Mục lục
Phần I: Lời mở đầu. ------------------------------------------------------------trang 3
Phần II: Nội dung.---------------------------------------------------------------------5
Chương 1: Một số lý luận về tích luỹ tư bản.
1.1 Thế nào là tích luỹ.
1.1.1 Các khái niệm có liên quan.---------------------------------------------------5
1.1.2 Thực chất của tích luỹ tư bản.-------------------------------------------------6
1.1.3 Động cơ của tích luỹ tư bản.------------------------------
32 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1576 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Vai trò của tích luỹ tư bản trong quá trình hình thành và phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
---------------------8
1.1.4 Các nhân tố ảnh hưởng tới quy mô của tích luỹ tư bản.------------------10
1.2 Các quy luật của tích lũy tư bản.
1.2.1 Sự giảm bớt tương đối bộ phận tư bản khả biến trong tiến
trình tích luỹvà tích tụ đi kèm theo tiến trình đó --------------------------------12
1.2.2 Việc sản xuất ngày càng nhiều nhân khẩu thừa tương đối.--------------14
1.2.3 Lượng cầu về sức lao động tăng cùng với tích luỹ tư bản
trong điều kiện kết cấu của tư bản không đổi.-----------------------------------15
Chương 2: Vai trò của tích luỹ tư bản trong quá trình hình thành và phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa.
2.1 Tích luỹ nguyên thuỷ tư bản.
2.1.1 Tích luỹ ban đầu điểm xuất phát của phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa.---------------------------------------------------------------17
2.1.2 Nội dung, đặc điểm của thời kì tích luỹ nguyên thuỷ.--------------------19
2.2. Tích luỹ tư bản trong thời kì chủ nghĩa tư bản hiện đại.
2.2.1 Thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.-------------------------------------23
2.2.2 Xã hội hoá nền sản xuất ngày càng cao.------------------------------------24
2.2.3 Xu hướng lịch sử của tích luỹ tư bản.----------------------------------------25
Chương 3: ý nghĩa của việc nghiên cứu tích luỹ tư bản.
3.1 ý nghĩa về mặt lí luận.------------------------------------------------------27
3.2 ý nghĩa thực tiễn của tích luỹ đối với phát triển kinh tế ở nước ta.---28
Phần III: Kết luận.----------------------------------------------------------------30
phần I:
Lời mở đầu
Nhìn lại các năm đã qua và gần đây nhất của Việt Nam là năm 2001. So với trước đổi mới chúng ta đã thu được một số thành tựu nhưng so với thế thì chúng ta thấy được gì. Đó là nguy cơ tụt hậu ngày càng xa hơn về kinh tế. Đây cũng là thách thức đặt ra trước mắt nước ta và yêu cầu phải giải quyết về lâu dài. Nước ta là nước có bình quân thu nhập thuộc vào hàng thấp của thế giới. Câu hỏi đặt ra bây giờ không còn là "tại sao chúng ta nghèo" mà là "làm thế nào để nước ta thoát khỏi tình trạng kém phát triển này".
Để trả lời câu hỏi này chúng ta đi nghiên cứu các yếu tố dẫn tới thàng công về kinh tế của các quốc gia trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Có nhà kinh tế học đã nói 3 yếu tố quyết định thành công của mỗi doanh nghiệp mỗi tổng công ty hay trên hết là của mỗi quốc gia là các yếu tố sau: con người,vốn hay tư bản,thời cơ. Thiếu một trong 3 yếu tố này thì không thể dẫn tới thành công được. Ví dụ như nếu con người tài giỏi, thời cơ tốt nhưng thiếu tiền để đầu tư cơ sở hạ tầng, để tiến hành sản xuất thì con người đó sẽ cũng không làm được gì và cơ hội tốt sẽ bị bỏ qua. Việt Nam chúng ta đang rơi vào tình trạng này. Việc thiếu vốn đẩu tư do nhiều lí do khiến cho đất nước ta cứ luần quẩn mãi trong vòng nghèo đói. Một trong những lí do đó là do chính sách của chúng ta còn nhiều bất cập thủ tục rườm rà. Salmýon cho rằng cần phải có cú huých từ bên ngoài vào để phá vỡ vòng luẩn quẩn này nhưng điều quan trọng trên hết phải biết phát huy các nguồn nội lực của nền kinh tế. Cụ thể là chúng ta phải biết phát huy và tận dụng vốn trong nước sao cho chúng không ngừng phát triển. Vấn đề này ta tạm gọi là tính luỹ vốn hay ở các nước TBCN gọi là tĩnh luỹ tư bản. Để hiểu dược tích luỹ vốn trước hết chúng ta cần hiểu tích luỹ tư bản, nó làm sáng tỏ bản chất của vấn đề nghiên cứu qua đó đưa lại những giải pháp và biện pháp cho tình trạng vốn của nước ta hiện nay.
Qúa trình ra đời và lớn mạnh của CNTB gắn liền với các quá trình tích luỹ tư bản, từ tích luỹ tư bản nguyên thuỷ cho tới ngày nay. Tích luỹ tư bản có vai trò to lớn trong quá trình phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa. ở đề án lần này em xin phép đi nghiên cứu một số mặt của tích luỹ tư bản qua đó thấy được vai trò của nó trong quá trình phát triển kinh tế của CNTB và rút ra được ý nghĩa về mặt lí luận cũng như ý nghĩa về mặt thực tiễn của vấn đề nghiên cứu để có thể áp dụng vào Việt Nam. Bài viết lần đầu còn nhiều thiếu sót em mong thầy giáo giúp đỡ em để vấn đề nghiên cứu này được sáng tỏ hơn. Em mong qua đề án lần này sẽ trang bị cho em thêm những kiến thức về kinh tế chính trị xã hội. Em xin thành cảm ơn thầy đã giúp em hoàn thành đề án lần này.
Phần II:
Nội Dung
Chương 1 : mộT Số Lí LUậN Về TíCH Luỹ TƯ BảN
1.1 Thế nào là tích luỹ tư bản
1.1.1Các khái niệm có liên quan
1.1.1.1 Khái niện tư bản
Các nhà kinh tế học thường nói rằng, mọi công cụ lao đông, mọi tư liệu sản xuất đều là tư bản. Định nghĩa như vậy nhằm mục đích che dấu thực chất việc nhà tư bản bóc lột công nhân làm thuê, tư bản tồn tại vĩnh viễn, không thay đổi của hết thảy mọi hình thái xã hội.
Thực ra bản thân tư liệu sản xuất không phải là tư bản, nó chỉ là điều kiện cần thiết của sản xuất trong bất cứ xã hội nào. Tư liệu sản xuất chỉ trở thành tư bản khi nó trở thành tài sản của nhà tư bản, và được dùng để bóc lột lao dộng làm thuê. Khi chế độ tư bản bị xoá bỏ thì tư liệu sản xuất không còn là tư bản nữa. Như vậy, tư bản không phải là một quan hệ sản xuất xã hội nhất định giữa người và người trong quá trình sản xuất, nó có tính lịch sử.
Qua nghiên cứu quá trình sản xuất giá trị thặng dư ta có thể định nghĩa: "Tư bản là giá trị đem lại giá trị thặng dư bằng cách bóc lột công nhân làm thuê". Tư bản thể hiện quan hệ sản xuất giữa giai cấp tư sản và vô sản trong đó các nhà tư bản là người sở hữu tư liệu sản xuất và bóc lột công nhân làm thuê -người tạo ra giá trị thặng dư cho họ. Quan hệ sản xuất này cũng giống các quan hệ sản xuất khác của xã hội tư bản đã bị vật hoá.
1.1.1.2 Khái niệm tích luỹ tư bản
Tích luỹ tư bản là biến một phần giá trị thặng dư thành tư bản phụ thêm (tư bản mới).
Muốn mở rộng sản xuất nhà tư bản không thể tiêu dùng hết giá trị thặng dư mà chia thành 2 phần :một phần tích luỹ để mở rộng sản xuất, một phần để tiêu dùng cá nhân và gia đình nhà tư bản.
Ta sẽ làm sáng tỏ hơn về khái niệm tích luỹ sau khi đi nghiên cứu các vấn đề sau.
1.1.2 Thực chất của tĩch luỹ tư bản
1.1.2.1 Tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng
Dù hình thái xã hội của quá trình sản xuất là như thế nào đi nữa, thì bao giờ đó cũng phải có tính chất liên tục hay cứ từng chu kì một, phải không ngừng trải qua cũng những giai đoạn ấy. Xã hội không thể ngừng tiêu dùng, thì xã hội cũng không thể ngừng sản xuất. Vì vậy xét trong mối liên hệkhông ngừng và trong tiến trình không ngừng của nó, mọi quá trình sản xuất xã hội đồng thời cũng là quá trình tái sản xuất.
Nhưng điều kiện của sản xuất đồng thời cũng là những điều kiện của tái sản xuất. Không một xã hội nào có thể sản xuất không ngừng tức là tái sản xuất, mà lại không liên tục chuyển hoá lại một phần sản phẩm nhát đinh của nó thành tư liệu sản xuất, hay thành những yếu tố của quá trình sản xuất mới. Nếu sản xuất mang hình thái TBCN thì tái sản xuất cũng mang hình thái đó. Qúa trình lao động trong phương thức sản xuất TBCN chỉ là một phương tiện cho quá trình tăng thêm giá trị, thì tái sản xuất cũng vậy nó cũng chỉ là một phương tiện để tái sản ra giá trị ứng trước với tư cách là tư bản , tức là với tư cách là giá trị tự tăng thêm giá trị. Một người nào đó sở dĩ mang cái mặt lạ kinh tế đặc trưng của nhà tư bản thì đó chỉ là vì tiền của anh ta không ngừng hoạt động với tư cách là tư bản. Và giá trị thặng dư anh ta thu đuợc mang hình thức một thu nhập do tư bản đẻ ra. Nếu như thu nhập đó chỉ được dùng làm quĩ tiêu dùng cho nhà tư bản, hay nếu như nó cũng được tiêu dùng theo từng chu kì giống như người ta đã kiếm được nó thì trong những điều kiện khác không thay đổi, sẽ chỉ diến ra có tái sản xuất giản đơn thôi.
Tái sản xuất là quá trình sản xuất được lắp đi lắp lại không ngừng với qui mô năm sau lớn hơn năm trước. Muốn tái sản xuất mở rộng nhà tư bản phải mua thêm tư liệu sản xuất, thuê thêm công nhân do đó giá trị thặng dư tích luỹ được phải chia làm hai phần: Một phần để thuê thêm công nhân, một phần để mua thêm tư liệu sản xuất.
Tái sản xuất giản đơn không phải là hình thái điển hình của CNTB. Hình thức tiến hành của CNTB là tái sản xuất mở rộng. Tái sản xuất ra của cải vật chất, quan hệ sản xuất, sức lao động của con người, môi trường sống của con người.
1.1.2.2 Tích luỹ tư bản là tái sản xuất ra tư bản với quy mô ngày càng mở rộng (tư bản hóa giá trị thặng dư).
Thực chất của tích luỹ tư bản là tư bản hoá giá trị thặng dư. Xét một cách cụ thể, tích luỹ tư bản là tái sản xuất ra tư bản với quy mô ngày càng mở rộng.
ở đây chúng ta không xét giá trị thặng dư và tương ứng với nó là sản phẩm thặng dư, chỉ với tư cách là quỹ tiêu dùng cá nhân của nhà tư bản mà chúng ta xét nó với tư cách là quỹ tích luỹ. Thật ra giá trị thặng dư không phải là quỹ tiêu dùng và cũng không phải chỉ là quỹ tích luỹ, mà là cả hai. Một phần giá trị thặng dư được nhà tư bản tiêu dùng với tư cách là thu nhập còn phần khác thì được nhà tư bản dùng làm tư bản, hay được tích luỹ lại.
Muốn tích luỹ, cần phải biến một phần sản phẩm thặng dư thành tư bản. Nhưng nếu không phải là có phép lạ thì người ta chỉ có thể biến thành tư bản những vật nào dùng được vào quá trình lao động tức là những tư liệu sản xuất, và sau đó là những vật phẩm có thể nuôi sống công nhân, tức là những tư liệu sinh hoạt. Do đó, một phần lao động thặng dư hàng năm phải dùng để sản xuất thêm một số tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt ngoài số cần thiết để hoàn lại tư bản đã ứng ra. Nói tóm lại, sở dĩ giá trị thặng dư có thể biến thành tư bản là chỉ vì sản phẩm thặng dư - mà giá trị của nó là giá trị thặng dư-đã bao gồm các yếu tố vật thể của một tư bản mới rồi.
Nghiên cứu tích luỹ và tái sản xuất mở rộng tư bản ta có thể rút ra hai kết luận vạnh rõ hơn bản chất của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa:
+Nguồn gốc duy nhất của tư bản tích luỹ là giá trị thặng dư và tư bản tích luỹ chiếm một tỷ lệ ngày càng lớn trong toàn bộ tư bản. C.MAC nói rằng: tư bản ứng trước chỉ là giọt nước trong dòng sông tích luỹ mà thôi
+Qúa trình tích luỹ đã làm cho quyền sở hữu trong nền sản xuất hàng hoá biến thành quyền chiếm đoạt tư bản chủ nghĩa. Việc trao đổi giữa người lao động và nhà tư bản dẫn đến kết quả là nhà tư bản chẳng những chiếm một phần lao động của người công nhân, mà còn là người sở hữu hợp pháp lao động không công đó. Như vậy đã có sự thay đổi căn bản trong quan hệ sở hữu. Nhưng sự vi phạm đó không vi phạm qui luật giá trị.
1.1.3 Động cơ của tích luỹ tư bản
1.1.3.1 Tích luỹ tư bản là quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản
Với một khối lượng giá trị thặng dư nhất định, một trong hai phần (tích luỹ, tiêu dùng ) đó càng lớn thì phần kia càng nhỏ. Nếu những điều kiện khác không thay đổi thì tỉ lệ phân chia đó quyết định đại lượng tích luỹ. Nhưng kẻ thực hiện sư phân chia đó là người sở hữu giá trị thặng dư, tức là nhà tư bản. Như vậy, nó là một hành vi phụ thuộc vào ý chí của nhà tư bản. Về cái phần của món cống vật đó do hắn thu được và được hắn đem tích tuỹ, thì người ta nói rằng nhà tư bản đã tiết kiệm phần đó, bởi vì hắn không ăn tiêu nó đi, nghĩa là hắn làm cái chức năng của hắn là nhà tư bản, cụ thể là chức năng làm giàu.
Chỉ chừng nào nhà tư bản là tư bản nhân cách hoá, thì nhà tư bản mới có một giá trị lịch sử và mới có cái quyền lịch sử được tồn tại và chỉ trong chừng mực ấy tính tất yếu nhất thời của bản thân hắn mới được bao hàm trong tính yếu nhất thời của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Nhưng trong chừng mực ấy thì động cơ của nhà tư bản không phải là giá trị sử dụng và hưởng thụ mà là giá trị trao đổi và việc làm tăng thêm giá trị trao đổi. Là một kẻ cuồng tín việc làm tăng thêm giá trị, nhà tư bản thẳng tay cưỡng bức loài người sản xuất để sản xuất, do đó hắn cưỡng bức họ phải phát triển những lực lượng sản xuất xã hội và tạo ra những điều kiện sản xuất vật chất, mà chỉ một mình những điều kiện này mới có thể hình thành cái cơ sở hiện thực của một hình thái xã hội cao hơn, một hình thái xã hội mà nguyên tắc cơ bản là mọi cá nhân đều được phát triển đầy đủ và tự do. Nhà tư bản chỉ đáng kính trọng chừng nào hắn còn là sự hiện thân của tư bản. Với tư cách này, hắn chia sẻ sự say mê tuyệt đối muốn làm giàu với kẻ tích luỹ của cải. Những cái mà người này chỉ là một thói cá nhân, thì đối với nhà tư bản nó lại là tác động của một bộ máy xã hội trong đó nhà tư bản chỉ là một chiếc bánh xe. Ngoài ra, sự phát triển của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa làm cho sự tăng thêm không ngừng cuả một số tư bản bỏ vào một xí nghiệp, công nghiệp trở thành một sự tất yếu, và cạnh tranh làm cho những quy luật bên trong của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trở thành những quy luật bên ngoài có tính chất cưỡng chế đối với mỗi nhà tư bản cá biệt. Cạnh tranh buộc nhà tư bản không ngừng mở rộng tư bản để giữ được tư bản, và hắn chỉ có thể mở rộng tư bản cuả mình bằng cách tích luỹ ngày càng nhiều hơn mà thôi.
1.1.4 Các nhân tố ảnh hưởng tới qui mô của tích luỹ tư bản
Với một khối lượng giá trị thặng dư nhất định thì qui mô của tích luỹ phụ thuộc vào tỉ lệ phân chia khối lượng giá trị thặng dư đó thành quỹ tiêu dùng của nhà tư bản. Nếu tỉ lệ phân chia đó đã có sẵn thì rõ ràng đại lượng của tư bản tích luỹ sẽ do đại lượng tuyệt đối của giá trị thặng dư quyết định. D o đó những nhân tố quyết định quy mô của tích luỹ chính là những nhân tố quyết định quy mô của gía trị thặng dư. Những nhân tố đó là :
1.1.4.1 Mức độ bóc lột sức lao động
Nâng cao mức độ bóc lột sức lao động bằng cách cắt xén vào tiền công. Khi nghiên cứu sự sản xuất ra giá trị thặng dư, C.MAC giả định rằng sư trao đỏi giữa công nhân và nhà tư bản là sự trao đổi ngang giá. Nhưng trong thực tế, công nhân bị nhà tư sản chiếm đoạt một phần lao động tất yếu, bị cắt xén một phần tiền công. Việc cắt xén tiền công giữ vai trò quan trọng trong quá trình tích luỹ tư bản.
Nâng cao mức độ bóc lột bằng cách tăng cường độ lao động và kéo dài ngày lao động. Việc tăng cường độ lao động và kéo dài ngày lao động rõ ràng làm tăng thêm giá trị thặng dư, do đó làm tăng bộ phận giá trị thặng dư được tư bản hoá tức là làm tăng tích luỹ.Anhr hưởng này còn thể hiện ở chỗ số lượng lao động tăng thêm mà nhà tư bản chiếm không do tăng cường độ lao động và kéo dài ngày lao động không đòi hỏi phải tăng thêm tư bản một cách tương ứng (không đòi hỏi phải tăng thêm số lương công nhân, tăng thêm máy móc thiết bị, mà hầu như chỉ cần tăng thêm sư hao phí nguyên liệu )
1.1.4.2 Trình độ năng suất lao động
V iệc nâng cao năng suất lao động làm tăng thêm giá trị thặng dư, do đó tăng thêm bộ phận giá trị thặng dư được tư bản hóa. Song vấn đề ở đây là tích luỹ không chỉ được quyết định bởi khối lượng giá trị thặng dư, mà còn bởi khối lượng tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng do khối lượng giá trị thặng dư có thể chuyển hoá thành. Như vậy, năng suất lao động tăng sẽ làm tăng thêm những yếu tố vật chất để biến giá trị thặng dư thành tư bản mới. Do đó làm tăng quy mô của tích luỹ.
Năng suất lao động cao thì lao động sống sử dụng được nhiều lao đọng quá khứ hơn, lao động quá khứ đó lại tái hiện dưới hình thái có ích mới, chúng làm chức năng tư bản để sản xuất ra tư bản càng nhiều, do đó mà quy mô của tư bản tích luỹ càng lớn. Như vậy, năng suất lao động là nhân tố quan trọng quyết định quy mô của tích luỹ.
1.1.4.3 Sự chênh lệch ngày càng tăng giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng
Tư bản tăng lên thì sự chênh lệch giữa tư bản được sử dụng và tư bản đã tiêu dùng cũng tăng lên. Nói một cách khác: khối lượng giá trị và khối lượng vật thể của những tư liệu lao động như nhà xưởng, máy móc, ống tiêu nước, súc vật cày kéo, các thứ khí tài cúng tăng lên; những thứ đó, trong một thời kì dài hay ngắn, những quá trình sản xuất thường xuyên lắp đi lắp lại, đều hoạt động với quy mô của chúng hay được dùng để đạt tới một hiệu quả có ích nhát định, nhưng lại chỉ hao mòn dần dần, và do đó chỉ mất giá trị từng phần một, nghĩa là chỉ chuyển giá trị ấy từng phần một vào sản phẩm mà thôi. Vì các tư liệu lao động được dùng làm những cái tạo ra sản phẩm nhưng lại không nhập thêm giá trị vào sản phẩm, nghĩa là vì chúng được sử dụng toàn bộ nhưng chỉ bị tiêu dùng từng phần thôi, cho nên như đã nhắc trên kia, các tư liệu đó phục vụ không công giống như các lực lượng thiên nhiên: nước, hơi nước, không khí, điện... nhưng sự phục vụ không công đó của lao động quá khứ, được lao động sống nắm lấy và làm sống lại, đang được tích luỹ lại cùng với quy mô ngày càng tăng của tích luỹ
Lực lượng sản xuất xã hội càng phát triển, máy móc càng hiện đại, phần giá trị của nó chuỷen vào sản phẩm trong từng thời gian càng ít, thì sự chênh lệch giữa tư bản sử dụng và tư bản bị tiêu dùng càng lớn. Do đó, tư bản lợi dụng được những thành tựu của lao động quá khứ càng nhiều.
1.1.4.4 Quy mô của tư bản ứng trước
Với trình độ bóc lột không đổi thì khối lượng giá trị thặng dư sẽ do khối lượng công nhân bị bóc lột quyết định. Do đó, quy mô của tư bản ứng trước, nhất là bộ phận tư bản khả biến càng lớn, thì giá trị thặng dư bóc lột được và quy mô tích luỹ cũng càng lớn.
1.2Các quy luật cuả tích luỹ tư bản
1.2.1 Lượng cầu về sức lao động tăng cùng với tích luỹ tư bản trong điều kiện kết cấu của tư bản không đổi.
1.2.1.1Sự tăng lên của lượng cầu về sức lao động
Tư bản tăng lên thì cũng tăng thêm bộ phận khả biến của nó hay bộ phận được biến thành sức lao động. Gỉa dụ rằng, cùng với những điều kiện khác không thay đổi- nghĩa là để vận một khối lượng tư liệu sản xuất hay tư bản bất biến nhất định,bao giờ cũng cần một khối lượng sức lao động như trước ,thì rõ ràng là lượng cầu về lao động và quỹ sinh hoạt của công nhân sẽ tăng lên một cách tỉ lệ với tư bản, và tư bản tăng lên càng nhanh bao nhiêu thì lượng cầu đó cũng càng tăng lên nhanh bấy nhiêu. K hi quy mô tích luỹ có thể mở rộng đột ngột bằng cách chỉ cần thay đổi sự phân chia giá trị thặng dư hay sản phẩm thặng dư thành tư bản và thu nhập, vì những lẽ đó nên nhu cầu tích luỹ của tư bản có thể vượt quá sự tăng thêm cảu sức lao động hay số công nhân, lượng cầu về công nhân có thể vượt quá lượng cung về công nhân và vì thế tiền công có thể tăng lên. Vì mỗi năm người ta sử dụng nhiều công nhân hơn năm trước, nên sớm hay muộn ắt phải đến lúc mà nhu cầu của tích lũy bắt đầu vượt quá lượng cung bình thường về lao động, và do đó tiền công cũng sẽ tăng lên. Tích lũy tư bản là làm tăng thêm giai cấp vô sản.
1.2.1.2 Sự tăng lên về tiền công không ngăn cản việc tăng tích lũy tư bản .
Như ta đã thấy, do bản chất của nó, tiền công đòi người lao động bao giờ cũng phải cung cấp một số lượng lao động không công nhất định. Hoàn toàn không nói đến trường hợp tăng tiền công trong trường hợp giá cả lao động hạ xuống...thì trong trường hợp tốt nhất tăng tiền công cũng có nghĩa là giảm bớt về số lượng phần lao động không công mà người lao động phải cung cấp. Sự giảm bớt này không bao giờ có thể đi đến mức đe doạ sự tồn tại của bản thân chế độ này. Theo cách nói của toán học, có thể nói rằng: đại lượng tích lũy là một biến số độc lập, đại lượng tiền công là một biến số phụ thuộc, chứ không phải ngược lại .
Nếu khối lượng lao động không công do giai cấp công nhân cung cấp và do giai cấp các nhà tư bản tích lũy, lại tăng lên khá nhanh đến mức nó chỉ có thể biến thành tư bản khi nào có một sự tăng thêm khác thường của số lao động được trả công, thì tiền công sẽ tăng lên, và nếu những điều kiện khác không thay đổi, thì lao động không công sẽ giảm xuống một cách tương xứng. Nhưng một khi sự giảm xuống này chạm tới cái điểm mà ở đấy lao động thặng dư nuôi dưỡng tư bản không còn cung cấp với một khối lượng bình thường nữa, thì có ngay một sự phản ứng :một phần ít hơn của thu nhập sẽ được tư bản hoá, tích luỹ chững lại, và sự vận động đi lên của tiền công sẽ bị đánh bật trở lại. Như vậy, sự tăng lên của giá cả lao động không vượt quá những giới hạn bảo đảm không những giữ nguyên được những cơ sở của chế độ tư bản chủ nghĩa mà còn đảm bảo cho tái sản xuất của chế độ đó được thực hiện với quy mô mở rộng.
1.2.2 Sự giảm bớt tương đối bộ phận tư bản khả biến trong tiến trình tích luỹ và tích tụ đi kèm theo tiến trình đó
Một khi đã có những có những cơ sở chung của chế độ tư bản chủ nghĩa, thì trong tiến trình tích luỹnhất định sẽ đến lúc sự phát triển của năng suất lao động xã hội trở thành đòn bẩy mạnh nhất của tích luỹ. Năng suất lao động tăng thể hiện ở việc giảm bớt khối lượng lao động so với khối lượng tư liệu sản xuất mà lao động đó làm cho hoạt động hay là thể hiện ở sự giảm bớt đại lượng của nhân tố chủ quan của quá trình lao động so với các nhân tố khách quan của quá trình đó. Sự thay đổi đó của kết cấu kĩ thuật của tư bản, sư tăng lên của khối lượng tư liệu sản xuất so với khối lượng sức lao động đang làm cho các tư liệu sản xuất đó sống lại, lại phản ánh trở lại vào trong kết cấu giá trị của tư bản, vào trong việc tăng thêm bộ phận bất biến của giá trị tư bản, bằng cách lấy vào bộ phận khả biến của nó. Ví dụ: lúc đầu 50% của một tư bản nào đó được chi cho tư liệu sản xuất, còn 50% được chi cho sức lao động; sau đó cùng với sự phát triển của năng suất lao động 80% được chi cho tư liệu sản xuất và 20% được chi cho sức lao động...Các quy luật về sư tăng lên của bộ phận bất biến của tư bản so với bộ phận khả biến, ở mỗi bước đều được xác minh.
Tuy vậy sự giảm bớt phần khả biến của tư bản so với phần bất biến hay là sự thay đổi kết cấu của tư bản, chỉ nói lên một cách gần đúng sự biến đổi trong kết cấu của các bộ phận vật chất của tư bản mà thôi. Cùng với năng suất đã tăng lên của lao động thì không những khối lượng tư liệu sản xuấtdo nó tiêu dùng tăng lên, mà giá trị của tư liệu sản xuất so với khối lượng của nó lại còn giảm xuống nữa. Như vậy giá trị của tư liệu sản xuất tăng lên một cách tuỵet đối, nhưng không tăng theo cùng tỉ lệ với khối lượng của nó. Vì vậy, sự chênh lệch giữa tư bản bất biến và tư bản khả biến tăng lên chậm hơn nhiều so với sự chênh lệch giữa khối liệu tư liệu sản xuất do tư bản bất biến chuyển hoá thành, và khối lượng sức lao động do tư bản chuyển hoá thành. Sự chênh lệch trên cũng tăng lên với sự chênh lệch dưới, nhưng với một mức độ ít hơn. Vả lại nếu sự tiến bộ của tích luỹ làm giảm bớt đại lượng tương đối của bộ phận tư bản khả biến thì như vậy tuyệt nhiên không phải nó loại trừ sự tăng lên của đại lượng tuyệt đối của nó. Gỉa định rằng một giá trị tư bản lúc đầu tự chia ra thành 50% là tư bản bất biến và 50%là tư bản khả biến, về sau lại chia thành 80% là tư bản bất biến và 20%là tư bản khả biến. Nếu trong thời gian đó số tư bản lúc đầu gồm 6000 chẳng hạn, đã tăng lên thành 18000 thì phần khả biến của nó đã tăng thêm. Trước kia nó là 3000, bây giờ là 3600. Nhưng, nếu trước kia chỉ cần tăng tư bản thêm 20%là đủ để tăng lượng cầu về lao động lên 20% thì bây giờ điều đó lại đòi hỏi phải tăng tư bản lúc đầu lên gấp 3 lần.
Mọi tư bản đều là sự tích tụ nhiều hay ít tư liệu sản xuất với một sự chỉ huy tương ứng đối với một đội quân lao động. Với mọi tích luỹ đều trở thành phương tiện cho một tích luỹ mới.Tích tụ và tập trung tư bản có quan hệ với nhau. Sự khác biệt này không chỉ về chất mà còn khác nhau về mặt lượng. Tập trung tư bản tuy không làm tăng quy mô tư bản xã hội nhưng có vai trò rất lớn trong quá trình chuyển sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn TBCN và quá trình chuyển CNTB từ giai đoạn thấp lên giai đoạn cao.
1.2.3 Việc sản xuất ngày càng nhiều nhân khẩu thừa tương đối
1.2.3.1.Nhân khẩu thừa sản phẩm tất yếu của tích lũy
Lượng cầu về lao động không phải do quy mô của tổng tư bản quyết định mà do quy mô của bộ phận khả biến của tư bản quyết định; cho nên cùng với sự tăng lên của tổng tư bản thì lượng cầu về lao động cũng dần dần giảm bớt đi chứ không phải tăng lên theo tỉ lệ với sự tăng thêm của tổng tư bản, như chúng ta đã giả định trước đây. Lượng cầu về lao động giảm xuống một cách tương đối so với đại lượng của tổng tư bản và giảm xuống theo một cấp số ngày càng nhanh cùng với sự tăng lên của đại lượng ấy. Thật ra cùng với sự tăng lên của tổng tư bản thì phần khả biến của nó, hay sức lao động kết hợp vào nó, cũng tăng lên, nhưng lại tăng lên theo một tỷ lệ không ngừng giảm sút.
Cùng với sự tích luỹ tư bản do bản thân nó đẻ ra, nhân khẩu công nhân cũng sản xuất ra với một quy mô ngày càng lớn những phương tiện làm cho họ trở thành nhân khẩu thừa tương đối là quy luật nhân khẩu thừa riêng của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, cũng giống như trên thực tế, mọi phương thức sản xuất đặc thù trong lịch sử đều có quy luật nhân khẩu đặc thù, có hiệu lực trong lịch sử của nó. Một quy luật nhân khẩu trìu tượng chỉ tồn tại đối với thực vật và động vật, chừng nào mà con người trong lịch sử chưa xâm nhập vào lĩnh vực này.
1.2.3.2 Nhân khẩu thừa, đòn bẩy của tích luỹ tư bản điều kiện tồn tại của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Đội quân công nghiệp trừ bị .
Nhưng, nếu nhân khẩu công nhân thừa là sản phẩm tất yếu của tích luỹ, hay của sự phát triển của cải trên cơ sở tư bản chủ nghĩa, thì ngược lại nhân khẩu thừa này lại trở thành một đòn bẩy của tích lũy tư bản chủ nghĩa và thậm chí còn là điều kiện tồn tại của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa nứa. Số nhân khẩu đó tạo thành một đội quân công nghiệp trừ bị có sẵn, hoàn toàn thuộc về tư bản một cách tuyệt đối tựa hồ như thể tư bản đã bỏ công của ra nuôi dưỡng lên số nhân khẩu thừa đó. Khối lượng của cải xã hội, ngày càng phình ra cùng với sự tiến bộ của tích lũy và có thể biến thành tư bản phụ thêm, điên cuồng đổ xô vào những ngành sản xuất cũ mà thị trường mở rộng đột ngột, hoặc vào những ngành sản xuất mới...mà sự phát triển của những ngành sản xuất cũ đòi hỏi phải có. Trong tất cả những trường hợp như thế thì cần làm thế nào để có thể tung một cách đột ngột những khối lượng người rất lớn vào những điểm quyết định mà không phải giảm bớt quy mô sản xuất trong những lĩnh vực khác. Nhân khẩu thừa cung cấp những khối lượng người đó.
Việc mở rộng quy mô một cách đột ngột và nhảy vọt là tiền đề của việc thu hẹp nó một cách đột ngột; bản thân sự thu hẹp này lại gây ra sự mở rộng kia, nhưng sự mở rộng kia không thể nào thực hiện được nếu không có một nguồn sức người bóc lột được, nếu không có sự tăng thêm khối lượng công nhân một cách độc lập với số tăng tuyệt đối của nhân khẩu. Số tăng đó được tạo bởi một quá trình đơn giản thường xuyên "giải phóng" một bộ phận công nhân, nhờ những phương pháp làm giảm bớt số công nhân đang làm việc so với sản xuất đã tăng lên. Như vậy toàn bộ hình thức vận động đặc biệt của nền công nghiệp hiện đại đều phát sinh trên sự thường xuyên biến một bộ phận nào đó của nhân khẩu công nhân thành những công nhân không có việc làm hay chỉ có việc làm một nửa. Việc sản xuất nhân khẩu thừa tương đối, nghĩa là thừa so với nhu cầu trung bình của tư bản trong việc làm tăng giá trị của nó, là điều kiện sống còn của nền công nghiệp hiện đại.
CHƯƠNG 2:
VAI TRò CủA TíCH Luỹ tư bản
trong quá trình Hình thành và phát triển kinh tế TBCN
2.1 Tích luỹ nguyên thuỷ tư bản
2.1.1Tích luỹ ban đầu, điểm xuất phát của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
2.1.1.1 Hai điều kiện ra đời của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
Qúa trình phát triển của con người từ khi sinh ra cho tới nay gắn liền với quá trình phát triển và thay thế lẫn nhau của các phương thức sản xuất xã hội.Phương thức sản xuất đầu tiên là cộng sản nguyên thuỷ, phương thức sản xuất này được thay thế bởi phương thức sản xuất nô lệ tiếp đó là phuơng thức sản xuất phonng kiến. Và từ giữa thế kỉ XV cho tới giữa thế kỉ XVII là thời kì bắt đầu tan rã của chế độ phong kiến và thay thế bởi chế độ phong kiến là chế độ tư bản chủ nghĩa bắt đầu ra đời. Chủ nghĩa tư bản ra đời trong lòng chế độ phong kiến.
Hai điều kiện cần và đủ để hình thành chủ nghĩa tư bản
+Tập trung trong tay một số ít người số tiền của lớn để lập ra các xí nghiệp TBCN
+Có một lớp người hoàn toàn tự do về thân thể (quyền quyết định thân thể mình) và đã bị mất hết tư liệu sản xuất.
2.1.1.1 Tích luý nguyên thuỷ tư bản,đòn bẩy đẩy nhanh sư ra đời của hai điều kiện
Gỉa định rằng trước tích luỹ tư bản chủ nghĩa đã có một sự tích luỹ "ban đầu" -một tích luỹ không phải là kết quả của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, mà là xuất phát điểm của nó. Trong khoa kinh tế chính trị, sự tích lũy ban đầu này đóng một vai trò cũng gần giống như vai trò của tội tổ tông trong thần học. Và từ thời cái tội tổ tông đó đã bắt đầu sự nghèo khổ của số đông người, là những người dù có lao động hết sức cũng chẳng có gì để bán trừ bản thân họ ;và bắt đầu sự giàu có của một số ít, dù đã thôi lao động từ lâu mà vẫn cứ giàu mãi lên. Nhưng khi đã đụng đến vấn đề quyền sở hữu thì người ta có nghĩa vụ thiêng liêng là phải theo đúng quan điểm của sách vở vỡ lòng cho tẻ con, là quan điểm duy nhất đúng với mọi lứa tuổi mọi trình độ phát triển. Như mọi người đều biết, trong lịch sử hiện thực thì sự xâm chiếm, nô dịch, cướp bóc, tóm lại là bạo lực đã đóng một vai trò lớn.
Tiền và hàng hoá, cũng giống hệt như tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt, ngay từ đầu không phải là tư bản.Chúng cần được chuyển hoá thành tư bản. Nhưng sự chuyển hoá này chỉ có thể diễn ra trong những hoàn cảnh nhất định thôi, những hoàn cảnh đó quy lại là :"hai loại hàng hoá rất khác nhau phải gặp nhau và tiếp xúc với nhau - một bên là người có tiền, có tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt,cần mua sức lao động của người khác để làm tăng thêm giá trị đã chiếm được; bên kia là những người lao động tự do,những người bán sức lao động của bản thân mình, do đó là những người bán lao động ". Với việc chia thị trường hàng hoá thành hai cực như vậy, thì những điều kiện cơ bản của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa cũng được tạo ra."Quan hệ tư bản chủ nghĩa giả định phải tách rời người lao động với quyền sở hữu những điều kiện thực hiện lao động" Qúa trình một mặt thì biến tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt của xã hội thành tư bản, và mặt khác, biến những người sản xuất trực tiếp thành những người lao động làm thuê. Do đó, cái gọi là tích luỹ ban đầu chẳng qua chỉ là một quá trình lịch sử tách rời người sản xuất ra khỏi tư liệu sản xuất(Nó là ban đầu vì nó là tiền sử của tư bản và của phương thức sản xuất phù hợp với tư bản ). Cái đã đánh dấu thời đại trong lịch sử của tích luỹ ban đầu là những sự đảo lộn làm đòn bẩy cho giai cấp các nhà tư bản đang hình thành. Cơ sở của toàn b._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33689.doc