý học (4), tr. 5-10.
Nguyễn Thị Lan Hương (2004), "Quan niệm của Ph.Ăngghen, Chủ tịch Hồ Chí Minh về gia đình và ý nghĩa của nó đối với việc nghiên cứu gia đình trong xã hội thông tin", Triết học, (11), tr.22-26.
Đặng Cảnh Khanh (2003), "Một số suy nghĩ về phát huy vai trò của gia đình và cộng đồng trong giáo dục các giá trị truyền thống cho trẻ em", Khoa học dân số, gia đình và trẻ em (2), tr. 45-49.
Nguyễn Thế Long (1999), Gia đình và dân tộc, Nxb Lao động.
Luật Bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em (2005), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
A.Ma-ca-ren-cô (1978), Nói chuyện về giáo dục gia đình, Nxb Kim Đồng.
C.Mác - Ph.Ăng-ghen (1995), Toàn tập, Tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Nguyễn Đức Mạnh (2004), "Gia đình và chăm sóc giáo dục trẻ em tuổi mầm non trong gia đình hiện nay", Khoa học về phụ nữ, (3), tr.21-26.
Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, Tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Xuất bản lần thứ 2, Hà Nội.
Dương Thị Minh (2004), Gia đình Việt Nam vai trò người phụ nữ trong giai đoạn hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hà Thế Ngữ - Đặng Vũ Hoạt (1987), Giáo dục học, Tập 1, Nxb Giáo dục.
I.A.Pê-sec-ni-co-va (1980), Dạy con yêu lao động, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
Nguyễn Thị Phương (2004), "Bình đẳng giới, nhận thức và thực hành trong chăm sóc trẻ em", Khoa học về phụ nữ (3), tr. 27-34.
Đinh Văn Quảng (2003), "Phát triển kinh tế hộ gia đình trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay", Khoa học DS-GĐ &TE, (2), tr. 61-63.
Nguyễn Thị Tố Quyên (2005), "Vấn đề giáo dục giới tính cho trẻ em trong gia đình", Xã hội học (1), tr. 85-87.
Trần Quang Tiệp (2005), "Sự phối hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong đấu tranh phòng chống người chưa thành niên phạm tội", Nhà nước và pháp luật (1), tr. 62-66.
Tỉnh uỷ Hà Giang (2006), Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ quý I và phương hướng, nhiệm vụ quý II năm 2006.
Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc KofiAnan, "Lời tựa của báo cáo của UNICEF", Tình trạng trẻ con năm 2000.
Lê Thi (1997), Vai trò gia đình trong việc xây dựng nhân cách con người Việt Nam, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
Lê Thị Thu (2004), "Vị trí và chức năng của gia đình trong sự phát triển của xã hội", Lao động và Công đoàn (309), tr. 36.
Uỷ ban Bảo vệ, chăm sóc trẻ em Việt Nam, Tổ chức cứu trợ trẻ em Thụy Điển (1999), Tài liệu tham khảo về công tác cứu trợ trẻ em làm trái pháp luật, Hà Nội.
Uỷ ban Bảo vệ, chăm sóc trẻ em Việt Nam (2001), Báo cáo tóm tắt đánh giá 10 năm thực hiện chương trình hành động quốc gia vì trẻ em Việt Nam (1991-2000) và chương trình hành động vì trẻ em Việt Nam 2001-2010.
Uỷ ban Bảo vệ, chăm sóc trẻ em Việt Nam (2002), Báo cáo kiểm định đánh giá 10 năm thi hành Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em 1991-2001.
Uỷ ban Bảo vệ, chăm sóc trẻ em Việt Nam (2002), Chương trình hành động quốc gia và trẻ em giai đoạn 2001-2010, Công ty in Văn hóa phẩm, Hà Nội.
Uỷ ban dân số gia đình và trẻ em, Báo cáo dân số gia đình gia đình và trẻ em từ 2001-2005.
Uỷ ban dân số gia đình và trẻ em (2005), Báo cáo công tác dân số gia đình và trẻ em năm 2005 và phương hướng nhiệm vụ công tác năm 2006.
Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Giang (2004), Báo cáo đánh giá sự nghiệp gia đình và các mục tiêu của chương trình hành động vì trẻ em Hà Giang 2001-2003 kế hoạch 2004-2005.
Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Giang (2005), Chương trình công tác dân số - gia đình và trẻ em 5 năm 2006-2010.
Lê Ngọc Văn (2004), "Một vài nét thực trạng gia đình Việt Nam hiện nay", Khoa học về phụ nữ (3), tr. 14-18.
Viện Sử học Việt Nam (1991), Quốc triều hình luật, Nxb Pháp lý.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA2579.doc