Vai trò của Thị trường chứng khoán & sự cần thiết của việc hình thành & phát triển Thị trường chứng khoán ở Việt Nam

LỜI MỞ ĐẦU Sau cuộc cải cách kinh tế Việt Nam đã có nhiều thành công trong sự nghiệp phát triển kính tế của mình.Cuộc cải cách này đã có những tác động rất lớn tới toàn bộ đời sống kính tế xã hội và tạo ra những chuyên biến tích cực trong nền kính tế .Chính vì vậy mà đã xuất hiện những cơ sở vững chắc và ngày càng lớn mạnh để hình thành thị trường tài chính ,quan trọng nhất là sự hình thành thị trường chứng khoán tại Việt Nam. Cách đi từng bước và chính xác trên con đường để đi tới một nền kinh

doc34 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1360 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Vai trò của Thị trường chứng khoán & sự cần thiết của việc hình thành & phát triển Thị trường chứng khoán ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tế thị trường phát triển là một điều rất hoan nghênh. Tiến trình cải cách cũng cho ra đời một thị trường tiền tệ với sự xuất hiện hàng loạt các hợp tác xã tín dụng, ngân hàng thương mại cổ phần, công ty tài chính song song với sự chuyển đổi các ngân hàng quốc doanh trở thành những ngân hàng chuyên doanh. Một số ngân hàng liên doanh với nước ngoài và chi nhánh ngân hàng nước ngoài cũng bắt đầu được cấp giấy phép hoạt động tại Việt Nam. Điều này đã chứng tỏ nhu cầu về vốn ngày càng tăng mà đòi hỏi phải có những biện pháp và công cụ hữu hiệu để mở rộng việc huy động vốn nhãn rỗi cả của khu vực dân cư ở trong nước và của nước ngoài. Để làm được điều này vào năm 1990, Việt Nam đã ban hành đạo luật về công ty trách nhiệm hữu hạn và Công ty cổ phần. Các doanh nghiệp theo mô hình cổ phần, đặc biệt trong lĩnh vực: dịch vụ, thương mại, tài chính, ngân hàng đã được thành lập. Thêm vào đó từ năm 1993 trở đi, nhà nước Việt Nam cũng đã thực hiện rộng rãi việc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước gần đây Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam cũng được sửa đổi cho phép người nước ngoài tham gia trực tiếp đâù tư dưới hình thức góp vốn cổ phần vào các công ty cổ phần tại Việt Nam. Tất cả các điều trên nói lên một thị trường vốn mà đỉnh cao là thị trường chứng khoán đã có cơ sở để hình thành tại Việt Nam. Sự ra đời của thị trường chứng khoán tại Việt Nam cũng là một yêu cầu tất yếu. Cách thức huy động vốn trên thị trường chứng khoán rất thuận tiện khắc phục được những nhược điểm của các biện pháp huy động vốn hiện nay. Hiện tại cách huy động vốn của Việt Nam hiện nay là phát hành tín phiếu, kỳ phiếu kho bạc và tiền gửi tiết kiệm. Theo cách huy động vốn này, chỉ khi đến hạn người sở hữu các loại kỳ phiếu mới được thanh toán cả gốc và lãi, còn đối với người gửi tiền tiết kiệm nếu rút tiền trước thời hạn thanh toán, họ sẽ mất quyền được hướng lãi. Trong điều kiện hiện nay thì vấn đề đầu tư vốn gặp phải khó khăn thực sự. Sự ra đời của thị trường chứng khoán sẽ giải quyết được các trở ngại nói trên. Trên thị trường chứng khoán người thừa vốn (các nhà đầu tư ) có thể mua và bán chứng khoán bất kỳ lúc nào họ muốn, không bị câu nệ về thời gian và không bị làm phiền hà, ràng buộc về thủ tục mua bán. Chính nhờ sự thuận tiện và thông thoáng này mà từ lâu thị trường chứng khoán đã trở thành môi trường đầu tư hấp dẫn đối với những người có vốn nhàn rỗi, những người kinh doanh chứng khoán. Thông qua thị trường chứng khoán nhiều nuớc đã huy động được một khối lượng lớn vốn đầu tư nước ngoài và tận dụng được nguồn vốn nhàn rỗi trong nước bỏ vào phát triển sản xuất kinh doanh. Để đáp ứng những nhu câu trên phù hợp với trình độ phát triển kinh tế, ngày 28/11/1996, Thủ tướng Chính phủ đã kỳ Nghị định 75/CP khai sinh ra Uỷ Ban chứng khoán Nhà nước Việt Nam ( UBCKNN ) với mong muốn thúc đẩy sự ra đời có trật tự và có hiệu quả của thị trường chứng khoán ở Việt Nam. Sau một thời gian vừa ổn định tổ chức, vừa tiến hành một số công việc chuẩn bị, ngày 25 tháng 8 năm 1997 tại Hà Nội, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước đã chính thức làm lễ ra mắt ( sau nay là Thị trường Chứng khoán Việt Nam). Cùng với sự chuẩn bị chính thức hình thành này việc tạo ra các hàng hoá lưu thông trên thị trường chứng khoán Việt Nam là một vấn đề hết sức quan trọng để đảm bảo sự tồn tại và phát triển của một tổ chức mới này. Trong khuôn khổ bản đề án này, em xin trình bày về vai trò của thị trường chứng khoán và sự cần thiết của việc hình thành và phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam , đặc biệt là một số biện pháp tạo ra hàng hoá cho TTCK Việt Nam. PHẦN A : VAI TRÒ CỦA TTCK ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ I. THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN - KHÁI NIỆM VÀ CHỨC NĂNG 1) Khái niệm Thị trường chứng khoán(tiếng Latinh- nghĩa là cái ví tiền) là nơi mà cung va cầu của các loại chứng khoán gặp nhau để xác định giá cả, số lượng của từng loại chứng khoán được giao dịch trên thị trường. Với cách hiểu như vậy thì thị trường chứng khoán bao gồm cả hoạt động mua bán trong sở giao dịch và ngoài sở giao dịch, baogồm cả hoạt động mua bán chính thức và không chính thức. Như vậy khái niệm thị trường chứng khoán bao trùm lên khái niệm sở giao dịch chừn khoán .Sở giao dịch chứng khoán thường gắn với một địa danh nào đó như New York, Tokyo, Lndon, Paris . . . Ngay từ khi sở giao dịch chứng khoán đầu tiên được thành lập năm 1531 tại Anwerpen (Bỉ) tại toà trụ sở của nó đã có dòng chữ nổi tiếng "Phục vụ khách hàng tất cả các dân tộc và tiếng nói khác nhau". Điều đó một phần nào giải thích phạm vi và quy mô hoạt động của thị trường chứng khoán, nó không giới hạn trong một không gian mà ngày từ đầu nó đã thể hiện tính chất quốc tế. Với sự thành lập của hãng Hà Lan-Đông Ấn năm 1602 sở giao dịch chứng khoán Amsterdam (Hà Lan) được thành lập, nó trở thành sở giao dịch chứng khoán quan trọng nhất trên thế giới vào thời kỳ đó với kỹ thuật kinh doanh chứng khóan ở một trình độ khá cao. Sau đó các sở giao dịch chứng khoán được thành lập ở một loạt nước như Đức vào cuối thế kỷ 17, ở Anh và Mỹ thế kỷ 18, Thụy sĩ năm 1850, và ở Nhật bản năm 1878. Ngày nay có khoảng 160 sở giao dịch chứng khoán ở 55 nước tư bản. Các sở giao dịch chứng khoán này đều có mối liên hệ trực tiếp hoặc gian tiếp với nhau bởi vì việc buôn bán chứng khoán đã từng bước được quốc tế hoá. Tuy có sở giao dịch chứng khoán như vậy, nhưng chỉ có một số sở giao dịch chứng khoán như New York, Tokyo, London, Frankfurt, Zurich và Paris. . . chiếm vị trí quan trọng nhất, đặc biệt là sở giao dịch chứng khoán New York . Khi một quốc gia bàn đến việc thiết lập thị trường chứng khoán , chúng ta hiểu đó là việc thiết lập một thị trường chứng khoán có tổ chức (sở giao dịch chứng khoán). Đó là ly do để người ta đồng nghĩa thị trường chứng khoán với Sở Giao dịch chứng khoán. Nhiều người nghĩ rằng Sở Giao dịc chứng khoán là nơi mua vào và bán ra các loại chứng khoán. Sở Giao dịch chứng khoán không phải là cơ quan sở hữu chứng khoán, do đó nó không mua vào hoặc bán ra bất cứ một loại chứng khoán nào cả. Sở Giao dịch chứng khoán là nơi gặp gỡ các nhà môi giới chứng khoán, để thương lượng đấu giá mua bán chứng khoán, và là cơ quan phục vụ cho hoạt động giao dịch mua bán chứng khoán. Như vậy sự ra đời và phát triển của thị trường chứng khoán đã chứng tỏ sự cần thiết của nó cho đời sống kính tế xã hội của các nước. 2) Chức năng của thị trường chứng khoán Thị trường chứng khoán có chức năng cơ bản sau đây : - Thứ nhất : TTCK được xem như các cầu vô hình nối liền giữa người thừa vốn và người thiếu vốn, để họ giúp đỡ nhau thông qua việc mua bán cổ phiếu, hay nói cách khác, thị trường chứng khoán sinh ra để huy động vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế, bỏ vào phát triển sản xuất kinh doanh, tạo công ăn việc làm cho người lao động, giảm thất nghiệp, góp phần ổn định đời sống dân cư, ổn định xã hội. - Thứ hai : TTCK đóng vai trò tự động điều hoà vốn giữa nơi thừa sang nơi thiếu vốn. Vì vậy, nó góp phần giao lưu và phát triển kinh tế. Mức độ điều hoà này phụ thuộc vào quy mô hoạt động của thị trường chứng khoán. Chẳng hạn, những thị trường chứng khoán lớn như London, New York, Paris, Tokyo v.v . . . thì phạm vi ảnh hưởng của nó vượt ra ngoài khuôn khổ quốc gia vì đây là những thị trường chứng khoán từ lâu được xếp vào loại hoạt động có tâm cỡ quốc tế. Cho nên biến động của thị trường này không những tác động mạnh mẽ tới nền kinh tế của bản thân nước sở tại mà còn ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán nước khác. - Thứ ba : TTCK bảo đảm thông tin chính xác, kịp thời (cho các nhà đầu tư và các nhà kinh doanh chứng khoán) về tình hình cung - cầu, thị giá của từng loại chứng khoán trên thị trường mình và trên các thị trường chứng khoán hữu quan. - Thứ tư : TTCK bảo đảm cho các loại chứng khoán được phép lưu hành có nơi mua bán thuận tiện theo quy luật cung - cầu, như mọi hàng hoá khác. Tuy nhiên, giá cả trên thị trường chứng khoán không còn do cung cầu trên thị trường quyết định nữa mà do sự bùng nổ của cuộc cách mạng thông tin và viễn thông nên giá cả của các loại chứng khoán do cung cầu trên nhiều thị trường chứng khoán hữu quan quyết định. Vì vậy thị giá của cùng một loại chứng khoán trên các thị trường khác nhau không chênh lệch nhau nhiều lắm, do đó làm giảm sự di chuyển chứng khoán giữa các thị trường. Tóm lại, thị trường chứng khoán hoạt động lấp đi hố ngăn cách giữa cung và cầu về vốn, giữa người mua và bán chứng khoán. Đặc biệt thị trường chứng khoán đã đáp ứng được nhu cầu vay vốn dài hạn trong nền kinh tế vì các chứng khoán dài hạn vẫn được các nhà đầu tư ngắn hạn mua, khi cần tiền họ có thể bán các chứng khoán đó trên thị trường chứng khoán. Như vậy thị trường chứng khoán đã đáp ứng được đồng thời nhiều yêu cầu tồn tại trong nền kimh tế. II. VAI TRÒ CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN Sự tạo lập và phát triển thị trường chứng khoán có ý nghĩa rất quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế của các nước có nền kinh tế phát triển. Nó là kênh bổ sung các nguồn vốn trung và dài hàn cho Nhà nước và doanh nghiệp. Nó là yêu tố hạ tầng quan trọng nhất, một công cụ có rất nhiều lợi thể. Chính vì vậy, ở hầu hết các nước có nền kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường đều tồn tại một thị trường chứng khoán với các vai trò chủ yếu sau đây : 1). Tạo vốn cho sự phát triển kinh tế Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, không có khái niệm về giao lưu vốn và cũng không tạo ra nhu cầu về tiền và vốn để đầu tư cho sản xuất kinh doanh. Nền kinh tế của cơ chế này là nền kinh tế gần như đơn nhất, chỉ tồn tại chủ yếu kinh tế quốc doanh hoạt động theo sự chỉ đạo tập trung thống nhất của nhà nưóc. Nhà nước giao chỉ tiêu cho các xí nghiệp quốc doanh , xí nghiệp này làm ra sản phẩm giao cho thương nghiệp quốc doanh là hoàn toàn kế hoạch. Bên cạnh đó, cơ chế phân phối bình quân theo giá cả bao cấp cho cả sản xuất và tiêu dùng đã làm tê liệt các chức năng của đồng tiền, phá vỡ mối quan hệ cung cầu và quy luật giá trị. Trên thực tế, đồng tiền trong kế hoạch hoá tập trung không phản ánh được bản chất của sự vận động kinh tế xã hội. Khi chuyển sang cơ chế thị trường, xí nghiệp quốc doanh chủ động trong sản xuất kinh doanh, mọi vấn đề về vốn được thay đổi sự phát triển các thành phần kinh tế cùng với tự chủ tài chính trong khu vực kinh tế quốc doanh đã thực sự tạo ra môi trường cạnh tranh cho tất cả các doanh nghiệp. Ở đây, nhu cầu giao lưu vốn đã xuất hiện, phản ánh quan hệ cung cầu và quy luật giá trị. Nhu cầu này bắt nguồn từ hai phía: phía những người cần vốn và phía những người có vốn. Trong cơ chế thị trường, không chỉ bao gồm mối quan hệ cung cầu hàng hóa, mà đã xuất hiện và ngay càng phát triển quan hệ về tiền và vốn. Quan hệ này tất yếu sẽ dẫn đến nhu cầu vận động vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu. Sự vận động này phụ thuộc vào nhịp độ tăng trưởng sản xuất và sự phát triển của nhu cầu đầu tư, bao trùm toàn bộ nền kinh tế. Tuy nhiên, yêu cầu vận động của tiền vốn là hết sức phức tạp, đa dạng và phong phú. Để thoả mãn nhu cầu này, phải có một hệ thống các tổ chức tài chính ứng với các công cụ thuận lợi nhất để thực hiện giao lưu vốn nói trên, đó là các loại chứng khoán. Thị trường vốn đỉnh cao là thị trường chứng khoán là nơi tạo ra môi trường thuận lợi để dung hoà các lợi ích kính tế khác nhau của các thành viên các nhau trên thị trường thông qua một cơ chế hoạt động hợp pháp nhằm hạn chế những rủi ro. Thị trường chứng khoán, như một trung tâm thu gom nguồn vốn tiết tiệm lớn nhỏ của từng hộ dân cư, như một nam châm cực mạnh thu hút nguồn vốn to lớn từ nước ngoài, thu hút nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi từ các doanh nghiệp, các tổ chức tài chính , chính phủ tạo thành một nguồn vốn khổng lồ tài trợ cho nền kinh tế, mà các phương thức khác không thể làm được. Nó tạo ra cơ hội cho các doanh nghiệp có vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh và thu được lợi nhuận nhiều hơn, đồng thời nó góp phần quan trọng trong việc kích thích các doanh nghiệp làm ăn ngày càng có hiệu quả hơn bằng cách vừa sản xuất kinh doanh hàng hóa vừa mua bán chứng khoán tạo thêm lợi nhuận. Nó giúp nhà nước giải quyết vấn đề thiếu hụt ngân sách trên thị trường trái phiếu, có thêm vốn để xây dựng cơ sở hạ tầng. Nó cũng trực tiếp cái thiện mức sống của người tiêu dùng bằng cách giúp họ chọn thời điểm cho việc mua sắm của họ tốt hơn. 2) Công cụ để thúc đẩy sự phát triển và ổn định nền kinh tế Thị trường chứng khoán là một định chế tài chính cực kỳ mạnh trong sự phát triển và ổn định nền kinh tế, bởi vì nó có những vai trò sau đây : _ Giúp nhà nước thực hiện chương trình phát triển kinh tế : Bất kỳ một nhà nước nào cũng có nhiệm vụ ổn định và phat triển kinh tế. Nguồn kinh phí để thực hiện các nhiệm vụ này được lấy từ ngân sách nhà nước. Ngân sách nhà nước càng lớn thì các chương trình phát triển kinh tế càng có điều kiện thuận lợi để đạt được thành công. Nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước là thuế. Nhưng thông thường, thuế không đủ để cho chính phủ chi tiêu vì vậy cần thêm các khoản thu phụ khác đó là từ các kỳ phiếu, tín phiếu kho bạc. Xét về phương diện kinh tế, đó là biện pháp tích cực. Nhà nước không phải thông qua Ngân hàng trung ương để phát hành thêm tiền mặt mà phát hành kỳ phiếu vay vốn trong dân cư cho nên lượng tiền mặt trong dân cư không tăng lên và không gây nên lạm phát. Hiện nay ở hầu hết các nước, nhà nước phát hành kỳ phiếu thông qua thị trường chứng khoán. Không có thị trường chứng khoán thì nhà nước vẫn phát hành được kỳ phiếu. Nhưng có thị trường chứng khoán thì nhà nước bán được một cách dễ dàng. Vì kỳ phiếu của nhà nước cũng là một loại chứng khoán chuyển nhượng được và có thể mua bán trên thị trường chứng khoán. Vì vậy thị trường chứng khoán là một công cụ hữu hiện giúp nhà nước trong việc huy động vốn cho việc thực hiện chương trình phát triển kinh tế xã hội. _ Điều tiết vốn đầu tư : + TTCK là công cụ thu hút và kiểm soát vốn đầu tư nước ngoài : thị trường chứng khoán là công cụ cho phép vừa thu hút, vừa kiểm soát vốn đầu tư nước ngoài một cách tốt nhất, vì nó hoạt động theo nguyên tắc công khai. Nghĩa là mọi đối tượng tham gia mua bán chứng khoán phải công khai hóa và cập nhật hóa toàn bộ những thông tin liên quan đến giá trị chứng khoán, và công khai khả năng tài chính trong các giao dịch mua bán chứng khoán. Như vậy, có thị trường chứng khoán sẽ khắc phục được tình trạng thiếu thông tin hoặc thông tin không trung thực, thiếu chính xác. Đầu tư qua thị trường chứng khoán, tức là đầu tư mua bán chứng khoán tại một thị trường chứng khoán có tổ chức. Trong mỗi loại chứng khoán theo luật định sẽ có một phần bán cho người nước ngoài. Đó là sự khống chế ở các mức tương tự cho từng ngành kinh tế, quyền kiểm soát công ty có vốn đầu tư nước ngoài luôn luôn thuộc về nước sở tại. Đó là ưu điểm cơ bản của phương thức thu hút vốn đầu tư nước ngoài thông qua thị trường chứng khoán. Điều này có ý nghĩa quan trọng đối với nhà nước trong việc ổn định nền kinh tế tránh sự lệ thuộc về kinh tế vào các nhà tư bản nước ngoài. + TTCK lưu động hóa mọi nguồn vốn trong nước : các cổ phiếu, trái phiếu tương trưng cho một số vốn đầu tư được mua đi bán lại trên thị trường chứng khoán như một thứ hàng hóa. Người có vốn (có cổ phiếu, trái phiếu) không sợ vốn mình bị chôn vì bất cư khi nào cần họ có thể bán lại các cổ phiếu, trái phiếu này trên thị trường chứng khoán, để mua lại cổ phiếu, trái phiếu khác, nhờ vậy sinh hoạt kinh tế thêm sôi động. Với một thị trường chứng khoán hoạt động tốt, các nhà doanh nghiệp sẵn sàng bỏ vốn đầu tư phát triển kỹ nghệ, làm cho mọi nguồn vốn được lưu động hóa. Đối với những người có vốn tiết kiệm nhỏ cũng có thể mua được chứng khoán trên thị trường chứng khoán, mà không sợ bị kẹt tiền, vì ngay khi cần họ có thể bán số chứng khoán đó ngay. Một khi việc đầu tư vào các doanh nghiệp có lợi đối với các tầng lớp đân chúng, thì qua thị trường chứng khoán các món tiền tiết kiệm lớn nhỏ đều sẵn sàng từ bỏ sự bất động hóa, chấp nhận vào quá trình đầu tư. _ Khắc phục chu kỳ kinh doanh : + Thị trường chứng khoán làm giảm áp lực lạm phát : Lạm phát luôn là nguy cơ đe doạ sự tăng trưởng ổn định của nền kinh tế.Thị trường chứng khoán hỗ trợ cho hệ thống ngân hàng đặc biệt là Nhân hàng trung ương trong việc giảm áp lực lạm phát. Khi xuất hiện hiện tượng lạm phát, Ngân hàng trung ương sẽ đưa ra bán các loại kỳ phiếu trên thị trường chứng khoán với lãi suất cao để thu hút bớt số tiền đang lưu thông về và làm giảm áp lực lạm phát. Thị trường chứng khoán cũng ngăn chặn việc chuyển hoá vốn quá mức trong nền kinh tế. Đó là khi các ngân hàng thương mại cho các công ty vay nhưng không thu hồi được do một số công ty làm ăn thu alỗ, số tiền này nằm lại trong lưu thông làm tăng lượng vốn lưu hành. Do đó hệ thông ngân hàng thương mại sẽ hạn chế cho vay đối với những dự án có khả năng sinh lời thấp. Trong khi đó, thị trường chứng khoán sẽ bù vào khoản thiếu hụt này và gây áp lực để các dự án đầu tư đạt hiệu quả cao. Như vậy, thị trường chứng khoán cũng giúp làm giảm nguy cơ lạm phát. + Khắc phục tính trạng suy thoái của nền kinh tế : Như chúng ta đã biết khi nền kinh tế đang trong tính trạng suy thoái , đó là tổng sản phẩm sản xuất ra trong nền kinh tế giảm đi. Nó ảnh hưởng một cách mạnh mẽ và trực tiếp đến đời sống kinh tế, đặc biệt là tất cả chúng ta như khi sản phẩm sụt giảm thì để tìm được một việc làm tốt là rất khó khăn. Để khôi phục vấn đề này một trong những biện pháp hữu hiện là mở rộng đầu tư sản xuất(cung tạo ra câu). Nói đến đầu tư mở rộng sản xuất phải nái đến vốn mà trong đó thị trường chứng khoán là mọt tổ chức tài chính huy động vốn có hiệu quả nhất. Thông qua thị trường chứng khoán các doanh nghiệp có thể huy động được vốn bằng cách phát hành cổ phiếu hoặc trái phiếu bán ra để mở rộng quá trình sản xuất kinh doanh, đồng thời chính phủ có thể mua các loại cổ phiếu, trái phiếu để tạo vốn cho việc đẩy mạnh mở rộng sản xuất tăng sản phẩm cho nền kinh tế. Khi đó nền kinh tế sẽ được khôi phục lại. _ Thúc đẩy hiệu quả kinh tế : Thị trường chứng khoán là một công cụ tuyệt vời cho các nhà kinh doanh có thể vay vốn để đầu tư vào sản xuất nhưng cũng đòi hỏi rất cao ở họ. Ban quản trị thị trường chứng khoán chỉ cho phép cổ phiếu, trái phiếu của các công ty có đủ điều kiện như : kinh doanh hợp pháp, tài chính lành mạnh, có doanh lợi . . . được lưu hành trên thị trưòng và công chúng chỉ mua cổ phiếu của những công ty thành đạt. Thêm vào đó, luật lễ thị trường chứng khoán bắt buộc các doanh nghiệp có chứng khoán lưu hành trên thị trường chứng khoán phải công bố công khai các báo cáo tài chính, kết quả kinh doanh qua đó công chúng có cơ hội đánh giá kết quả hoạt động của công ty. Nếu một công ty làm ăn có lãi, thị giá chứng khoán của nó sẽ tăng trên thị trường chứng khoán và công ty có thể dễ dàng vay thêm vốn để mở rộng kinh doanh. Nếu một công ty làm ăn thua lỗ, giá chứng khoán của nó trên thị trường sẽ giảm vì tất cả những người sở hữu chứng khoán của công ty này sẽ đồng loạt bán chứng khoán ra thị trường chứng khoán. Việc này làm cho tổng số vốn của công ty giảm sút, công ty không có khả năng thành toán các khoán nợ đến hạn và dẫn tới phá sản. Do đó, thị trường chứng khoán gây áp lực rất lớn buộc các công ty có chứng khoán lưu hành trên thị trường chứng khoán phải làm ăn có lãi. Vì có như vậy các công ty mới có cơ hội để tồn tại và phát triển mà nhờ đó toàn bộ nền kinh tế xã hội sẽ tốt hơn. Tóm lại, chúng ta thấy thị trường chứng khoán đóng một vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế. Nó là một công cụ kinh tế nhờ đó người ta có thể huy động được những nguồn vốn khác nhau cho đầu tư, là một công cụ để phát triển và ổn đinh nền kinh tế mà trong đó bao gồm nhiều vai trò rất đa dạng. Vì vậy cần phải sớm hình thành và phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam để khai thác những ưu việt của nó phục vụ cho sự phát triển kinh tế đát nước. PHẦN B : TÌNH HÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TTCK Ở VIỆT NAM I. TÌNH TẤT YẾU CỦA VIỆC HÌNH THÀNH TTCK Ở VIỆT NAM 1) Do yêu cầu của nền kinh tế Thực tế ở tất cả các nước có thị trường chứng khoán, khi nền kinh tế thị trường ra đời thì chưa có thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán chỉ ra đời khi nền kinh tế đã phát triển ở mức độ nhất định và đòi hỏi phải hình thành một tổ chức nào đó có khả năng tiếp thêm sức mạnh cho thị trương - đó là thị trường chứng khoán với việc cung cấp vốn cho nền kinh tế. Có thể nói nền kinh tế hàng hóa phát triển làm nảy sinh thị trương chứng khoán và thị trường chứng khoán đến lượt nó lại tiếp thêm nguồn lực (vốn) để thục đẩy nền kinh tế hàng hoá phát triển . Sự phát triển kinh tế ngày càng tăng của phân công lao động theo hướng chuyên môn hóa theo ngành, nghề trong cơ cấu sản xuất của nền kinh tế. Quá trình chuyên môn hoá theo ngành càng cao thì tất yếu sẽ đòi hỏi sự giao lưu, sự luân chuyển các yếu tố của lực lượng sản xuất, trong đó có sự luân chuyển các nguồn vốn tài chính giữa các doanh nghiệp và công cụ thuận lợi nhất để thực hiện sự giao lưu nói trên là các cổ phiếu và trái phiếu mà chủ yếu hoạt động mua bán các công cụ này thường diễn ra thông qua thị trường chứng khoán và thị trường "ngầm". Trong mục tiêu phát triển kinh tế, Việt Nam hiện nay cần rất nhiều vốn. Theo các chuyên gia kinh tế, để duy trì nhịp độ tăng trưởng hang năm từ 9-10% trong giai đoạn 1996-2000, cần đảm bảo mức đầu tư hàng năm ít nhất là 27-30% GDP. Với tỉ lệ đầu tư nói trên, khối lượng cần cho đầu tư trong 5 năm tới sẽ là 40-50 tỷ USD, nghĩa là mỗi năm Việt Nam phải huy động được hơn 8 tỷ USD cho đầu tư phát triển. Thị trường ra đời sẽ giúp giải quyết một phần đáng kể số vốn này . Thông qua thị trường chứng khoán , nhiều nước một số nước đã huy động một khối lượng vốn khổng lồ. Ví dụ ở thị trường chứng khoán New York năm 1995 tổng giá trị chứng khoán được niêm yết là 6.013 tỷ USD, ở thị treoèng chứng khoán London là 1.344,425 tỷ USD. Xem xét tổng nguồn vốn được huy động tại các nước trong khu vực ta thấy (số liệu năm 1993);: tổng giá trị chứng khoán trên Sở giao dịch chứng khoán Kualalumpur là 220,328 tỷ USD, trên Sở giao dịch chứng khoán Thailand là 130,953 tỷ USD, trên Sở giao dịch chứng khoán Jakarta là 32,953 tỷ USD. Thị trường chứng khoán ra đời sẽ thu hút được các món tiền còn đang nằm không trong dân cư, trong các quĩ bảo hiểm, quĩ phục lợi xã hội. Qua các đợt thu đổi tiền tệ đã cho thấy nguồn vốn bằng tiền nằm trong dân cư chiếm từ 65-70% tổng tiền tệ trong lưu thông. Theo ước đoán số đôla nằm trong dân cư là khoảng 2 tỷ USD, số lượng vàng bạc đá quý có giá trị từ 7-10tỷ USD. Đây là nguồn vốn không nhỏ để đầu tư phát triển. Thị trường chứng khoán cũng sẽ thu hút người nước ngoài đầu tư vào trong nước. Trong 45 tỷ USD mà Việt Nam cần tới năm 2000, vốn đầu tư nước ngoài sẽ chiếm khoảng 13 tỷ USD. Đầu tư trên thị trường chứng khoán đêm lại cho các nhà đầu tư nước ngoài nhiều thuận lợi do họ có thông tin và giảm bớt được các thủ tục hành chính. Như vậy, thị trường chứng khoán ra đời tại Việt Nam sẽ huy động được nguồn vốn đáng kể để đáp ứng nhu cầu bức thiết về vốn cho nền kinh tế phát triển trong giai đoạn sắp tới. 2) Do yêu cầu của Nhà nước Để hoàn thiện nhiệm vụ của mình nhà nước luôn phải chi tiêu mà nguồn thu chủ yếu của nhà nước từ thuế thường không trang trải hết các hoạt động của nhà nước. Nhà nước buộc phải vay vốn trong dân cư và các tổ chức tín dụng bằng cách phát hành kỳ phiếu. Thị trường chứng khoán ra đời sẽ giúp cho quá trình phát hành này được thuận lợi hơn. Như em đã trình bày ở phần trên, thị trường chứng khoán cũng có tác động tích cực trong việc giảm áp lực lạm phát. Đặc biệt từ năm 1993, nhà nước Việt Nam đã có chủ trường cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước tức là chuyển các doanh nghiệp quốc doanh sang hình thức cổ phần. Quá trình này diễn ra còn chậm nếu thị trường chứng khoán hình thành thì sẽ thúc đẩy quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước diễn ra nhanh hơn. Những ly do cơ bản trên nói trên sự hình thành của thị trường chứng khoán ở Viẹt Nam là một tính tất yếu và chắc chắn trong tương lai gần Việt Nam sẽ có một thị trường chứng khoán theo đúng ý nghĩa của nó để đáp ứng các nhu câu của nền kinh tế. II. CÁC ĐIỀU KIỆN CẦN THIẾT ĐỂ THÀNH LẬP TTCK Ở VIỆT NAM Xây dựng một thị trường chứng khoán là một vấn đề không mấy khó khăn nhưng tổ chức nó hoạt động một cách có hiệu quả và đêm lại những tác động tích cực cho nền kinh tế thì lại là một vấn đề hết sức khó khăn. Để có được một thị trường hoạt động lành mạnh và hạn chế được những tiêu cực mkà nó có thể gây ra cho nền kinh tế, Việt Nam cần phải chuẩn bị môi trường kinh tế, pháp lý chặt chẽ và phù hợp với các quy luật của nền kinh tế thị trường. Như vậy cần phải chuẩn bị tốt các yếu tố về kinh tế, pháp lý, kỹ thuật và để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của thị trường chứng khoán. 1) Yếu tố kinh tế : Đây là yếu tố rất quan trọng làm nền tảng để đảm bảo cho khả năng có các loại chứng khoán lưu thông trên thị trường. Yếu tố này được quyết định bởi các chính sách phát triển kinh tế và các định chế tài chính của nhà nước. Việc thông qua các Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Luật Doanh nghiệp và Công ty . . . là cơ sở để các thành phần kinh tế tư nhân, các công ty liên doanh, công ty cổ phần ngày càng phát triển cùng với các đơn vị kinh tế quốc doanh. Đây là các đơn vị kinh tế có thể phát hành các loại cổ phiếu, trái phiếu là hàng hoá để giao dịch trên thị trường chứng khoán. Việt Nam cũng đang tiến hành các doanh nghiệp nhà nước , điều này cũng là yếu tố để tạo ra hàng hóa cho thị trường chứng khoán . Như vậy xét về yếu tố kinh tế, Việt Nam hiện nay có thể nói là đã thoả mãn yếu cầu của thị trường chứng khoán. Nhà nước đã cho phép các công ty cổ phần hoạt động, cho phép các loại chứng khoán được lưu hành hợp pháp tức là tạo ra hàng hoá cho thị trường chứng khoán. Điều này cho phép thị trường chứng khoán có thể ra đời. 2 . Yếu tố pháp lý : Nếu yếu tố kinh tế là nền tảng để hình thành thị trường chứng khoán thì yêu tố pháp lý là công cụ duy trì cho thị trương chứng khoán hoạt động đều đặn, lành mạnh, có hiệu quả và ngày càng phát triển . Có hai điểm khó khăn trong việc nghiên cứu và đề suất khung pháp lý cho thị trường chứng khoán ở Việt Nam hiện nay. Trước hết đó là vì các hoạt động của thị trường chứng khoán tinh vi và phức tạp hơn nhiều các loại thị trường khác. Thứ hai;, Việt Nam chưa có lý luận thực tiễn về nghề nghiệp chứng khoán. Trong quá trình xây dựng khung pháp lý cho thị trường chứng khoán, một nguyên tắc cần phải thực hiện triệt để là : luật pháp về chứng khoán phải thể hiện chức năng và quyền hạn quản lý nhà nước cao nhất về chứng khoán làm nhiệm vụ phát triển và giám sát các hoạt động có liên quan tới chứng khoán, kinh doanh chứng khoán, Sở giao dịch chứng khoán, các thị trường phi tập trung (OTC), phát hành và đấu thầu chứng khoán mới, các luật về thôn tính và sát nhâp, ngăn ngừa các hoạt động kinh doanh bất hợp pháp. Cũng như các nước khác, Việt Nam sẽ phải xây dựng và ban hành luật chứng khoán và giao dịch chứng khoán. Trong luật này, các vấn đề sẽ được luật hoá là : các quy định về các tổ chức phát hành chứng khoán, các phương pháp phát hành chứng khoán mới, quy chế đấu thấu chứng khoán mới. Ngoài ra quy chế về tổ chức và hoạt động của Sở giao dịch chứng khoán cũng cần phải được luật quy định chặt chẽ. Luật pháp về chứng khoán cũng phải có những quy định để điều chỉnh hoạt động của thị trường chứng khoán. Cần có những quy định chặt chẽ về các loại chứng khoán được đưa ra thị trường, nguyên tắc định giá chứng khoán, cách thức chuyển lệnh, đặt giá, đăng ký giao dịch, quy định về kế toán, kiểm toán, các yêu cầu về thông tin, xử lý tranh chấp, xử phạt vi phạm, các quy định về thanh tra, kiểm tra . . . Quy chế đầu tư cá nhân đặc biệt là quy chế cho các nhà đầu tư thể chế như các công ty bảo hiểm, các công ty tài chính, các quỹ đầu tư cũng là bộ phận mà luật chứng khoán cần phải đề cấp tới. Hiện nay ở Việt Nam, một số điều khoản liên quan đến quyền huy động vốn của các công ty cổ phần và các doanh nghiệp nhà nước được quy định trong luật công ty và luật doanh nghiệp nhà nước. Còn bộ phận lớn các quy định cần thiết khác mà chưa được xác định đầy đủ. Do vậy cần phải làm nhiều việc để xây dựng khung pháp lý chuẩn bị cho thị trương chứng khoán ra đời ở Việt Nam. 3) Yếu tố kiểm soát và yếu tố kỹ thuật : Hoạt động của thị trường chứng khoán phải đặt dưới sự kiểm soát của nhà nước nhằm bảo vệ quyền lợi của những người kinh doanh chứng khoán và hạn chế các yếu tố tiêu cực của thị trường chứng khoán. Nhà nước cần thành lập Uỷ ban chứng khoán quốc gia để thực hiện quản lý nhà nước đối với hoạt động của thị trường chứng khoán. Vào ngày 28 tháng 11 năm 1996 Uỷ ban chứng khoán quốc gia Việt Nam đã được chính phủ thành lập . Uỷ ban này có nhiệm vụ xây dựng hoàn chỉnh hệ thống pháp lý cho thị trường chứng khoán đồng thơì xây dựng một hoặc một số Sở giao dịch chứng khoán, quỹ đầu tư, trung tâm quản lý lưu giữ chứng khoán và thành toán bù trừ. Yếu tố kỹ thuật của thị trường chứng khoán bao gồm cơ sở vật chất kỹ thuật thuần tuý và con người. Cơ sở vật chất thuần tuý là các máy móc thiết bị, phương tiện thông tin tính toán, văn phòng giao dịch. Đây không phải là khó khăn khi xây dưng thị trường chứng khoán. Vấn đề khó chính là con người . Việt Nam cần có các nhà môi giới chứng khoán, các chuyên gia chứng khoán, các nhà tổ chức và điều hành thị trường chứng khoán. Trước mặt cần phải có chương trình đào tạo khẩn cấp các cán bộ trong ngành ngân hàng tài chính sau đó sẽ đào tạo với quy mô dài hơn. Đồng thời cần phải đưa môn học về thị trường chứng khoán vào các trường đại học trung học kinh tế nhất là trong các chuyên ngành nhân hàng tài chính . Ngoài các yếu tố nêu trên, cần có sự tuyên truyền sâu rộng trong dân cư về tính hấp dẫn khi đầu tư vào thị trường chưng khoán cũng như đưa ra những đảm bảo cho quyền lợi hợp pháp của các nhà đầu tư. Đã có những cơ sở để hình thành và phát triển thị trương chứng khoán, Việt Nam cần phải có những cơ sở lý luận và biện pháp để khuyên khích việc tạo ra các loại chứng khoán mà là hàng hóa cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của thị trường chứng khoán mới mẻ này. PHẦN C: TẠO RA HÀNG HÓA CHO TTCK VIỆT NAM I . PHÂN LOẠI CHỨNG KHOÁN-HÀNG HOÁ CỦA TTCK Hàng hóa củ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0584.doc
Tài liệu liên quan