Vai trò của thương hiệu trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành nông sản Việt Nam

Tài liệu Vai trò của thương hiệu trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành nông sản Việt Nam: ... Ebook Vai trò của thương hiệu trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành nông sản Việt Nam

doc38 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1353 | Lượt tải: 4download
Tóm tắt tài liệu Vai trò của thương hiệu trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành nông sản Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời Nói đầu Thương hiệu đóng vai trò hết sức quan trọng không chỉ đối với hàng hoá của doanh nghiệp, sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp mà còn đối với cả nền kinh tế quốc gia. Thương hiệu là tài sản vô hình vô cùng quý giá của doanh nghiệp, niềm tự hào của dân tộc, biểu tượng tiềm lực kinh tế của một quốc gia. Trong những năm gần đây các doanh nghiệp Việt Nam đã có những chuyển biến rõ rệt trong nhận thức về thương hiệu, xác định đây là công cụ cạnh tranh cực kỳ quan trọng và đã từng bước có sự chuẩn bị về kế hoạch và chiến lược xây dựng thương hiệu. Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng, tiềm lực tài chính của các doanh nghiệp Việt Nam còn nhỏ bé nên việc tạo lập, củng cố, quảng bá thương hiệu gặp nhiều khó khăn và hạn chế. ĐÕn nay chúng ta chưa có thương hiệu mạnh để cạnh tranh với các hãng có tên tuổi trên thế giới, ở cả trong nước và ngoài nước. Đặc biệt với ngành nông sản, một trong những ngành chủ chốt trong nÒn kinh tế của đất nước thì vấn đề tạo lập một thương hiệu vững mạnh trên thị trường thế giới là điều hết sức cần thiết mà các nhà kinh tế cần quan tâm. Ngành nông sản Việt Nam đang đứng trước những thách thức và cơ hội to lớn trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Vì vậy cần phải tạo lập một thương hiệu vững chắc cho ngành nông sản để nâng cao năng lực canh tranh của ngành nông sản để có thể cạnh tranh với các nước trên thế giới. Đấy chính là vấn đề mà tôi đề cập đến trong đề tài này. Với câu hỏi đặt ra là:” Làm thế nào để nâng cao năng lực canh tranh của ngành nông sản Việt Nam trên thị trường quốc tê”. Với mong muốn tìm hiểu, nghiên cứu nhằm góp phần trả lời câu hỏi trên, tôi đã chọn đề tài: Vai trò của thương hiệu trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành nông sản Việt Nam. Đề tài được chia thành 4 chương: Chương I : Thương hiệu và các yếu tố cấu thành thương hiệu. Chương II: Thực trạng năng lực cạnh tranh của ngành nông sản. Chương III: Thương hiệu trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành nông sản Việt Nam. Chương IV: Giải pháp phát triển thương hiệu để nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành nông sản Trong quá trình làm đề án, do hạn chế về tài liệu cũng như kinh nghiêm nên chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy rất mong sự chỉ bảo góp ý của các thầy để đề án của em được hoàn thiện một cách tốt nhất. Em xin chân thành cảm ơn cô Nguyễn Thu Hường, người đã giúp đỡ em trong quá trình tìm tài liệu và hoàn thành đề án này. Chương I: Thương hiệu và yếu tố cấu thành thương hiệu I.Cơ sơ lý luận của thương hiệu 1.Khái niệm về thương hiệu. Trước đây trong nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, hàng hoá được phân phối theo kế hoạch, giữa người sản xuất và người tiêu dùng không có mối liên hệ với nhau. Chính vì vậy, sản phẩm lưu thông trên thị trường mà không cần tới thương hiệu. Nhưng khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, đặc biệt là xu thế toàn cầu hoá hiện nay, thương hiệu đã trở thành một yếu tố cạnh tranh hết sức quan trọng quyết định đến sự thành bại của doanh nghiệp và nền kinh tế quốc gia. Sở dĩ như vậy là do các doanh nghiệp sản xuất hàng hoá muốn thu được nhiều lợi nhuận thì không có cách nào khác là phải được người tiêu dùng biết đến sản phẩm của mình, ghi nhớ sản phẩm của mình và ưa chuộng chúng. Tất cả những điều này sẽ được thực hiện một cách hiệu quả thông qua thương hiệu hµng hoá của doanh nghiệp vì thương hiệu đã khắc hoạ hình ảnh của doanh nghiệp và là tài sản vô hình vô cùng quý giá của doanh nghiệp trong thời buổi cạch tranh khốc liệt như hiện nay. Vậy một câu hỏi đặt ra là:” thương hiệu là gì?”, để trả lời câu hỏi này, cần tìm hiểu các khái niệm: nhãn hiệu hàng hoá, nhãn hiệu thương mại. 2. Các yếu tố cấu thành thương hiệu. 2.1 Nhãn hiệu hàng hoá Thuật ngữ nhãn hiệu trở nên rất phổ biến với người tiêu dùng khi mua sắm những vật dụng cần thiết trong gia đình. Thậm chí nhãn hiệu hàng hoá đã tạo nên thói quen mua hàng của người tiêu dùng đối với những loại hàng hoá nhất định của một công ty nhất định. Và khi nhắc đến một sản phẩm nào đó thì họ liên tưởng đến một nhãn hiệu cụ thể nào đó. Như vậy, nhãn hiệu hàng hoá là dấu hiệu đặc trưng để xác định nhà sản xuất hay nhà cung cấp một loại hàng hoá hay dịch vụ nào đó. Hiệp định về những khía cạnh liên quan đến thương mại quyền sở hữu trí tuệ TRIPS đã định nghĩa như sau:”Nhãn hiệu hàng hoá là bấy kỳ một dấu hiệu hay tổ hợp dấu hiệu nào đó có khả năng phân biệt hàng hoá hay dịch vụ của một doanh nghiệp với hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp khác.” Trong Bộ Luật Dân Sự Việt Nam đã quy định:” Nhãn hiệu hàng hoá là những dấu hiẹu dùng để phân biệt hàng hoá dịch vụ cùng chủng loại của cơ sở sản xuất kinh doanh. Nhãn hiệu hàng hoá có thể là từ ngữ, hình ảnh hay sự kết hợp của các yếu tố đó được thể hiện bằng nhiều màu sắc”. Tóm lại, có thể nói trong định nghĩa về nhãn hiệu hàng hoá nêu lên hai bộ phận: thứ nhất là tên nhãn hiệu, là bộ phận mà ta có thể đọc được. Thứ hai là bộ phận của nhãn hiệu (biểu tượng) là bộ phận của nhãn hiệu mà ta có thể nhận biết được, không đọc dược như hình vẽ màu sắc, ví dụ như hình ảnh con sư tử vàng của hãng bia Tiger. Khi hàng hoá được lưu thông trên thị trường thì nhãn hiệu hàng hoá lúc đó được gọi là nhãn hiệu thương mại. Nhãn hiệu thương mại có thể được đăng ký bảo hộ hay không phụ thuộc vào người chủ nhãn hiệu. Trên thực tế hiện nay cho thấy nếu như nhãn hiệu thương mại đã được đăng ký bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp thì người chủ sỏ hữu sẽ được độc quyền sử dụng nhãn hiệu thương mại dưới sự bảo hộ của pháp luật. Khi đó, chủ sở hữu có thể toàn quyền sử dụng, mua bán, hay cho thuê nhãn hiệu thương mại của mình. Điều này tức là chủ nhãn hiệu có thể định giá cho nhãn hiệu của mình. Với ý nghĩa đó, thương hiệu của hàng hoá ra đời và được hiểu là nhãn hiệu hàng hoá sau khi đã được thương mại hoá, được mua bán trên thị trường. Dưới góc độ xây dựng thương hiệu, tên nhãn hiệu là thành tố cơ bản vì nó thường là yếu tố chính hoặc là liên hệ chính của sản phẩm một cách cô đọng và tinh tế. Tên nhãn hiệu là ấn tượng đầu tiên về một loại sản phẩm/dịch vụ trong nhận thức nhãn hiệu của người tiêu dùng. Vì thế, tên nhãn hiệu là một yếu tố quan trọng thể hiện khả năng phân biệt của người tiêu dùng khi đã nghe hoặc nhìn thấy nhãn hiệu và cũng là yếu tố cơ bản gợi nhớ sản phẩm/dịch vụ trong những tình huống mua hàng. Dưới góc độ pháp luật bảo hộ, tên nhãn hiệu được tạo thành từ sự kết hợp của từ ngữ hoặc các chữ cái có khả năng phân biệt sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp này với sản phẩm dịch vụ của doanh nghiệp khác đã được bảo hộ và không thuộc các dấu hiệu loại trừ. Đáp ứng yêu cầu này, tên nhãn hiệu sẽ được bảo hộ với tư cách là nhãn hiệu hàng hoá. Interbrand cho rằng doanh nghiệp không nhất thiết lúc nào cũng quẩn quanh với tên nhãn hiệu. Nhận định này đã được Interbrand kiểm nghiệm bằng cuộc khảo sát thực tế kinh nghiệm của những thương hiệu nổi tiếng toàn cầu và kết quả là có 4 tình huống mà doanh nghiệp nên quan tâm và thực sự cần chú trọng vào việc đặt tên nhãn hiệu: (i) sản xuất sản phẩm mới; (ii) mở rộng dòng sản phẩm; (iii) cung cấp loại hình dịch vụ mới; (iv) thành lập doanh nghiệp/liên doanh. Ngoài ra, trong những thời điểm nhất định, doanh nghiệp cũng nên cập nhật một/một số thành tố vào tên nhãn hiệu đã có để tạo cho khách hàng những cảm nhận mới về sản phẩm/dịch vụ trẻ hoá nhãn hiệu Ví dụ: "Wave" - "Wave anpha". Cùng với sự phát triển chung của nền kinh tế, khối kiến thức và kỹ năng về đặt tên nhãn hiệu ngày càng phát triển và trở nên khổng lồ với bất kỳ cá nhân nào. Do đó, các chuyên gia đã thừa nhận hiệu quả của làm việc nhóm. Mỗi cái tên đều được ra đời bằng những cách sáng tạo riêng, không theo một khuôn mẫu có sẵn nào ngay cả khi chúng do cùng một nhóm tác giả sáng tạo ra. Tuy nhiên, có một số qui tắc chung mà chuyên gia đều áp dụng trong mỗi dự án đặt tên như: 5 tiêu chí thường dùng để lựa chọn thành tố nhãn hiệu: Sử dụng từ tự tạo: từ tự tạo được tổ hợp từ những ký tự, tạo thành một từ mới phát âm được và không có trong từ điển (Elead, yahoo...) Sử dụng từ thông dụng: từ thông dụng là những từ hiện dùng, thực sự có nghĩa trong một ngôn ngữ nào đó (Future, Rạng ông, Thống Nhất, Trung Thành...) Sử dụng từ ghép: từ ghép là sự kết hợp các từ hiện dùng và các âm tiết dễ nhận biết (VINAMILK, Thinkpad)  Sử dụng từ viết tắt: thông thường từ viết tắt được tạo thành từ những chữ cái đầu của tên công ty, từ viết tắt cũng có thể phát âm được và mang một thông điệp nào đó (VNPT, FPT, IBM, LG...) Interbrand cho rằng phát triển thương hiệu không phải bắt đầu từ sự ra đời của sản phẩm hay dịch vụ mà bắt đầu ngay từ khái niệm hướng đến sự hình thành tên nhãn hiệu bởi tên nhãn hiệu là ấn tượng đầu tiên tạo ra nhận thức nhãn hiệu trong tiềm thức người tiêu dùng. 2.2 Logo Dưới góc độ xây dựng thương hiệu, logo là thành tố đồ hoạ của nhãn hiệu góp phần quan trọng trong nhận thức của khách hàng về nhãn hiệu. Thông thường, logo nhằm củng cố ý nghĩa của nhãn hiệu theo một cách nào đó. Các nghiên cứu đều cho thấy lợi ích logo đối với nhận thức nhãn hiệu của khách hàng là rất quan trọng. Logo có thể tạo ra liên hệ thông qua ý nghĩa tự có của nó hoặc thông qua chương trình tiếp thị hỗ trợ. So với nhãn hiệu, logo trừu tượng và độc đáo và dễ nhận biết hơn, nhưng cũng tiền ẩn nguy cơ khách hàng không hiểu logo có ý nghĩa gì với nhãn hiệu nếu không được giả thích thông qua chương trình hỗ trợ trực tiếp. Dưới góc độ pháp luật, logo gồm các yếu tố hình độc đáo, riêng có tạo thành một chỉnh thể thống nhất. Logo tạo ra khả năng phân biệt của sản phẩm vì vậy, logo được xem xét bảo hộ với tư cách là nhãn hiệu hàng hoá. Với đặc tính đa dạng của của các yếu tố đồ hoạ, logo có thể là một hình vẽ, một cách trình bày chữ viết (tên doanh nghiệpt, sản phẩm), hoặc kết hợp cả hình vẽ và chữ viết tạo ra một bản sắc riêng của thương hiệu. Logo chính là biểu tượng đặc trưng, là “ bộ mặt” của thương hiệu.Thông thường, các chuyên gia áp dụng ba cách thiết kế logo như sau: Cách đặt tên nhãn hiệu: là tạo tên cho nhãn hiệu, tên công ty một phong cách thiết kế đặc thù. Sáng tạo hình ảnh riêng: Những hình ảnh riêng làm người ta liên tưởng đến nhãn hiệu, tên công ty hoặc lĩnh vực kinh doanh. Kết hợp hình ảnh riêng và tên nhãn hiệu: Logo thể hiện bằng hình vẽ tên nhãn hiệu. Do tính đồ hoạ cao, logo rất dễ nhận biết và tăng khả năng phân biệt của sản phẩm. Trên thị trường có hàng nghìn, then chí hàng chục nghìn logo ở mọi loại hình kinh doanh, nhưng bằng một cách nào đó, chúng ta vẫn có thể nhận biết chúng trong nhưng tình huống giao tiếp nhất định. Đằng sau mỗi cách thể hiện đó là lao động sáng tạo của các chuyên gia. 2.3 Slogan Slogan- khẩu hiệu thương mại, nguyên nghĩa là tiếng hô trước khi xung trận của nhưng chiến binh Scotland. Ngày nay trong thương mại, slogan được hiểu như là khẩu hiệu thương mại của một công ty, là một trong những thành tố quan trọng làm nên một thương hiệu nổi tiếng. Slogan được coi là một phần tài sản vô hình của công ty dù rằng nó chỉ là một câu nói. Để có một slogan hay, ngoài việc đầu tư về chất xám còn phải có sự đầu tư về quản cáo liên tục với những chiến lược dài hạn. Chính vì vậy, khi có được một slogan trong tâm trí khách hàng, slogan đã trở thành một tài sản được vun đắp bằng thời gian, tiền bạc và uy tín của công ty. Một slogan hay phải hội tụ được những yếu tố sau: Thứ nhất là mục tiêu: một slogan khi được đưa ra phải mang một mục tiêu nhất định và hướng mục tiêu đó. Ví dụ khi Pepsi ra đời thì coca cola đã là một người khổng lồ trong ngành giải khát rồi. Muốn phát triển được thì phải có một slogan nhắm đến một mục tiêu là lấy lại được thị phần từ coca cola. Hãng nước giải khát Pepsi đã lấy khẩu hiệu là:” Generation Next”( thế hệ mới), ý nói đó là một loại nước uống của thế hệ mới và ngầm ý chê bai đối thủ trực tiếp coca cola là loại đồ uống cổ lỗ sĩ. Với slogan hay mang trong mình mục tiêu rõ ràng là đánh vào khách hàng trẻ tuổi, Pepsi đã thu hút được phần đông giới trẻ và vươn vai trở thành một đối thủ đáng gờm của coca cola. Thứ hai là ngắn gọn: Một slogan hay phải luôn là một slogan ngắn gọn, dễ hiểu, dễ đọc. Với nhiệm vụ phải đi vào tiềm thức của khách hàng, không ai đi xây dung matt slogan dai dằng dặc đầy đủ toàn bộ về tính năng, tác dụng, tính ưu việt của sản phẩm cả, bởi khách hàng sẽ chẳng ai bỏ công đi nhớ một slogan dài như vậy. Cà phê Trung Nguyên đã phải bỏ slogan dài cũ đi:” mang lại nguồn cảm hứng sáng tạo mới” bằng một slogan ngắn gọn hơn “ khơi nguồn sáng tạo’. Quả thực slogan sau ngắn gọn, ấn tượng và dễ nhớ hơn nhiều. Thứ ba là không phản cảm: slogan phải tuyệt đối tránh những từ ngữ có thể gây phản cảm hoặc xúc phạm đến người khác cho dù đó chỉ là một bộ phận khách hàng không lớn. Thứ tư là cần nhấn mạnh vào lợi ích của sản phẩm: Slogan phải thể hiện được tính năng và lợi ích khi khách hàng sử dụng sản phẩm. Ví dụ như:”connecting people" (kết nối mọi ngườik) của hãng điện thoại Nokia hay “ Luôn luôn lắng nghe. Luôn luôn thấu hiểu” của hãng bảo hiểm quốc tế Prudential. III. Ý nghĩa của thương hiệu 1 Đối với doanh nghiệp Nhà kinh tế Kevin Lane Keller đã viết: “Càng ngày các doanh nghiệp càng nhận thấy rằng một trong những tài sản quý giá nhất của họ chính là thương hiệu”. Thương hiệu đã và đang trở thành thứ tài sản vô hình quan trọng và vũ khí cạnh tranh sắc bén của doanh nghiệp trên thị trường. Năng lực cạnh tranh bằng thương hiệu là danh tiếng, uy tín dựa trên tổng hợp tất cả sự khác biệt và những nét đặc trưng đã được khách hàng chấp nhận. Lợi thế cạnh tranh bằng thương hiệu được thể hiện ở: Thương hiệu giúp người bán có cơ hội thu hút một nhóm khách hàng trung thành và lưu giữ hình ảnh về sản phẩmT, doanh nghiệp ở những khách hàng tương lai. Trong kinh doanh "đồng tiền đến rồi đồng tiền lại đi" nhưng khách hàng thì phải ở lại. Muốn khách hàng ở lại với mình thì hình ảnh của doanh nghiệp, của sản phẩm phải đọng lại trong họ thông qua một dấu hiệu nhận biết, thương hiệu là dấu hiệu quan trọng nhất. Thương hiệu đóng vai trò sứ giả khi doanh nghiệp thâm nhập thị trường mới hoặc tung ra sản phẩm mới. Những công ty đa quốc gia thường sở hữu nhiều thương hiệu lớn, đó thực sự là chìa khoá để thâm nhập hầu hết các thị trường trên thế giới. Có thể nói, cho tới nay quá trình toàn cầu hoá là quá trình hội nhập và cạnh tranh của những thương hiệu lớn. Thương hiệu giúp giảm bớt các chi phí marketing, vì mức độ biết đến và trung thành với thương hiệu đã cao. 2 Đối với người tiêu dùng. Trong khi khách hàng tìm các sản phẩm và dịch vụ để đáp ứng những mong muốn hay giải quyết các vấn đề của họT, người ta đi tìm cái "đủ tốt”. Theo nghiên cứu của một công ty tư vấn, 60% người tiêu dùng trên thế giới quan tâm đến thương hiệu khi mua sắm; bởi đó là kết quả các kinh nghiệm đã tích luỹ được của người tiêu dùng với một nhận thức về công ty, những con người của công ty và các sản phẩm của nó. Một thương hiệu tốt - sản phẩm được xây dựng qua thời gian từ hàng trăm những điều nhỏ mà doanh nghiệp làm đúng, hay từ những nỗ lực không ngừng vươn lên để khẳng định mình, chính là một hứa hẹn chắc chắn về độ tin cậy, giúp người tiêu dùng tìm được cái “đủ tốt" trong vô số những mời chào. Thương hiệu ngày càng trở nên có ý nghĩa hơn trong bối cảnh ngày nay khi tất cả các lĩnh vực đều phát triển như vũ bão. Cùng với sự phát triển của nền sản xuất hàng hoá, thị trường ngày càng trở nên đông đúc với những hàng hoá cùng loại có vô số đặc điểm, kiểu dáng phong phú với giá cả khác nhau. Sự phổ biến của phương pháp tự chọn trong các siêu thị và các cửa hàng hạ giá càng làm cho người tiêu dùng gặp khó khăn khi đưa ra quyết định cuối cùng. Thương mại điện tử ra đời đã và đang làm thay đổi sâu sắc môi trường kinh tế trong đó có phương thức mua hàng. Chỉ với việc nhấp chuột, người tiêu dùng được ghé thăm các catalog điện tử tràn ngập hàng hoá. Nhưng người tiêu dùng không thể dùng cách thức xem hàng truyền thống trước khi mua. Nếu không có những thương hiệu đáng tin cậy làm chuẩn mực, việc đi mua hàng chẳng khác đi lạc vào một mê cung. Có thể nói, người tiêu dùng đã tiết kiệm được rất nhiều thời gian và công sức trong việc lựa chọn được sản phẩm mong muốn nhất. 3. Thương hiệu mạnh - niềm tự hào của một quốc gia. Khi nói đến Pháp người ta nghĩ ngay đến rượu vang, nói đến Nhật người ta nghĩ ngay đến Sony, Honda, Toyota mặc dù rượu vang không phải là tất cả nước Pháp cũng như Sony, Honda, Toyota không phải là tất cả nước Nhật. Người Mỹ cũng đã phải kinh ngạc trước chất lượng của các xe ô tô và đồ điện tử của Nhật, cũng như ô tô, quần áo và thực phẩm của Châu Âu. Như vậy, việc xây dựng thương hiệu không chỉ thúc đẩy sản phẩm của doanh nghiệp mà còn góp phần tạo nên diện mạo quốc gia. Những thương hiệu mạnh đã quảng bá hình ảnh và trình độ phát triển của nước Nhật, nước Pháp đến toàn thế giới. Những thương hiệu mạnh sẽ đóng vai trò sứ giả để sản phẩm các quốc gia chiếm lĩnh thị trường thế giới, tạo nên những bước đệm vững chắc góp phần đưa đất nước hội nhập kinh tế quốc tế. Chương II: Thực trạng năng lực cạnh tranh của ngành nông sản I. Tình hình sản xuất hàng nông sản của Việt NamI Việt Nam với đặc trưng là một nước nông nghiệp, điều kiện khí hậu, địa lý đã tạo điều kiện thuận lợi cho ngành sản xuất nông sản phát triển. Một số mặt hàng đã trở thành thế mạnh của Việt Nam trong thời gian qua như: cà phê, cao su, lúa, hạt điều … Thứ nhất: mặt hàng cà phê được phân bố rộng rãi từ Bắc tới Nam trên nhiều tỉnh trung du, cao nguyên và miền núi. Trước kia cà phê được trồng gồm 3 loại: cà phê chè (Arabica), cà phê vối (Robusta) và cà phê mít (Exceta). Nay chỉ có cà phê chè và cà phê vối được trồng ở những vùng sinh thái khác nhau. Do chú trọng đầu tư thâm canh nên cà phê Việt Nam đã cho năng suất và sản lượng cao. Liên tục trong nhiều nam qua năng suất tăng rõ rệt từ 650-800kg nhân /ha, nay đạt bình quân 1.4tấn nhân /ha, cá biệt có những nơi năng suất đạt từ 4,5-5 tấn nhân /ha. World Bank đánh giá năng suất cà phê vối của Việt Nam 1.48 tấn/ha xếp thứ nhì thế giới sau Contatica là 1.5tấn/ha và xếp trên Thái Lan (0, 99 tấn/ha). Cùng với năng suất, diện tích và sản lượng cà phê của Việt Nam cũng tăng ở mức cao. Thứ 2: Mặt hàng hạt điều. Trong các mặt hàng nông sản xuất khẩu thì hạt điều chiếm một vị trí quan trong với kim ngạch xuất khẩu hàng năm trên 100 triệu USD, xếp thứ ba trên thế giới về sản lượngvà đứng thứ hai thế giới về xuất khẩu. Kế hoạch của ngành điều là đến năm 2010 nâng sản lượng điều thô lên 400 nghìn tấn, xuất khẩu 85.000 tấn hạt điều nhân, kim ngạch 300 triệu USD /năm. Trong những năm qua, ngành hạt điều phát triển một cách tự phát, lại không được quy hoạch. Sản lượng thu hoạch niên vụ 2001 vào khoảng100 nghìn tấn, niên vụ 2002 chỉ còn có 70 nghìn tấn đáp ứng chưa được 30% nhu cầu của máy chế biến. Vụ điều năm 2004 sản lượng đã tăng lên là 180 nghìn tấn và cũng là mức sản lượng tương đối cao so với các năm trước đó. Nhưng nhìn chung năng suất điều của Việt Nam còn rất thấp, bình quân chung cả nước khoảng 7, 5tạ/ha. Nguyên nhân khách quan là do thời tiết thất thường, sâu bệnh nhiều nhưng chính những yếu tố chủ quan lại là yếu tố tác động lâu dài và trực tiếp nhất. Đó chính là giống điều lâu nay đem trông không được tuyển chọn qua các cơ quan chuyên ngành, hoàn toàn do nông dân tự chọn, nguồn dinh dưỡng từ đất đã dần cạn kiệt sau nhiều năm thu hoạch nhưng không được bồi dưỡng, làm cỏ, cải tạo. Người nông dân không thực sự hiểu biết về khoa học kỹ thuật mà chỉ dựa vào kinh nghiệm. Hậu quả là làm cho nhiều diện tích cho năng suất thấp, cây điều bị thoái hoá, không ra quả. Do vậy nhà nước cần trợ giúp nông dân qua các công tác khuyến nông và tín dụng trong nông nghiệp, mặt khác cần đầu tư bằng vốn ngân sách, xây dựng hệ thống trại thí nghiệp, chọn giống, nhân giống, phổ biến kỹ thuật cho các vùng sinh thái - sản xuất khác nhau. Đây là yếu tố hàng đầu giúp nông dân nâng cao năng suất. Thứ ba: một số sản phẩm nông nghiệp khác. Một số mặt hàng nông sản khác của nước ta đã có bước phát triển rõ rệt, sản xuất tăng trưởng liên tục với nhịp độ cao, cơ cấu kinh tế đang dần được chuyển dịch theo hướng phát huy lợi thế so sánh của từng vùng, địa phương cũng như trong cả nước, đã hình thành nhiều vùng hàng hoá tập trung tương đối lớn. Kinh tế nông thôn có những bước chuyển biến khá rõ rệt, đời sống nông dân ở nhiều vùng được cải thiện, nhưng vấn đề nổi bật là các loại hàng hoá này có chất lượng thấp, tổ chức tiêu thụ còn nhiều yếu kém, thường xảy ra tình trạng nhiều khi tiêu thụ không bắt kịp nhất là trong vụ thu hoạch, giá cả xuống thấp gây thiệt hại cho nông dân. Tình trạnh này kéo dài làm cho nông dân buộc phải chuyển đổi các loại cây trồng, hoặc quy về sản xuất tự cung tự cấp, hoặc chuyển sang ngành nghề khác. Qua những yếu tố trên đây, có thể thấy tình trạnh sản xuất hàng nông sản Việt Nam vẫn mang tính chất của nền sản xuất nhỏ, tự cung tự cấp và mới đang trong quá trình chuyển sang nền kinh tế hàng hoá, năng suất lao động thấp do đó kéo dài thời gian sản xuất sản phẩm nên không tạo được sức cạnh tranh trên thị trường. II. Thực trạng công nghệ chế biến nông sản Hàng nông sản của Việt Nam ở vị trí khá cao so với các quốc gia khác trong khu vực cũng như trên thế giới, hàng nông sản của nước ta có mặt hầu hết trên tất cả các thị trường của thế giới nhưng lượng ngoại tệ thu về từ hàng nông sản vẫn còn rất khiêm tốn do giá trị xuất khẩu các mặt hàng nông sản như gạo, cà phê, cao su, hạt điều... đều bán thấp hơn giá thế giới từ 20-40USD. Công nghệ và các cơ sở chế biến nông sản của Việt Nam trong thời gian dài ít được quan tâm đầy đủ. Đây là một trong những nguyên nhân chính làm thất thoát 20-30% lượng hàng nông sản hàng năm. Một phần của vấn đề này là do khó khăn về nguồn vốn đầu tư nên trình độ công nghệ thấp kém và chậm được đổi mới, tổn thất sau thu ho¹ch còn rất lớn. Cơ sở chế biết hàng nông sản xuất khẩu còn ít như ngành cà phê mới chỉ có khoảng hơn 20 cơ sở chế biết công nghiệp hoàn chỉnh, chủ yếu là sơ chế đảm bảo chiếm khoảng hơn 30% sản lượng cà phê / năm. Mặt hàng hạt điều tuy tuy đã phát triển nhanh và chuyển từ xuất khẩu điều thô sang xuất khẩu nhân hạt điều nhưng mức độ cơ giới hoá trong thu hoạch quy trình công nghệ chế biến điều còn thấp, chưa áp dụng được quy trình chế biến không phế liệu để thu hoạch các sản phẩm chính và các sản phẩm phụ, nên hiệu quả kinh tế thấp. Vì vậy các nhà máy chế biến chưa thể nâng cao đựơc giá thu mua các mặt hàng nông sản thô từ nông dân, một yếu tố để kích thích nông dân tích cực gieo trông hàng nông sản. Đa số công nghệ của nước ta còn đơn giản, thô sơ, lạc hậu, mang nặng tính kinh nghiệm, thập chí những điều kiện tối thiểu như: sân phơi, máy sấy, kho bảo quản cũng không đủ. Do đó vấn đề cần giải quyết là nhà nước cần phải có kế hoạch cân đối lại giữa công suất chế biến và nguồn nguyên liệu, mở rộng hoạt động điều phối giữa các xí nghiệp chế biến hàng nông sản thông qua hội Nông dân Việt Nam. Các ngành chức năng phải đến với doanh nghiệp, tạo điều kiên cho tập thể cá nhân biết làm ăn để khuyến khích và phát triển kinh tế đất nước. Tổng cục đo lường chất lượng, Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn… cần triển khai cụ thể kế hoạch đến từng cơ sở, địa phương, bám sát những nhà kinh doanh. Hơn nữa, các hoạt động của các hiệp hội và chính quyền địa phương là điều kiện cần thiết để khai thác tối đa tiềm năng của địa phương mình. Cần liên kết chặt chẽ nông dân với nhà khoa học, nhà kinh doanh, nhà nước, ngân hàng và truyền thông… để tạo ra sản phẩm có chất lương cao ngay từ khâu gieo trồng, chăm sóc, thu hoạch và tiêu thụ. III. Tình hình xuất khẩu nông sản của Việt NamI Có thể nhận xét rằng nhóm mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam đều có tốc độ tăng trưởng cao hơn tốc độ tăng trưởng bình quân của thế giới và cao hơn nhiều so vơi các đối thủ cạnh tranh trong khu vực như Thái Lan (ở mặt hàng cà phê và gạoë), Indonexia về cà phê và cao su… kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam so với Thái Lan có xu hướng tăng từ dưới 30% (trước năm 1998t) lên mức cao hơn trong năm 2000 nhưng với giá cả gạ hơn, tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu cà phê của Việt Nam so với ấn Độ cũng tăng mạnh, kim ngạch xuất khẩu cao su của Việt Nam so với Thái Lan cũng tăng lên 13,8% năm 2003. Tổn kim ngạch xuất khẩu của cả nước ngày một tăng, năm sau tăng nhanh hơn năm trước. Xét từ năm 1991, nước ta xuất khẩu đạt 2078 triệu USD thì đến năm 2000 đã đạt tơi 14308 triệu USD ggấp 7 lần, trong đó kim ngạch xuất khẩu nông sản đạt 4300 triệu USD, tăng hơn năm 1991 là 3, 9 lần và chiếm 30% tổng kim ngạch xuất khẩu của nền kinh tế. Trong mặt hàng nông sản, lúa gạo vẫn chiếm tỷ trọng cao nhất, sản lượng lúa cả năm cảu nước tăng 1, 2 triệu tấn. Chính phủ cho phép tiếp tục xuất khẩu gạo, cáo doanh nghiệp đã ký kết được nhiều hợp đồng với các nước Châu Phi và một số nước trong khu vực như Malaysia, philipines… Cộng giá xuất khẩu gạo tăng cao nên tổng sản lượng xuất khẩu là 3, 9 triệu tấn (so với năm 2003s) nhưng kim ngạch xuấ khẩu tăng trên 23%, đạt trên 900 triệu USD. Tổng kim ngạch xuất khẩu 4 tỷ USD hàng nông sản trong năm 2004 thực sự là một thành công. Thành quả xuất khẩu này khẳng định việc nâng cao chất lượng, xúc tiến thương mại, xây dung thương hiệu, nâng cao năng lực cạnh tranh của từng ngành hàng. Năm 2004, cùng với các chính sách, hoạch đinh của các cơ quan quản lý, hầu hết các doanh nghiệp, hiệp hội ngành hàng đã có những bước đi cụ thể, bước đầu có kết quả trong việc khẳng định vị thế sản phẩm của mình trên thị trường quốc tế. Tổng công ty chè đã tập trung xây dựng thương hiệu có mẫu mã bao bì đạt tiêu chuẩn quốc tế với tổng chi phí quản cáo khoảng 5 triệu USD, đồng thời xây dung mội sàn giao dịch chè ở Hà Nội tạo điều kiện thuận lợi cho sản phẩm chè “ xuất ngoại” . Hiệp hội hồ tiêu cũng đã có chương trình kìm tốc độ tăng diện tích để tập trung vào việc nâng cao chất lượng, phấn đấu đạt 60% sản lượng hồ tiêu đạt chất lượng cao trong năm 2007. Các doanh nghiệp xuất khẩu gạo cũng đang thúc đẩy chương trình 1 triệu ha sản xuất lúa chất lượng cao bằng việc tăng cường việc ký hợp đồng bao tiêu gạo chất lượng cao, gạo đặc sản với nông dân. Sản phẩm cà phê cũng vươn đến những thị trường Mỹ, Châu Âu bằng thương hiệu “ Made in Viet Nam” … Bảng 1. Sản lượng và kim ngạch xuất khẩu của cac mặt hàng nông sản chủ yếu của Việt Nam giai đoạn 1995-2005. TT Năm Sản lượng xuất khẩu (1000 tấn) Kim ngạch xuất khẩu (triệu USD) Gạo Cà phê Cao su Chè Gạo Cà phê Cao su Chè 1 1995 2058 248,1 138,1 18,8 530 595,5 193,5 26,5 2 1996 3047 281,4 194,5 21 868 420 163,3 29 3 1997 3682 391,6 192 32,2 801 497,5 194,6 48 4 1998 3800 382 197 33,2 1100 593,8 127,5 50,5 5 1999 4500 487,5 265 37 1080 592 145 46 6 2000 3500 694 280 44,7 840 842,76 153,2 56 7 2001 3700 706 310,5 46 906 860,7 157,5 58 8 2002 4200 740 360 49 945,8 863,8 162,3 63 9 2003 4700 825,7 412,9 57 1178,5 935 194,2 76,5 10 2004 4790 837 483,5 61 1194 961,8 197,6 79 11 2005 4983 934 491,7 67 1237,6 983,3 199.4 83.5 Nguồn: Tập chí kinh tế Việt Nam và thế giới 2004-2005 Qua những số liệu trên cho thấy mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam đều tăng do kéo theo nguồn thu ngoại tệ cũng tăng lên đóng góp phần lớn làm tăng cán cân thương mại và nguồn ngoại tệ của quốc gia. Số liệu cũng cho thấy mặt hàng goạ và cà phê là có mức chênh lệch nhất trong 4 mặt hàng so với các đối thủ cạnh tranh. Sau đây ta đi phân tÝch cụ thể mặt hàng cà phê – là mặt hàng có nguồn thu ngoại tệ lớn nhất so với các mặt hàng nông sản khác. có thể nói cà phê là thức uống mà được nhiều người ưu thích, là măt hàng xuất khẩu ở nhiều thị trường và đem lại nguồn thu ngoại tệ lớn. Phân chia xuất khẩu theo thị trường. Trước kia thị trường xuất khẩu cà phê của Việt Nam chủ yếu là các nước thuộc khu vực I. Liên Xô là thị trường chính, khố lượng xuất khẩu cà phê của Việt Nam sang thị trường này là 55-60%. Từ cuối năm 1985 trở đi Việt Nam bắt đầu xuất sang các nước thuộc khu vực II. Thời kỳ này, Việt Nam chưa gia nhập Hiệp Hội cà phê quốc tế (ICO) nên việc xuất khẩu chỉ là xuất thử hoặc qua trung gian, thường là Singapore với tỷ lệ 30-40% tổng sản lượng bằng 60% lượng xuất khẩu sang khu vực II với giá thấp và chất lượng không cao trong khi chất lượng yêu cầu của các nước tiêu thụ trực tiếp lại rất cao. Đến năm 1994 trở đi Việt Nam mới thâm nhập vào thị trường Châu Âu, Nhật, Mỹ, giảm lượng xuất khẩu qua trung gian Singapore, nâng kim ngạch xuất khẩu lên đáng kể. Sự có mặt của cà phê Việt Nam trên thị trường Mỹ là chứng nhận cho cố gắng to lớn của những nhà xuất khẩu Việt Nam. Bảng 2: Thị trường xuất khẩu cà phê của Việt Nam. Đơn vị: Tấn Khu vực 1995-1996 1996-1997 1997-1998 1998-1999 Châu Mỹ 67.084 84.255 87.834 69.381 Châu á 45.045 32.248 45.943 28.564 Châu Phi 6.767 11.729 4.816 5.340 Châu Âu 94.982 189.084 243.297 278.125 Châu úc 6.913 7.038 8.839 15.483 Tổng 220.755 324.318 390.279 396.893 Tạp chí kinh tế phát triển số 125 tháng 3/2001 Qua bảng số liệu trên cho thấy nếu như niên vụ 1995-1996 thị trường Châu á nhập 45.045 tấn cà phê chiếm 20, 4 tổng sản lượng xuất khẩu của Việt Nam, thị trường Châu Âu nhập 94.982 tấn (chiếm 43,03%) thì trong niên vụ 1998-1999 thị trường Châu á chỉ còn nhập 28.564 tấn cà phê (chiếm 7c,2%), thị trường Châu Âu nhập 278.125 tấn (chiếm 70,08%). Điều này chứng tỏ các nhà xuất khẩu cà phê của Việt Nam đang từng bước việc hạn chế việc xuất qua trung gian cà cố gắng mở rộng thị trường sang các quốc gia có nhu cầu tiêu thụ cà phê lớn như: Mỹ, Anh, Pháp… Phân chia xuất khẩu theo số lượng. Lượng cà phê xuất khẩu của Việt Nam được thể hiện qua bảng dưới đây. Bảng 3: Lượng xuất khẩu cà phê Việt Nam năm 1998-2004. Niên vụ Sản lượng cà phê thu hoạch (tấn) Lượng cà phê xuất khẩu L (tấn) Tỷ lệ xuất khẩu (%) 1998-1999 235.000 220.755 93,94 1999-2000 362.000 324.318 89,58 2000-2001 400.000 390.279 97,56 2001-2002 420.000 396.893 94,45 2002-2003 600.000 546.000 90,83 2003-2004 750.000 683.400 91,12 Tạp chí kinh tế phát triển tháng 3/2004 Qua bảng số liệu trên cho thấy 6 năm trở lại đây lượng cà phê xuất khẩu tăng nhiều và có xu hướng tiếp tục tăng trong những năm tới. Hàng năm tỷ lệ xuất khẩu so với sản lượng khá ổn định và giữ ở mức cao, đa số rưd 90% trở lên. Con số này phản ánh chủ trương đẩy mạnh xuất khẩu nông sản của Việt Nam. Theo giá cả. Nhìn chung giá nông sản của Việt Nam thường thấp hơn so với một số nước, bên cạnh đó nước ta thường xuất khẩu theo giá FBO nên giá trị thu về thường không cao. Thêm vào đó diễn biến về giá cả trong những năm qua cũng đã làm cho hàng nông s._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA0601.doc
Tài liệu liên quan