Lời mở đầu
Hiện nay, việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài đang trở thành một bộ phận chủ yếu trong quan hệ kinh tế thế giới và là nhân tố quan trọng của nhiều nước, nhằm hỗ trợ và phát huy lợi thế so sánh của mỗi quốc gia để phát triển. Sự tăng trưởng kinh tế làm cho các mặt khác của nền kinh tế được cải thiện, gia tăng. Để có được sự tăng trưởng kinh tế, điều kiện thiết yếu là phải có đầu tư và nguồn vốn bao gồm cả vốn trong nước và vốn nước ngoài. Bởi vì vốn đầu tư là một mắt xích quan trọng nh
73 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1591 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Vai trò của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ất trong vòng tròn tác động lẫn nhau giữa vốn, kỹ thuật và tăng trưởng. Nhu cầu đầu tư trực tiếp nước ngoài ngày càng trở nên bức thiết trong điều kiện của xu thế quốc tế hoá đời sống, kinh tế, cách mạng khoa học công nghệ và phân công lao động quốc tế ngày càng tăng. Đối với các nước đang phát triển nhất là Việt Nam, đầu tư trực tiếp nước ngoài là một trong những nhân tố quan trọng cho sự tăng trưởng kinh tế và là một trong những chỉ số cơ bản để đánh giá khả năng phát triển.
Việt Nam đang tiến hành công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá để đưa đất nước từ một nền kinh tế kém phát triển, nghèo nàn, lạc hậu sớm trở thành một nước công nghiệp, có tốc độ tăng trưởng cao và ổn định, cần phải có một khối lượng vốn rất lớn. Nhận thức được điều này, cùng với việc hội nhập về kinh tế, việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài là hết sức cần thiết để đẩy nhanh hơn nữa tốc độ tăng trưởng kinh tế, từng bước bắt nhịp với nền kinh tế trong khu vực và trên thế giới. Trong chặng đường đầu khi tích luỹ trong nội bộ nền kinh tế còn thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế xã hội. Nguồn vốn có thể từ trong nước nhưng thực tế cho thấy tỉ lệ tiết kiệm này rất thấp chưa đủ tài trợ cho đầu tư đảm bảo tăng trưởng kinh tế bền vững. Do đó nguồn vốn đầu tư nước ngoài đặc biệt là nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là vô cùng cần thiết. Việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài càng có vai trò quan trọng hơn. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có ưu điểm hơn nhiều so với các nguồn vốn nước ngoài khác và nó có tác động sâu rộng đến nền kinh tế đất nước. Nó có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc tạo động lực phát triển kinh tế xã hội trong thời kỳ đổi mới. Do vậy, nước ta luôn tìm mọi cách đưa ra những chính sách nhằm khuyến khích và không ngừng cải thiện môi trường đầu tư nhằm thu hút vốn đầu tư đồng thời cần phải có chiến lược khai thác và sử dụng hiệu quả nhất nguồn vốn này để phục vụ tăng trưởng kinh tế.
Và thực tế là sau hơn 10 năm đổi mới đã khẳng định: Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là yếu tố quan trọng không thể thiếu trong quá trình phát triển kinh tế. Do nhận thức được tầm quan trọng của nguồn vốn đầu tư nước ngoài cũng như sự đóng góp của nó vào sự phát triển kinh tế xã hội của nước ta trong những năm qua, cho nên em đã chọn đề tài “Vai trò của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam hiện nay”.
Chuyên đề được bố cục thành 3 chương lớn:
Chương I : Lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Chương II : Thực trạng và vai trò của FDI đối với tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam.
Chương III : Một số các giải pháp tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam.
Mặc dù có nhiều cố gắng nhưng chắc chắn đề án không tránh được những sai sót. Em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp quí báu của thầy cô và các bạn. Xin chân thành cảm ơn cô giáo Đinh Thị Thanh Long đã tận tình hướng dẫn và tạo điều kiện thuận lợi để bài chuyên đề của em được hoàn thiện.
Hà nội, tháng 3 năm 2004.
Sinh viên.
Trương Thị Thanh Hiền.
chương 1
Lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.1. Những vấn đề chung về FDI.
1.1.1 Khái niệm FDI.
Khái niệm đầu tư quốc tế ra đời từ thế kỷ XIX khi trên thế giới xuất hiện hiện tượng nhập khẩu tư bản từ nước thừa sang nước thiếu, khái niệm đầu tư quốc tế ra đời. Theo các nhà kinh tế học, đầu tư quốc tế là một hình thức quan trọng của kinh tế đối ngoại, trong đó có sự di chuyển tư bản từ quốc gia này sang quốc gia khác nhằm thực hiện các dự án đầu tư nhằm mang lại lợi ích cho các bên tham gia. Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một hình thức đầu tư quốc tế trong đó chủ đầu tư nước ngoài đầu tư toàn bộ hay một phần đủ lớn vốn đầu tư của các dự án nhằm giành quyền điều hành hay tham gia quản lý các hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ thương mại.
Theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996, Đầu tư trực tiếp nước ngoài ( Foreign Direct Investment - FDI ) là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào để tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của luật này.
Trên thực tế có rất nhiều cách nhìn nhận khác nhau về FDI. FDI luôn được xem như là một hoạt động kinh doanh ở đó có yếu tố di chuyển vốn quốc tế kèm theo chuyển giao công nghệ, kỹ năng quản lý và các ảnh hưởng kinh tế-xã hội khác đối với nước nhận đầu tư.
1.1.2. Bản chất của FDI.
FDI là một hình thức đầu tư quốc tế, do vậy nó mang đầy đủ bản chất của đầu tư quốc tế.
- FDI là một hình thức của quan hệ kinh tế quốc tế giữa các quốc gia với nhau. khi một quốc gia này đầu tư vào một quốc gia khác và các quốc gia đó đạt được hiệu quả cao, đem lại lợi ích cho các bên tham gia. Thực tế cho thấy,FDI có tác động rất lớn đến việc làm tăng trưởng kinh tế, sử dụng các nguồn tài nguyên…
- Đó là quá trình di chuyển vốn từ quốc gia này sang quốc gia khácđể thực hiện dự án đầu tư nhằm đem lại lợi nhuận cho các bên tham gia.Trong nền kinh tế thị trường, hiện tưọng thừa thiếu hoặc thiếu vốn tương đối là một tất yếu. Để giải quyết mâu thuẫn trên đảm bảo cho sự phát triển của mỗi quốc gia thì cần thiêt phải có sự di chuyển vốn từ nước thừa (nước chủ đầu tư) sang nước thiếu vốn (nước nhận đầu tư), Mục tiêu của các nhà đầu tư trong hình thức này là lợi nhuận. Do đó, lợi nhuận có ảnh hưởng rất lớn đến dòng di chuyển của FDI vào các quốc gia.
- FDI là hình thức đầu tư mà trong đó quyền sở hữu vốn đầu tư thống nhất với quyền sử dụng vốn của họ. chủ đầu tư có toà quyền quyết định sử dụng vốn vào mục đích nào. Chủ đầu tư trực tiếp tham gia quản lý điều hành quá trình sử dụng vốn của mình tuỳ thuộc vào mức độ đóng góp vốn, nước nhận đầu tư không trở thành con nợ như các hình thức đầu tư khác. Hơn nữa đây lại là hình thức đầu tư chủ yếu có thời hạn dài, có tính ổn định cao nên các chủ đầu tư không thể rút vốn trong khoản thời gian ngắn, không gây tác động xấu đến nền kinh tế.
- FDI không chỉ đầu tư vốn mà còn kèm theo công nghệ, bí quyết kinh doanh và năng lực marketing, kéo theo sự ra đời và phát triển của các ngàng công nghiệp hiện đại, đòi hỏi hàm lượng công nghệ-kỹ thuật cao và nhiều vốn. Việc chuyển giao công nghệ còn góp phần không nhỏ vào việc tăng năng suất lao động, tăng sức cạnh tranh cho hàng hoá của các nước nhận đầu tư.
Có thể thấy rằng FDI là hình thức đầu tư có tính khả thi và hiệu quả kinh tế cao, không có ràng buộc chính trị, không để lại gánh nặng nợ nần cho các nước nhận đầu tư. Với những ưu điểm nổi bật trên, FDI ngày càng là hình thức đầu tư phổ biến và hiệu quả.
1.1.3. Xu hướng vận động của FDI hiện nay.
Trong hình thức FDI, lợi nhuận mà các nhà đầu tư dự tính thu được chi phối mạnh mẽ quyết định đầu tư của họ. Các chủ đầu tư thường đầu tư vốn vào những nước có diều kiện kinh tế - chính trị và môi trường đầu tư ổn định, nơi họ có thể sử dụng vốn của mình hiệu quả nhất. Hoạt động FDI có nhiều biến đổi sâu sắc: ngày càng tăng về số lượng, quy mô, thị trường, lĩnh vực đầu tư và có xu hướng vận động chủ yếu như sau:
FDI trở thành hình thức đầu tư chủ yếu trong đầu tư nước ngoài.Bởi vì FDI có những ưu điểm vượt trội so với các hình thức đầu tư khác.
+ FDI thể hiện rõ hơn sự chuyển biến về chất lượng trong nền kinh tế thế giới.
+ FDI gắn liền với quá trình sản xuất trực tiếp.
+ FDI tham gia vào sự phân công lao động quốc tế theo chiều sâu và tạo điều kiện, cơ sở cho sự hoạt động của các công ty đa quốc gia (Multi-national company-MNCs), các công ty xuyên quốc gia(Trans- national company- TNCs) cũng như các doanh nghiệp quốc tế .
Luồng vốn FDI hướng vào các nước phát triển (CDs). Đây là xu hướng ngược với những năm của thập kỷ 50-60. Dòng vốn FDI không chảy từ nước thừa vốn sang nước thiếu vốn mà lại chảy chủ yếu vào các nước công nghiệp phát triển ( chiếm khoảng 70% tổng số vốn đầu tư thế giới). Các nước này đồng thời cũng là nước xuất khẩu FDI lớn nhất, chiếm khoảng 80% FDI toàn thế giới. Nguyên nhân của sự chuyển hướng FDI là do:
+ Sự phát triển như vũ bão của khoa học- kỹ thuật đã dẫn đến sự ra đời của các ngành có hàm lượng khoa học công nghệ cao, tiêu tốn ít năng lượng và nguyên liệu, hứa hẹn một tỷ suất lợi tức cao.
+ Môi trường đầu tư của các nước phát triển hoàn thiện, chế độ chính trị khá ổn định, trình độ công nghệ và lao động phù hợp với yêu cầu của các nhà đầu tư lớn.
+ Xu thế hình thành các khối kinh tế - đầu tư trong khu vực đang gia tăng, do đó các chủ đầu tư tăng cường đầu tư vào các khối hợp tác kinh tế như EU, AFTA, NAFTA…để được hưởng tự do thương mại và đầu tư.
+ Việc đầu tư lẫn nhau giữa các tập đoàn lớn để tránh đối đầu trực diện trong kinh doanh ngày càng tăng.
Trong hoạt động FDI xuất hiện hiện tượng đa cực, đa biên. Tương quan lực lượng giữa các nước đầu tư thực tế có nhiều thay đổi. Ngày nay không còn tình trạng chỉ có một trung tâm phát ra luồng tư bản như trước nữa. Nếu như ở thế kỷ XX, Pháp, Mĩ, Đức, Hà Lan là những nước dẫn đầu thế giới về xuất khẩu vốn nước ngoài thì đến giữa thế kỷ này, Mĩ nhảy lên dẫn đầu, sau đó đến Anh, Pháp. Đến thập kỷ 90, do sự cạnh tranh của các công ty Tây Âu, Nhật Bản và các nền kinh tế công nghiệp mới, đặc biệt là các nước Châu Á, tính chất "đa cực" đã thay thế hoàn toàn tính "một cực" trong hoạt đồng FDI. ngoài ra không chỉ có sự cạnh tranh của các nước nhận đầu tư mà còn diễn ra sự cạnh tranh không kém phần quyết liệt của các nước đi đầu tư . Một nước vừa nhận đầu tư vừa đi đầu tư ra nước ngoài tạo nên hiện tượng "đa biên" trong hoạt động này. Mĩ là một điển hình,vừa là nước đầu tư ra nước ngoài lớn nhất ( chiếm khoảng 17% FDI thế giới ), lại vừa là nước thu hút FDI lớn nhất (chiếm khoảng 30% FDI thế giới).Việc xuất hiện xu hướng "đa cực","đa biên" đã tạo điều kiện cho các nước thực hiện đường lối mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế với phương châm đa phương hoá, đa dạng hoá.
Cơ cấu đầu tư thay đổi theo hướng tập trung vào công nghiệp chế biến và dịch vụ. Do sự phát triển của nền kinh tế thế giới dưói tác động của khoa học- công nghệ, các ngành và lĩnh vực hấp dẫn vốn đầu tư không giống nhau. Đầu thế kỷ XX, vốn đầu tư thường di chuyển vào các ngành cần nhiều lao động để khai thác nguồn nhân công rẻ và nguồn tài nguyên thiên nhiên sẵn có của các nước khác. Ngày nay, lĩnh vực đầu tư có những thay đổi cơ bản. Các nhà đầu tư thường tập trung vào lĩnh vực sử dụng công nghệ cao và lĩnh vực dịch vụ. Xu hướng này đã trở nên phổ biến trên thế giới.
Các công ty xuyên quốc gia (TNCs) đã trở thành chủ thể đầu tư trực tiếp quan trọng, xu hướng mua lại, sáp nhập ngày càng tăng. Hiện nay, các TNCs là một trong những lực lượng đang vận hành nền kinh tế thế giới, nắm gữi nguồn vốn kỹ thuật và kiểm soát thương mại quốc tế (chiếm 40% sản xuất công nghiệp của thế giới tư bản,60%về ngoại thương và 80% về kỹ thuật mới). Có thể nói không có một trương trình hay đượcự án đầu tư trực tiếp nào lại không liên quan trực tiếp hay gián tiếp tới các TNCs. Kết quả nghiên cứu 100TNCs lớn nhất thế giới cho thấy các TNCs này chiếm 1/3 FDI toàn thế giới và tổng tài sản ở nước ngoài của họ lên tới 1400 tỷ USD, sử dụng tới 72 triệu lao động.
Xuất hiện làn sóng tự do hoá về đầu tư. Nhận thức được vai trò quan trọng của FDI đối với tăng trưởng kinh tế và giải quyết vấn đề việc làm nên tất cả các nước đều chú trọng thu hút đầu tư nước ngoài. uộc cạnh tranh thu hút FDI giữa các đang phát triển diễn ra hết sức gay gắt, hình thành nhiều định chế về hợp tác đầu tư. Với việc hình thành các định chế này, môi trường đầu tư trở nên hấp dẫn cạnh tranh do được mở cửa và tự do hoá ở mức độ cao. Xu hướng tự do hoá đầu tư thể hiện trên ba bình diện là quốc gia, khu vực và quốc tế.
Các nước NICs Châu Á trở thành các chủ đầu tư quan trọng. Đây là hiện tượng mới trong đầu tư quốc tế. Mặc dù các nước này chiếm một tỷ trọng rất khiêm tốn trong tổng vốn đầu tư quốc tế, nhưng nó là biểu hiện sự vươn lên cảu các nước đang phát triển. Các chủ đầu tư lớn ấy tập trung ở khu vực Đông và Đông Nam Châu Á, cụ thể là các nước Đài Loan, Hàn Quốc, Hồng Kông, Singapo và một số nước ASEAN. Đông Nam Á trở thành khu vực hấp dẫn đầu tư nước ngoài. Đây là một khu vực kinh tế phát triển năng động nhất thế giới trong những năm gần đây. Mặt khác, khu vực này có nhiều điểm hấp dẫn đối với các nhà đầu tư như giá nhân công rẻ, tài nguyên thiên nhiên phong phú, môi trường đầu tư liên tục được cải thiện.
Có sự thay đổi sâu sắc trong lĩnh vực đầu tư. Các nhà đầu tư nước ngoài chủ yếu hướng vào các lĩnh vực truyền thống như các ngành khai thác tài nguyên thiên nhiên, phát triển nông nghiệp bằng cách đầu tư vào các đồn điền và các ngành chế biến nông sản, các ngành thuộc kết cấu hạ tầng như việc xây dựng một số đô thị quan trọng, đầu tư về giáo dục và y tế.
1.1.4. Các hình thức FDI.
Từ khi xuất hiện đến nay, FDI có nhiều biến đổi mạnh mẽ và ngày càng thể hiện rõ vai trò quan trọng đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế của mỗi nước. Tất cả các nước đang tìm mọi biện pháp để thu hút nguồn vốn FDI. Các nhà đầu tư có điều kiện lựa chọn các hình thức đầu tư khác nhau. Trên thực tế có ba hình thức FDI là: Thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, Thành lập doanh nghiệp liên doanh, Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp tác kinh doanh.
- Thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là doanh nghiệp do chủ đầu tư nước ngoài đầu tư 100% vốn tại nước sở tại. Hình thức này có đặc trưng là: chủ đầu tư rót vốn vào nước sở tại để thành lập chi nhánh của các công ty con thuộc quyền sở hữu của mình ở nước sở tại để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, mở rộng hoạt động, gia tăng ảnh hưởng của mình trên phạm vi quốc tế. Các công ty đầu tư theo hình thức này đều là các coong ty lớn có uy tín cao như các công ty đa quốc gia, các công ty xuyên quốc gia. Hiện nay hình thức này được thực hiện khá phổ biến trên thế giới. Hiện nay ở Việt Nam, theo luật định, đối với những cơ sở kinh tế quan trọng do Chính phủ quyết định, doanh nghiệp Việt Nam trên cơ sở thảo luận với chủ doanh nghiệp mua lại một phần vốn của doanh nghiệp để chuyển thành doanh nghiệp liên doanh.
- Thành lập doanh nghiệp liên doanh (Joint Venture Company-JVC).Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp được thành lập do các chủ đầu tư nước ngoài góp vốn chung với doanh ngiệp của nước sở tại trên cơ sở hợp đồng lien doanh. Điều đó có nghĩa là các bên cùng nhau tham gia điều hành doanh nghiệp, phân chia lợi nhuận và gánh chịu rủi ro theo tỷ lệ góp vốn của mỗi bên trong vốn điều lệ của công ty. Theo luật phát của Việt Nam, phần vốn góp của bên nước ngoài không bị hạn chế về mức cao nhất như một số nước khác nhưng không ít hơn 30% vốn pháp định. Đối với những cơ sở sản xuất quan trọng do Chính phủ quyết định, các bên thoả thuận tỷ trọng góp vốn của bên Việt Nam trong lien doanh.
- Hợp tác kinh doanh. Là hình thức liên kết kinh doanh giữa đối tác trong nước và các nhà đầu tư nước ngoài trên cơ sở quy định trách nhiệm, phân chia lợi nhuận cho mỗi bên bằng các văn bản ký kết trong đó mỗi bên vẫn giữ nguyên tư cách pháp nhân riêng mà không tạo ra một tư cách pháp nhân mới. Khác với hai hình thức đầu tư nói trên, hình thức này các bên thường ký kết hợp đồng BOT(Build- Transfer- Operate: Hợp đồng Xây dựng-kinh doanh-chuyển giao), hợp đồng BOT (Build- Operate-Trasfer: Hợp đồng Xây dựng- chuyển giao-kinh doanh ), hay hợp đồng BT(Build-Transfer: Hợp đồng Xây dựng- chuyển giao).
1.1.5. Vai trò của FDI.
1.1.5.1 Những tác động tích cực của FDI đối với tăng trưởng kinh tế.
Một trong những ảnh hưởng tích cực nhất của FDI là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và sử dụng có hiệu quả hơn nguồn lực của các nước như:
Sử dụng tối ưu hơn các yếu tố sản xuất nhờ chuyên môn hoá quốc tế.
Sử dụng các nguồn tài nguyên (vật chát và nhân lực) nhàn rỗi.
Nâng cấp nguồn lực của nước chủ nhà.
Tuy nhiên không phải bất kỳ trường hợp nào FDI cũng dẫn đến sự tăng trưởng hoặc sử dụng hiệu quả các nguồn lực trong nước.
Từ thế kỷ thứ XX khi việc xuất khẩu tư bản phát triển nhanh chóng, các nhà kinh tế học nổi tiếng đều thống nhất cho rằng nguyên nhân cơ bản và chủ yếu của các nước kém phát triển(LDCs) là thiếu vốn, và để giải quyết vấn đề này là mở cửa cho đầu tư trực tiếp nước ngoài.Vấn đề mở cửa cho FDI có ý nghĩa sống còn đối với các nước đang phát triển, giúp các nước này vươn tới thị trường mới,tiếp cận khoa học-kỹ thuật-công nghệ hiện đại và phương pháp quản lý có hiệu quả. Để tăng trưởng kinh tế, trong tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế thì phải thu hút được FDI.
FDI có vai trò trong việc chuyển giao công nghê và bí quyết kĩ thuật. Rõ ràng là khi đầu tư vào một nước, chủ đầu tư không chỉ chuyển vốn bằng tiền vào đó mà còn chuyển cả vốn hiện vật như thiết bị, máy móc, nguyên vật liệu(công nghệ cứng) và vốn vô hình như công nghệ, tri thức khoa học, bí quyết quản lý, kỹ năng marketing…cũng như đưa chuyên gia nước ngoài vào đào tạo chuyên gia bản xứ về lĩnh vực đó sang nước được đầu tư để sản xuất, nước tiếp nhận đầu tư không chỉ được chuyển giao công nghệ đơn thuần mà còn nắm vững nguyên lý của nó, bí quyết kĩ thuật thông qua việc sử dụng các máy móc thiết bị này. Hiện nay, việc chuyển giao công nghệ và bí quyết kỹ thuật diễn ra dưới hai phương thức, đó là: chủ đầu tư chuyển giao cho chi nhánh của mình ở nước ngoài (Internal transfer) và việc chủ đầu tư chuyển giao thông qua dự án liên doanh (External transfer). Việc chuyển giao kỹ thuật nhằm mục đích tìm kiếm tỉ suất lợi nhuận cao hơn cho các chủ đầu tư. Việc chuyển giao ở hình thức công ty 100% vốn nước ngoài diễn ra phổ biến hơn ở các công ty liên doanh, vì thông thường các công ty liên doanh không đáp ứng yêu cầu từ phía đối tác tốt bằng công ty 100% vốn nước ngoài.Việc chuyển giao công nghệ thông qua FDI đóng vai trò to lớn trong việc kích thích những doanh nghiệp trong nước học hỏi, tự nâng cao trình độ kỹ thuật- công nghệ, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường nội địa và thị trường quốc tế.Và có điều kiện tiếp cận và học tập kinh nghiệm quản lý tiên tiến của nước ngoài trong sản xuất kinh doanh và nâng cao kiến thức kinh doanh hiện đại cho cán bộ, trình độ tay nghề của đội ngũ công nhân như: kinh nghiệm xây dựng và đánh giá dự án, kinh nghiệm tổ chức và điều hành doanh nghiệp, quản lý tài chính, kế toán, quản lý công nghệ, kỹ năng marketing…Từ đó tạo ra phong cách lao động khoa học và tư duy lao động mới ở các nước đang phát triển.
FDI giúp cho việc sử dụng tài nguyên ở các nước nhận đầu tư được tiết kiệm và hiệu quả hơn. Tài nguyên ở đây được hiểu là chi phí đầu vào của doanh nghiệp. Rõ ràng với dây chuyền công nghệ, thiết bị hiện đại hơn, chủ đầu tư sẽ sử dụng ít lao động hơn, làm cho chi phí nhân công giẩm nhưng vẫn đẩm bảo cho việc sản xuất kinh doanh diễn ra bình thường. Nhờ có nguồn vốn FDI mà cả tài nguyên con người và cả tài nguyên thiên nhiên được kết hợp một cách tối ưu và do đó tài nguyên này được sử dụng tiết kiệm hơn, hợp lí hơn, và có hiệu quả hơn. Cũng nhờ có vốn FDI mà các nước nhận đầu tư có thể khai thác hiệu quả những lợi thế, những nguồn lực của đất nước mà tự nước đó không thể thực hiện được do thiếu vốn như khai thác dầu mỏ, khoáng sản…
FDI góp phần giải quyết tình trạng thất nghiệp, tăng thu nhập cho người lao động. Khi các nhà đầu tư nước ngoài bỏ vốn của mình để tiến hành sản xuất kinh doanh thì tất yếu họ phải thuê nhân công bởi vì cho dù công nghệ có hiện đại tới đâu cũng cần phải có người điều hành. Việc làm ở đây không chỉ có việc làm trực tiếp mà còn có cả việc làm gián tiếp,nghĩa là không chỉ có việc làm do doanh nghiệp tuyển dụng và trả lương mà còn có cả những việc làm được tạo ra trong hoạt động của các ngành, các tổ chức, các doanh nghiệp ngoài khu vực có vốn FDI nhưng phục vụ cho hoạt động của doanh nghiệp có vốn FDI .
FDI góp phần tăng thu ngân sách nhà nước .Từ các hoạt động phục vụ các doanh nghiệp có vốn FDI như thuê đất, mặt nước. mặt biển hay các khoản thu thuế lợi tức, thuế xuất nhập khẩu, Nhà nước có được một khoản thu hàng năm khá ổn định. múc đóng góp của FDI vào ngân sách nhà nước ngày càng có xu hướng tăng lên.
FDI tạo nguồn vốn bổ sung quan trọng. Trong giai đoạn đầu phát triển kinh tế, khoảng cách lớn giữa nhu cầu đầu tư và tiết kiệm gây nên tình trạng thiếu vốn,hạn chế quy mô sản xuất và đổi mới kỹ thuật.Sự mất cân đối giữa xuất khẩu và nhập khẩu làm cho cán cân thanh toán thường xuyên bị thâm hụt. Việc thu hút FDI giúp lấp đầy khoảng trống giữa tiết kiệm và đầu tư, bù đắp các khoảng thiêu ngoại tệ cho cán cân thanh toán. Loại hình FDI không hạn chế mức tối đa mà chỉ quy định mức tối thiểu nên nó cho phép nước nhận đầu tư dễ dàng hơn trong thu hút và sử dụng nguồn vốn bên ngoài, tăng thêm nguồn vốn cho tăng trưởng và phát triển.
FDI thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá-hiện đại hoá, hoà nhập nền kinh tế dân tộc với sự phân công lao động quốc tế và hội nhập kinh tế quốc tế. Khi một nước thu hút được một lượng vốn FDI thì ngoài việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thì FDI góp phần không nhỏ trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế . Các chủ đầu tư chuyển giao công nghệ và lĩnh vực sản xuất kinh doanh đã mất sức cạnh tranh ở nước mình, nhưng vẫn còn khá hiện đại đối với các nước nhận đầu tư, đã góp phần cải thiện cơ cấu kinh tế ở các nước này theo hướng công nghiệp hoá- hiện đại hoá và quốc tế hoá. Mặc dù tỷ trọng FDI trong tổng số vốn đầu tư ở một số nước không cao nhưng nó thường chiếm tỷ trọng lớn trong đầu tư tài sản cố định của một số ngành quan trọng của nền kinh tế.Thông qua định hướng phát triển kinh tế trong từng thời kỳ mà Chính phủ sẽ ưu tiên trong việc thu hút FDI vào từng ngành khác nhau thông qua các chính sách khác nhau như ưu đãi về thuế, tạo điều kiện về cơ sở hạ tầng…Khi vốn FDI tập trung vào một ngành nhất định, về mặt trực quan sẽ làm thay đổi tỷ trọng của ngành đó và làm giẩm tỷ trọng của ngành khác. Bên cạnh đó, FDI còn làm thay đổi cơ cấu các ngành trong một thời gian dài phù hợp với sự phát triển kinh tế .
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là lực lượng cơ bản cho sự hội nhập nền kinh tế đượcân tộc vào nền kinh tế thế giới.Hội nhập kinh tế thế giới có nghĩa là định hướng phát triển kinh tế từ thay thế nhập khẩu sang hướng vào xuất khẩu.Các nghiên cứu về quá trình phát triển kinh tế của các nước đang phát triển cho thấy một trong những yếu tố đẩm bảo cho chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu thành công là thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Điều này, về mặt lý thuyết là đầu tư trực tiếp gắn bó chặt chẽ với thưong mại, về mặt thực tế, thì các nước đang phát triển rất thiếu kinh nhiệm và khả năng thâm nhập thị trường nước ngoài. Thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài, các nước đang phát triển được thu hút vào mạng lưới phân công lao động quốc tế và khu vực.
1.1.5.2 Những hạn chế của FDI.
Chi phí của việc thu hút FDI.
Để khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài, nước nhận đầu tư thường áp dụng một số ưu đãi cho họ như; giảm thuế, miễn thuế trong một thời gian cho phần lớn các dự án đầu tư nước ngoài.Hoặc trả tiền thuê mặt bằng và một số dịch vụ trong nước thấp hơn so với các nhà đầu tư trong nước.Hoặc họ được miễn thuế trong một số lĩnh vực. Và như vậy đôi khi những lợi ích của các nhà đầu tư nước ngoài có thể vượt quá lợi ích nước chủ nhà nhận được.
Các nhà đầu tư thường tính giá cao hơn mặt bằng quốc tế cho các nhân tố đầu vào. Các nhà đầu tư nước ngoài thường tính giá cao cho nguyên vật liệu, bán thành phẩm may móc thiết bị mà họ nhập vào để thực hiện đầu tư, hoặc che dấu lợi nhuận thực tế mà họ kiếm được, từ đó hạn chế được sự thâm nhập thị trường của các đối thủ cạnh tranh. Điều này gây ra chi phí sản xuất cao ở nước chủ nhà và nước chủ nhà phải mua hàng hoá do nhà đầu tư nước ngoài sản xuất với giá cao hơn. Tuy nhiên việc tính giá cao đó thường xảy ra khi các nước chủ nhà thiếu thông tin, trình độ kiểm soát, quản lý, chuyên môn yếu hoặc chính sách của các nước đó còn nhiều khe hở khiến các nhà đầu tư có thể lợi dụng được.
Công nghệ và kỹ thuật lạc hậu.Các nước đầu tư thưòng bị buộc tội là đã chuyển giao công nghệ và kỹ thuật lạc hậu vào nước tiếp nhận đầu tư . Điều này có thể giải thích là: dưới sự tác động của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, may móc, công nghệ nhanh chóng bị lạc hậu. Các chủ đầu tư chỉ chuyển giao những công nghệ mới cho các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài để nâng cao năng lực kinh doanh. Các doanh nghiệp liên doanh thường được chuyển giao những công nghệ đã lạc hậu cho các nước tiếp nhận đầu tư để đổi mới công nghệ, đổi mới sản phẩm, nâng cao chất lượng sảm phẩm của chính nước họ dĩ như vậy là vì các chủ đầu tư không muốn các bí quyết kỹ thuật của mình được sử dụng rộng rãi. Do đó song song với việc tiếp nhận công nghệ được chuyển giao, các nước nhận đầu tư cần quan tâm bồi dưỡng, đào tạo, nâng cao trình độ xét duyệt dự án, trình độ chuyên môn cho cán bộ, đa dạng hoá nguồn đầu tư nước ngoài ngay cả trong từng ngành để qua đó có thể chọn lọc những kỹ thuật mới, tối ưu. Đồng thời phải có chiến lược đào tạo nguồn nhân lực để vận dụng tốt và tiếp thu nhanh các dây chuyền công nghệ cũng như các bí quyết kỹ thuật được chuyển giao.
Doanh nghiệp có vốn FDI thu hút lực lượng lớn nguồn lao động có trình độ tay nghề cao, cán bộ trẻ có năng lực, làm cho một số doanh nghiệp trong nước thiếu đội ngũ cán bộ giỏi, giảm khả năng hoạt động sản xuất kinh doanh, do đó giảm tỷ lệ tiết kiệm và quy mô đầu tư. Đây gọi là hiện tượng "chảy máu chất xám".Để giữ chân những người có năng lực ngoài việc thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực, các doanh nghiệp trong nước cần có những chính sách ưu đãi về tiền lương, tiền thưởng và các chính sách tinh thần nhằm làm họ gắn bó lâu dài với doanh nghiệp.
Nếu xét trong khoản thời gian ngắn hoặc trong mối quan hệ với các nguồn vốn nước ngoài khác như tín dụng quốc tế,ODA… thì FDI cho phép các nước đang phát triển tránh được rủi ro cũng như gánh nặng nợ nần hay ràng buộc chính trị, từ đó ảnh hưởng tích cực tới cán cân thanh toán quốc tế. Nhưng xét về dài hạn, việc thu hút FDI lại làm thâm hụt cán cân thanh toán quốc tế. Bởi vì sau một thời kỳ đầu tư nhất định, lượng ngoại tệ chuyển ra nước ngoài dưới dạng lợi nhuận, lãi suất, giá công nghệ nhập khẩu và chi phí quản lý lớn hơn số ngoại tệ mà các nhà đầu tư nước ngoài đưa vào trong thời gian đầu dưới hình thức vốn đầu tư. Hơn nữa, các nhà đầu tư nước ngoài còn lợi dụng những kẽ hở trong hệ thống chính sách, pháp luật của nước chủ nhà nhằm trốn thuế, làm tổn hại đến lợi ích của nước chủ nhà.
Trên đây là những mặt trái của FDI. Những tác động này trước mắt còn nhỏ nhưng sẽ dần bộc lộ rõ hơn. Mức độ ảnh hưởng của nó đến nền kinh tế như thế nào còn tuỳ thuộc vào chính sách đối ứng hiệu quả của nước sở tại. Nhận thức được điều này giúp các nước nhận đầu tư đưa ra những biện pháp hạn chế tác động xấu của FDI . Nhưng vấn đề quan trọng nhất là các nước nhận đầu tư phải có đủ năng lực tiếp nhận, năng lực quản lý và phải đưa ra được những quyết định: Tiếp nhận FDI ở mức độ nào để có thể kiểm soát được và làm thế nào để hạn chế những tác động xấu của FDI.
CHƯƠNG 2
Thực trạng và vai trò của FDI đối với tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam.
2.1. Đặc điểm kinh tế xã hội của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
2.1.1 Tình hình tăng trưởng kinh tế trong những năm qua.
Sau hơn 10 năm đổi mới, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể quan trọng nhất là trong tăng trưởng kinh tế, tạo nền tảng cho các bước phát triển tiếp theo. Cuộc khủng khoảng tài chính tiền tệ khu vực Châu Á (1998-1999) đã có ảnh hưởng không nhỏ đến nền kinh tế Việt Nam trong những năm vừa qua, nhưng hiện nay đang có dấu hiệu phục hồi trở lại.
Từ năm 1995 đến nay, bên cạnh một số thuận lợi, nước ta gặp nhiều khó khăn do hoần cảnh đất nước cũng như bối cảnh quốc tế mang lại. Với sự cố gắng nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân chúng ta đã đạt được những thành tựu quan trọng trong tăng trưởng kinh tế như sau:
- Kinh tế tăng trưởng khá: Tổng sẩn phẩm trong nước (GDP) tăng bình quân 7%/năm. Tốc độ tăng trưởng GDP của các năm cao và tăng dần:9,54% năm 1995; 9,34% năm 1996…(Bảng 1). Do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực, tốc độ tăng trưởng giẩm, chỉ đạt 4,47% năm 1999 nhưng sau đó đã dần tăng trở lại và đạt 6,79% năm 2000; 6,89% năm2001; riêng năm 2002 đạt 7,04%.
Bảng 1: Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong thời gian qua.
Năm
2003
2002
2001
2000
1999
1998
1997
1996
1995
1994
1993
1992
1991
Tốc độ
tăng GDP (%)
7,46
7,04
6,89
6,79
4,77
5,76
8,15
9,34
9,54
8,83
8,08
8,70
5,81
Nguồn: Thời báo kinh tế số 49 (26/3/2003)
- Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch tích cực: trong GDP tỷ trọngkhu vực công nghiệp và xây dựng tăng từ 34,49% năm 1999 lên 38,55% năm 2002, các con số tương ứng với khu vực nông- lâm và thuỷ sản là 25,43% và 22,99%; của khu vực dịch vụ là 40,08% và 38,46%.
-Nông nghiệp phát triển liên tục, đặc biệt là sản xuất lương thực. Từ năm 1988-2003, lĩnh vực nông nghiệp đã thu hút được trên 780 dự án có vốn FDI, với tổng vốn đăng ký trên 3,8 tỷ USD. Năm 1995, bình quân lương thực 360kg/người, năm 2000 tăng lên 444kg/người và năm 2002 là 450kg/người. Sản lượng lương thực 35,9 triệu tấn. Giá trị sản xuất nông-lâm nghiệp và thuỷ sản tăng bình quân hàng năm (1996-2000)là 5,7%. Riêng năm 2002 giá trị sản xuất chăn nuôi và thuỷ sản tăng khoảng 7% trong đó chăn nuôi tăng 5,4%, thuỷ sản 18,1 %, tính ra tổng thu nhập tăng 14,8 %. Đã tạo được ba mặt hàng xuất khẩu chủ lực là gạo (đứng thứ hai thế giới), cà phê(đứng thứ ba) và hàng hải sản chiếm 34% giá trị kim ngạch xuất khẩu toàn ngành. Năm 2002, xuất khẩu các mặt hàng nông sản chủ lực tăng cao như: gạo tăng 22,2%; cao su tăng 33,6%; hạt tiêu tăng 19,3 %; hạt điều tăng 38,7%; chè tăng 20,9%; lạc tăng 30,1%. Ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn đã đề ra mục tiêu là trong giai đoạn 2002-2007 thu hút được 1 tỷ USD vốn FDI.
- Công nghiệp và xây dựng vượt qua những khó khăn thách thức và đạt được những tiến bộ. Nhịp độ tăng giá xuất khẩu công nghiệp bình quân hàng năm (1996-2000) là 13,5%; năm 2001 là 14,2%; năm2002 là 14,4%, nawm 2003 là 14,7%. Quy mô công nghiệp năm 2002 lớn gấp 4,7 lần so với năm 1990. Khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng 19,1%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng21,8%(không kể dầu khí).Những sản phẩm chủ yếu nhờ có thị trường tiêu thụ mà tăng khá như thuỷ sản, chế._. biến, quần áo may sẵn, xi măng, sắt thép, xe máy, ôtô, điện…năm 2000 so với năm 1995, công suất điện tăng gấp 1,5 lần; xi măng tăng 2,1 lần; thép 1,7 lần; mía đường tăng gấp hơn 5 lần; phân bón gấp hơn 3 lần…Đến trong năm 2003, doanh thu từ xuất khẩu của khu vực công nghiệp đạt 6,25 tỉ USD, tăng 30,5% so với năm 2002. Nếu tính cả dầu khí thì doanh thu xuất khẩu của khu vực đầu tư nước ngoài năm qua chiếm 51% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước.
- Các ngành dịch vụ tiếp tục phát triển, góp phần đáng kể cho tăng trưởng kinh tế. Giá trị các ngành dịch vụ tăng 6,8% /năm. Tổng doanh thu khu vực du lịch tăng 7,9%/năm; bưu điện tăng bình quân hàng năm 11,3%/năm. FDI trong lĩnh vực du lịch Việt Nam tăng mạnh. Theo tin từ Tổng cục du lịch Việt Nam, từ đầu năm đến nay, số dự án đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực du lịch và khách sạn của Việt Nam đạt con số 17, tăng gấp 4 lần so với năm ngoái và cả tổng vốn đầu tư mới là 133,2 tr.USD.Tại Việt Nam hiện có 130 dự án đầu tư trong lĩnh vực du lịch và khách sạn với tổng vốn đầu tư đăng ký là 3,3 tỷ USD. Có 80 dự án đã đi vào hoạt động với tổng số vốn ban đầu là 1,74 tỷ USD. Việt Nam hiện là điểm đến hấp dẫn và an toàn nhất đối với du khách nước ngoài. Theo Tổng cục du lịch trong 9 tháng đầu năm 2002, đã có gần 2 triệu du khách đến Việt Nam, tăng 13,5% so với vùng kỳ năm 2001, đạt 1,18tỷ USD . Việc Chính phủ Việt Nam đơn giản hoá thủ tục cấp visa và đầu tư đáng kể để nâng cấp cơ sở hạ tầng du lịch là nguyên nhân chính khiến lượng khách du lịch gia tăng. Ngành du lịch Việt Nam đang đặt mục tiêu mức tăng trưởng GDP hàng năm 11-15% trong giai đoạn 2001-2010.
- Kinh tế đối ngoại tiếp tục phát triển tổng kim ngạch xuất khẩu 5 năm (1996-2000) đạt trên 51,6 tỷ USD, tăng bình quân hàng năm trên 21%. Năm 2002 tốc độ tăng xuất khẩu tăng 8,6% cao gấp hai lần tốc độ tăng 3,8%của năm 2001. Tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2003 đạt khoảng 19,5 tỷ USD, trong đó xuất khẩu của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 9,5 tỷ USD. Tổng kim ngạch nhập khẩu trông 5 năm(1996-2000) khoảng 61 tỷ USD. Nhập xiêu giảm nhanh trong đó tỷ trọng hàng tiêu dùng giảm đáng kể từ 23% năm 1996 xuống còn 5,2%năm 2000. Đầu tư trực tiếp nước ngoài tiếp tục gia tăng góp phần vào tăng trưởng và phát triển kinh tế. Tính đến năm 2002, tổng vốn FDI vào Việt Nam khoảng 39 tỷ USD.
Tỷ lệ tích luỹ trong GDP tăng dần qua các năm:27,14%năm 1995; 29,05% năm 1998; 29,61% năm2000; 30,8% năm 2001. Nhờ sự gia tăng của nguồn vốn trong nước,tổng vốn đầu tư phát triển năm 2002 đạt 183,3 nghìn tỷ đồng (tăng 12,4%)chiếm 3/4 GDP,cao hơn tỷ lệ 33,7% của năm 2001.
- Bên cạnh đó quan hệ đối ngoại không ngừng được mở rộng, hội nhập kinh tế quốc tế được tiến hành và đạt được nhiều kết quả tốt. Chúng ta đã tăng cường quan hệ hữu nghị, hợp tác nhiều mặt với các nước láng giềng, bạn bè truyền thống, tăng cường quan hệ thương mại với các nước khác trên thế giới và các tổ chức quốc tế, thu hút được nhiều nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
Năm 2003 được coi là một năm phục hồi trong thu hút nguồn vốn FDI, nhất là vào những tháng cuối năm. Theo thống kê, tổng nguồn vốn FDI vào Việt Nam năm 2003 là gần 3,2 tỷ USD,gồm cả vốn của những dự án mới và vốn bổ sung. Cùng với việc cải thiện các thủ tục hành chính tạo điều kiện thuận lợicho việc triển khai dự án, năm vừa qua có rrát nhiều dự án mới được đi vào hoạt động, làm cho tổng dự án đang hoạt động của Việt Nam hiện nay lên đến gần 2.800 dự án. Nhờ vào các dự án đó làm cho tiềm lực kinh tế của Việt Nam nói chung và tốc độ xuất khẩu nói riêng sẽ tăng rõ rệt trong năm tới này. Các khu công nghiệp sẽ tiếp tục đóng một vai trò quan trọng trong thu hút đầu tư nước ngoài. Theo thống kê, trong năm qua, cả nước có thêm 16 khu công nghịêp mới với diện tích 3.00 ha, thu hút thêm khoảng 240 dự án đầu tư với khoảng 850 tr.USD vốn đầu tư, các dự án gia tăng vốn cũng tăng khoảng 660 tr.USD. Như vậy, chỉ tính riêng số vốn của các khu công nghiệp được cấp giấy phép mới và bổ sung đã lên 1,5 tỷ USD. Nếu tính tỷ trọng thì khu công nghiệp đã cấp mới và bổ sung chiếm 48-49% tổng số vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
Dự kiến năm 2004, vốn FDI vào Việt Nam sẽ đạt khoảng 3,3 tỷ USD, tăng 8% so với năm 2003. Vốn FDI thực hiện trong năm 2004 sẽ đạt khoảng từ 2,75 đến 2,8 tỷ USD, tăng khoảng 3,7-3,8% so với năm 2003.
Những kết quả đạt được còn thấp so với chiến lược phát triển lâu dài và tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa chắc chắn nhưng nó có tác động tạo đà cho tăng trưởng kinh tế ở những năm tiếp theo để đạt được các mục tiêu đề ra trong kế hoạch 5 năm(2001-2005) và chiến lược phát triển kinh tế 10 năm (2001-2010).Trong đó nhiệm vụ hàng đầu là phải tăng GDP lên trên 7,5 %/ năm, GDP/ người tăng gấp đôi sau 10 năm, cơ cấu kinh tế chuyển dịch mạnh và đến năm 2010 cơ bản đưa nước ta trở thành nước công nghiệp. Do vậy, để đạt được tốc độ tăng trưởng cao và bền vững, chúng ta cần tăng cường huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, trong đó đặc biệt quan tâm đến nguồn vốn FDI.
2.1.2.Sự cần thiết của FDI đối với tăng trưởng kinh tế.
Trong xu hướng khu vực hoá- toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ, việc thu hút và sử dụng nguồn lực từ bên ngoài nhằm bổ xung và phát huy nguồn lực từ bên trong là một tất yếu đối với nhiều nước trên thế giới. FDI bù đắp khoảng thiếu hụt nguồn lực giữa mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao với khả năng tiết kiệm hạn chế ở trong nước, bù đắp giữa khoảng cách nhu cầu ngoại tệ và thu nhập từ xuất khẩu, bù đắp khoảng thiếu thu giữa thuế và các khoản chi ngân sách của Chính phủ, bù đắp khoảng trống về quản lý, công nghệ và kĩ thuật, thực chất là một kênh quan trọng thực hiện việc chuyển giao công nghệ. Trong tiến trình hội nhập quốc tế, FDI trở thành tiêu thức quan trọng đánh giá mức độ hội nhập kinh tế của nền kinh tế.
Từ năm 1995 Việt Nam là thành viên chính thức của ASEAN và hiện nay đang thực hiện cam kết với khu vực mậu dịch tự do (AFTA). Tháng 11.1999 Việt Nam tham gia Diễn đàn hợp tác Châu Á Thái Bình Dương (APEC). Đồng thời Việt Nam đang cố gắng đàm phán để gia nhập WTO. Quá trình này mang lại cho Việt Nam những lơị ích nhất định trên cơ sở khai thác nội lực, mở rộng quan hệ quốc tế để tiến hành CNH -HĐH đất nước
Để đẩy mạnh CNH-HĐH đưa nước ta trở thành nước công nghiệp, tăng trưởng nhanh và bền vững , chúng ta cần nhiều vốn máy móc thiết bị, kỹ thuật, công nghệ hiện đại. Trong khi đó tích luỹ nội bộ từ nền kinh tế còn hạn hẹp. Tỷ lệ tích luỹ trong GDP của Việt Nam có tăng hàng năm :27,14% năm 1995 ;29,05% năm 1998;27,63% năm 1999; 29,61% năm 2000 ; 30,88% năm 2001 , nhưng còn thấp so với một số nước như Hàn Quốc (36,9% năm 1990; 37,1% năm 1995 ; 38,2% năm 1996). Tình trạng thiếu vốn, thất thu ngân sách, lãng phí, thất thoát vốn do ngân sách nhà nước cấp vẫn diễn ra liên tục.
Ngược lại, nhu cầu vốn đầu tư nước phát triển kinh tế xã hội rất lớn. Theo ước tính sơ bộ của bộ Kế hoạch đầu tư, tổng số vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thời kỳ 2001-2005 lên tới 65-70 tỷ USD trong đó nguồn vốn nước ngoài cần tới 22-25 tỷ USD, chiếm khoảng 30-35% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Nhưng nguồn vốn ODA thường gây nên tình trạng nợ nần và hiện đang có xu hướng giảm cả về quy mô và mức độ ưu đãi, nguồn vốn vay thương mại để đầu tư không nhiều, chi phí cao, điều kiện vay khắt khe, chịu rủi ro do biến động tỷ giá. Do vậy gần 30% tổng vốn đầu tư phát triển trên dây chủ yếu là nhờ vào FDI. Tỷ lệ đóng góp của khu vực đầu tư nước ngoài trong GDP cũng tăng dần qua các năm: năm 1995 đạt 6,3% GDP; năm 1996 đạt 7,4%GDP; năm 1997 đạt 9,1%; năm 1998 đạt 10,1%; năm 1999 đạt 10,3% và năm 2000 đạt 13,3%GDP.
Có thể nói các dự án có vốn đầu tư nước ngoài đã và đang tác động đến cả bề rộng và chiều sâu của quá trình tăng trưởng kinh tế Việt Nam.
Như vậy xét về mặt chủ quan cũng như khách quan, việc Việt Nam mở cửa thu hút FDI là cần thiết đảm bảo cho sự tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững.
2.2 Tình hình thu hút và sử dụng FDI .
2.2.1 Tình hình thu hút FDI.
Từ năm 1988 đến 2003, hoạt động FDI trải qua 4 trạng thái khác nhau:
-Từ 1988 đến 1990 là 3 năm khởi đầu, FDI chưa rõ tác dụng rõ rệt đến tình hình kinh tế -xã hội Việt Nam. Ba năm cộng lạicó hơn 1,5 tỷ USD vốn đăng ký; còn vốn thực hiện thì không đáng kể; bởi vì các doanh nghiệp FDI sau khi được cấp giấy phép phải làm nhiều thủ tục cần thiết mới đưa được vốn vào Việt Nam.
-Bẩy năm tiếp theo (1991-1997) là thời kỳ FDI tăng trưởng nhanh và góp phần ngày càng quan trọng vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế -xã hội. Trong kế hoạch 5 năm (1991-1995) đã thu hút 16 tỷ USD vốn đăng ký, tốc độ tăng trưởng hàng năm rất cao; vốn đăng ký năm 1991 là 1,275 tỷ USD thì năm 1995 là 6,6 tỷ USD , bằng 5,3 lần. Vốn thực hiện trong cả 5 năm là 7,153 tỷ USD, bằng 32% tổng vốn đầu tư của cả nước. Hai năm tiếp theo FDI tiếp tục tăng trưởng nhanh: thêm 15 tỷ USD vốn đăng ký và 6,06 tỷ vốn thực hiện.
-Từ 1998 đến 2000 là thời kỳ suy thoái của FDI. Vốn đăng ký bắt đầu giảm: Năm 1998 vốn đăng ký là 3,897 tỷ USD, thì đến năm 1999 chỉ bằng 40,2%, còn 1,568 tỷ USD; năm 2000 là 1,973 tỷ USD. Sau khi đạt kỷ lục về vốn thực hiện năm 1997 với gần 3,2 tỷ USD, thì 3 năm tiếp theo đã giảm rõ rệt, năm 1998 là 2,4 tỷ USD, năm 1999 và năm 2000 mỗi năm 2,2 tỷ USD.
-Từ năm 2001 đến nay là thời kỳ phục hồi hoạt động của FDI.Vốn đăng ký năm 2001 là 2 tỷ USD, tăng 22,6% so với năm 2000. Vốn thực hiện là 2,3 tỷ USD, tăng 3% so với năm trước. Năm 2002, vốn đăng ký gần 1,4 tỷ USD và vốn thực hiện 2,35 tỷ USD.
Tính đến ngày 24/12/2002 trên địa bàn cả nước có trên 4500 dự án ĐTNN đựơc cấp giấy phép đầu tư với tổng số vốn đăng ký đạt trên 50tỷ USD. Trừ các dự án giải thể hoặc các dự án đã hết thời gian hoạt động, hiện còn 3670 dự án đang có hiệu lực với tổng vốn đăng ký đạt trên 39 tỷ USD. Trong đó có gần 2000 dự án đang triển khai hoạt động, kinh doanh , 980 dự án đang trong thời kỳ xây dựng cơ bản và làm các thủ tục hành chính và gần 700 dự án chưa triển khai do nhiều nguyên nhân . Tình hình thu hút FDI thể hiện cụ thể qua bảng sau :
Bảng 2 : Tình hình FDI vào Việt Nam từ năm 1998 đến nay .
Năm
Số DA
VĐK
(Tr.USD
Quy mô
(Tr.USD/DA
So với năm trước (%)
Số DA
VĐK
Quy mô
1988
37
371,8
10,05
-
-
-
1989
68
582,5
8,57
183,78
156,67
85,27
1990
108
839,0
7,77
158,82
144,03
90,67
1991
151
1322,3
8,76
139,81
157,60
112,74
1992
197
2165,0
11
130,46
163,73
125,57
1993
269
2900,0
10,78
136,55
133,95
98,00
1994
343
3765,6
10,98
127,51
129,85
101,85
1995
370
6530,8
17,65
107,87
173,43
160,75
1996
325
8497,3
26,15
87,84
130,11
148,16
1997
345
4649,1
13,48
106,15
54,71
58,23
1998
275
3897,0
14,17
79,71
83,83
105,12
1999
311
1568,0
5,04
113,09
40,24
35,57
2000
371
2012,4
5,42
119,3
128,3
107,5
2001
502
2503,0
5,02
135,3
124,4
92,25
2002
694
1380,0
2
138,25
55,13
40,0
2003
Tổng
Nguồn :Niên giám Thống kê 2001-NXB Thống kê 2002
2.2.1.1.Giai đoạn 1988-1996.
Trong giai đoạn này FDI liên tục gia tăng cả về số lượng dự án và vốn đăng ký. Năm 1995 đạt 108 dự án với tổng số vốn đăng ký 839tr.USD, tăng 73,43%,số dự án tăng 7,8% so với năm 1994. Nguyên nhân của sự tăng vốn mạnh là do chính sách cấm vận của Mỹ đối với Việt Nam đã được rỡ bỏ và năm 1995 Việt Nam chính thức gia nhập ASEAN, góp phần tạo môi trường đầu tư thuận lợi hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài. Năm 1996 đạt 370 dự án với tổng số vốn đăng ký 6530.8tr.USD. Tổng số dự án được cấp giấy phép đầu tư tính đến năm 1996 là 1868 dự án với tổng số vốn đăng ký là 26974.3 tr.USD. Tốc độ tăng trưởng hàng năm của dự án được cấp phép là 31,1% /năm, của vốn đầu tư là 47,9 % trong đó năm 1995 và 1996 đạt tốc độ tăng mạnh nhất. Năm 1996 đạt mức kỷ lục về tổng số vốn đăng ký trong các giai đoạn, là 8497,3 tr USD, tăng 30% so với năm 1995, tuy nhiên số dự án lại giảm 12% . Sở dĩ như vậy là do có hai dự án đầu tư vào lĩnh vực phát triển đô thị ở Hà Nội và TP. HCM được phê duyệt với quy mô dự án lớn ( trên 3 tỷ USD / dự án ).
Quy mô bình quân các dự án trong giai đoạn này đạt 12,4tr USD. Trước năm 1991 quy mô các dự án thường nhỏ(dưới 10 tr.USD) và có xu hướng giảm, nguyên nhân do môi trường đầu tư của Việt Nam còn mới mẻ đối với các nhà đầu tư nước ngoài và chính sách cấm vận của Mỹ khiến các nhà đầu tư e ngại , không dám đầu tư nhiều. Từ năm 1991 đến năm 1996, quy mô dự án tăng đáng kể từ 8,7 tr .USD/ dự án (1991) lên 17,65 tr.USD/ dự án (1995) và 26,14 tr.USD dự án (1996). Tốc độ tăng quy mô dự án cao nhất là năm 1995 ( 160,75 %) ; năm 1996 là 148,16 % ( Bảng 2).
2.2.1.2 . Giai đoạn 1997-2000.
Từ năm 1997 đến nay, đặc biệt là sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực, luồng đầu tư FDI vào Việt Nam liên tục giảm. Mức thấp nhất là năm 1999, vốn đăng ký đạt 1568 tr. USD, chỉ bằng 33,7 % so với mức 4649 tr.USD năm 1997, bằng 40% so với năm 1998. Tính trong cả giai đoạn vốn đăng ký giảm trung bình khoảng 24% năm. Số dự án đầu tư năm 1998 thấp nhất trong cả giai đoạn, chỉ đạt 275 dự án, tăng 79,71 % so với năm 1997. Sau đó tăng lên dần vào năm 1999 và 2000 với số dự án được cấp phép là 311 và 371. Quy mô dự án giảm dần qua các năm và giảm mạnh vào năm 1999, chỉ đạt 5,04 tr.USD dự án, bằng 35,57% so với năm 1998. Riêng năm 2000 FDI vào nước ta có dấu hiệu phục hồi, tuy nhiên rất nhỏ. Số dự án được cấp phép là 371, tăng 19,3 % , tổng vốn đăng ký đạt 2012,4 tr.USD, tăng 28,3 % so với năm 1999, quy mô dự án cũng tăng 7,5 % ( Bảng 2).
Cùng với sự suy giảm của FDI vào năm 1999, tốc độ tăng trưởng của GDP giảm còn 4,77 %. Đến năm 2000 cùng với sự phục hồi của FDI tốc độ tăng GDP cũng tăng đạt 6,75 %. Nguyên nhân của sự giảm sút FDI là do cuộc khủng hoảng tài chính khu vực năm 1997 làm luồng FDI từ các nước Châu Á đặc biệt từ Nhật và các nước ASEAN vào Việt Nam giảm một cách đáng kể. Hơn nưã sau cuộc khủng hoảng các nước đều thực hiện một loạt các biện pháp , chính sách nhằm cải thiện môi trường đầu tư hấp dẫn hơn. Trong khi đó Luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam mới ra đời chưa được bao lâu, chưa hoàn thiện và đồng bộ ,chưa thể xử lý ngay những biến động đột ngột và Việt Nam chưa chuẩn bị tốt các điều kiện cơ sở hạ tầng để hấp dẫn FDI .
2.2.1.3. Giai đoạn từ năm 2001 đến nay.
Từ năm 2000 FDI vào Việt Nam đã có dấu hiệu phục hồi trở lại. Trong hai năm 2000-2002, số dự án đầu tư tăng nhanh. Năm 2002 thu hút được 502 dự án, tăng 35,3% so với năm 2000, vốn đăng ký là 2530 tr.USD. So với năm 2002, năm 2002 gia tăng đáng kể về số dự án nhưng lại giảm về tổng số vốn đăng ký (giảm 44,87%). Quy mô dự án giai đoạn này giảm dần và các dự án chủ yếu có quy mô vừa và nhỏ. Nguyên nhân là do so với một số nước trong khu vực, lợi thế về nhiều mặt của Việt Nam mất dần, thủ tục hành chính quá phiền hà khiến các nhà đầu tư mất khá nhiều thời gian, công sức vừa nản lòng.
Trong hai tháng đầu năm 2003 cả nước có 64 dự án được cấp giấy phép đầu tư với số vốn đăng ký 164,9 tr.USD. Vốn đầu tư thực hiện đạt 250 tr.USD, bằng cùng kỳ năm 2002. So với năm 2002, doanh thu của các doanh nghiệp có vốn FDI đạt 135 tỷ USD, tăng 23%; xuất khẩu đạt 660 tr.USD,tăng 17%; nộp ngân sách đạt 81 tr USD, tăng 61%. Đã có 64 dự án đầu tư tăng vốn mở rộng sản xuất kinh doanh với tổng số vốn tăng thêm là 142,4tr USD, tăng 15% về số dự án và 26% về số vốn đầu tư so với cùng kỳ năm 2002. Năm 2003 thực sự là mốc son đối với các tỉnh phía Bắc trong việc thu hút FDI. Theo số liệu của Bộ kế hoạch và Đầu tư, năm 2003, có 22 tỉnh, thành phố phía bắc thu hút được thêm vốn FDI mới, với 208 dự án mới cấp phép, có tổng vốn đăng ký là636 tr.USD, so với năm trước tăng hơn 36% về số dự án và tăng gấp hai lần về số vốn. Nhiều tỉnh miền núi đạt kết quả đáng khích lệ, như: Hoà Bình (3 dự án với 7,4 tr.USD), Cao Bằng( 1 dự án với 7 tr. USD), Lào Cai( 5 dự án với 5,22 tr.USD), Hà Giang (2 dự án với 5,9 tr.USD) Thái Nguyên( 2 dự án với 5,9 tr.USD), Lạng Sơn( 4 dự án với 4,7 tr.USD), Phú Thọ( 18 dự án với 62,3 tr.USD), Thái Bình thêm 1 dự án với 13,55 tr.USD, Nam Định có thêm 4 dự án mới với 102,75 tr.USD. Trong năm 2003, vùng kinh tế trọng điểm, tức là vùng động lực tăng trưởng Bắc Bộ, vẫn tỏ ra hấp dẫn các nhà đầu tư hơn cả. Toàn vùng đã thu được 158 dự án mới với tổng vốn đăng ký 405 tr.USD, vượt xa kết quả của năm 2002 là 125 dự án và 273,7 tr.USD. Trong đó số vốn TP. Hải Phòng thu được lớn gấp 3 lần năm trước, Hải Dương gấp 4 lần, Quảng Ninh tăng gấp đôi, Vĩnh Phúc tăng thêm 16 tr.USD, Hưng Yêu tăng thêm 3 tr.USD, Hà Nội vẫn dẫn đầu với 68 dự án và 118,5 tr.USD. Trong năm này, Hà Nội đã thu hút được hơn 570 dự án FDI với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 8,9 tỷ USD, trong đó vốn giải ngân đạt 3,41 tỷ USD. Đến tháng 1/2002, Hà Nội đã thu hút thêm 89 dự án FDI, trong đó có 66 dự án cấp mới và 23 đượự án bổ sung tăng vốn. Tổng vốn đăng ký đạt 162,5 tr.USD, trong đó cấp mới 105,6 tr.USD, bổ sung tăng vốn 56,9 tr.USD. Hiện nay, Hà Nội đã thiết lập và mở rộng quan hệ hợp tác đầu tư với 42 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới.
Bảng 3: Kết quả thu hút FDI mới trong năm 2003.
Số dự án
Vốn đầu tư đăng ký
( triệu USD )
Tăng so với 2002
Cả nước
752
2.000
10%
Các tỉnh phía Bắc
208
636
100%
Riêng vùng KTTĐ
158
405
47%
( Nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư, luỹ kế đến ngày 31 tháng 12 năm 2003).
Trong 4 tuần đầu năm 2004, với 50 dự án mới cấp phép, Việt Nam có thêm 121 tr.USD vốn đầu tư dăng ký mới, tăng 22,4% so với tháng 1 năm 2003.Song khu vực vốn tăng vượt trội lại nằm trong số doanh nghiệp FDI đó hoạt động nay bỏ thêm vốn đầu tư mở rộng nhà xưởng, sản xuất. Tính chung, thu hút vốn FDI trong tháng 1 năm 2004 ở Việt Nam đó đạt được ngưỡng 385tr.USD, tăng gần gấp 3 lần cùng kỳ năm ngoái. Diễn biến tình hình thu hút vốn FDI còn có những dấu hiệu đáng mừng khác, đó là hiện tượng các doanh nghiệp tăng vốn đầu tư mở rộng dự án với quy mô lớn, tầm cỡ hàng trăm triệu USD đó xuất hiện. Cuối năm ngoái, Đồng Nai đã trở thành địa phương dẫn đầu về thu hút FDI chính là nhờ dự án tăng thêm vốn đầu tư lên đến hơn 225tr.USD của tập đoàn Formosa vào khu công nghiệp Nhơn Trạch. Đầu năm nay lại có thêm công ty TNHH Saigonmax tăng thêm 100 tr.USD và công ty TNHH Sun Steel tăng thêm 132,5 tr.USD. Trong 3 tuần đầu bùng phát dịch cúm gà, danh sách các đoàn doanh nhân Nhật, Hàn Quốc, Châu Âu đăng ký đến Việt Nam tìm cơ hội đầu tư vẫn khá nhiều. Tại khu công nghiệp Việt Nam-Singapore (VSIP) hôm 11/2 vừa qua, có tổ chức lễ trao giấy phép cho 7 nhà đầu tư mới, với tổng vốn đầu tư lên tới 50 tr.USD. Những tín hiệu này cho thấy dòng chảy vốn FDI vào Việt Nam dù có dịch cúm gà vẫn tăng trưởng khả quan. Với hơn 110 tr.USD vốn FDI thu bút trong tháng 1/2004, TP HCM đang tiếp tục phát huy thế mạnh là địa bàn hấp dẫn thu hút vốn FDI. Tỉnh Bình Dương với 119 tr.USD hiện là tỉnh đượứng đầu bảng về thu hút vốn FDI trong tháng 1/2004, cũng đang nỗ lực trong cuộc chạy đua với nhiều dự án đang đeo đuổi, nhưng quy mô dự án chỉ từ vài triệu đến chục triệu USD.
Trong tháng 1 năm 2004, trên phạm vi cả nước đã có khoảng 50 dự án mới có vốn FDI được cấp giấy phép, với tổng vốn đăng ký trên 121 tr. USD, tăng 8,7% số dự án, và tăng 22,4% về số vốn đăng ký cùmg kỳ năm trước. Và có 12 dự án cũ được cấp giấy phép bổ sung với tổng vốn tăng thêm khoảng 264 tr.USD, tăng 748,4% so với cùng kỳ năm trước. Như vậy, cả vốn mới lẫn vốn bổ sung trong tháng 1/ 2004 đạt khoảng 385 tr.USD, tăng 196,6% so với tháng 1/2003. Tính đến nay trên cả nước có trên 4370 dự án FDI còn hiệu lực, với tổng vốn đăng ký khoảng 41,18 tỷ USD. Theo Bộ kế hoạch và đầu tư, trong tháng 1/2004, khu vực có vốn FDI đã thực hiện được khoảng 200 tr.USD, tuy chưa đạt mong muốn nhưng đã lớn hơn gấp 1,37 lần số vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ vốn Ngân sách Nhà nước tập trung mà các cơ quan Trung Ương và địa phương thực hiện trong tháng này( 2.265,4 tỷ đồng). Nhờ đó, tổng vốn đầu tư thực hiện của toàn khu vực FDI đến nay đã đạt trên 24,8 tỷ USD, không kể vài tỷ USD đã thực hiện những dự án đã bị giải thể hoặc hết hạn hoạt động. Trong số dự án còn hiệu lực này, đã có trên 2000 dự án đã đi vào sản xuất, kinh doanh, với tổng doanh thu trong tháng 1/2004 đạt khoảng 1 tỷ USD (không kể dầu khí), tăng 11% so với cùng kỳ năm trước; đạt tổng kim ngạch xuất khẩu trên 500 tr.USD ( không kể dầu thô), tăng 13%; kim ngạch nhập khẩu 610 tr.USD, tăng 21,4%. Đặc biệt, tổng số lao động trực tiếp trong khu vực doanh nghiệp FDI đã lên đến 670.000 người, tức chỉ sau một năm đã tăng 36% (tăng 175.000 người) so với thời điểm tháng 1/2003.
2.2.2.Cơ cấu FDI.
2.2.2.1. FDI phân theo ngành kinh tế.
Dòng vốn FDI vào các ngành đã có sự chuyển dịch theo hướng tích cực. Trước năm 1993 FDI tập trung nhiều vào ngành dầu khí (19%) và khách sạn, du lịch, căn hộ cho thuê (21,8%); ngành công nghiệp. Hiện nay FDI vào lĩnh vực nay chiếm tỷ trọng lớn nhất cả về số dự án và vốn đầu tư .Sau đó là ngành dịch vụ và nông nghiệp. Dự án trong ngành dịch vụ có quy mô lớn nhất còn trong ngành nông nghiệp tương đối nhỏ.
Tính đến tháng 5/2002, khu vực công nghiệp có 2.131 dự án còn hiệu lực với vốn đầu tư 21.196.583 USD chiếm 55,37% tổng vốn FDI cả nước. Ngành dịch vụ có 702 dự án có vốn đăng ký 14.902.826 USD chiếm 38,93%. FDI vào khu vực nông, lâm nghiệp-thuỷ sản chiếm tỷ trọng nhỏ nhất 5,72% với 393 dự án và số vốn thực hiện là 1.234.549 tr USD. Vốn đầu tư của khu công nghiệp chủ yếu tập trung vào các ngành công nghiệp thực phẩm, công nghiệp nhẹ, xây dựng, công nghiệp dầu khí, công nghiệp nặng. Trong ngành dịch vụ, các dự án tập trung vào xây dụng văn phòng, căn hộ cho thuê, khách sạn du lịch, giao thông vận tải, bưu điện, xây dựng khu đô thị mới:
Bảng 4: Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo ngành 1988 -2002.
(Tính tới tháng 5/2002- chỉ tính các dự án còn hiệu lực).
Chuyên ngành
Số dự án
TVĐT ( USD)
Vốn pháp định (USD )
Đầu tư thực hiện
Tỷ lệ so với tổng số(*)%
1.Công nghiệp
CN dầu khí
CN nhẹ
CN thực phẩm
CN nặng
Xây dựng
2.Nông,lâm nghiệp
Nông lâm nghiệp
Thuỷ sản
3.Dịch vụ
TVĐT-Bưu điện
Khách sạn-du lịch
Tài chính NH
Văn hoá,g/ dục,y tế
XD khu đo thị mới
XD văn phòng căn hộ
XD hạ tầng KCX-KCN
Dịch vụ khác
Tổng số
2131
30
884
842
175
203
393
323
10
702
97
123
47
111
3
110
15
196
3226
21.196.583.356
3.205.715.748
4.610.483.329
7.851.151.441
2.399.030.952
3.130.201.886
2.181.429.758
1.986.130.439
195.299.319
14.902.825.811
2.883.535.220
325.767.561
547.200.000
557.654.860
2.466.674.000
3.662.145.217
806.502.046
721.483.797
38.280.838.925
9.688.441.671
2.188.689.687
2.069.149.781
3.224.167.269
1.013.261.499
1.193.173.435
1.057.568.074
961.125.296
96.442.778
6.804.565.133
2.343.641.263
1.060.901.468
512.450.000
240.073.688
675.183.000
1.297.098.699
276.236.009
398.981.006
17.550.574.887
12.436.550.825
3.109.423.552
2.269.529.599
3.835.333.727
1.382.798.092
1.839.415.855
1.234.548.736
1.132.828.276
101.720.460
5.989.931.096
959.352.576
1.972.449.564
516.478.670
172.593.223
394.618
1.692.481.740
467.857.361
208.323.944
19.660.980.657
55,37
8,37
62,64
20,51
6,27
8,18
5,7
5,19
0,51
38,93
7,53
8,51
14,29
1,46
64,44
9,57
21,07
18,85
100
Nguồn:Vụ QLDA-Bộ kế hoạch và Đầu tư.
(*): Số liệu tự tính toán.
Vốn FDI vào các ngành như trên đã biểu hiện phù hợp với chỉ số cơ cấu kinh tế công nghiệp hiện đại. Tuy nhiên, thực trạng FDI vào ngành nông, lâm nghiệp, thuỷ sản vốn đã ít lại đang có xu hướng chững lại và giảm dần trong khi nông nghiệp lại là một trong những lĩnh vực đang có nhiều tiềm năng mà ta chưa khai thác được cho thấy tìng hình thu hút FDI vào lĩnh vực này chưa đạt được mục tiêu đề ra.
2.2.2.2. FDI phân theo hình thức đầu tư .
Trong giai đoạn đầu, hình thức liên doanh là hình thức FDI phổ biến nhất ở Việt Nam, chiếm 61% số dự án và 70% số vốn đầu tư. Những năm gần đây các doanh nghiệp hoạt động dưới hình thức này có xu hướng giảm và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài tăng lên (Bảng 5). Hiện nay, FDI theo hình thức liên doanh chiếm 45,04% số vốn đăng ký và 32,02% số dự án; các con số tương ứng của hình thức 100% vốn nước ngoài chiếm 32,36% và 63,14%; của hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh chiếm 22,6% và 4,84%. Do thủ tục còn rườm rà phức tạp trong khi các nhà đầu tư nước ngoài còn ít hiểu biết về điều kiện kinh tế xã hội cũng như pháp luật của Việt Nam. Nên họ thường lựa chọn hình thức liên doanh để bên Việt Nam đứng ra giải quyết vấn đề về thủ tục pháp lý. Sau một thời gian hoạt động các nhà đầu tư am hiểu hơn về điều kiện kinh doanh, pháp luật Việt Nam và môi trường pháp lý của nước ta cũng được cải thiện hơn nên họ không cần nhiều đối tác Việt Nam. Hơn nữa họ không muốn chia sẻ lợi ích cũng như quyền điều hành doanh nghiệp với bên Việt Nam. Vì thế số dự án đầu tư nước ngoài theo hình thức 100% vốn nước ngoài ngày càng tăng còn các dự án liên doanh giảm.
Bảng 5: Đầu tư nước ngoài theo HTĐT (1988-2002)
(tính tới ngày 3/05/2002-chỉ tính các dự án còn hiệu lực )
Hình thức đầu tư
Số DA
TVĐT(USD)
VPĐ
ĐTTH
Tỷ trọng DA
Tỷ trọng vốn đăng ký (%)
BOT
6
1.227.975.000
363.885.000
78.537.500
0,19
2,07
HĐHTKD
144
4.175.512.485
3.603.194.732
3.415.200.874
4,46
20,53
100% Vốn NN
2037
12.910.375.678
5.678.767.448
6.184.677.903
63,14
32,36
Liên Doanh
1039
19.966.975.762
7.904.727.698
9.982.562.380
32,21
45,04
TS
3226
38.280.388.925
17.550.754.878
19.660.980.657
100
100
2.2.2.3. FDI phân theo đối tác đầu tư.
Tính đến hết năm 2001, có hơn 700 công ty thuộc hơn 66 nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam. Nhiều tập doàn, công ty lớn thông qua các công ty con nước ngoài và vùng lãnh thổ khác để đầu tư vào Việt Nam. Ví dụ, các tập đoàn HSBC Holding (Anh), ABB (Thuỵ Điển), Keppel(Singapo), đã thông qua các chi nhánh của họ ở Hồng Kông để thực hiện đầu tư vào Việt Nam; công ty Unilever(Anh) thông qua công ty con có trụ sở ở Singapo để đầu tư vào Việt Nam…Trong số các đối tác đầu tư, Singapo là quốc gia đứng đầu về số lượng và vốn đầu tư vào Việt Nam. Tiếp đó là các quốc gia Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc là các nhà đầu tư lớn nhất ( Bảng 6). Tổng vốn đăng ký của ba đối tác này đạt gần 11,8 tỷ USD, chiếm 30,5% tổng vốn đầu tư của nước ta.
Bảng 6: 5 nước có vốn đầu tư lớn nhất vào Việt Nam(1988-2001).
Nước( vùng lãnh thổ)
Số dự án
Tổng vốn đầu tư (Tr.USD)
Vốn pháp định (tr.USD)
Vốn đầu tư thực hiện
Singapo
Đài Loan
Nhật Bản
Hàn Quốc
Hồng Kông
244
758
332
332
220
6881
5146
4064
3260
2824
2281
2188
1999
1277
1232
1993
2494
3038
2012
1547
Nguồn: Báo cáo tài chính số 1+2/2003.
Trong các luồn vốn FDI và Việt Nam thời gian qua, FDI từ các nước ASEAN chiếm vị trí quan trọng với 440 dự án, tổng vốn đăng ký đạt 8.45 tỷ USD, chiếm khoảng 22% tổng vốn đăng ký. Các nước Châu Âu có 472 dự án được cấp giấy phép tại Việt Nam với tổng vốn gần 7,9 tỷ USD, chiếm 20% tổng vốn đăng ký. Khu vực Châu Mĩ có gần 300 dự án được cấp phép với tổng vốn đầu tư là gần 5,2 tỷ USD.
Có thể thấy rằng, cơ cấu nguồn vốn FDI vào Việt Nam tập trung chủ yếu từ các nước trong khu vực Đông Nam Ánên khi khủng hoảng kinh tế khu vực xảy ra, lượng FDI giảm sút hẳn. Trong khi đó nguồn vốn FDI vào Việt Nam từ các nước Đông Bắc Ávào Việt Nam lại tăng lên do không bị ảnh hưởng của khủng hoảng. Hiện nay khu vực này chiếm vị trí quan trọng với 2.033 dự án và 26,9 tỷ USD vốn đăng ký còn hiệu lực (chiếm 55,4% số dự án và 40,8% tổng cốn đăng ký của tất cả các dự án còn hiệu lực).
2.2.2.4. FDI phân theo vùng lãnh thổ.
Nguồn vốn FDI được tập trung vào một số địa bàn có điều kiện kinh tế -xã hội thuận lợi, cơ sở hạ tầng tương đối phát triển, gần nơi cung cấp nguyên vật liệu. Đó là những thành phố lớn: Hà nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đồng Nai…và những nơi có điều kiện thuận lợi như miền Đông Nam Bộ, Tây Nguyên, khu tam giác vàng. Mức độ chênh lệch giữa các vùng về thu hút FDI là tương đối lớn.
Trong tổng số vốn FDI của cả nước thì 10 địa phương có điều kiện thuận lợichiếm tới 87,8%, riêng hai thành phố lớn là Hà Nội và Hồ Chí Minh đã chiếm hơn nửa (50,3%): TP. Hồ Chí Minh với số vốn đăng ký 9.991,3 tr USD (chiếm 28,3% tổng vốn đăng ký của cả nước), số liệu tương ứng của các địa phương tiếp theo như sau: Hà Nội:7.763,5% (22,3%); Đồng Nai: 3.439,5 (9,7%); Bà Rịa-Vũng Tàu: 2.515,9 (7,1%); Bình Dương và Bình Phước: 1.677,9; Hải Phòng: 1.507,7 (4,3%); Quảng Ngãi: 1.333,0 (3,8%); Quảng Nam- Đà Nẵng 1.013,0 (2,9%); Quảng Ninh 872,8 (2,5%).
Những số liệu trên đây cho thấy vấn đề thu hút FDI theo vùng lãnh thổ kết hợp với việc khai thác các tiềm năng trong nước đạt hiệu quả chưa cao. Đây cũng là một trong những vấn đề càng quan tâm điều chỉnh cho hợp lý trong thời gian tới.
2.3. Đánh giá những mặt đạt được của FDI.
Trong 15 năm qua, kể từ khi luật đầu tư nước ngoài ra đời năm 1987, hoạt động FDI ở nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng góp phần tích cực vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội,vào thắng lợi của công cuộc đổi mới của nền kinh tế, đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng, tăng cường thế và lực của Việt Nam trên trường quốc tế. FDI đã trở thành một trong những nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển; có tác dụng thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH; mở cửa nhiều ngành nghề sản xuất kinh doanh mới, sản phẩm mới, nâng cao năng lực quản lý và trình độ công nghệ, mở rộng thị trường xuất khẩu, tạo thêm nhiều việc làm mới, góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế thế giới. Những tác động tích cực trên đây của nguồn vốn FDI góp phần vào việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của nước ta, thể hiện ở các mặt sau:
Một là, bổ sung nguồn vốn cho đầu tư phát triển, góp phần giải quyết tình trạng thiếu vốn và tăng tỷ lệ tích luỹ cho nền kinh tế.Từ khi thực hiện chính sách đầu tư nước ngoài đến nay, vốn FDI thực hiện tại Việt Nam bình quân 1.737,7 tr USD /năm. Vốn đầu tư xây dựng cơ bản của các dự án FDI bình quân thời kỳ 1991-2000 là 17.423,2 tỷ đồng/năm. Từ năm 1996 đến nay, FDI chiếm gần 30%tổng vốn đầu tư xã hội. Trong đó có đến 76,5%số dự án và 53,5% vốn đầu tư vào lĩnh vực sản xuất công nghiệp, hàng xuất khẩu và xây dựng cơ sở hạ tầng.Thực tế cho thấy trong các dự án liên doanh được cấp giấy phép đầu tư, số vốn do Việt Nam góp chỉ chiếm 25-30% mà chủ yếu cũng bằng quyền sử d._.ng của FDI mang lại.
chương 3
Một số các giải pháp tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam.
3.1. Chiến lược phát triển kinh tế -xã hội giai đoạn 2001- 2010 và nhu cầu vốn FDI .
3.1.1. Những mục tiêu chiến lược quan trọng.
Trên cơ sở những kết quả đã đạt được, để mở rộng quy mô và nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động của khu vực kinh tế có vốn FDI, Hội nghị lần thứ 9 Ban chấp hành Trung Ương Đảng khoá IX vừa qua đã đề ra nhiệm vụ chiến lược:"Tạo chuyển biến cơ bản trong thu hút vốn FDI, nhất là của các tập đoàn xuyên quốc gia, hướng mạnh hơn vào những ngành, lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế, đặc biệt là lĩnh vực công nghệ cao, công nghệ nguồn. Mở rộng các lĩnh vực đầu tư và đa dạng hoá các hình thức đầu tư nước ngoài phù hợp với lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế". Về phần mình, với thông điệp đầu tiên của năm 2004-Nghị quyết số 01/2004, Chính phủ đã khẳng định, đi đôi với việc triển khai thực hiện Nghị định 27/2003 và Nghị định 38/2003 về thi hành Luật Đầu tư nước ngoài và chuyển đổi một số doanh nghiệp FDI sang hoạt động theo hình thức công ty cổ phần, năm 2004 sẽ thực hiện thí điểm các hình thức đầu tư nước ngoài mới, như công ty hợp doanh, công ty quản lý vốn, các hình thức sáp nhập và mua lại…,với các điều kiện và bước đi thích hợp. ý Đảng và lòng dân, sự "ra tay" của Chính phủ và sự cộng hưởng của các doanh nghiệp… đang là nguồn động lực tổng hợp thúc đẩy "con tàu" FDI trong lòng kinh tế Việt Nam tăng tốc.
Ngoài ra, Đại hội Đảng lần thứ IX đã đề ra đường lối phát triển kinh tế -xã hội 10 năm (1001-1010). Trong đó mục tiêu tổng quát là:" Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân; tạo nền tảng để đến năm 2010 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế,quốc phòng, an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN được hình thành về cơ bản; vị thế của nước ta trên quốc tế được nâng cao". Dưới đây là một số mục tiêu cụ thể mang tính chất quân trọng:
Năm 2010, tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng ít nhất gấp đôi năm 2000, ổn dịnh kinh tế vĩ mô. Nâng cao rõ rệt hiệu quả sử dụngvà sức cạnh tranh của sản phẩm, của doanh nghiệp và nền kinh tế. Cán cân thanh toán quốc tế lành mạnh. Tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế trên 30% GDP. Nhịp độ tăng xuất khẩu tăng gấp hai lần nhịp độ tăng GDP. Tỷ trọng GDP của nông nghiệp là 16-17%, công nghiệp là 40-41%, dịch vụ là 42-43%. Tỷ lệ lao động nông nghiệp còn khoảng 50%.
Giải quyết tốt việc làm, ở thành thị thất nghiệp dưới 5%, ở nông thôn nâng cao thời gian lao động lên 80-85%, tỷ lệ người lao động được đào tạo nghề khoảng 40%. Chát lượng đời sống vật chất, văn hoá, tinh thầndư nâng cao rõ rệt.
Năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ đủ khả năng áp dụng các công nghệ hiện đại.
Kết cấu hạ tầng đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế -xã hội.
Trong quá trình thực hiện các mục tiêu trên, cần nắm vững quan điểm phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường. Đối với nước ta, để phát triển nhanh trước hết cần tập trung phát triển những sản phẩm, ngành, lĩnh vực nước ta có lợi thế; những vùng kinh tế trọng điểm; tăng nhanh năng suất lao độngkết hợp triệt để tiết kiệm; tăng nhanh năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo; đi nhanh vào công nghệ hiện đại ở những ngành và lĩnh vực then chốt. Muốn vậy, trước hết cần phải tạo ra được tốc độ tăng trưởng nhanh và bền vững trong các ngành và các lĩnh vực nói trên. Trong bối cảnh kinh tế nước ta hiện nay, nguồn vốn FDI là cần thiết cho tăng trưởng. FDI không những bổ sung nguồn vốn thiếu hụt tạm thời cho phát triển mà còn thực hiện chuyển giao công nghệ, tiến bộ khoa học kỹ thuật và tri thức cho nước ta, tránh được gánh nặng nợ nần và sự lệ thuộc về chính trị. FDI có vai trò rất quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, chúng ta cần phải kết hợp nội lực và ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp để phát triển và nguồn vốn trong nước mới có vai trò quyết định tới tăng trưởng và phát triển.Để đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh và bền vững trong khi nội lực nền kinh tế còn kém, trong những năm tới, chúng ta cần nhận thức rõ hơn về vai trò của FDI và có biện pháp tổ chức thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn này.
3.1.2. Nhu cầu vốn FDI nhằm đảm bảo những mục tiêu chiến lược.
Trong những năm tới, để phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình từ 7,0-7,5%/năm, thì tỷ lệ vốn đầu tư cho phát triển phải đạt 28-30% GDP, với tổng vốn huy động trong thời kỳ 2001-2010 khoảng 136-140 tỷ USD, trong đó tỷ lệ vốn đầu tư trong nước huy động khoảng 19-20% GDP với tổng vốn khoảng 80-90 tỷ USD. Như vậy phần vốn còn lại phải bổ sung từ các nguồn vốn nước ngoài khoảng 47-50 tỷ USD. Nếu tốc độ tăng trưởng kinh tế chỉ đạt mức trung bình khoảng 6,5-7,0%/ năm, thì nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển là 126-130 tỷ USD, tỷ lệ huy động vốn trong nước dự kiến sẽ giảm còn 17-18%/GDP, tương đương 80-82 tỷ USD, còn lại 46-48tỷ USD phải bổ sung từ nguồn vốn nước ngoài. Hiện nay, nguồn vốn ODA đang có xu hướng giảm cả về quy mô và mức ưu đãi, nguồn vốn vay thương mại không nhiều, lại chịu lãi suất cao thì nguồn vốn FDI trở nên quan trọng, hiệu quả và cần khuyến khích.
3.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến khả năng thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng FDI.
3.2.1. Những nhân tố trong nước.
* Thuận lợi.
Nước ta có sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng thống nhất từ trung ương đến địa phương, được sự ủng hộ nhiệt tìng của quần chúng nhân dân tạo môi trường chính trị-xã hội ổn định lâu dài cho các hoạt động đầu tư nước ngoài.
Luật đầu tư nước ngoài ra đời năm 1987 đến nay đã nhiều lần được sử đổi và hoàn thiện dần. Hiện nay, nếu so với các nước ASEAN thì Luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam đạt tới mức hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài.
Việt Nam có vị trí dịa lý và vị thế chính trị thuận lợi cho việc phát triển giao thông vận tải, thông tin liên lạc, là những ngành tiền đề cho việc thu hút các dự án đầu tư , phát triển các ngành công nghiệp khác.
Việt Nam có lực lượng lao động dồi dào và tương đối rẻ. Thêm vào dố, người dân Việt Nam nói chung có tính cần cù, thông minh, có ý thức tuân thủ kỷ cương, kỷ luật lao động, ít có đình công, bãi công tự do. Đây là một trong những yếu tố hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài.
Thị trường Việt Nam được đánh giá là có tiềm năng và triển vọng trong tương lai. Hiện nay nhiều nhà đầu tư cho rằng Việt Nam là một trong những thị trường lớn nhất trong khu vực vì vị trí địa lý thuận lợi, Việt Nam không chỉ là thị trường với 80 triệu dân mà còn là địa bàn cung cấp hàng hoá cho một số nước láng giềng như Lào, Campuchia, Mianma và vùng Tây Nam Trung Quốc.
* Những khó khăn:
Môi trường pháp lý cho FDI của Việt Nam cần phải tiếp tục hoàn thiện nhiều để tương đồng với các nước ASEAN và phù hợp với thông lệ quốc tế. Có nhiều văn bản bị thay đổi nhanh, thậm chí có nhiều điều khoản mâu thuẫn với nhau gây khó khăn cho các nhà đầu tư. Có sự không đồng nhất giữa văn bản pháp luật và việc thi hành các văn bản đó trước hết và căn bản là do sự hiểu biết về pháp luật của dân còn kém. Từ đó phát sinh các tệ nạn tiêu cực làm giảm lòng tin của các nhà đầu tư nước ngoài và cũng không tạo được cơ sở chắc chắn để giải quyết tranh chấp giữa các bên nếu có.
Theo đánh giá của các nhà đầu tư nước ngoài, thủ tục hành chính của Việt Nam còn nhiều phức tạp, rườm rà gây khó khăn cho các nhà đầu tư. Hoạt động quản lý chồng chéo giữa các ban, ngành. Cán bộ quản lý lại thiếu thông hiểu về pháp luật, thiếu kinh nghiệm chuyên môn trong việc sử lý tình huống pháp sinh và nhìn chung họ vẫn mang đậm tác phong nông nghiệp. Điều này cũng làm giảm lòng tin của các nhà đầu tư nước ngoài.
Nguồn lao động của Việt Nam có lợi thế là tương đối rẻ nhưng phần lớn là lao động giản đơn, chưa có trình độ tay nghề cao để có thể tiếp nhận những công nghệ được chuyển giao.Vì vậy,về lâu dài khi trình độ sản xuất phát triển, nếu lao động Việt Nam không được đào tạo kịp thời thì lợi thế đó cũng mất đi trong so sánh với các nước khác trong ASEAN.
Việt Nam đang chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN nên còn thiếu kinh nghiệm trong việc tạo lập một hệ thống thị trường đồng bộ. Những thị trường quan trọng quyết định sự phát triển của nền kinh tế như thị trường tiền tệ, thị trường chứng khoán đã có nhưng còn sơ khai, chưa có thị trường lao động. sự hoạt động kém hiệu quả của những thị trường này cũng làm giảm sức hấp dẫn các nhà đầu tư và làm giảm tác động của FDI đến nền kinh tế.
Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn trong việc đáp ứng điều kiện tiếp nhận và sử dụng vốn, công nghệ của các dự án FDI. Để tiếp nhận và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn FDI, nước sở tại cần có nguồn vốn đối ứng trong nước gấp 2-3 lần vốn đầu tư nước ngoài, có cơ sở hạ tầng tương đối phát triển,có năng lực nội tại đủ để tiếp nhận các công nghệ của dự án FDI như trình độ kỹ thuật, trình độ quản lý…Nhưng Việt Nam có xuất phát điểm thấp nên chưa đáp ứng tốt những điều kiện trên.
3.2.2. Những nhân tố bên ngoài.
* Thuận lợi.
Việt Nam gia nhập ASEAN năm 1995 và mới đây tham gia vào khối mậu dịch tự do (AFTA) tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu hút FDI từ các nước trong khu vực cũng như từ các nước khác.
Sự gia nhập WTO trong tương lailà nhân tố quan trọng trong việc thu hút FDI bởi vì khi đó hàng xuất khẩu của Việt Nam không những có chi phí thấp mà còn được hưởng ưu đãi khi xuất sang các nước thuộc thị trường Bắc Mỹ, tạo cơ hội cho hàng Việt Nam tăng sức cạnh tranh, thâm nhập vào thị trường Bắc Mỹ, một thị trường lớn trên thế giới.
* Khó khăn.
Xu hướng toàn cầu hoá- khu vực hoá tạo ra sự cạnh tranh thu hút FDI trên thế giới và trong khu vực ngày càng trở nên gay gắt hơn. Hơn nưã, sau khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực Châu Á các nước đều tăng cường cải thiện môi trường đầu tư làm tăng đối thủ cạnh tranh của Việt Nam trong hoạt động thu hút FDI. Nếu môi trường đầu tư của Việt Nam không hấp dẫn thì các nhà đầu tư nước ngoài sẽ chuyển sang các nước khác trong khu vực làm tăng sức cạnh tranh của hàng hoá của các nước này. Trong khi đó hàng rào thuế quan trong khu vực đã được rỡ bỏ, hàng hoá nước ngoài sẽ tràn vào Việt Nam, chiếm lĩnh thị trường của Việt Nam do các doanh nghiệp trong nước sản xuất vốn có sức cạnh tranh kém hơn trên thị trường khu vực. Do đó ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất và tốc độ tăng trưởng của một số ngành trong nước.
Các công ty xuyên quốc gia một mặt tạo cơ hội cho Việt Nam thu hút FDI, mặt khác thông qua hoạt đồng để thực hiện chiến lược của công ty mẹ có thể gây nên lũng loạn kinh tế xã hội, tạo sự cạnh tranh không lành mạnh, gây mất ổn định môi trường đầu tư.
Việc tham gia khu mậu dịch tự do cũng đặt ra thách thức đối với Việt Nam trong hoạt động thu hút FDI . Xét trên giác độ ngành nghề, AFTA gần như không ảnh hưởng tới FDI vào những ngành dịch vụ, đồng thời cũng ít ảnh hưởng đến các ngành công nghệ phi chế biến mà tác động trực tiếp đến FDI trong các ngành công nghiệp chế tạo, công nghiệp chế biến thực phẩm, dệt may,cơ khí, hoá chất, điện tử và vật liệu xây dựng. Hiện nay Việt Nam có lợi thế so sánh đối với ngành sử dụng nhiều lao động như dệt may,giày da. Còn những ngành công nghiệp chế biến đòi hỏi trình độ công nghệ cao, vốn lớn, yêu cầu phải có kinh nghiệm nhiều năm và có sự hỗ trợ của các ngành liên quan. Trong khi đó các nước trong khối ASEAN đã sẵn sàng tiếp nhận FDI vào các ngành này. Do vậy Việt Nam sẽ gặp trở ngại trong việc thu hút FDI vào các ngành chế biến.
3.3.Giải pháp tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn FDI cho tăng trưởng kinh tế.
3.3.1. Giải pháp tăng cường thu hút FDI .
3.3.1.1. Đảm bảo cho môi trường chính trị xã hội ổn định cho hoạt động thu hút FDI.
Thực tế cho thấy FDI là một hoạt động tài chính nên rất nhạy cảm với những thay đổi về kinh tế, chính trị, xã hội, luật pháp. Giữ vững ổn định chính trị là giải pháp quan trọng hàng đầu trong tất cả các giải pháp. Kinh nghiệm cho thấy nhiều quốc gia có tiềm năng lớn về tài nguyên thiên nhiên cũng như thị trường rộng lớn song lại gặp không ít khó khẳn trong hoạt động thu hút FDI do có xung đột về chính trị. Để tạo lập môi trường chính trị xã hội ổn định ở nước ta, cần tăng cường hơn nữa vai trò, nâng cao năng lực kết hợp đổi mới, coi đây là nhân tố có ý nghĩa quyết định. Đồng thời mở rộng dân chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng và nâng cao hiệu lực của Nhà nước trên các lĩnh vực từ quản lý kinh tế đến quản lý xã hội. Coi trọng giải quyết các vấn đề xã hội đang ngày càng bức xúc như tham nhũng, nghèo đói, thất nghiệp, tệ nạn xã hội và cả mâu thuẫn lao động trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, trước mắt quy định và hướng dẫn phương thức sinh hoạt và hoạt động các tổ chức Đảng trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, phù hợp với đặc điểm của loại hình doanh nghiệp này, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng thông qua các tổ chức Đảng và các đảng viên giữ chức danh lãnh đạo và quẩn lý doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đây là yếu tố đảm bảo hoạt độngcủa các doanh nghiệp theo đúng quy định của pháp luật, bảo vệ lợi ích chính đáng của Nhà nước và người lao động.
Ngoài ra còn cần có kế hoạch thành lập công đoàn ở tất cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức công đoàn ở các doanh nghiệp này, vì đây là hình thức thuận tiện nhất để thực hiện sự lãnh đạo của đảng và bảo vệ quyền lợi của người lao động, trực tiếp giám sát chủ đầu tư thực hiện pháp luật, chính sách của Nhà nước. Hơn nữa cần tăng cường giáo dục pháp luật cho công nhân trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
3.3.1.2. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật vầ đầu tư nước ngoài nhằm cải thiện môi trường đầu tư nước ngoài.
Để cải thiện môi trường đầu tư, trước mắt cần phải quan tâm đến xây đượựng hệ thống pháp luật và các chính sách cá liên quan đến hoạt động FDI tại Việt Nam một cách đồng bộ, đảm bảo tính rõ ràng, nhất quán, tính dự đoán trước được, dễ hiểu, dễ thực hiện đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Đồng thời nghiên cứu, xây dựng, sớm ban hành Luật Đầu tư chung cho cả doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để tạo môi trường pháp lý bình đẳng cho hoạt động của hai hình thức doanh nghiệp này.
Triển khai rộng việc ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành nghị định 24/CP để Luật Đầu tư mới bổ sung, sửa đổi được áp dụng thống nhất, các quy định mới của luật có điều kiện đi vào pháp huy hiệu quả trong cuộc sống, thể hiện sự thông thoáng, cởi mở thực sự về môi trường đầu tư của Việt Nam.
Rà soát lại hệ thống văn bản, chính sách liên quan đến hoạt động đầu tư nước ngoài. Trên cơ sở dó cắt bỏ, sửa đổi, những văn bản, chính sách không phù hợp với thực tế đồng thời bổ sung những văn bản mới phù hợp hơn như: xem xét, cắt bỏ những quy định về doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chỉ được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, quy định về những hình thức góp vốn, tỷ lệ góp vốn, nguyên tắc trong hội đồng quản trị; bổ sung một số chính sách ưư đãi thiết thực, có sức hấp dẫn cao về thuế, tiền thuê mặt đất, mặt nước, mặt biển, chế độ thưởng xuất khẩu … đối với lĩnh vực và địa bàn khuyến khích đầu tư nước ngoài; sửa đổi, bổ sung một số chính sách liên quan đến tổ chức và hoạt động của cá doanh nghiệp trong thời gian qua còn vướng mắc… để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các doanh nghiệp đầu tư nước mgoài.
Tiến tới một hệ thống pháp luật đầu tư chung cho cả đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, phù hợp với thông lệ quốc tế. Thực hiện tốt và tiếp tục triển khai , thực hiện lộ trình rút ngắn khoảng cách, sớm tiến tới giai đoạn xoá bỏ hẳn sự chênh lệch về giá, phí hàng hoá, dịch vụ, giá cước, …giữa các doanh nghiệp trong nước và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tạo điều kiẹn cho các doanh nghiệp này giảm chi phí và bình đẳng trong cạnh tranh, khắc phục tình trạng phân biệt đối xử
3.3.1.3.Tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, cải tiến công tác tổ chức bộ máy quản lý, phân cấp và cơ chế thu hút nhằm nâng cao hiệu lực quản lý, phân cấp và cơ chế thu hút nhằm nâng cao hiệu lực quản lý và hiệu quả kinh doanh trong lĩnh vực FDI.
Tiếp tục nghiên cứu và cải tiến công tác tổ chức quản lý trong các hoạt động FDI, đặc biệt là trong các khâu: Lựa chọn dự án, hướng dẫn lập hồ sơ dự án, tính toán các chỉ tiêu của dự án, dự báo phát triển và cấp giấy phép, thực hiện các thủ tục liên quan đến việc triển khai các dự án đầu tư…để khắc phục tình trạng buôn lỏng và có nhiều khe hở trong quản lý, gây ách tắc, gián đoạn trong triển khai, quản lý bằng biện pháp hành vhính.
- Kiện toàn hệ thống quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài khắc phục bộ máy cồng kềnh, hoạt động thiếu nhịp nhàng giữa các bộ phận liên quan, cải thiện chất lượng quản lý. Việc quản lý Nhà nước về FDI nhất là trong lĩnh vực hải quan, thuế, cấp giấy phép đầu tư, tuyển dụng lao động theo cơ chế "một cửa, một đầu mối"; đơn giản hoá việc cấp giấy phép đầu tư theo hướng chuyển sang chế độ đăng ký đầu tư nhằm giảm bớt các khâu trung gian, hành chính sự vụ; đẩy nhanh việc giải quyết các thủ tục về cấp các loaiị giấy phép, chứng chỉ, chứng nhận, thủ tục về đất đai, xuất nhập khẩu, xuất nhập cảnh, hoàn thuế…
3.3.1.4. Chuẩn bị tốt cơ sở hạ tầng để đáp ứng yêu cầu của hoạt động FDI.
Việc phát triển cơ sở hạ tầng không chỉ là điều kiện cần để tăng sự hấp dẫn của môi trường đầu tư, tạo điều kiện cho các chủ đầu tư triển khai, thực hiện các dự án đầu tư của mình, mà còn là cơ hội để nước ta tăng cường thu hút FDI vào lĩnh vực hạ tầng và cũng có thể có khả năng thu được nhiều lợi nhuận hơn từ dòng vốn FDI thu hút được.
Tiếp tục nâng cấp và hiện đại hoá hệ thống hạ tầng kinh tế đặc biệt là mạng lưới thông tin liên lạc, hệ thống điện, cấp nước, đường giao thông, sân bay, kho, bến bãi,cảng, xử lý chất thải, vệ sinh môi trường. nâng cao chất lượng dịch vụ đối với hệ thống Ngân hàng, bảo hiểm, y tế, giáo dục, vui chơi giải trí…
Tăng cường và phát triển mạng lưới đầu tư, xuất nhập khẩu, nghiên cứu thị trường, kỹ năng và kỹ thuật đàm phán, giải quyết tranh chấp, kiến thức về ngoại giao và pháp luật quốc tế.
Trong giai đoạn trước mắt, chúng ta có thể đầu tư tập trung vào phát triển cơ sở hạ tầng của ba vùng kinh tế trọng điểm quyết định tới tăng trưởng kinh tế của đất nước. Ba vùng kinh tế trọng điểm này làm đầu tầu cho nền kinh tế chứ không phát triển độc lập mà liên kết với các vùng kinh tế khác qua thị trường hàng hoá, thị trường lao động và thị trường các yếu tố sản xuất. Sự phát triển cơ sở hạ tầng của ba vùng kinh tế này sẽ đáp ứng ngay yêu cầu của các nhà đầu tư đồng thời thúc đẩy kinh tế các vùng khác phát triển. Mặt khác, chúng ta cần có những quy chế ưu đãi rõ ràng, cụ thể đối với các hình thức BOT, BTO, BT vào các địa bàn trọng điểm để các hình thức này nhanh chóng được các nhà đầu tư triển khai thực hiện, góp phần hỗ trợ vốn cho Ngân sách Nhà nước. Bên cạnh đó khuyến khích đầu tư xây dựng các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao và đặc biệt trong tương lai không xa chúng ta phải nghĩ ngay tới việc thành lập các khu đặc khu kinh tế để cải thiện cơ sở hạ tầng.
3.3.1.5. Phát triển và nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ và công nhân kỹ thuật lành nghề cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Để nguồn nhân lực nước ta cósức hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài hơn, chúng ta cần có kế hoạchđào tạo cán bộ và công nhân hợp lý đáp ứng nhu cầu trước mắt và chuẩn bị cho hoạt độngcủa các doanh nghiệp sau này.
Trước hết, chúng ta cần đặc biệt chú trọng tới công tác đào tạo, nâng cao phẩm chất, đạo đức, trìng độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ công chức nhà nước, nâng cao đội ngũ cán bộ Việt Nam trong các doanh nghiệp có vốn FDI.
Thứ hai, cần tập trung giải quyết những vấn đề sau:
-Sớm quy định những điều kiện phải có đối với cán bộ Việt Nam tham gia vào Hội đồng quản trị và quản lý các hoạt động của các doanh nghiệp liên doanh, quy định cụ thể tiêu chuẩn, chuyên môn, nghiệp vụ, tráhc nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của ngững người làm trong các doanh nghiệp liên doanh.
-Tổ chức đào tạo chính quy, thường xuyên tập huấn số cán bộ Việt Nam đang làm việc trong các doanh nghiệp liên doanh, tranh bị kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ, luật pháp, kinh nghiệm cần thiết nhất,
-Tổ chức đào tạo công nhân lành nghề làm việc cho các doanh nghiệp FDI theo các chương trình phù hợpvà triển vọng sử dụng thực tế số lao động này.
Thứ ba, khuyến khích và quy định cụ thể đối với các dự án FDI về đào tạo tay nghề có chính sách yêu cầu các công ty chủ động có kế hoạch chủ đào tạo công nhân và người quản lý địa phương. Nhờ đó khắc phục tình trạng lệ thuộc vào công nghệ.
3.3.2.Những giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động.
3.3.2.1. Đổi mới cơ cấu FDI nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH, bao gồm:
Thu hút các dự án đầu tư nước ngoài vào những lĩnh vực sử dụng công nghệ cao, ngành sản xuất và chế biến hàng xuất khẩu, sản xuất thay thế hàng nhập khẩu, ngành có giá trị tăng cao và sử dụng nguồn lực tại chỗ. Đồng thời đầu tư vào ngành kinh tế có triển vộng lâu dài và khả năng phát huy hiệu quả lợi thế so sánh, phát triển cụm công nghiệp, cơ khí chế tạo, điện tử và các ngành kinh tế mũi nhọn, khai thác và chế biến dầu khí…Bên cạnh đó cần có chính sách ưu đãi để các dự án đầu tư vào lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp và đầu tư vào địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn, vùng núi, vùng sâu, vùng xa.
3.3.2.2. Nâng cao chất lượng xây dựng quy hoạch đối với FDI phù hợp vói quy hoạch phát triển ngành, vùng lãnh thổ, chiến lược sản phẩm và thị trường tiêu thụ cũng như chiến lược hội nhập của nền kinh tế đất nước trong từng thời kỳ.
- Đẩy mạnh công tác quy hoạch chi tiết, đặc biệt là những vùng có khả năng thu hút mạnh vốn đầu tư, đẩy nhanh quy hoạch đô thị, quy hoạch phát triển những ngành nghề ưu tiên và hạn chế đầu tư. Trên cơ sở đó cụ thể hoá những ngành, lĩnh vực và địa bàn khuyến khích đầu tư nước ngoài cũng như hệ thống chính sách ưu đãi đầu tư để đồng vốn FDI được sử dụng hiệu quả hơn. Đồng thời công khai dânh mục và các thông tin cơ bản của các dự án gọi vốn đầu tư giúp các nhà đầu tư nước ngoài có cơ sở lựa chọn và quyết định đầu tư, tiến tới công bố danh mục các dự án cấm đầu tư.
-Xây dựng và quy hoạch các vùng trọng điểm thu hút vốn FDI với cơ chế và pháp lý rộng hơn so với các hình thức đầu tư như đặc khu kinh tế, thành phố tự do hoá đầu tư, khu kinh tế mở, khu đầu tư và khu xây dựng đặc biệt.
3.3.2.3. Mở rộng hợp tác đầu tư nước ngoài theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá, nhằm góp phần đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế thế giới.
Cần mở rộng các hình thức và phương thức đầu tư để thu hút được nhiều các dự án đầu tư nước ngoài, có nhiều cơ hội để đánh giá, lựa chọn được những dự án khả thi nhất, có hiệu quả cao nhất, tránh rủi ro và tạo sự cạnh tranh giữa các nhà đầu tư nước ngoài.Tìm kiếm thị trường và đối tác mới: Trong khi vẫn coi trọng các thị trường và đối tác hiện nay, mà chủ yếu là Châu á và các doanh nghiệp vừa, cần mở rộng việc thu hút FDI từ thi trường mới, nhất là Mỹ- một nước có tiềm năng lớn và có quan hệ thương mại gia tăng mạnh mẽ với nước ta trong ba năm vừa qua. Coi trọng việc đề ra các giải pháp để ngày càng có nhiều công ty đa quốc gia, nhất là 500 công ty hàng đầu thế giới đầu tư vào Việt Nam, đặc biệt là trong vĩnh vực công nghệ cao.
Về hình thức đầu tư: Bên cạnh hình thức tổ chức doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là công ty tráhc nhiệm hữu hạn cần mở rộng tổ chức chúng thành công ty cổ phần, chi nhánh sở hữu toàn phần; cho phép cổ phần hoá các doanh nghiệp có vốn FDI và tiến hành thí điểm việc mua cổ phần trong doanh nghiệp Nhà nước cảu các nhà đầu tư nước ngoài gắn với quy chế thích hợp để tránh nguy cơ lũng đoạn, tăng khả năng thu hút vốn; tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển hình thức đầu tư từ hợp đồng hợp tác kinh doanh và từ liên doanh sang hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài. Đồng thời khuyến khích, đa dạng hoá các hình thức góp vốn của các dối tác Việt Nam trong liên doanh ngoài việc góp vốn bằng quyền sử dụng đát như góp vốn bằng tiền, máy móc, nhà xưởng, công nghệ, bí quyết kinh doanh và các dịch vụ khác, cho phép phát hành cổ phiếu để thu hút vốn, vay ngân hàng thương mại trong nước…nhằm tăng vốn góp của bên Việt Nam,tăng khả năng làm chủ các doanh nghiệp liên doanh về chuyển giao công nghệ, tạo dựng kinh nghiệm và khả năng quản lý.
Về phương thức đầu tư : Tăng cường mở rộng các quan hệ Quốc tế song phương và đa phương , tham gia các hiệp định quóc tế về khuyến khích và bảo hộ đầu tư , các hiệp định thương mại , tạo cơ sở pháp lý Quốc tế trong xử lý các tranh chấp và điều chỉnh các hoạt động của doanh nghiệp có vốn FDI .
Ngoài ra, để tăng cường vận động, kêu gọi các nhà đầu tư nước ngoài, nên mở các văn phòng đại diện ở nước ngoài để cung cấp thông tin cho các nhà đầu tư, đồng thời cần nâng cao chất lượng tài liệu vận động đầu tư, các trang web trên internet…bởi vì các nhà đầu tư thường thiếu thông tin về môi trường đầu tư.
3.4 Một số kiến nghị.
Hệ thống các giải pháp trên đây đã tương đối đầy đủ giúp công tác thu hút và sử dụng FDI đạt được những thành tựu đáng kể. Tuy nhiên lượng vốn FDI vào Việt Nam còn ít, chưa đáp ứng được nhu cầu vốn cho nền kinh tế, hiệu quả hoạt động đối với tăng trưởng kinh tế chưa cao, tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa vững chắc. Để nâng cao hiệu quả hoạt động của FDI nhằm phục vụ tốt hơn cho tăng trưởng kinh tế, em xin đề xuất một số ý kiến sau:
3.4.1.Kiến nghị đối với Nhà nước.
Thứ nhất, cần sớm hình thành và phát triển mạnh một thị trường vốn đồng bộ nhằm tạo điều kiện để hầu hết các doanh nghiệp có thể huy động vốn cho đầu tư một cách thuận lợi cũng như có thể tham gia đầu tư vào mọi lĩnh vực mà Nhà nước không cấm. Trước mắt, xúc tiến hoạt động có hiệu quả, quy mô lớn (kể cả địa bàn) của thị trường chứng khoán.Nhờ có thị trường này, nguồn vốn đáng kể vốn trong nước và vốn nước ngoài được luân chuyển nhanh hơn, do đó hoạt động hiệu quả hơn đáp ứng mục tiêu tăng trưởng nhanh.
Thứ hai, hiện nay chúng ta đã có Luật Đầu tư nước ngoài, Luật khuyến khích đầu tư trong nước, chưa có luật cạnh tranh, Luật chống bán phá giá nên mức độ điều chỉnh có khác nhau giữa các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn FDI, nhiều khi có sự phân biệt đối xử, có những trường hợp không bảo vệ được lợi ích của các doanh nghiệp trong nước trước sự cạnh tranh của các doanh nghiệp nước ngoài. Do đó chúng ta cần sớm soạn thảo và ban hành những loại hình luật này trên cơ sở đảm bảo lợi ích quốc gia và phù hợp với thông lệ quốc tế.
3.4.2. Kiến nghị Ngân hàng Nhà nước.
Để tạo môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, hấp dẫn các nhà đầu tư và tạo điều kiện cho nguồn vốn FDI hoạt động hiệu quả, trước mắt chúng ta cần ổn định giá trị tiền tệ, chống lậm phát, đây là nhiệm vụ hàng đầu của Ngân hàng Nhà nước, Ngân hàng Nhà nước cần phải thực thi một số chính sách tiền tệ nhằm mục tiêu và hướng tới tăng trưởng kinh tế nhanh.
-Duy trì chế độ tỷ giá hối đoái ổn địn, có sự quản lý và điều tiết của Nhà nướcb nhằm tạo lập môi trường tài chính trực tiếp đảm bảo cho sự vận động tự do trong sự ổn định của nguồn vốn FDI. Ngân hàng Nhà nước cần áp dụng các chính sách kinh tế vĩ mô để tỷ giá thay đổi theo hướng tương ứng theo mức lạm phát của các đồng tiền và góp phần thúc đẩy mạnh mẽ cơ chế tăng trưởng xuất khẩu.
-Đảm bảo một cơ chế tín dụng cởi mở và đưa ra những mức lãi suất hợp lý với những khoản tín dụng khác nhau nhằm nâng cao khả năng huy động vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế, tạo được nguồn vốn đủ để phục vụ cho các đối tượng có nhu cầu vay vốn, kể cả đối tác nước ngoài.
Trong giai đoạn tới, để đảm bảo cho tốc độ tăng trưởng cao và ổn định cho nền kinh tế thì nhu cầu về nguồn vốn FDI rất lớn. Bối cảnh trong nước và nước ngoài hiện nay có tác động lớn đến dòng vốn FDI vào nước ta theo hai chiều ngược nhau. Vì thế chúng ta cần phải có hệ thống giải pháp nhằm tận dụng và phát huy những yếu tố thuận lợi sẵn có, khắc phục những khó khăn , bất lợi để tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả hoạt động của FDI phục vụ cho tăng trưởng kinh tế. Đặc biệt các giải pháp về FDI phải thống nhất với những giải pháp phát triển kinh tế xã hội khác.
kết luận
Nền kinh tế thế giới đang vận động theo xu thế khu vực hoá, toàn cầu hoá và quá trình phân công lao động quốc tế diễn ra mạnh mẽ. Trong bối cảnh này, hoạt động FDI có vị trí ngày càng quan trọng đối với mỗi quốc gia. Việc thu hút vốn FDI có vị trí ngày càng quan trọng đối với mỗi quốc gia kể cả những nước phát triển và nước đang phát triển đưa nền kinh tế đất nước hoà nhập với nền kinh tế thế giới.
Trong thời gian qua, hoạt động FDI ở Việt Nam trải qua nhiều thăng trầm nhưng đã đóng góp một phần tích cực vào công cuộc đổi mới nền kinh tế đất nước. Mỗi kết quả, mỗi thành tựu chúng ta dạt được đều có sự đóng góp đáng kể của nguồn vốn FDI. Đặc biệt FDI góp phần quan trọng tạo nên tốcđộ tăng trưởng kinh tế nhanh trong giai đoạn đầu phát triển, phục vụ cho quá trình CNH-HĐH.
Tuy nhiên, những tác động tích cực trên đây còn rất khiêm tốn và ở giác độ nào đó, hoạt động FDI tác động tiêu cực đến nền kinh tế như: gây ra hiện tượng chảy máu chất xám, vi phạm quyền lợi của người lao động cả về vật chất lẫn phẩm chất và lòng tự trọng dân tộc…Mặc dù vậy chúng ta không thể phủ nhận vai trò quan trọng củaf đối với tăng trưởng kinh tế của đất nước trong thời gian qua. Hiện nay FDI trở thành một bộ phận của nền kinh tế quốc dân. mỗi chính sách, mỗi biến động tài chính tiền tệ, mỗi chiến lược phát triển đều có bóng dáng của FDI. Trong thời gian tới, để phát huy hiệu quả của FDI chúng ta cần tạo môi trường đầu tư hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài và môi trường cạnh tranh bình đẳng cho hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đồng thời phải kết hợp hài hoà với năng lực nội sinh của đất nước để tạo sự tăng trưởng nhanh và bền vững, thúc đẩy quá trình CNH-HĐH, sớm đưa đất nước ta trở thành một nước công nghiệp.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- B0084.doc