ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam
Trên phạm vi toàn thế giới, trong khu vực và ở nước ta hiện nay, công nghiệp hóa, hiện đại hóa được xác định là giai đoạn phát triển tất yếu mà mỗi quốc gia sớm hay muộn đều phải trải qua, là hiện tượng có tính quy luật phổ biến trong tiến trình vận động và phát triển của các nước, nhất là đối với những quốc gia đang phát triển muốn vươn lên thành nước có trình độ phát triển cao. Nhận thức được tầm quan trọng của việc tiến hành công nghiệp
26 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1653 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Vai trò của tri thức và tri thức khoa học trong phát triển kinh tế - Xã hội nói chung và trong quá trình phát triển kinh tế theo mục tiêu CNH-HĐH, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hóa, hiện đại hóa đặc biệt là đối với nước ta, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã xác định: công nghiệp hóa là nhiêm vụ trọng tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta. Đến nay, nhiệm vụ đó vẫn được coi là nhiệm vụ trọng tâm khi chúng ta đã bước sang giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
2. Vai trò của tri thức và tri thức khoa học trong phát triển kinh tế xã hội nói chung và trong quá trình phát triển kinh tế theo mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam
Tri thức và tri thức khoa học có vai trò cưc kỳ to lớn trong đời sống xã hội cũng như trong hoạt động kinh tế của loài người. Đồng thời chúng cũng có ảnh hưởng sâu rộng tới quá trình tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Thứ nhất, chúng tác động tới nguồn nhân lực, yếu tố quan trọng nhất của mọi hoạt động. Thứ hai, ứng dụng tri thức và tri thức khoa học trong kinh tế tạo ra nền kinh tế tri thức. Quá trình công nghiệp hóa ở nước ta diễn ra trong bối cảnh nền kinh tế tri thức và toàn cầu hóa đạt ra yêu cầu mới đối với người Việt Nam. Đó là phải không ngừng học tập sáng tạo và vận dụng những tri thức có được vào thực tiễn hoạt động, thực tiễn phát triển kinh tế. Đồng thời đặt ra yêu cầu, nhiệm vụ đối với Đảng và Chính phủ trong hoạch định chính sách, góp phần tạo điều kiện tốt nhất để quá trình công nghiệp hóa của chúng ta đi đến thắng lợi cuối cùng.
3. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu đề tài: “Vai trò của tri thức và tri thức khoa học đối với quá trình phát triển kinh tế theo mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam” có ý nghĩa rất to lớn. Giúp chúng ta hiểu được tầm quan trọng của tri thức và tri thức khoa học, từ đó đề ra những lý luận, những phương hướng, biện pháp trong việc ứng dụng chúng vào thực tiễn hoạt động, qua đó hoạt động trong thực tế ngày càng có hiệu quả hơn.
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Luận giải vai trò của tri thức và tri thức khoa học trong thực tiễn phát triển kinh tế, xã hội.
Khái niệm về tri thức và tri thức khoa học.
Khi luận bàn về một sự vật, hiện tượng trước hết chúng ta phải xác định một định nghĩa cho nó. Vậy Tri thức và Tri thức khoa học là gì?
"Tri thức" có vai trò như là một từ của một ngôn ngữ, đồng thời, "Tri thức" cũng có vai trò là sự diễn tả nguồn gốc, sự phát triển và các mối quan hệ của các sự vật, hiện tượng trong vũ trụ.
Dưới phương diện là một từ của một ngôn ngữ, "Tri thức" có thể được hiểu một các rất dễ dàng bằng cách dở một cuốn từ điển ngôn ngữ bất kỳ ra, và đọc mục từ "Tri thức" ở trong đó. “Từ điển tiếng Việt” viện ngôn ngữ học định nghĩa: “Tri thức là những hiểu biết có hệ thống về sự vật, hiện tượng tự nhiên hoặc xã hội”(Nhà xuất bản Đà Nẵng- Trung tâm từ điển học- Hà Nội- Đà Nẵng- 2000), hoặc “Tri thức là những điều hiểu biết do từng trải và học tập mà thu được”(Nhà xuất bản văn hóa thông tin, Hà Nội 1999). Nói tóm lại, "Tri thức" nhìn dưới góc độ ngôn ngữ học là một khái niệm rõ ràng và dễ hiểu. Dưới phương diện là sự diễn tả nguồn gốc, sự phát triển và các mối quan hệ của các sự vật, hiện tượng trong vũ trụ, Tri thức có ý nghĩa Triết học của nó. Tri thức và các yếu tố khác như: tình cảm, niềm tin, lý trí, ý chí… tạo thành kết cấu theo chiều ngang của ý thức. Trong đó tri thức là yểu tố cơ bản, cốt lõi. Tri thức là kết quả của quá trình nhận thức của con người về thế giới hiện thực, làm tái hiện trong tư tưởng những thuộc tính, những quy luật của thế giới ấy và diễn đạt chúng dưới hinh thức ngôn ngữ hoặc các hệ thống ký hiệu khác (trích theo Giáo trình triết học Mác- LêNin, nhà xuất bản Chính trị quốc gia). Tri thức có nhiều cấp độ khác nhau như tri thức thông thường, tri thức khoa học. Tri thức thông thường được hình thành do hoạt động hàng ngày của mỗi cá nhân, mang tính chất cảm tính trực tiếp bề ngoài và rời rạc. Đối ngược với nó là tri thức khoa học, tri thức khoa học phản ánh trình độ của con người đi sâu nhận thức thế giới hiện thực (trích theo Giáo trình triết học Mác- LêNin, nhà xuất bản Chính trị quốc gia). Người ta chia tri thức khoa học thành tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận.
Việc hiểu được định nghĩa của tri thức nói chung và tri thức khoa học nói riêng, chúng ta có thêm nhiều cơ sở cho việc phân tích vai trò của chúng đối với đời sống xã hội, phát triển kinh tế đối với thế giới nói chung và quá trình phát triển kinh tế theo mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam nói riêng.
Tri thức và tri thức khoa học đối với đời sống xã hội.
Chúng ta đều biêt rằng tri thức có vai trò hết sức quan trọng góp phần tạo nên mọi thành tựu và tiến bộ trong lịch sử phát triển của văn minh nhân loại. Mặc dù những câu hỏi có tính triết học về bản chất của tri thức, về quá trình hình thành tri thức, về quan hệ giữa vật chất và trí tuệ...Vẫn không ngừng được tranh luận và chưa có được câu trả lời thoả đáng, nhưng trong mọi lĩnh vực hoạt động khoa học, kinh tế, văn hoá, tri thức vẫn luôn được tìm kiếm, phát hiện, và tác động ngày càng lớn đến sự phát triển xã hội loài người.
Tri thức nảy sinh gắn liền với nền văn minh loài người, con người ngày càng nhận thức sâu sắc hơn nội hàm mới của tri thức và không ngừng sáng tạo ra tri thức mới, dần dần xây dựng và hoàn thiện hệ thống tri thức mới:
+ Kỷ nguyên: Người nguyên thuỷ, sinh hoạt mông muội.
1.500.000 - 200.000 BCE ? Con người đi thẳng và có khả năng bắt chước.
100.000 BCE: Tiếng nói của loài người cổ xưa.
40.000 - 20.000 BCE: Những bức hoạ trong hang động.
4000 BCE - 1400 CE: Sự phát triển của chữ viết.
+ Thời đại của các phương tiện truyền thông và máy phát sóng.
1450: Công việc in ấn được hình thành.
1750-???: Cách mạng công nghiệp nổ ra.
1800: Máy in dùng năng lượng hơi nước xuất hiện.
1930: Đài phát thanh ra đời.
1955-1960: Xuất hiện vô tuyến truyền hình.
1980-1990: Sự phổ biến rộng rãi của các máy tính cá nhân và các trạm phát sóng.
1994-1999: Web mô phỏng Thế giới rộng lớn.
+ Thời đại chúng ta.
1999-2005: Web có mặt ở khắp mọi nơi. (Trích theo bài Sự phát triển của nhân loại trong quan hệ với tri thức – tạp chí triết học số ra ngày 28 tháng 9 năm 2004).
Lịch sử văn minh của loài người cũng xưa cổ như chính lịch sử loài người. Nhờ có quá trình lĩnh hội, tích lũy, sử dụng và truyền thụ tri thức đã làm cho con người vượt lên trên muôn loài, đứng ở đỉnh cao của bậc thang tiến hóa, đồng thời tạo ra cơ chế di truyền mới: di truyền xã hội giúp con người vượt khỏi giới hạn tuổi trời cho tạo đà cho những thế hệ tiếp theo, trở thành một nhân loại vĩnh viễn sinh tồn. Nhà triết học nổi tiếng người Anh đã nói rằng: “Giả dụ nhân loại bị một tai nạn khủng khiếp nào đó, toàn bộ khoa học kỹ thuật của hình thái vật chất đều bị tiêu hủy sạch, chỉ còn lại hệ thống tri thức của hình thái tinh thần như thư viện chẳng hạn, với khả năng học tập của con người thì sau một quá trình phấn đấu gian khổ con người lại vẫn có thể tái tạo văn minh, tiếp tục tiến lên ở một trình độ khá cao” (Trích theo Hành trang thời đại kinh tế tri thức – Nhà xuất bản giao thông vận tải). Những tiến độ nhanh chóng dồn dập của công nghệ thông tin và truyền thông đã thúc đẩy mạnh mẽ quá trình đưa hoạt động tri thức về gần với cuộc sống hàng ngày. Ngày nay, chúng ta càng ngày càng thấy rõ rằng trong cuộc sống thường nhật, trong việc quản lý, kinh doanh, làm ăn hàng ngày chúng ta cũng rất cần có thêm những tri thức, có thể có ý nghĩa phổ biến hẹp hơn, có mức độ chính xác thấp hơn, có đời sống ngắn hơn... nhưng lại đáp ứng trực tiếp hơn các yêu cầu giải quyết công việc của con người.
Hoạt động nhận thức của con người bao gồm việc tìm kiềm tri thức để tăng cường hiểu biết về tự nhiên, xã hội và cuộc sống, đồng thời sử dụng các tri thức có được để tạo nên các kỹ thuật, công nghệ và giải pháp nhằm không ngừng cải thiện cuộc sống của mình. Trải qua nhiều thế kỷ tích luỹ, và ngày nay có thêm sự trợ giúp đắc lực của công nghệ thông tin, chúng ta đã có khả năng sử dụng rộng rãi tri thức trong các hoạt động kinh tế, xã hội. Và dĩ nhiên, con người không chỉ thụ động sử dụng những tri thức đã tìm kiếm được, mà càng ngày càng chủ động tìm kiếm, thu thập thêm nhiều tri thức cho hoạt động của mình. Điều đó đã đặt ra những yêu cầu mới đối với con người trong thời đại mới, thời đại của nền kinh tế tri thức, với bối cảnh toàn cầu hóa tạo ra môi trường kinh tế xã hội thường xuyên biến đổi, liên tục thay đổi.
Tri thức, có thể nói, là bộ phận quan trọng nhất của văn hoá. Tri thức bao trùm nhiều lĩnh vực: lao động sản xuất (công, nông nghiệp), chính trị, giáo dục, văn học, nghệ thuật, y tế, xây dựng, luật pháp, giao thông, giao tiếp, chinh phục thiên nhiên, chiến đấu bảo vệ Tổ quốc... Đó là những hiểu biết khoa học, những kinh nghiệm và sự khôn ngoan mà con người tích lũy được trong quá trình lao động sản xuất, đấu tranh và thích ứng với thiên nhiên cũng như với xã hội nhằm duy trì và phát triển cuộc sống của mỗi cá nhân và của cả cộng đồng người trong quá trình lịch sử. Trong thời đại ngày nay, tri thức còn quan trọng hơn bao giờ hết. Nó đang dần dần trở thành lực lượng lao động trực tiếp quan trọng nhất. Điều đó dẫn đến những thay đổi lớn lao không chỉ trong quản lý và sản xuất kinh doanh, mà còn làm đảo lộn cuộc sống con người, thay đổi các quan niệm, các thói quen, các thước đo giá trị. Báo chí đang nói rất nhiều về một nền kinh tế tri thức, nhưng như vậy chưa đủ. Ngày nay, đã đến lúc phải nói đến một xã hội tri thức, trong đó tri thức sẽ quyết định các thước đo giá trị không chỉ của mỗi cá nhân mà còn của cả một dân tộc. Tất nhiên, tri thức chỉ có thể trở thành một bộ phận của văn hoá nếu như nó định hướng và được định hướng cho các ứng xử của con người và cộng đồng người. Tri thức từ các qui luật phổ biến có thể cho ta các định hướng vĩ mô, nhưng không phải lúc nào cũng có thể giúp ta lấy những quyết định cụ thể hàng ngày. Mà cuộc sống “vi mô” cụ thể không còn là thuận lợi cho cơ quan, doanh nghiệp phải có khả năng thường xuyên tự tổ chức và tổ chức lại. Và cơ sở quan trọng cho những khả năng đó là một tiềm lực tri thức phong phú, và một năng lực xử lý tri thức nhạy bén, linh hoạt. Đẩy mạnh việc ứng dụng có hiều quả những thành tựu to lớn của công nghệ thông tin hiện đại, và phát huy mọi năng lực trí tuệ hướng tới sáng tạo và đổi mới của con người là hai nhân tố chủ chốt tạo nên năng lực cần thiết cho đất nước đi tới nền kinh tế tri thức và xã hội tri thức trong tương lai. Toàn bộ tri thức đều có mục tiêu là quay trở lại thực tiễn và tích cực tác động đến sự phát triển của thực tiễn. Nhiệm vụ của con người không những phải nhận thức mà còn phải biết sử dụng tri thức và tri thức khoa học coi đó là kim chỉ nam cho hành động nhằm cải tạo thế giới đáp ứng toàn diện nhu cầu vật chất của cuộc sống con người. Điều đó đòi hỏi con người với tư cách là con người khao khát tri thức cần ra sức phấn đấu trở thành người khai sáng tri thức mới, biết cách làm cho những tri thức trước kia có được nội dung và hình thức mới. Con người dám gạt bỏ những tri thức đã lỗi thời, tiếp thu có phê phán những tri thức đã có, tìm mọi cách tiếp cận những tri thức mới. Để làm được điều này con người phải biết học tập không ngừng nghỉ, học tập suốt đời.
1.3 Tri thức và tri thức khoa học trong kinh tế.
Tri thức với hệ thống “tri thức lớn” lấy khoa học kỹ thuật và văn hóa làm chủ thể, đã giữ vai trò chủ đạo trong quá trình phát triển của nền văn minh xã hội loài người. Trong khoảng 50 năm trở lại đây, những phát minh khoa học kỹ thuật và những tri thức về văn hóa tư tưởng do loài người sáng tạo ra còn nhiều hơn những kết quả mà loài người đã đạt được trong khoảng 3000 năm trở về trước. Lượng tri thức tăng như vũ bão. Cuộc cách mạng công nghiệp và nền văn minh công nghiệp 200 năm trước đã làm sức sản xuất tăng 100 lần, vậy mà vi điện tử, kỹ thuật, vi tuần hoàn, vi mạch chỉ trong vòng 200 năm trở lại đây đã làm cho sức sản xuất tăng 1 triệu lần. Trong sự tăng trưởng nhanh tổng sản phẩm quốc dân toàn cầu, thành phần tri thức tăng 5% đầu thế kỷ XX lên 80-90% đầu thế kỷ XXI, và tri thức trở thành nguồn của cải chính của xã hội và là động lực chủ yếu của văn minh. Do sức sản xuất của tri thức ở thế kỷ XX phát triển cực mau lẹ, tổng sản phẩm quốc dân toàn cầu tăng 19 lần. Tri thức đã biến không thành có, tạo nên sự tiến bộ của xã hội loài người.Ngay từ thế kỷ XVI, nhà triết học nổi tiếng người Anh: F.Bacon đã đề xuất: “tri thức là sức mạnh”. Đến cuối thời kỳ kinh tế nông nghiệp, Bacon đã gắn liền tri thức với yếu tố đầu tiên của nền kinh tế nông nghiệp và sức lao động, qua đó ông xây dựng vai trò của tri thức trong nền kinh tế nông nghiệp. Rồi 200 năm sau đó, vào cuối thế kỷ XVIII, Adam Smith, người đặt nền móng mới cho nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, trong tác phẩm tiến bộ của mình “nghiên cứu về tính chất và tài phú quốc dân – 1776” ( theo Hành trang thời đại kinh tế thị trường- Nhà xuất bản Giao thông vận tải) Adam Smith đã gắn liền tri thức với yếu tố đầu tiên của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Năm 1881, Taylor cha đẻ của quản lý học, lần đầu tiên vận dụng tri thức trong phân tích kinh tế và thiết kế lao động, sáng lập ra “hệ thống Taylor” nổi tiếng, vận dụng tri thức vào phân tích và tổ chức lao động chân tay, thông qua đào tạo làm cho công nhân làm việc kiểu máy móc một cách khoa học. Thành công của Nhật, Hàn và châu Á sau chiến tranh thế giới thứ II là do cách đào tạo như thế. Lịch sử tiến sâu vào nửa sau thế kỷ XX, bản thân tri thức thực sự được xem là tài nguyên cá nhân, tài nguyên kinh tế chủ chốt. Tri thức là nguồn tài nguyên có ý nghĩa sâu xa duy nhất. Chỉ cần có tri thức là có thể vận dụng tri thức để thu được những yếu tố sản xuất đã bị liệt vào hàng thư hai như đất, sức lao động, nguồn vốn… Như vậy, tri thức không chỉ là sức mạnh, không chỉ là tư bản mà còn là yếu tố sản xuất đầu tiên, vượt lên trên sức lao động và tư bản. Chúng ta đang dần thoát ly khỏi thời đại văn minh công nghiệp tiến vào thời đại của văn minh kinh tế tri thức. Vậy kinh tế tri thức là gì? Có nhiều định nghĩa khác nhau, nhưng dễ chấp nhận nhất hiện nay là định nghĩa của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế đưa ra năm 1995: kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất luợng cuộc sống (trích theo Giáo trình kinh tế chính trị Mác- Lênin, nhà xuất bản Chính trị quốc gia, trang 290). Trong nền kinh tế tri thức, những ngành dựa vào tri thức, dựa vào những thành tựu mới nhất của khoa học, công nghệ có tác động to lớn ví dụ: công nghệ thông tin, công nghệ sinh học …nhưng cũng có thể là những ngành kinh tế truyền thống như nông nghiệp, công nghiệp được ứng dụng khoa học công nghệ cao. Từ chỗ chiếm một tỷ trọng rất không đáng kể ớ các thời kỳ tiền cách mạng công nghiệp, ngày nay, ở các nước phát triển, đối với một số loại sản phẩm có hàm lượng trí tuệ cao, hàm lượng giá trị do trí tuệ tạo ra và được kết tinh trong sản phẩm có thể đạt tới 80 - 90% tổng giá trị sản phẩm. Đối với các loại sản phẩm đó, nguyên vật liệu, năng lượng, lao động cơ bắp chỉ tạo thành từ 10% - 20% giá trị sản phẩm. Trong nền kinh tế tri thức, tri thức trở thành nhân tố sản xuất quan trọng hàng đầu trong lực lượng sản xuất, quyết định lợi thế so sánh của một nước. Nếu doanh nghiệp nào nắm được quyền sở hữu trí tuệ, ứng dụng công nghệ mới, tạo ra sản phẩm mới sẽ thu được tỷ suất lợi nhuận cao hơn mức trung bình. Thí dụ: Nhờ luôn tạo ra các bộ vi xử lý trước một thế hệ, lợi nhuận của hãng Intel trong nhiều năm là 23% doanh thu. Cũng với cách thay đổi luôn như vậy lợi nhuận của hãng Microsoft đạt 24% doanh thu vào năm 1994. Mức đóng góp của tri thức và kỹ thuật đối với tăng trưởng kinh tế ngày càng lớn. Do vai trò và vị trí ngày càng lớn của tri thức trong nền kinh tế, do thông tin và tri thức ngày càng trở thành nguồn lực phát triển kinh tế chủ yếu, nên cơ cấu đầu tư để phát triển lực lượng sản xuất có những thay đổi rất lớn. Ở Hoa Kỳ, mỗi năm số tiền chi vào việc sản xuất tri thức và các hoạt động liên quan khác chiếm khoảng 20% GDP, trong đó, chi phí cho giáo đục chiếm 10% GDP. Ngày càng có nhiều giá trị gia tăng kinh tế do trí tuệ tạo ra. Trên thế giới, ở các nước thuộc tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế các ngành kinh tế tri thức đã đóng góp trên 50% GDP( Mỹ: 55,3%, Nhật Bản: 53%...). Như vậy, việc ứng dụng tri thức và tri thức khoa học vào trong phát triển kinh tế, xã hội tạo nên một nền kinh tế tri thức mà sản phẩm được sản xuất dựa trên thành tựu mới của khoa học công nghệ, dựa trên những tri thức mà con người đã đạt đuợc ngày càng phong phú, đáp ứng tốt hơn những yêu cầu về vật chất cũng như tinh thần của con người, làm cho đời sống của xã hội loài người biến chuyển sâu sắc. Nhưng bên cạnh đó, tri thức và tri thức khoa học cũng có những tác động tiêu cực đến nền kinh tế mà biểu hiện cụ thế là những mặt trái của nền kinh tế tri thức gắn liền với vấn đề toàn cầu hóa kinh tế: Khoảng cách giữa nước nghèo nhất và nước giàu nhất về thu nhập, tuổi thọ, giáo dục và chất lượng cuộc sống đã ngày một rộng hơn trong quá trình phát triển của nền kinh tế tri thức. 20% dân số thế giới hiện đang sống ở những nước có thu nhập cao nhất (hưởng 86% GDP, 82% thị trường xuất khẩu hàng hoá và địch vụ, 68% đầu tư từ nước ngoài trực tiếp, 93,3% mạng lưới viễn thông toàn cầu). Trong khi đó, 20% dân số là những người nghèo khó của thế giới chỉ được hưởng chưa đầy 1% thành quả trên. Riêng về thu nhập, khoảng cách giữa 1/5 số người giàu nhất và 1/5 số người nghèo nhất tăng từ 30 lần (thập niên 60) lên 74 lần (thập niên 60). Từ thực tiễn ấy vấn đề đặt ra đối với mỗi quốc gia là phải có những chính sách và biện pháp phù hợp để phát huy tối đa vai trò, vị trí của tri thức và tri thức khoa học trong kinh tế và trong đời sống xã hội, đồng thời khắc phục những mặt hạn chế còn tồn tại.
2. Vận dụng tri thức và tri thức khoa học trong quá trình phát triển kinh tế theo mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam.
Khái niệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng( 1/1994), vấn đề công nghiệp hóa gắn kết với hiện đại hóa chính thức được nêu ra.Vậy công nghiệp hóa, hiện đại hóa là gì? Tại Hội nghị Ban chấp hành Trung uơng lần thứ VII Đảng Cộng Sản Việt Nam đã xác định: công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học – công nghệ nhằm tạo ra năng suất lao động xã hội cao (trích theo Giáo trình Kinh tế chính trị Mác – Lênin – Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, trang 282).
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 (7/1994) đã cụ thể hóa bước đầu ý tưởng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đi đến hình thành đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước với mục tiêu và các chủ trương phát triển cùng các chính sách và biện pháp thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đại hội VIII (1996) đã khẳng định những yếu tố cơ bản về đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Việt Nam dựa trên chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần, theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và đưa ra mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đại hội IX (2001) đã bổ sung, hoàn thiện nhiều quan điểm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hoàn chỉnh đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hình thành phát triển kinh tế - xã hội 10 năm đến 2010, trong đó bao hàm phần chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa giai đoạn 2001- 2010; đề ra nhiệm vụ “tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Các quan điểm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã được thông qua có ý nghĩa quan trọng cho công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế.
Tính tất yếu khách quan của công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, từ một nền kinh tế sản xuất nhỏ nên nước ta phải tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội là tất yếu khách quan. Cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội cần phải xây dựng trên những cơ sở của khoa học công nghệ tiên tiến nhất, có như vậy mới tạo ra năng suất lao động xã hội cao. Do đó công nghiệp hóa là tất yếu khách quan đối với các nước đi từ nền kinh tế sản xuất nhỏ lên xây dựng nền kinh tế sản xuất lớn trong đó có nước ta.
Thực chất, mục tiêu chủ yếu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta.
Trong bối cảnh lịch sử cụ thể ở nước ta hiện nay, công nghiệp hóa, hiện đại hóa về thực chất là: “quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính, sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển công nghiệp và tiến bộ khoa học – công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao” ( trích theo: Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy ban chấp hành Trung ương khóa VII, Hà Nội 1994).
Mục tiêu tổng quát của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta được Đảng Cộng sản Việt Nam xác định tại Đại hội lần thứ VIII và tiếp tục khẳng định tại Đại hội lần thứ IX và lần thứ X là: “sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển… Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức, tạo nền tảng để đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020”.( trích theo Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006).
Những thuận lợi và khó khăn trong quá trình thực hiện.
Thuận lợi:
Thứ nhất: quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam được tiến hành muộn.
Thứ hai: trong quá trình tiến hành, Việt Nam có thể tranh thủ cơ hội đi tắt, đón đầu bằng việc nhập các thiết bị, kỹ thuật tiên tiến để đổi mới các thiết bị, kỹ thuật đã lạc hậu.
Thứ ba: Việt Nam có môi trường hòa bình với xu hướng hòa hoãn và hợp tác quốc tế.
Thứ tư: Việt Nam tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, có chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường. Nhân dân Việt Nam có những phẩm chất tốt đẹp…
Như vậy,Việt Nam đang đứng trước những thời cơ thuận lợi giúp Việt Nam có thể đi tắt đón đầu giúp đẩy nhanh tiến trình, và chúng ta có thể khẳng định: “con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt”( trích theo: Văn kiện Đại hội đại bỉểu toàn quốc lần thứ IX, nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001).
Khó khăn:
Thứ nhất: Chúng ta bắt tay vào quá trình thực hiện với điểm xuất phát thấp.
Thứ hai: Chúng ta tiến hành quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện thế giới đang phải đối mặt với tình trạng nguồn lực tự nhiên thiếu hụt và môi trường sống đang bị hủy hoại nghiêm trọng bởi chính bàn tay con người.
Thư ba: Chúng ta bắt đầu quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong khi sự chuyển biến từ xã hội truyền thống sang xã hội hiện đại trong một thời gian ngắn, trong tình hình thiếu hụt sự tích lũy của nhân tố hiện đại.
Thứ tư: Chúng ta tiến hành công nghiệp hóa muộn gặp phải sự thiếu đồng bộ.
Thứ năm: Sự không thành công của sự nghiệp công nghiệp hóa trong những năm trước đổi mới
2.2.4 Nội dung cơ bản của quá trình thực hiện.
Phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, trên cở sở thực hiện cơ khí hóa nền sản xuất xã hội và áp dụng thành tựu khoa học công nghệ hiện đại.
Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý và hiện đại.
Xây dựng hệ thống quan hệ sản xuất mới định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Vận dụng tri thức và tri thức khoa học trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam.
Vận dụng trong lý luận.
Sự phát triển của tri thức ảnh hưởng tới tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội loài người đặc biệt là trên lĩnh vực kinh tế, đã tạo ra nền kinh tế tri thức. Đặt ra nhiệm vụ cho Đảng và Chính phủ Việt Nam phải làm gì để thực hiện nhiệm vụ chiến lược là thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trước hết Đảng và nhà nước cần xây dựng một cơ sở lý luận vững chắc làm định hướng cho hoạt động.
Thứ nhất, cần nhận thức vai trò của tri thức và tri thức khoa học trong tiến trình công nghiệp hóa hiện đại hóa nền kinh tế. Và trong nền kinh tế tri thức, nguồn nhân lực được xem là yếu tố cạnh tranh cơ bản. Trong xây dựng các chính sách quan tâm tới con người, tiêu chuẩn đánh giá con người. Tiêu chuẩn đánh giá con người trong nền kinh tế tri thức chính là tinh thần hiếu học, năng lực học tập, giáo dục. Ngày nay, trong việc tuyển dụng nhân viên không phải chỉ chú trọng vào bằng cấp chuyên môn, kinh nghiệm quản lý tài vụ mà đòi hỏi năng lực của bạn trong lĩnh vực nào đó bởi bạn phải kiên trì học tập, dùi mài không biết mệt mới có được năng lực chuyên môn ấy. Trong quá trình tìm kiếm nguồn nhân lực để tiến hành công nghiệp hóa các nhà tuyển dụng không đi tìm câu trả lời cho câu hỏi: “bạn học được cái gì” mà họ muốn biết: “bạn có thể làm được việc gì”. Đây chính là yêu cầu đặt ra đối với nghành giáo dục đào tạo, với quá trình đào tạo học sinh sinh viên trong các trường phổ thông, đại học và quá trình đào tạo sau đại học. Vai trò của Chính phủ là có chính sách để các doanh nghiệp của mọi thành phần kinh tế, cộng đồng, giáo dục và khoa học công nghệ cũng như toàn bộ dân cư phải tích cực học tập để vươn lên ngang tầm với đòi hỏi của quá trình công nghiệp hoa.
Thứ hai, trong quá trình tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa yếu tố quan trọng là phát minh ra các sản phẩm dựa trên công nghệ mới và tri thức nhằm sản xuất hàng lọat với chi phí thấp. Do đó nhà nước cần đầu tư vào các lĩnh vực nghiên cứu khoa học đặc biệt khoa học, công nghệ cao. Phát triển khoa học tự nhiên theo hướng tập trung nghiên cứu cơ bản định hướng ứng dụng. Phát triển kết cấu hạ tầng. Có chọn lọc trong việc nhập khẩu công nghệ kết hợp công nghệ trong nước tạo lợi thế cạnh tranh. Mở rộng hợp tác khoa học công nghệ với các nước và tổ chức trên thế giới. Muốn làm được những việc ấy đòi hỏi Đảng và nhà nước đề ra chính sách quản lý đồng bộ, chính sách hợp lý phù hợp với nhu cầu của thực tiễn quá trình công nghiệp hóa đặt ra.
Vận dụng trong thực tiễn hành động
Trong giáo dục đào tạo, và phát triển nguồn nhân lực.
Thông qua việc cải tiến hệ thống thông tin về lao động và thông qua các chính sách, các quy định của Nhà nước, đã điều chỉnh cơ cấu đào tạo một cách hợp lý, đạt tới sự cân đối giữa đào tạo và sử dụng ở các trình độ và các ngành nghề khác nhau, đặc biệt bảo đảm được nhân lực cho các ngành mũi nhọn và các chương trình kinh tế - xã hội trọng điểm; tăng nhanh tỉ trọng đào tạo ngành nghề dưới bậc đại học. Kiện toàn, phát triển mạnh và bảo đảm chất lượng các cở sở đào tạo nghề, kể cả các cơ sở dân lập, tư nhân, các doanh nghiệp đi đôi với tăng cường quản lý Nhà nước. Mở rộng quy mô một cách hợp lý và nâng cao chất lượng đào tạo đại học, kết hợp đào tạo mới và đào tạo lại, phát triển giáo dục - đào tạo đỉnh cao nhằm lựa chọn, xây dựng đội ngũ chuyên gia khoa học, công nghệ, văn hoá và những nhà kinh doanh giỏi, đội ngũ công chức và cán bộ lãnh đạo quản lý kinh tế - xã hội có năng lực. Phát triển các đại học và cao đẳng địa phương để đáp ứng nhu cầu học tập và phát huy nguồn nhân lưc tại chỗ. Cụ thể hoá và thể chế hoá chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về xã hội hoá sự nghiệp giáo dục đào tạo.
Trong khoa học, kỹ thuật
Khoa học, kỹ thuật là một động lực thúc đẩy phát triển kinh tế và xã hội. Trong những năm qua chúng ta đã vận dụng khoa học xã hội, khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật trong việc nghiên cứu chiến lược phát triển kinh tế, xã hội, trong việc xác định các chủ trương, chính sách, trong tổ chức quản lý kinh tế và xã hội.
Phát triển các công nghệ cao, xây dựng được cơ sở hạ tầng truyền thông tin học quốc gia. ứng dụng công nghệ thông tin trong tất cả các lĩnh vực kinh tế quốc dân, hình thành mạng thông tin quốc gia, liên kết với một số mạng thông tin quốc tế. Phát triển công nghệ sinh học nhằm tạo ra và nhân nhanh các giống cây trồng, vật nuôi mới; chế biến nông, lâm, thuỷ sản; sản xuất các loại vắc xin và kháng huyết thanh, các chế phẩm chuẩn đoán bệnh nhanh và chính xác; phát triển các công nghệ xử lý ô nhiễm môi trường. Phát triển công nghệ vật liệu, nghiên cứu chế tạo một số vật liệu mới có hiệu quả cao, phát triển các loại vật liệu có độ bền lớn và chịu đựơc điều kiện khí hậu nhiệt đới khắc nghiệt. Phát triển kỹ thuật tự động hoá đồng bộ ở một số nhà máy then chốt, ứng dụng công nghệ tự động hoá ở các khâu quyết định đến chất lượng sản phẩm. Xây dựng các khu công nghệ cao tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.
Phát triển khoa học xã hội và nhân văn, nắm vững những luận điểm cơ bản của học thuyết Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, nghiên cứu những vấn đề lý luận của công cuộc đổi mới và phát triển trong thời kỳ mới, làm rõ vấn đề Nhà nước pháp quyền trong điều kiện Đảng cầm quyền, nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng trong thời kỳ mới; xây dựng các phương án cho tiến trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đaị hoá; xác định hệ thống chính sách xã hội trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Phát triển các ngành khoa học tự nhiên, nghiên cứu một số vấn đề cơ bản có triển vọng của khoa học hiện tại và tương lai, nhằm tiếp cận được với trình độ thế giới trong các lĩnh vực về toán học, điều khiển học và khoa học tính toán, về vật lý học, cơ học, hoá học, sinh học và các khoa học về trái đất.
Xây dựng và ban hành Luật khoa học và công nghệ, tạo lập thị trường cho hoạt động khoa học và công nghệ; các doanh nghiệp coi trọng phát triển khoa học và công nghệ, dựa vào khoa học, công nghệ để phát triển sản xuất có hiệu quả. Nhà nước khuyến khích ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật thông qua các biện pháp ưu đãi về thuế, tín dụng, xuất nhập khẩu... Hỗ trợ cho các thành phần kinh tế có nhu cầu nghiên cứu khoa học và sáng tạo công nghệ, gắn nghiên cứu khoa học với giáo dục, đào tạo.
Trong các ng._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35888.doc