Lời mở đầu
Không phải ngẫu nhiên có người coi triết học như là khoa học của mọi khoa học. Cũng không phải ngẫu nhiên trong lịch sử, nhà triết học được gọi là nhà thông thái, nhà hiền triết, người nắm đước bí mất của sự vật… thậm chí trong lịch sử nhân loại, có thời kỳ mà xã hội đặt nhà triết học vào vị trí cao nhất, có nhà cải tạo đặt nhà triết học vào vị trí cao nhất của cơ cấu tổ chức xã hội (Platon với mô hình "Nhà nước lý tưởng")…
Tất cả những điều ấy khiến triết học trở thành một môn thú
15 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 11093 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Vai trò của triết học trong đời sống xã hội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vị, một cái gì đó kì bí làm con người ở mọi thời đại đam mê, ham muốn hiểu sâu hơn và đóng góp sức mình vào cái lâu đài kì bí và hoa lệ đó. Kể từ khi ra đời trải qua nhiều giai đoạn phát triển đạt được nhiều thành tựu rực rỡ thì triết học luôn phản ánh sự phát triển trí tuệ loài người và thúc đẩy tư duy loài người, đôi khi còn trở thành vũ khí sắc bén nhất cho những gì tiến bộ của sự phát triển đó. Ngày nay triết học đã thực sự trở thành khoa học, đã hoàn chỉnh hơn vì vậy ý nghĩa là động lực cho sự phát triển của đời sống xã hội càng rõ nét hơn, con người càng được hoàn thiện hơn về tư duy lý luận.
Đó là mặt tác động đến đời sống xã hội từ bản thân khoa học triết học. Ngày nay, mặc dù sự phát triển như vũ báo của khoa học kỹ thuật, sự phát triển về mặt vật chất của đời sống xã hội… cũng không hề làm giảm đi tính chất kì bí và vai trò đối với thực tiễn của triết học, mà vấn đề là phải có một tư duy lý luận, đúng đắn để không bị "lạc lối" trong sự phát triển đó, hơn nữa, sự phát triển về mặt xã hội của khoa học kỹ thuật… cũng tác động ngược trở lại khoa học triết học: chứng minh hay bác bỏ những quan điểm triết học, nhận chân được những tư tưởng đúng đắn
Với vai trò to lớn của triết học với sự phát triển tư tưởng xã hội và với
thực tiễn đời sống xã hội như vậy, tiểu luận này chỉ mong tổng hợp lại một
số vai trò đã được thừa nhận của triết học trong đời sống xã hội.
Tiểu luận " Vai trò của triết học trong đời sống xã hội"gồm 3 phần:
Phần1 :lời mở đầu
Phần2:Nội dung:
I Chương I : Triết học - Một khoa học
II ChươngII : Vai trò của môn triết học trong đời sống xã hội
Phần 3 kết luận.
Chương I: Triết học - Một môn khoa học
I. Sự ra đời của triết học và định nghĩa triết học.
1 . Sự ra đời của triết học
Ttiết học ra đời ở cả phương Đông và phương Tây gần như cùng một thời gian (khoảng từ thế kỷ thứ VIII đến thế kỷ VII trước công nguyên).
tại một số trung tâm văn minh cổ đại của nhân loại như Trung Quốc, ấn Độ, Hi Lạp.
Theo người Trung Quốc, thuật ngữ triết học có nguồn gốc ngôn ngữ là chữ triết và khoa học này hiểu theo nghĩa là sự truy tìm bản chất của đối tượng, triết học chính là trí, là sự hiểu biết sâu sắc của con người.
Theo người ấn Độ, triết học được coi là Danshana, có nghĩa là chiêm ngưỡng nhưng mang hàm ý là trí thức dựa trên lý trí, là con đường suy ngẫm để dẫn dắt con người đến với lẽ phải.
ở phương Tây thuật ngữ triết học suất hiện ở HiLạp, theo tiếng HiLạp triết học là Philosophia, nghĩa là yêu mến sự thông thái, nó là khoa học vừa mang tính định hướng vừa nhấn mạnh đến khát vọng tìm kiếm chân lý của con người.
Như vây, cho dù ở phương Đông hay phương Tây, ngay từ đầu triết học đã là hoạt động tinh thần biểu hiện khả năng nhận thức, đánh giá của con người, nó tồn tại với tư cách là một hình thái ý thức xã hội.
2. Định nghĩa triết học.
Đã có rất nhiều cách định nghĩa khác nhau về triết học, nhưng đều bao hàm những nội dung giống nhau:
Triết học nghiên cứu thế giới với tư cách là một chỉnh thể, tìm ra những quy luật chung nhất chi phối sự vận động của chỉnh thể nói chung, của xã hôi loài người, của con người trong cuộc sống cộng đồng nói riêng và thể hiện nó một cách có hệ thống dưới dạng duy lý.
Vậy: Triết học là hệ thống trí thức lý luận chung nhất của con người về thế giới, về vị trí vai trò của con người trong thế giới ấy.
II. Triết học với tư cách là một khoa học.
Ngày nay, Triết học không còn là bí mật mà chỉ những nhà Triết học mới biết nữa (Ph.Ăngghen, "Chống Đuy-rinh") nó từ "Hhoa học của các khoa học" đã trở thành một môn khoa học độc lập.
Là một môn khoa học độc lâp, Triết học cần phải có: Đối tượng riêng của nó, phải có phương pháp nghiên cứu ( gần phương pháp luận và phương pháp riêng); có các vấn đề cơ bản; có các khái niệm và các phạm trù; các quy luật.
1. Đối tượng của Triết học.
Theo Ph.ăngghen: "Triết học là khoa học về các quy luật chung nhất sử sự vận động và phát triển của thế giới; từ tự nhiên, xã hội và cả tư duy", (Ph. ăng ghen, "chóng Đuy-rinh")
Như vậy có thể coi đối tượng của Triết học là tự nhiên, xã hội và tư duy của con người: nhưng Triết học không phải là khoa học tự nhiên, khoa học về xã hội, khoa học về tư duy (logic học) mà là khoa học chung nhất, nó coi thế giới là "một chỉnh thể thống nhất " các mặt trên.
2. Phương pháp nghiên cứu.
- Có một điều đặc biệt của khoa Triết học, đó là, với khoa học này thì sự khác nhau về phương pháp luật là cơ sở để phân biệt các trường phái Triết học (siêu hình hay biện chứng), thể hiện tính khoa học hay phản động của một hệ thống Triết học. Nguyên nhân của hiện tượng này xuất phát từ đối tượng của Triết học: Coi thế giới như là một chỉnh thể, nghiên cứu bao trùm thế giới: tự nhiên, xã hội, tư duy.
- Triết học nghiên cứu thế giới bằng phương pháp của riêng mình khác với mọi khoa học cụ thể: Nó xem xét thế giới như một chỉnh thể và tìm cách đưa ra một hệ thống các quan niệm về chỉnh thể đó. Điều đó chỉ có thể thực hiện được bằng cách tổng kết toàn bộ lịch sử của khoa học và lịch sử của bản thân Triết học
3. Vấn đề cơ bản của Triết học:
Triết học cũng như những khoa học khác phải giải quyết rất nhiều vấn đề có liên quan với nhau, trong đó vấn đề cực kỳ quan trọng là nền tảng và là điểm xuất phát để giải quyết những vấn đề còn lại được gọi là vấn đề cơ bản của Triết học. Theo Ph. ăngghen "vấn đề cơ bản lớn của mọi Triết học, đặc biệt là Triết học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại.
Giải quyết vấn đề cơ bản của Triết học không chỉ xác định được nền tảng và điểm xuất phát để giải quyết các vấn đề khác của Triết học mà nó còn là tiêu chuẩn để xác định lập trường, thế giới quan của các Triết gia và học thuyết của họ.
Vấn đề cơ bản của Triết học có hai mặt mỗi mặt phải trả lời cho một câu hỏi lớn:
Mặt thứ nhất: giữa ý thức và vật chất thì cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào?.
Mặt thứ hai: con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không?.
Trả lời cho hai câu hỏi trên liên quan mật thiết đến việc hình thành các trường phái Triết học và các học thuyết về nhận thức của Triết học.
4. Hệ thống các phạm trù và các quy luật.
Mỗi bộ môn khoa học đều có một hệ thống phạm trù riêng của mình phản ánh những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ cơ bản và phổ biến thuộc phạm vi khoa học đó nghiên cứu.
Với các khoa học chuyên ngành các phạm trù chỉ phản ánh những mối liên hệ chung trên một lĩnh vực nhất định của hiện thực thuộc phạm vi nghiên cứu của môn khoa học chuyên ngành đó. Khác với điều đó, các phạm trù của phép biện chứng duy vật như:"(vật chất", "ý thức", "vận động", "đứng im", "mâu thuẫn" là những khái niệm trung nhất phản ánh những mặt những thuộc tính, những mối liên hệ cơ bản và phổ biến nhất không phải chỉ của một lĩnh vực nhất định nào đấy của hiện thực, mà của toàn bộ thế giới hiện thực, bao gồm cả tự nhiên, xã hội và tư duy. Mọi sự vật, hiện tượng đều có nguyên nhân xuất hiện, đều có quá trình vận động biến đổi, đều có mâu thuẫn... nghĩa là đều có những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ được phản ánh trong các phạm trù của Triết học.
- Khi Triết học duy vật biện chứng ra đời; nó trở thành vũ khí lý luận sắc bén cho giai cấp tiến bộ, nó kết tinh mọi tinh hoa của tư tưởng nhân loại, vì vậy nó là "khoa học nhất"; là "triệt để và hoàn mỹ nhất", là "sâu sắc và toàn diện nhất" (V.I. Lênin; "Ba nguồn gốc của chủ nghĩa Mác"). Vì vậy có thể coi các quy luật của Triết học duy vật biện chứng là quy luật cơ bản của khoa học Triết học. Triết học duy vật biện chứng gồm ba quy luật cơ bản:
+ Quy luật mâu thuẫn: nói lên nguồn gốc và động lực vận động và phát triển của thế giới, cả về các mặt: tự nhiên, xã hội, và tư duy.
+ Quy luật về mối quan hệ giữa mặt lượng với mặt chất
Nói lên cách thức của sự phát triển.
+ Quy luật phủ định của phủ định: nói lên con đường tất yếu của sự phát triển.
III. Đặc điểm của khoa học triết học
1. Triết học tồn tại như một hình thái ý thức xã hội
Như các hình thái ý thức xã hội khác (đạo đức, tôn giáo, khoa học… ) Thì triết học cũng tồn tại với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, từ là có đặc tính biến đổi phụ thuộc vào sự biến đổi của tồn tại xã hội và tác động trở lại những điều kiện nhất định. Tuy nhiên, triết học là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt: nó không phải là một bộ phận trong hình thái ý thức xã hội khoa học vì bản chất nó cũng là một hình thái ý thức xã hội; nó không giống như tôn giáo, là hình thái ý thức xã hội ra đời ngay từ thời nguyên thủy. Triết học chỉ ra đời khi con người đã có một vốn hiểu biết nhất định và đạt đến khả năng rút ra được cái chung trong muôn vàn những sự kiện, hiện tượng riêng lẻ và khi xã hội đã phát triển đến thời kỳ hình thành tầng lớp lao động trí óc.
2. Triết học là hệ thống tri thức chung nhất
Điều này thể hiện qua định nghĩa về triết học và đối tượng của nó.
3. Triết học mang tính giai cấp
Mỗi tư tưởng triết học đều đại diện cho một giai cấp nhất định trong xã hội và cũng mỗi tư tưởng triết học phản ánh một giai đoạn một trình độ nhận thức về thế giới của mỗi thời đại nhất định.
Không có một thứ triết học phi giai cấp, một thứ triết học chung chung. Mỗi hệ thống triết học đều có Chính Đảng của nó và trở thành vũ khí lý luận cho một giai cấp nhất định thường là có vai trò nổi bật trong lịch sử ở mỗi thời đại. Cứ như vậy "Triết học vẫn có tính đảng của nó trong suốt thời hơn 2000 năm nay" (V.I. Lênin).
Chương II: vai trò của triết học trong đời sống xã hội
I. Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn
Như phần trên đã khẳng định, triết học là một hình thái ý thức xã hội. Vì vậy nó mang đặc tính chung của các hình thái ý thức xã hội khi tác động trở lại với thực tiễn đời sống, thể hiện rõ nhất ở các mặt: ý thức xã hội có thể "lệch pha" với tồn tại của xã hội(có thể đi trước cả thực trạng xã hội , có thể lạc hậu hơn tồn tại xã hội); ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội.
1. ý Thức xã hội triết học có thể vượt trước hoặc lạc hậu hơn tồn tại xã hội.
a. Tư tưởng triết học có thể lạc hậu hơn đời sống, kìm hãm sự phát triển của xã hội:
ý thức xã hội nói chung và đặc biệt là triết học luôn gắn với lợi ích của những tập đoàn người những giai cấp nhất định trong xã hội. Vì vậy, những tư tưởng cũ, lạc hậu thường được các lực lượng xã hội phản tiến bộ lưu giữ và truyền bá nhằm chống lại các lực lượng xã hội tiến bộ.
Những tư tưởng lạc hậu, thế giới quan phản động không mất đi một cách dễ dàng. vì vậy trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới phải thường xuyên tăng cường công tác tư tưởng, đấu tranh chống lại những âm mưu và hành động phá hoại của những lực lượng thù địch về mặt tư tưởng, kiên trì xoa bỏ những truyền thống tư tưởng tốt đẹp.
b. Triết học có thể vượt trước trình độ hiện đại của tồn tại xã hội
Trong những điều kiện nhất định, tư tưởng của con người đặc biệt là những tư tưởng khoa học tiên tiến có thể vượt trước sự phát triển của tồn tại xã hội, vượt trước sự phát triển của tồn tại xã hội, chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người, hướng hoạt động đó vào việc giải quyết những nhiệm vụ mới do sự phát triển chín muồi của đời sống vật chất của xã hội đặt ra.
Triết học Mác - Lênin là hệ tư tưởng của giai cấp cách mạng nhất của thời đại - giai cấp công nhâ, nó trang bị cho giai cấp công nhân và chính đảng cộng sản vũ khí lý luận sắc bén để giải phóng mình và giải phóng nhân dân lao động, các dân tộc bị áp bức bóc lột trên toàn thế giới, thoát khỏi ác nô dịch, bóc lột, xây dựng một xã hội tốt đẹp. Vì vậy, chỉ nghĩa Mác - Lênin là hệ thống ưu việt nhất, là con đường, sách lược tốt nhất cho sự phát triển xã hội loài người.
2. Tư tưởng triết học tác động trở lại đời sống xã hội
PH.Ăngghen viết:"Sự phát triển về mặt chính trị, pháp luật, triêt học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật…. đều dựa vào sự phát triển kinh tế. Nhưng tất cả chúng có ảnh hưởng lẫn nhau và ảnh hưởng đến cơ sở kinh tế ".
Mức độ ảnh hưởng của tư tưởng nói chung và tư tưởng triết học nói riêng đến sự phát triển xã hội phụ thuộc vào những điều kiện lịch sự cụ thể, vào tính chất của các mối quan hệ kinh tế mà trên đó tư tưởng nảy sinh, vào vai trò lịch sử của giai cấp mang ngọn cờ tư tưởng; vào mức độ phản ánh đúng đắng của tư tưởng đối với các nhu cầu phát triển của xã hội; vào mức độ mở rộng của tư tưởng quần chúng, cũng do đó, ở đây cần phân biệt vai trò của ý thức tư tưởng tiến bộ và ý thức tư tưởng phản tiến bộ đối với sự phát triển của xã hội.
C.Mác khẳng định: "Lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh bại bởi lực lượng vật chất" và một hệ tư tưởng tác động được tới quần chúng hay khi có những điều kiện để biến thành lực lượng vật chất" (C.Mác) thì nó mới trở thành động lực cho sự phát triển của xã hội.
II. Vai trò của triết học trong đời sống xã hội
Vai trò của triết học trong đời sống xã hội đựơc thể hiện qua chức năng của triết học. Triết học có nhiều chức năng như: Chức năng nhận thức, chức năn đánh giá, chức năng giáo dục…. Nhưng quan trọng nhất kà chức năng thế giới quan và chức năng phương pháp luận.
1. Chức năng thế giới quan và chức năng phương pháp luậ của triết học
- Những vấn đề được triết học đặt ra và tìm lời giải đáp trước hết là những vấn đền thuộc về thế giới quan. Thế giới quan đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong cuộc sống của con người và xã hội loài người. Tồn tại trong thế giới dù muốn hay không con người cũng phải nhận thức thế giới và nhận thức bản thân mình. Những tri thức này dần dần hình thành nên thế giới quan lại trở thành nhân tố định hướng, thế giới quan nên thế giới quan. Khi đã hình thành, thế giới quan trở thành nhân tố định hướng cho quá trình con người tiếp tục nhận thức thế giới.
Như vậy, thế giới quan đúng đắn là tiền đề để xác lập nhân sinh quan tích cực và trình độ phát triển của thế giới quan là tiêu chí quan trọng về sự trưởng thành của mỗi cá nhân cũng như của mỗi cộng đồng xã hội nhất định.
Triết học ra đời với tư cách là hạt nhân lý luận của thế giới quan, làm cho thế giới quan phát triển như một quán trình tự giác dựa trên sự tổng kế kinh nghiệm thực tiễn và tri thức do các khoa học đưa lại.
Phương pháp luận là lý luận về phương pháp, là hệ thống các quan điểm chỉ đạo việc tìm tòi, xây dựng, lựa chọn và vận dụng các phương pháp.
Tuy không phải là một ngành khoa học độc lập nhưng phương pháp luận là một bộ phận không thể thiếu được trong bất kỳ một ngành khoa học nào. Xét phạm vi tác dụng của nó, phương pháp luân ngành; phương pháp luận chứng và phương pháp luận chung nhất.
+ Phương pháp luận ngành là phương pháp luận của một ngành khoa học cụ thể nào đó.
+ Phương pháp luận chung là phương pháp luận được sử dụng cho 1 số ngành khoa học.
+ Phương pháp luận chung nhất là phương pháp luận được dùng làm điểm xuất phát cho việc xác định các phương pháp luận chung, các phương pháp hoạt động khác của con người.
Với tư cách là hệ thống tri thức chung nhất của con người về thế giới và vai trò của con người trong thế giới đó; với việc nghiên cứu những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy triết học thực hiện chức năng phương pháp luận chung nhất khẳng định điều này, Ph.Ăngghen viết - khi phê phán những nhà khoa học tự nhiên siêu hình không thấy được mối quan hệ biện chứng các ngành khoa học, không thấy được sự khác nhau giữa tư duy lý luận với tư duy thực nghiệm.
"Những nhà khoa học tự nhiên tưởng rảng họ thoát khỏi triết học bằng cách không để ý đến nó hoặc phỉ báng nó. Nhưng vì không có tư duy thì họ không thể tiến lên được một bước nào và muốn tư duy thì họ cần có những phạm trù lôgíc, mà những phạm trù ấy thì họ lấy một cách không phê phán, hoặc lấy trong cái ý thức chung, thông thường của những người gọi là có học thức, cái ý thức bị thống trị bởi những tàn tích của những hệ thống triết học lỗi thời hoặc lấy trong những mảnh vụ của các giáo trình triết học bắt buộc trong các trường đại học (đó không chỉ là những quan điểm rời rạc mà còn là một mớ hổ lớn những ý kiến của những người thuộc các trường phái hết sức khác nhau và thường là những trường phái tồi tệ nhất) Hoặc lấy trong những tác phẩm triết học đủ loại mà họ đọc một cách không có hệ thống và không có phê phán. - Cho nên, dù sao, rút cục lại, họ vẫn bị lệ thuộc vào triết học và đáng tiếc thường là thứ triết học tồi tệ nhất. Những kẻ nô lệ của những tàn tích thông tục hoá, tồi tệ nhất của những học thuyết triết học tồi tệ nhất.
Dù những nhà khoa học tự nhiên có làm gì đi nữa thì họ cũng vẫn bị triết học chi phối, vấn đề chỉ ở chỗ họ muốn bị chi phối bởi một thức triết học tồi tệ hợp mốt, hay họ muốn được hướng dẫn bởi một hình thức tư duy lý luận dựa trên sự hiểu biết về lịch sử tư tưởng và những thành tự của nó ""
(PH.Ăngghen; "Biện chứng của tự nhiên")
Vì vậy, mỗi quan điểm lý luận của triết học đồng thời là một nguyên tắc trong việc xác định phương pháp, là lý luận về phương pháp.
Những chức năng nói trên được thực hiện ở các học thuyết triết học khoa học tạo nên khả năng cải tạo thế giới của học thuyết triết học đó, trở thành một công cụ hữu hiệu trong hoạt động chế ngự giới tự nhiên và sự nghiệp giải phóng con người của những lực lượng sản xuất.
2. Chức năng phản ánh hiện thực của đời sống xã hội và chức năng động lực cho sự phát triển xã hội.
- Mỗi hệ thống triết học đều ra đời trong những hoàn cảnh xã hội nhất định, phản ánh tư tưởng, địa vị, mong muốn của giai cấp mà nó phục vụ; mối hệ tư tưởng Triết học đó đều là "tinh hoa của thời đại" đó.
C.Mác viết rằng: "Các Triết ra không mọc lên như nấm từ trái đất, họ là sản phẩm của thời đại, của dân tộc mình, mà dòng sữa tinh tế nhất quý giá và vô hình được tập trung lại trong những tư tưởng Triết học".
Hay như G.V. Hegel, ông coi sự ra đời của các học thuyết Triết học là "sự tất yếu", coi "triết học là tinh hoa của thời đại mình,và do đó nó thực hiện chức năng được xã hội phó thác trong phạm vi của thời đại và chỉ khi đó tính tích cực của tư duy triết học mới được phát huy.
- Cùng với tư cách là một hình thái ý thức xã hội nhưng là hình thái ý thức xã hội đặc biệt, chung nhất, Triết học, nếu phản ánh đúng xu thế của thời đại thì nó sẽ là cơ sở lý luận cho giai cấp tiến bộ thực hiện sự nghiệp của mình, chỉ đạo thực tiễn hoạt động trên tất cả các lĩnh vực của đới sống xã hội, từ đó nó trở thành động lực về mặt tinh thần cho sự phát triển xã hội.
Kết luận
Qua sự khảo sát sơ lược về vai trò của triết học trong đời sống xã hội, rút ra một số nhận xét sau:
- Khi bàn về vai trò của Triết học trong đời sống xã hội, tác động của nó đến hiện thực xã hội thì trước tiên phải quán triệt rằng: Triết học là môn khoa học chân chính, chứ không phải là tập hợp những tư tưởng giải thích thế giới của những Triết gia, những nhà tư tưởng, Những tư tưởng của họ không phải là xuất phát từ hảo tâm hay thành ý của họ.
Tuy nhiên, Triết học cũng là một hình thái ý thức xã hội, Về tính chất này của nó, nó phủ định tính chất là một khoa học chuyên nghành ( là một bộ phận của hình thái ý thức xã hội khoa học) vì vậy nó là một khoa học đặc biệt mang tính chung nhất trừu tượng nhất về thế giới.
- Sự tác động của tư tượng triết học, vai trò của nó đối với đời sốnglà:"không phải là giải thích thế giới mà vấn đề là ở chỗ cải tạo thế giới" ( C.Mác ), triết học phải là khoa học "giải thích thế giới thế tục chứ không phải là thoát ly thế giới thế tục "(C Mác; "Lời nói đầu trang phê phán Nhà nước pháp quyền của Hêghel ").
Triết học tác động đến đời sống hiện thực trên vị trí, tư cách đặc biệt. Nó là hạt nhân cơ bản của thế giới quan.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. PH.Ăngghen: "Biện chứng của tự nhiên"
NXB Chính trị quốc gia Hà Nội - 2005
2. V.I. Lênin: "Lênin toàn tập" - Tập 23
NXB Chính trị quốc gia Hà Nội - 2003
3. C. Mác : "Lời nói đầu trong phên phán triết học pháp quyền của Hêghen"
"C.Mác - PH.Ăngghen tuyển tập"
4. Giáo trình triết học Mác - Lênin.
NXB Chính trị quốc gia Hà Nội - 2003
6. PH.Ăngghen "Chống Đuy-rinh".
'
Mục lục
Trang
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35956.doc