Tên đề tài: “Vai trò của văn hóa doanh nghiệp đối với sự phát triển của doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm ở Việt Nam”.
(Nghiên cứu so sánh trường hợp ở hai doanh nghiệp bảo hiểm: Prudential – Anh và Bảo Việt – Việt Nam).
A. PHẦN MỞ ĐẦU:
1. Lý do chọn đề tài:
Một cuộc điều tra xã hội học cho thấy khi được hỏi “Bạn nhớ nhất hay tự hào điều gì nhất về quê hương bạn?” phần lớn cầu hỏi trả lời: “Tôi tự hào vền nền văn hóa quê hương tôi”, một dân tộc có nền văn hóa riêng và chính nền văn hóa ấy đã
38 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1744 | Lượt tải: 5
Tóm tắt tài liệu Vai trò của văn hóa doanh nghiệp đối với sự phát triển của doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tạo nên bản sắc đặc trưng để phân biệt quốc gia này với quốc gia khác. Nói như một nhà văn hóa học: “Điều tồi tệ nhất với bất kỳ một quốc gia nào là không có nền văn hóa của riêng mình”. Và những nét đặc trưng của mỗi nền văn hóa quy định cách ứng xử khác nhau với các nền văn hóa đó. Văn hóa phương Đông khác văn hóa phương Tây như: văn hóa mặc, ăn uống, đàm thoại… có thể là lịch sự với nơi này nhưng lại bị coi là khiếm nhã với nơi khác. Cùng trong một lĩnh vực nào đó nhưng văn hóa hoạt động lại không hề giống nhau.
Cùng với sự phát triển không ngừng của xã hội hiện đại tính văn hóa không chỉ được đề cập trong các giá trị tinh thần, ứng xử, giao tiếp… mà khái niệm “văn hóa” được nói tới trong tất cả các mặt của đời sống xã hội. Tầm quan trọng và tính thích hợp của nó đã được mọi lĩnh vực hoạt động xã hội quan tâm tới và dường như xã hội càng phát triển thì đồng nghĩa với việc các cấp độ văn hóa đó tồn tại.
Sự phát triển của thương nghiệp, công nghiệp, dịch vụ mạnh mẽ hiện nay dẫn tới việc trên các phương tiện thông tin đại chúng, chúng ta được nghe và được biết nhiều tới văn hóa kinh doanh, văn hóa du lịch, văn hóa thương mại..
Khái niệm “Văn hóa” đã được mở rộng ra rất nhiều, xã hội có những hoạt động nào ở đó có nét văn hóa riêng, trình độ phát triển của văn hóa là thước đo trình độ phát triển xã hội.
Xuất phát từ thực tế trên có thể thấy rằng: Bất kỳ một lĩnh vực nào muốn đạt tới thành công đều phải xây dựng cho mình một nền văn hóa cụ thể là những sinh viên khoa học quản lý, chúng tôi thấy quan tâm tới loại hình “Văn hóa doanh nghiệp” một khái niệm khá mới mẻ nhưng có ý nghĩa to lớn trong xã hội hiện nay. Trong sự phát triển như vũ bão của các doanh nghiệp thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau những doanh nghiệp tồn tại và phát triển được là những doanh nghiệp xây dựng được cho mình những nét độc đáo, sáng tạo,, hiệu quả về phương thức quản lý về hình ảnh của công ty, thương hiệu, quảng bá hình ảnh.. Những điều đó được gọi chung là “văn hóa doanh nghiệp”.
Trong phạm vị nghiên cứu khoa học này, chúng tôi xin đề cập tới văn hóa doanh nghiệp trong một loại hình doanh nghiệp cụ thể đó là doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm với tên đề tài: “Vai trò của Văn hóa doanh nghiệp đối với sự phát triển của doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm ở Việt Nam” thông qua việc nghiên cứu so với trường hợp ở hai doanh nghiệp bảo hiểm: Prudential – Anh và Bảo Việt – Việt Nam.
Chúng tôi thấy rằng: đây là một loại hình doanh nghiệp khá mới mẻ, một loại hình kinh doanh dịch vụ đã và đang phát triển ở Việt Nam và đương nhiên văn hóa doanh nghiệp ở các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm mang những tính cập nhật mới mẻ cần được nói tới.
2. Lịch sử nghiên cứu.
Văn hóa doanh nghiệp là khái niệm bắt nguồn từ các nước phương Tây vào những năm đầu thể kỷ XX. Có rất nhiều các tác giả trên thế giới cũng như ở Việt Nam đã có nhiều công trình viết về vấn đề này.
Ở nước ta, trong các tác phẩm về quản lý thường hay đề cập tới việc tạo dựng văn hóa doanh nghiệp bởi đó là nhiệm vụ của nhà quản lý. Một số tác phẩm được nhiều người nói tới là: Bản sắc văn hóa doanh nghiệp (tác giả), nghệ thuật kinh doanh, ứng xử văn hóa (Phạm Mai Hương)… Nhưng có thể thấy rõ một điều đó là: hầu hết những tác phẩm này chỉ đề cập tới những vấn đề lý luận và thực tiễn chung về văn hóa doanh nghiệp cung cấp cho người đọc kiến thức tổng thể về văn hóa trong kinh doanh mà rất ít trong số đó nói tới những lĩnh vực cụ thể của đời sống xã hội, dường như không có một công thức chung nào cho văn hóa của mọi doanh nghiệp mà mỗi công ty phải biết đi tìm một nền văn hóa cho riêng mình.
Từ thực tế đó chúng tôi thấy rằng: hiếm có tác phẩm nào nói tới văn hóa của các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm (ở đây chỉ nói ở nước ta). Hơn nữa, kinh doanh bảo hiểm là một lĩnh vực mới phát triển ở Việt Nam, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế đất nước, khi mà nền sản xuất vật chất tiến triển không ngừng thì nền dịch vụ cũng phát triển nhanh.
Sự tăng trưởng của nền kinh tế nước ta có các loại hình dịch vụ cùng với nền kinh tế phát triển đó.
Kinh doanh bảo hiểm là một loại hình kinh doanh trong lĩnh vực dịch vụ. Các công ty sản xuất như da dày, thực phẩm, bánh kẹo, … đòi hỏi phải có một nền văn hóa doanh ngiệp trong quá trình phát triển thì với các doanh nghiệp dịch vụ, nền văn hóa doanh nghiệp đó càng được đề cao hơn rất nhiều. Bởi, kinh doanh trong lĩnh vực này là được coi là một “nghệ thuật” trong giao tiếp ứng xử, quảng cáo, lôi kéo khách hàng, … để khách hàng đến với Công ty. Một doanh nghiệp dịch vụ sẽ nhanh chóng mất thị trường nếu văn hóa của họ không làm vừa ý khách hàng.
Như vậy, vai trò của văn hóa doanh nghiệp trong sự phát riển của doanh nghiệp dịch vụ có tầm quan trọng rất to lớn, loại doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm nằm trong số đó. Bảo hiểm là một lọai hình dịch vụ chỉ mới phát triển trong khoảng hai chục năm trở lại đây ở nước ta còn khá mới mẻ, nhưng đã thu hút được rất nhiều khách hàng. Nhiều công ty bảo hiểm đã có mặt tại Việt Nam, nhưng có công ty có nhiều khách hàng tới mua có những công ty lại không tạo được uy tín. Điều đó có thể giải thích được bởi văn hóa doanh nghiệp của họ không giống nhau mà đều có ý nghĩa trong sự thành bại của công ty.
Do đó, từ cơ sở lý luận và thực tiễn này mà chúng tôi đã lựa chọn đề tài “văn hóa doanh nghiệp” ở các doanh nghiệp bảo hiểm để tiến hành nghiên cứu.
3. Phạm vi nghiên cứu:
Mặc dù ở Việt Nam hiện nay có rất nhiều các doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động nhưng trong phạm vi nghiên cứu khoa học này, chúng tôi chỉ chú trọng xem xét tới hai khách thể: Công ty Bảo hiểm Bảo Việt – một doanh nghiệp kinh doanh của Việt Nam và Prudential – một doanh nghiệp của Anh tại Việt Nam. Do những đặc trưng riêng về lịch sử công ty, về kinh phí, kinh nghiệm, ... mà văn hóa doanh nghiệp của hai công ty này là khác nhau và mức độ thành công của hai doanh nghiệp này là khác nhau. Chúng tôi không đi vào việc so sánh nền văn hóa doanh nghiệp của hai công ty để đánh giá xem ai tốt hơn ai, công ty nào phát triển hơn công ty nào mà mục đích trong đề tài này là: thông qua việc tìm hiểu về văn hóa doanh nghiệp để có thể biết được mức độ thành công của mỗi công ty trong quá trình kinh doanh bảo hiểm ở Việt Nam, để đánh giá đúng về điểm yếu, điểm mạnh của các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam cũng như nước ngoài.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
Cùng với việc xác định lịch sử nghiên cứu và phạm vi nghiên cứ mục đích trong nghiên cứu này đó là chúng tôi muốn xác định được mức ảnh hưởng của văn hóa doanh nghiệp như thế nào?
+ Có phải là yếu tố tiên quyết hay không?
+ Có phải xác định văn hóa doanh nghiệp hay không?
+ Trong các công ty bảo hiểm nói riêng và các công ty dịch vụ nói chung,.
Từ đó có những giải pháp kiến nghị để các doanh nghiệp bảo hiểm ở nước ta có thể phát triển nhanh và mạnh mẽ hơn.
Để nghiên cứu được đền tài này, chúng tôi đặt ra những nhiệm vụ cần phải giải quyết:
Xây dựng cơ sở lý thuyết, văn hóa doanh nghiệp, doanh nghiệp bảo hiểm…..
Trình bày, phân tích, đánh giá đối tượng khảo sát (2 doanh nghiệp nêu trên).
Đưa ra được giải pháp từ việc đánh giá phân tích trên.
Tuy nhiên, đây chỉ là những bước cơ bản, trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi đã đặt ra yêu cầu: phải có sự so sánh liên hệ để tạo tính thuyết phục cho đề tài.
5. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp luận chung cho mỗi doanh nghiệp, lịch sử của doanh nghiệp đặt sự vật doanh nghiệp bảo hiểm trong sự vận động, phát triển không ngừng qua các tiến trình phát triển) và trong mối liên hệ khác (với khách hàng với nền kinh tế chính trị đất nước với các doanh nghiệp khác cạnh tranh….).
- Ngoài ra:
+ Phương pháp phân tích và tổng hợp
+ Phương pháp phân loại
6. Kết cấu của báo cáo:
Bao gồm:
3 Chương
7 Mục
8 Tiết
7 Tiểu tiết
40 Trang
B. NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Khái niệm về văn hóa:
“Văn hóa” là một thuật ngữ được dùng phổ biến trong cuộc sống hàng ngày. Đã có rất nhiều cách tiếp cận góc nhìn khác nhau về khái niệm văn hóa. Cụ thể: năm 1952, hai nhà nhân loại học Kroeber và Kluckhohn đã phân loại ra 164 nghĩa của từ “văn hóa”, hiện nay có khoảng hơn 500 cách định nghĩa khác nhau về khái niệm “văn hóa”. ở đề tài này, chúng tôi chỉ muốn dẫn ra một số khái niệm văn hóa tiêu biểu phục vụ cho vấn đề NC của đề tài:
Trước hết là định nghĩa văn hóa doanh nghiệp do nguyên tổng thư ký UNESCO Rederico Mayor nêu ra: “văn hóa là tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo của các cá nhân và các cộng đồng, trong quá khứ và hiện tại”
Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên hệ thống các giá trị, các truyền thống và thị hiếu – những yếu tố xác định đặc tính riêng của từng dân tộc, (UB quốc gia về thập kỷ quốc gia phát triển văn hóa), thập kỷ TG phát triển văn hóa” Nhà xuất bản VH – TT và thể thao Hà Nội, 1992, tr 23).
Với ý nghĩa đó, chúng ta thấy rằng “văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy trong quá trình hoạt động thực tiễn trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình”, (tìm hiểu về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nhà xuất bản TP.HCM 1996).
Trong cuốn “văn hóa kinh doanh và triết ký kinh doanh, Tiến sỹ Đỗ Minh Cương cho rằng: “Văn hóa là nguồn lực nội sinh của con người là hiểu sống và bảng giá trị của các tổ chức, cộng đồng người, trung tâm là các giá trị chân - thiện - mỹ” (VH kinh doanh, triết lý kinh doanh – Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, HN, 2001, Tr 28).
Khái quát lại: văn hóa có một số nội dung cơ bản sau
* Văn hóa là thuộc tính bản chất của con người, chỉ có ở loài người và do con người sinh ra, văn hóa là dấu hiệu chỉ đặc điểm nhân văn của con người. Nó hiện diện trong tất cả các mối quan hệ trong hoạt động và trong sản phẩm của con người.
* Đối với một cộng đồng xã hội, văn hóa thường thể hiện ra như một lối sống, hiểu, ứng xử riêng biệt và tương đối ổn định, được di truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác.
* Yếu tố cốt lõi của văn hóa một cộng đồng người là hệ giá trị và chuẩn mực xã hội, thể hiện như là bản sắc của cộng đồng, nó có chức năng điều tiết hành vi của các thành viên, tạo nên sự thống nhất hành động trong cộng đồng xã hội ấy.
Như vậy, văn hóa là hệ thống được định hình và phát triển trong quá trình lịch sử, bao gồm nhiều yếu tố hợp thành như hệ giá trị, tập quán, thói quen, lối ứng xử, các chuẩn mực xã hội. Nó mang tính ổn định, bền vững và có khả năng di truyền qua nhiều thế hệ. Văn hóa là nguồn lực nội sinh, là sức mạnh cốt lõi của con người. Không chỉ các dân tộc, các quốc gia mới có văn hóa mà mỗi tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp đều có văn hóa riêng của mình. Mỗi cá nhân, doanh nghiệp có thể tạo ra và khẳng định được giá trị của mình có tiến bộ, có ưu thế chình là sự thành công của cá nhân hoặc doanh nghiệp đó.
2. Khái niệm doanh nghiệp, doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm:
2.1. Khái niệm về doanh nghiệp:
Doanh nghiệp là những tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân, được thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động kinh doanh nhằm thực hiện mục tiêu sản xuất ra hàng hóa và dịch vụ, đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Như vậy, doanh nghiệp có những đặc điểm cơ bản sau:
* Thứ nhất: Doanh nghiệp là những tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân, tứclà mỗi doanh nghiệp khi thành lạp đều có giấy phép của cơ quan nhà nước và được tự do hoạt động trong khuôn khổ của pháp luật.
* Thứ hai: Doanh nghiệp trong quá trình hoạt động luôn cố gắng sử dụng khai thác các nguồn lực kinh doanh một cách hiệu quả nhất để sản xuất ra của cải vật chất và dịch vụ phục vụ nhu cầu toàn xã hội. Tuy nhiên, xét đến cùng mục đích hàng đầu của doanh nghiệp là làm giàu, thu được lợi nhuận tối đa cho doanh nghiệp.
Đây là điểm tạo nên sự khác biệt cơ bản giữa doanh nghiệp với các tổ chức hành chính Nhà nước (trường hợc, bện viện….) chỉ hoạt động nhằm mục đích phục vụ lợi ích cho cộng đồng xã hội.
* Thứ ba: Mỗi doanh nghiệp đều tồn tại trong một môi trường văn hóa cụ thể: Dưới ảnh hưởng của môi trường văn hóa đó, hệ thống các giá trị của mỗi doanh nghiệp sẽ được hình thành và phát triển.
Đây cũng là cơ sở cho mỗi doanh nghiệp tạo dựng và phát triển nét văn hóa doanh nghiệp riêng biệt, đặc trưng của riêng mình, theo ý nghĩa này, mỗi doanh nghiệp là một không gian văn hóa.
2.2. Những hiểu biết cơ bản về doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm:
2.2.1. Tìm hiểu những khái niệm liên quan:
Trong luật kinh doanh bảo hiểm (Nhà xuất bản chính trị Quốc gia, HN, 2001) có đưa ra các khái niệm:
* Kinh doanh bảo hiểm là hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm nhằm mục đích sinh lời theo đó doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận rủi ro của người được bảo hiểm, trên cơ sở bên mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm để doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm:.
* Doanh nghiệp bảo hiểm là doanh nghiệp được thành lập, tổ chức và hoạt động theo quy định lủa Luật kinh doanh bảo hiểm và các quy định khác của Pháp luật có liên quan để kinh doanh bảo hiểm, tái bảo hiểm.
2.2.2. Sự khác nhau giữa lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm với bảo hiểm y tế và các lĩnh vực kinh doanh khác.
Từ định nghĩa trên đã giúp ta phần nào hiểu được đặc điểm của loại hình kinh doanh bảo hiểm.
Trước hết, đây là một ngành kinh doanh lĩnh vực dịch vụ xuát hiện do nhu cầu của khách hàng và hoạt động nhằm mục đích sinh lợi. Tuy nhiên, kinh doanh bảo hiểm khác kinh doanh các lĩnh vực khác ở chỗ vốn doanh nghiệp thông thường phải tự chuẩn bị, tìm kiếm các nguồn vốn để đầu tư, sản xuất ra các sản phẩm hàng hóa phục vụ xã hội. Kinh doanh bảo hiểm là loại hình kinh doanh bằng nguồn vốn hoạt động thu được từ khách hàng. Đó là số tiền khách hàng đóng phí bảo hiểm cho doanh nghiệp.
Như vậy, kinh doanh bảo hiểm là dạng bảo hiểm thương mại ra đời khi có sự thỏa thuận giữa doanh nghiệp bảo hiểm với khách hàng, khi khách hàng tự nguyện tham gia, có nhu cầu được doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bồi thường khi gặp rủi ro, thông qua việc đóng một mức phí bảo hiểm nhất định theo định kỳ hợp đồng quy định. Đây cũng chính là điểm tạo nên sự khác biệt giữa bảo hiểm thương mại với bảo hiểm xã hội.
Bảo hiểm xã hội là sự thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thải sản, tai nạn lao động, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết trên cơ sở đóng vào quỹ bảo hiểm… có một số loại bảo hiểm xã hội bắt buộc người lao động phải tham gia, quỹ của bảo hiểm xã hội được hình thành từ một phần lương của người lao động, nhưng đóng và hỗ trợ và các nguồn khác. Mục đích của bảo hiểm xã hội nhằm từng bước mở rộng và nâng cao việc đảm bảo vật chất, chăm sóc sức khỏe, góp phần ổn định đời sống cho người lao động và gia đình.
Vậy, tính chất của các ngành bảo hiểm là khác nhau, mỗi loại bảo hiểm lại mang một đặc trưng riêng tiêu biểu, chính sự khác nhau đó cũng chi phối rất lớn tới việc xây dựng văn hóa doanh nghiệp của các loại hình doanh nghiệp bảo hiểm khác nhau.
3. Khái niệm và các yếu tố cấu thành văn hóa doanh nghiệp
3.1. Khái niệm:
Thuật ngữ “văn hóa doanh nghiệp” mới được chúng ta làm quen, tuy vậy thuật ngữ này đã tồn tại khá lâu ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển. Thực chất “văn hóa doanh nghiệp” là một dạng cụ thể của văn hóa TC. Vì vậy, để hiểu rõ hơn về văn hóa doanh nghiệp, trước hết chứng ta cần biết văn hóa TC là gì? sau đây là một vài định nghĩa được công bố và sử dụng rộng rãi:
* Văn hóa TC là một tập hợp những quan niệm chung của một nhóm người, những quan niệm này được phần lớn các thành viên hiểu ngầm với nhau và chỉ thích hợp cho tổ chức của riêng họ, các quan niệm này sẽ được truyền cho các thành viên mới (theo Laris, 1980).
* VHTC có thể được mô tả như một tập hợp chung quanh các tín ngưỡng thông lệ, hệ thống giá trị, quy chuẩn hành vi ững xử và cách kinh doanh riêng của từng tổ chức, những mặt trên sẽ quy định mô hình hoạt động riêng của tổ chức và cách ứng xử của các thành viên trong tổ chức (theo Tunstall 1983). Hiện nay, vấn đề văn hóa doanh nghiệp đang được các nhà nghiên cứu và doanh nghiệp Việt Nam quan tâm, đã có một số tài liệu, giáo trình đề cập nhưng phân tích chưa sâu,có thể nêu ra một số định nghĩa về văn hóa doanh nghiệp khá tiêu biểu sau:
Theo Tiến sỹ Dương Thị Liễu thì văn hóa doanh nghiệp là “toàn bộ các giá trị tinh thần mang đặc trưng riêng biệt của doanh nghiệp, có tác động tới lý trí, tình cảm và hành vi của tất cả các thành viên doanh nghiệp”.
Trong bài viết “Xây dựng văn hóa doanh nghiệp” đăng trên trang Web: www.h.vnclc.com nhà nghiên cứu Nguyễn Thịnh cho rằng: “ văn hóa doanh nghiệp là toàn bộ các giá trị văn hóa được gây dựng nên trong suốt quá trình tồn tại và phát triển của một doanh nghiệp, trở thành các giá trị, các quan niệm và tập quán, truyền thống ăn sâu vào hoạt động của doanh nghiệp ấy và chi phối tình cảm, nếp nghĩ và hành vi của mọi thành viên của doanh nghiệp trong việc theo đuổi và thực hiện các mục đích”.
Trong cuốn “Văn hóa kinh doanh và triết lý kinh doanh”, Tiến Sỹ Đỗ Minh Cương đưa ra khái niệm: văn hóa doanh nghiệp (văn hóa công ty) là “một dạng của VHTC bao gồm những giá trị, những nhân tố văn hóa mà doanh nghiệp làm ra trong quá trình sản xuất, kinh doanh, tạo nên các bản sắc của doanh nghiệp và tác động tới tình cảm, lý trí và hành vi của tất cả các thành viên của nó”.
Những cách định nghĩa trên đã chỉ ra được quá trình hình thành phát triển của văn hóa doanh nghiệp và khẳng định giá trị của văn hóa doanh nghiệp đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Mới đây, trong bài viết “Văn hóa doanh nghiệp – nền móng của sự giàu có”, tác giả Ngô Minh Khôi cũng đứ ra khái niệm: “Văn hóa doanh nghiệp là toàn bộ các hệ thống chuẩn mực về tinh thần, vật chất quy định mối quan hệ, thái độ và hành vi ứng xử của tất cả các thành viên trong doanh nghiệp, hướng tới những giá trị tốt đẹp được xã hội đồng tình, tạo ra nét riêng, độc đáo đồng thời là sức mạnh lâu bền của doanh nghiệp thể hiện qua sức mạnh sản phẩm của doanh nghiệp trên thương trường” (Nhà QL, số 16, tháng 10-2006).
ở đây, tác gỉa đã chỉ ra được giá trị của văn hóa doanh nghiệp đó chính là sự khác biệt, độc đáo là sức mạnh của mỗi doanh nghiệp. Điều đó được thể hiện qua sức cạnh tranh của sản phẩm doanh nghiệp đó làm ra.
Từ những quan điển củacácnhà nghiên cứu trên, chúng tôi muốn đưa ra một khái niệm: “Văn hóa doanh nghiệp là một hệ thóng các giá trị, triết lý, truyền thống, tập quán, lễ nghi, chuẩn mực, biểu tượng được hình thành trong quá trình xây dựng và phát triển doanh nghiệp, có khả năng lưu truyền tạo nên bản sẳc riêng của doanh nghiệp, gắn kết mọi thành viên của doanh nghiệp trong mục tiêu chung và cung cách hành động chung.
3.2. Cácyếu tố cấu thành Văn hóa doanh nghiệp
Văn hóa doanh nghiệp là nền văn hóa đặc thù của doanh nghiệp, là caí để phân biệt doanh nghiệp này với doanh nghiệp khác. Nghĩa là mỗi doanh nghiệp đều có một avưn hóa doanh nghiệp riêng mang dấu ấn cá nhân, tạo nên sự khác biệt của doanh nghiệp đó. Tuy nhiên văn hóa doanh nghiệp là một bộ phận củavăn hóa dân tộc hay văn hóa quốc gia. Vì vậy văn hóa doanh nghiệp cần được xem xét như một hệ thống, bao gồm các thành tố có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Theo chúng tôi, văn hóa doanh nghiệp bao gồm các yếu tố cơ bản sau:
3.2.1. Các yếu tố ngầm định:
- Triết lý kinh doanh – hạt nhân của văn hóa doanh nghiệp. Yếu tố nàyịnh hướng cho toàn bộ quá trình hoạt động, phát triển của doanh nghiệp.
- Hệ quan điểm, giá trị chung của doanh nghiệp ở yếu tố này, doanh nghiệp sẽ tuyên bố rõ sứ mệnh của mình. Vì vậy nó chi phối mọi hành vi, ứng xử củacác thành viên trong doanh nghiệp từ đó tạo nên phong cách và lối hành động chung củadoanh nghiệp.
- Hệ thống các quy định về nề nếp, kỷ luật, chế độ khen thưởng, ưu đãi nhân viên của doanh nghiệp.
- Các tập tục không thành văn do các thành viên trong doanh nghiệp tự nguyện lập nên vì lợi ích chung như thăm hỏi, động viên, tặng quà ngày lễ tết, các câu truyện, huyền thoại nghiệp vụ giao dịch đối ngoại, các hoạt động sinh hoạt văn hóa nghệ thuật.
3.2.2. Các biểu hiện vật chất:
- Thương hiệu , logo, slogan
- Trang phục nhân viên
- Cách bài trí văn phòng
4. Vai trò của văn hóa doanh nghiệp đối với sự phát triển của doanh nghiệp
Quan điểm của các nhà nghiên cứu đều đánh giá rất cao vai trò của văn hóa doanh nghiệp đối với việc nâng cao hiệu quả hoạt động toàn diện của doanh nghiệp. Có thể khái quát vai trò của văn hóa doanh nghiệp ở một số điểm sau đây:
4.1. Văn hóa doanh nghiệp là tài sản tinh thần của doanh nghiệp, là một nguồn lực quan trọng thúc đẩy doanh nghiệp phát triển bền vững.
Có thể nói, văn hóa doanh nghiệp có vai trò lớn trong việc tạo lập vị thế của doanh nghiệp. Mỗi doanh nghiệp ngoài hoạt động kinh doanh, sản xuất vật chất, hàng hóa hoặc dịch vụ còn có một tài sản tinh thần to lớn – văn hóa doanh nghiệp.
Văn hóa doanh nghiệp là cái “hồn” của doanh nghiệp. Vì vậy, nó là yếu tố không thể thiếu, nó tồn tài khách quan trong từng doanh nghiệp.
Bởi thế, văn hóa doanh nghiệp chính là cái làm nền cốt cách của doanh nghiệp, là cột trụ tinh thần của doanh nghiệp, là linh hồn của cả doanh nghiệp. Do đó, văn hóa doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng thúc đẩy doanh nghiệp phát triển bền vững. Một doanh nghiệp nếu có nền văn hóa riêng vững mạnh thì trong quá trình kinh doanh có lên hay xuống vẫn vực lại được.
Nhưng nếu một doanh nghiệp không chú trọng xây dựng cho mình một nền văn hóa đặc thù thì không thể tồn tại được.
4.2. Văn hóa doanh nghiệp định hướng cho hoạt động của doanh nghiệp, tạo ra sự nhất thể hóa trong lối sống và hoạt động của mọi thành viên trong doanh nghiệp.
Trong một doanh nghiệp là một tập hợp những con người khác nhau về nhiều mặt tạo nên một môi trường làm việc phức tạp. Văn hóa doanh nghiệp tạo ra một môi trường làm việc thân thiện để mỗi cá nhân, đơn vị có thể phát huy năng lực, sáng tạo và cống hiến nhiều nhất cho doanh nghiệp, văn hóa doanh nghiệp như dòng máy lan tỏa trong toàn doanh nghiệp, gắn kết và vận hành các niềm tin, giá trị xuyên suốt các bậc, các vùng miền địa lý khác nhau. Từ đó, tạo dựng tình bạn bằng hữu, đồng đội trong công việc cũng như ngoài công việc.
Doanh nghiệp dù lớn hay nhỏ, sở hữu Nhà nước hay tư nhân đều phải đối mặt với bài toán hợp tác giữa cá nhân và tập thể trong khi doanh nghiệp tối đa hóa lợn nhuận thì cá nhân có thể theo đuổi mục đích riêng. Văn hóa doanh ngiệp đóng vai trò then chốt trong việc giải quyết vấn đề xung đột giữa quyền lợi cá nhân và tập thể, người lao động sẽ làm việc mà không nghĩ đến tiền thưởng. Chẳng hạn, nếu lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp xoay quanh nguyên tấc sáng tạo và chất lượng sản phẩm là niềm tự hào của doanh nghiệp. Các cá nhận trong doanh nghiệp xem sự thỏa mãn của mình gắn với điều này, doanh nghiệp sẽ cần đến các giải pháp tiền bạc.
Nói tóm lại, một trong những chức năng cơ bản của văn hóa doanh nghiệp là tạo ra cảm giác thống nhất của mọi thành viên, tạo ra hình ảnh “chúng tôi” tập thể, bảo đảm sự hài hòa giữa lợi ích tập thể và lợi ích cá nhân, Trong văn hóa doanh nghiệp, mỗi thành viên của nó đều nhận thức được vai trò của mình trong hệ thống các doanh nghiệp, nhận thức lại những gì mà doanh nghiệp trông đợi và có thể đáp lại trông đợi ấy như thê nào?
Như vậy, văn hóa doanh nghiệp động viên mọi nguồn lực trong doanh nghiệp và hưởng những nguồn lực ấy vào việc phấn đấu cho mục đích của doanh nghiệp.
4.3. Văn hóa doanh nghiệp là bản sắc của doanh nghiệp là cái phân biệt doanh nghiệp này với doanh nghiệp khác.
Bản sắc của doanh nghiệp là nét riêng biệt, đặc thù của mỗi doanh nghiệp, văn hóa là nhân tố quan trọng cơ bản tạo nên dấu ấn của doanh nghiệp, là đặc tính để phân biệt doanh nghiệp này với doanh nghiệp khác.
Văn hóa doanh nghiệp có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc sáng tạo cái mới, bởi văn hóa là sáng tạo. Quá trình xây dựng và phát triển, doanh nghiệp luôn cung cấp cho xã hội những nhu cầu mới, khác trước. Điều đó có nghĩa là một doanh nghiệp không thể giới hạn ở chỗ cung cấp những sản phẩm và dịch vụ mới hơn, tốt hơn cho xã hội. Đó là chức năng sáng tạo, đồng thời cũng là cái cần thiết để doanh nghiệp tồn tại.
Văn hóa doanh nghiệp sẽ hình thành nên bản sắc của doanh nghiệp khi nó được chăm lo phát triển, in đậm vào tâm trí dùng tạo thành ấn tượng xã hội, thành niềm tự hào của các thành viên trong doanh nghiệp.
Ví dụ như khi nhắc đến dày dép là người ta nghĩ ngay đến Bits, nhắc đến cafee là người ta nghĩ đến cafee Trung Nguyên. Hay khi muốn mua Bảo hiểm rất nhiều khách hàng sẽ tìm đến Prudential hoặc Bảo Việt.
Tuy nhiên, một doanh nghiệp trong thời gian khởi sự chưa thể có một văn hóa doanh nghiệp ổn định, tức là chưa thể có một bản sắc doanh nghiệp đầy đủ. Để làm được điều này các giá trị phải trải qua một quá trình tạp lập, chọn lọc, thích nghi và phát triển lâu dài trong quá trình đó, vai trò của người quản lý là rất quan trọng để định hướng và xác lập văn hóa doanh nghiệp.
Tóm lại, văn hóa doanh nghiệp bao giờ cũng in đậm dấu ấn cá nhân từ nhân cách của người lao động, lối suy nghĩ quản lý đến hoạt động kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Văn hóa doanh nghiệp là cái hồn của doanh nghiệp, nó tạo dựng lòng tin của nhiều người về doanh nghiệp và giúp nhân viên tập trung vào những công việc quan trọng tạo nên lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp, khẳng định tên tuổi, uy tín của doanh nghiệp đó.
4.4. Văn hóa doanh nghiệp có tính “di truyền” qua nhiều thế hệ thành viên tạo môi trường thuận lợi để doanh nghiệp phát triển.
Có thể ví văn hóa doanh nghiệp như một “bộ gen” của nó nên thách thức đối với nguời sáng lập và tạo dựng các doanh nghiệp chính là khả năng sáng tạo “bộ gen” tốt cho doanh nghiệp mình. Đối với văn hóa doanh nghiệp, đổi mới và bảo tồn, phát triển có mối quan hệ biện chứng với nhau. Một doanh nghiệp không có khả năng tự đổi mới và phát triển lâu dài, thì sớm muộn cũng bị thị trường cạnh tranh đào thải (bị sát nhập, giải thể, phái sản…). Trái lại, doanh nghiệp sẽ có phat triển bền vững nếu có khả năng bảo tồn và di truyền bản sắc doanh nghiệp cho các thế hệ thành viên.
Điều này cho thấy rằng một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển phải có khả năng đối phó với những thay đổi của môi trường xugn quanh. Để làm được điều này, mỗi doanh nghiệp cần phải mang tầm nhìn vào cuộc sống, chuyển biến những mong ước tốt đẹp bằng hiện thực cụ thể. Văn hóa doanh nghiệp đòi hỏi doanh nghiệp phải hài hòa trong tư duy, nhất quán trong hành động để trở thành một doanh nghiệp xuất sắc, bền vững, có sự phát triển mạnh mẽ và liên tục. chỉ có như vậy mới thể hiện sức sống trường tồn của một nền văn hóa doanh nghiệp giá trị.
Toàn cầu hóa kinh tế và cạnh tranh đã trở thành động lực chính thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp, các quốc gia – các nền kinh tế và đó là xu thế chủ đạo ngày nay. TCH kinh tế tạo ra cơ hội như nhau cho các doanh nghiệp những khả năng tiếp cận thị trường thế giới rộng lớn, đồng thời cùng tạo ra thách thức buộc các doanh nghiệp dù ở các nước phát triển hay đang phát triển phải đối mặt với môi trường nhiều rủi ro hơn và cạnh tranh gay gắt hơn. Mục tiêu của doanh nghiệp chỉ đạt được trên cơ sở những lợi thế cạnh tranh, khả năng đổi mới, sáng tạo và thích ứng nhanh chóng với môi trường kinh doanh. Cái giá cho doanh nghiệp đạt sự kỳ diệu ấy? đó là văn hóa doanh nghiệp.
Qua thực tế nghiên cứu về văn hóa doanh nghiệp ở hai doanh nghiệp Bảo hiểm Prudential và bảo hiểm Bảo Việt chúng tôi sẽ chứng minh rõ hơn vai trò của văn hóa doanh nghiệp đối với sự phát triển của doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực bảo hiểm.
II. THỰC TRẠNG VĂN HOÁ DOAN NGHIỆP Ở CÔNG TY BẢO HIỂM PRUDENTIAL VÀ BẢO VIỆT:
1. Biểu hiện vật chất
Văn hoá tổ chức mỗi doanh nghiệp không chỉ được thể hiện ở bên trong mà còn bộc lộ ra bên ngoài rất cụ thể. Ở phần này, chúng tôi đề cập đến những yếu tố vật chất cấu thành nên văn hoá doanh nghiệp trên cơ sở phân tích từng yếu tố đó thể hiện ở hai doanh nghiệp Prudential và Bảo Việt như thế nào?
1.1. Câu khẩu hiệu và logo:
Câu khẩu hiệu (slogan)
1.1.1.1. Slogan của Prudential:
“Luôn luôn lắng nghe, luôn luôn thấu hiểu”
Câu khẩu hiệu này vừa là phương châm của công ty đối với khách hàng cũng như đối với các nhân viên của công ty. Với khách hàng, Prudential khẳng định mình rất am hiểu tâm lý khách hàng, sẵn sàng lắng nghe mọi ý kiến và hiểu thấu những gì khách hàng mong đợi. Về phía nội bộ công ty, các nhân viên cũng phải hiểu rõ nhau, cảm thông lẫn nhau, thể hiện qua cách đối xử giữa nhân viên với nhân viên, nhà quản lý với nhân viên.
1.1.1.2. Slogan của Bảo Việt:
Công ty đã sử dụng nhiều câu khẩu hiệu khác nhau, song chủ yếu nhắc tới hai khẩu hiệu chính là: “Bảo vệ lợi ích người Việt” và “Phục vụ khách hàng tốt nhất để phát triển”.
Với câu: “Bảo vệ lợi ích người Việt”, công ty khẳng định phương châm hoạt động của mình là bảo vệ lợi ích của người Việt Nam. Câu khẩu hiệu đã sử dụng lối chơi chữ “Bảo vệ lợi ích người Việt” đã ghép thành tên công ty Bảo Việt. Nó đã sử dụng lối chơi chữ của người á đông, mang thuần bản chất văn hoá người Việt nên dễ được tiếp thu. Với câu chữ ngắn gọn, doanh nghiệp đã khẳng định Bảo Việt luôn gắn bó và bảo vệ lợi ích người Việt. Tuy nhiên, cũng chính bằng câu khẩu hiệu này, Bảo Việt đã tự giới hạn không gian hoạt động và lượng khách hàng của mình( chỉ phục vụ và bảo vệ lợi ích người Việt) mang tính cục bộ. Ngày nay, Việt Nam đã gia nhập WTO và hoà mình vào dòng chảy Toàn cầu hoá. Với khẩu hiệu này sẽ không thể thu hút và thuyết phục được đối tác nước ngoài. Câu slogan này chỉ thích hợp trên lãnh thổ Việt Nam. Nếu Bảo Việt muốn mở rộng thị trường ra nước ngoài cần nhất thiết phái sử dụng slogan khác.Song điều này dễ dẫn đến thiếu nhất quán trong đường lối cũng như phương châm hoat động của công ty.
Với câu:”Phục vụ khách hàng tốt nhất để phát triển” đã đánh giá cao hoạt động phục vụ, chăm sóc khách hàng, coi đó là yếu tố quan trọng nhất để phát triển. Công ty cũng gắn lợi ích của mình với sự ủng hộ của khách hàng, từ đó khích lệ nhân viên lấy việc thoả mãn khách hàng là nhiệm vụ hàng đầu. Tuy nhiên,câu khẩu hiệu này không ấn tượng, khó nhớ, không có điểm nhấn về thanh điệu cũng như nội dung nên khó lưu vào tâm trí khách hàng. Hơn nữa ý nghĩa của nó rất chung chun._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- DA2096.DOC