I,MỞ ĐẦU
Như chúng ta đã biết, đất nước ta phát triển bỏ qua giai đoạn chủ nghĩa tư bản, từ một nước phong kiến lạc hậu đi lên xây dựng CNXH. Và hiện tại chúng ta đang trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Đó là một thời kỳ đầy rẫy những thử thách và khó khăn do xuất phát điểm của chúng ta còn thấp. Nhưng hơn hai mươi năm trở lại đây, đất nước ta đã phát triển mạnh mẽ nhờ chủ chương xây dựng nền KTTT định hướng XHCN của Đảng và nhà nước. Khi nói đến KTTT thì ta nghĩ ngay đến chủ nghĩa tư bản, và có ý
18 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1319 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Vai trò của thành phần kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài,thực trạng và giải pháp trong thu hút và sử dụng vốn đầu tư tực tiếp nước ngoài( Foreign Direct Investment-FDI ), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kiến cho rằng việc lựa chọn KTTT định hướng XHCN thực chất là trở về với chủ nghĩa tư bản, có thêm định ngữ “định hướng XHCN” cũng chỉ để cho yên long, cho có vẻ “giữ vững lập trường” mà thôi, trước sau gì cũng trượt sang con đường chủ nghĩa tư bản.
Đây là những băn khoăn cũng dễ hiểu bởi điều này còn rất mới mẻ .Có thể nói chúng ta là một trong những nước tiên phong cho một mô hình kinh tế mới trong thời đại hiện nay: KTTT định hướng XHCN. KTTT định hướng XHCN không phải là sự gán ghép chủ quan giữa KTTT và CNXH, mà là sự nắm bắt và vận dụng xu thế vận động khách quan của KTTT trong thời đại ngày nay. Và đó chính là “cái đặc thù” của Việt Nam, phù hợp với điều kiện và đặc điểm cụ thể của Việt Nam.
KTTT định hướng XHCN không phải là KTTT tự do theo kiểu tư bản chủ nghĩa, cũng không phải là kinh tế bao cấp quản lý theo kiểu tập trung, quan lieu; và cũng chưa hoàn toàn là KTTT XHCN bởi vì chúng ta vẫn đang trong thời kỳ quá độ lên CNXH, vừa có vừa chưa có đầy đủ các yếu tố của CNXH.
Chính vì vậy, vai trò của nhà nước đối với nền KTTT hiện nay là rất quan trọng. Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, pháp luật và bằng cả sức mạnh vật chất của lực lượng kinh tế nhà nước; đồng thời sử dụng cơ chế thị trường, áp dụng các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý của KTTT để kích thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động, của toàn thể nhân dân.
Chỉ có sự quản lý của nhà nước mới giúp nền KTTT của ta đi đúng hướng, phù hợp với điều kiện đất nước hiện nay. Để làm rõ vấn đề này, sau đây chúng ta sẽ đi nghiên cứu về nhà nước và vai trò của nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong nền KTTT hiện nay, cùng với những biện pháp để nâng cao vai trò đó.
II,LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHÀ NƯỚC VÀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC XHCN VIỆT NAM ĐỐI VỚI NỀN KTTT HIỆN NAY
Quan điểm của Mác về nhà nước là đúng đắn và đã được lấy làm quan điểm chung về nhà nước hiện nay, nhưng trước Mác cung xuất hiện những quan điểm khác nhau về nhà nước như sau:
Đêmôcrít là một đại biểu của tầng lớp chủ nô dân chủ, ông luôn xuất phát từ quan niệm duy vật để bảo vệ quyền lợi của tầng lớp mình, bảo vệ chế độ dân chủ chủ nô. Theo ông thì chế độ dân chủ chủ nô phải gắn liền với nền thương mại và sản xuất thủ công nhưng nó cũng phải gắn liền với tình thân ái, tính ôn hoà và lợi ích chung của công dân tự do, chứ không phải của nô lệ. Nô lệ cần phải tuân theo mệnh lệnh của ông chủ. Nhà nước cộng hoà dân cử là nền tảng của chế độ dân chủ chủ nô phải biết tự điều hành hoạt động của mình theo các chuẩn mực đạo đức và pháp lý. Quản lý nhà nước phải coi như một nghệ thuật mang lại cho con người hạnh phúc vinh quang, tự do và dân chủ .
Còn Platông là một đại biểu trung thành của tầng lớp chủ nô quý tộc chống lại nền dân chủ Aten. Vì thế, ông cho rằng chế độ sở hữu tư nhân không chỉ làm cho nhà nước không thực hiện được sứ mệnh của mình mà hơn thế nữa nó làm cho nhà nước tha hoá, gây ra sự băng hoại đời sống đạo đức, phá hoại tính hài hoà của xã hội. Vì vậy, cần xoá bỏ sở hữu tư nhân; phải xây dựng chế độ sở hữu công xã với tài sản chung trên cơ sở thực hiện một quá trình giáo dục đào tạo, tuyển lựa đặc biệt có chú trọng đến thành phần tinh tuý trong xã hội. Theo Platông, chế độ xã hội tốt nhất phải là chế độ cộng hoà quý tộc do một vị vua tài ba nhất lãnh đạo.
Như vậy, quan điểm về nhà nước của Platông mang đầy tính bảo thủ và mâu thuẫn. Bởi vì, Platông vừa đòi hỏi phải xoá bỏ tư hữu lại vừa đòi hỏi phải bảo vệ cho bằng được chế độ đẳng cấp và sự bất bình đẳng trong xã hội trong xã hội. Một mặt, Platông kêu gọi phải xây dựng cho bằng được nhà nước cộng hoà lý tưởng nhưng mặt khác, ông ra sức bảo vệ cho bằng được lợi ích và địa vị của tầng lớp chủ nô quý tộc chống lại nhà nước dân chủ Aten.
Ph.Bêcơn là một nhà tư tưởng cấp tiến có đầu óc thực tiễn của tầng lớp quý tộc luôn đòi hỏi phải chấn hưng đất nước. Ông cho rằng, phải xây dựng một nhà nước tập quyền đủ mạnh để chống lại mọi đặc quyền, đặc lợi của tầng lớp quý tộc bảo thủ; phải phát triển một nền công nghiệp và thương nghiệp dựa trên sức mạnh của tri thức khoa học và tiến bộ của kỹ thuật. Ông chủ trương cải tạo xã hội bằng con đường khai sang thong qua sự nghiệp giáo dục và đào tạo, đồng thời ông cũng chống lại mọi cuộc đấu tranh của nhân dân.
Mặt khác, Ph.Hêghen thì cho rằng nhà nước Đức, văn minh Đức là đỉnh cao của hiện thân tinh thần tuyệt đối trên trần gian, là chuẩn mực cuối cung mà mọi dân tộc trên thế giới phải vươn tới. Như vậy, Hêghen rất coi trọng và đề cao dân tộc Đức.
Tóm lại, do những hoàn cảnh và tư tưởng khác nhau mà mỗi người lại có một suy nghĩ khác nhau về nhà nước và xã hội. Nhưng tất cả đều có chung mục tiêu vươn tới điều tốt đẹp hơn.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về nhà nước thực sự đúng đắn và được nhiều nước lấy làm cơ sở để xây dựng nhà nước. Theo ông thì:
Nhà nước là một bộ máy trấn áp đặc biệt nhằm duy trì sự thống trị của giai cấp này đối với các giai cấp khác. Nó chỉ xuất hiện trong chinh nội tại xã hội khi trong tổ chức ấy xuất hiện hai tiền đề: sự ra đời và phát triển của chế độ tư hữu tài sản và mâu thuẫn đối kháng giai cấp không thể điều hoà được thì nhà nước ra đời. Đây là quy luật chung mang tính chất cơ bản và phổ biến để các nhà nước khác nhau xuất hiện trên thế giới.
Nguồn gốc sâu xa dẫn tới sự ra đời của nhà nước là nguyên nhân kinh tế, bắt nguồn từ sự phát triển của lực lượng sản xuất. Nguồn gốc trực tiếp dẫn tới sự ra đời và tồn tại cua nhà nước chính là sự xuất hiện chế độ tư hữu và mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà được.
Lịch sử cho thấy rằng, xã hội cộng sản nguyên thuỷ dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, mọi người sống bình đẳng, chưa có giai cấp chưa có nhà nước. Cuối xã hội nguyên thuỷ ,lực lượng sản xuất phát triển mạnh dẫn tới chế độ tư hữu xuất hiện, và xã hội chia thành các giai cấp đối kháng: chủ nô và nô lệ. Mâu thuẫn giữa hai giai cấp này ngày càng sâu sắc và không thể điều hoà được. Để bảo vệ địa vị thống trị của mình mà giai cấp chủ nô đã lập ra bộ máy bạo lực, trấn áp và bắ nô lệ phải phục tùng tuân theo những trật tự do mình đặt ra, bộ máy đó là nhà nước. Nhà nước xuất hiện trong lịch sử là nhà nước chiếm hữu nô lệ. Tiếp đó là nhà nước phong kiến, tư bản, XHCN.
Nhà nước xuất hiện và tồn tại không phải do ý muốn chủ quan của một ai hay của một giai cấp nào. Trái lại, sự xuất hiện nhà nước là một tất yếu khách quan để khống chế nhữnh đối kháng giai cấp, làm cho sự xung đột giai cấp diễn ra trong vong trật tự; trật tự ấy hoan toàn cần thiết để duy trì chế độ kinh tế, trong đó giai cấp này bóc lột giai cấp khác. Nhà nước –“đó là sự kiến lập một trật tự ,trật tự này hợp pháp hoá và củng cố sự áp bức kia bằng cách làm dịu đi xung đột giai cấp”. Nhà nước chỉ ra đời, tồn tại trong một giai đoạn nhất định của sự phát triển xã hội và sẽ mất đi khi những cơ sở tồn tại của nó không còn nữa.
Bản chất của nhà nước, đó là nền chuyên chính của giai cấp này đối với giai cấp khác và đối với toàn xã hội. Đó lànền chuyên chính của giai cấp nắm quyền thống trị về kinh tế trong xã hội. Ph. Ăngghen chỉ rõ: “Nhà nước chẳng qua chỉ là một bộ máy của giai cấp này để trấn áp một giai cấp khác”. Nhà nước chính là một bộ máy cai trị do giai cấp thống trị về kinh tế thiết lập ra nhằm hợp pháp hoá và củng cố sự áp bức của chúng với quần chúng lao động. Giai cấp thống trị sử dụng bộ máy nhà nước để đàn áp, cưỡng bức giai cấp khác trong khuôn khổ lợi ích của giai cấp thống trị. Đó là bản chất của nhà nước theo nguyên nghĩa, tức nhà nước của giai cấp bóc lột. Không có nhà nước thì giai cấpthống trị không thể duy trì ách áp bức thống trị của nó với giai cấp bị trị.
Mỗi kiểu nhà nước có bản chất riêng nhưng đều mang một số đặc điểm chung. Nhà nước XHCN cũng có những nét chung đó nhưng với bản chất là chuyên chính vô sản, nó không còn là nhà nước theo đúng nghĩa mà chỉ là “nửa nhà nước”. Nhà nước XHCN tồn tại trên cơ sở nguyên tắc công hữu những tư liệu sản xuất chủ yếu là lao động tự nguyện. Đó là sản phẩm của nhân dân lao động nhằm thực hiện sứ mệnh lịch sử là xây dựng một xã hội không còn áp bức bóc lột, không còn giai cấp.
Nhà nước là một bộ phận quan trọng trong kiến trúc thượng tầng của xã hội, và nó có ba đặc trưng cơ bản sau:
Một là, nhà nước quản lý dân cư trên một vùng lãnh thổ nhất định. Đặc trưng này phân biệt sự khác nhau của các tổ chức nhà nước với các tổ chức thị tộc, bộ lạc trước kia. Các tổ chức thị tộc, bộ lạc được hình thành trên cơ sở những quan hệ huyết thống, còn tổ chức nhà nước gắn liền với việc phân chia dân cư theo phạm vi lãnh thổ mà họ cư chú. Nói cách khác quyền lực nhà nước có hiệu lực với tất cả các thành viên ở trong một biên giới quốc gia, bất kể họ thuộc quan hệ huyết thống nào.
Hai là, bộ máy quyền lực của nhà nước mang tính cưỡng chế đối với mọi thành viên trong xã hội. Đó là những đội vũ trang đặc biệt (quân đội, cảnh sát, …), những công cụ (toà án ,trại giam ,trại giáo dưỡng, …) và một bộ máy đông đảo các viên chức được trả lương để chuyên làm việc hành chính cai trị.
Ba là, nhà nước hinh thành hệ thống thuế khoá để duy trì và tăng cường bộ máy cai trị. Nhà nước không thể tồn tại nếu không dựa vào hệ thống thuế khoá. Nói cách khác, về cơ bản mọi nhà nước đều tồn tại được nhờ vào sự chu cấp của nhân dân bằng con đường cưỡng bức hay tự nguyện hoặc cả hai.
Ngoài ba đặc trưng cơ bản kể trên, hiện nay có quan điểm cho rằng, nhà nước mang cả đăc trưng chủ quyền quốc gia và khả năng cai trị xã hội bằng pháp luật.
Chủ quyền quốc gia thể hiện đặc trưng về quyền lợi tuyệt đối của nhà nước trong một lãnh thổ. Nhà nước là người đại diện cho sự toàn vẹn bên trong lãnh thổ và sự độc lập đối với bên ngoài. Chủ quyền quốc gia còn thể hiện ở việc nhà nước thay mặt toàn bộ nhân dân tham gia các quan hệ đối ngoại, các công ước quốc tế…
Nhà nước cai trị xã hội bằng pháp luật. Nhà nước là cơ quan duy nhất có quyền làm ra luật, tổ chức thực hiện luật, giám sát và xét xử đối với những vi phạm pháp luật. Đây là đặc quyền của nhà nước mà các tổ chức xã hội khác không có. Pháp luật do nhà nước đặt ra, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị, nhằm điều chỉnh mọi quan hệ xã hội theo định hướng và mục tiêu xác định. Tính cưỡng chế của pháp luật thể hiện sức mạnh cưỡng chế của nhà nước với toàn xã hội.
Bản chất giai cấp của nhà nước còn được thể hiện ở chức năng của nó. Khi tiếp cận với nhà nước từ giác độ khác nhau, người ta có thể phân chia các chức năng của nhà nước thành những loại khác nhau. Tất cả những chức năng khác nhau đó đều là những cái vốn có của nhà nước. Khi xem xét phạm vi tác động của quyền lực nhà nước ở tầm vĩ mô, nhà nước có chức năng đối nội và chức năng đối ngoại.
Chức năng thống trị của giai cấp - chức năng giai cấp là chức năng nhà nước làm công cụ chuyên chính của một giai cấp nhằm bảo vệ sự thống trị giai cấp đó đối với toàn thể xã hội. Chức năng giai cấp bắt nguồn từ lý do ra đời của nhà nước và tạo thành bản chất chủ yếu cuả nó.
Chức năng xã hội của nhà nước là chức năng nhà nước thực hiện sự quản lý những hoạt động chung vì sự tồn tại của xã hội, thoả mãn một số nhu cầu riêng của cộng đồng dân cư nằm dưới sự quản lý của nhà nước.
Trong hai chức năng đó thì chức năng thống trị chính trị là cơ bản nhất, chức năng xã hội phải phụ thuộc và phục vụ cho chức năng thống trị chính trị. Giai cấp thống trị bao giờ cũng biết giới hạn chức năng xã hội trong khuôn khổ lợi ích của mình.Song, chức năng giai cấp chỉ có thể được thực hiện thông qua chức năng xã hội .Ph.Ăngghen viết: “Ở khắp nơi chức năng xã hội là cơ sở của sự thống trị chính trị; và sự thống trị chính trị cũng chỉ kéo dài chừng nào nó còn thực hiện chức năng xã hội của nó”.
Khi xã hội không còn giai cấp thì những nội dung thuộc chức năng xã hội sẽ do xã hội tự đảm nhận, và khi đó chế độ tự quản của nhân dân được xác lập.
Chức năng đối nội của nhà nước nhằm duy trì trật tự kinh tế ,xã hội, chính trị, và những trật tự khác hiện có trong xã hội theo lợi ích của giai cấp thống trị. Thông thường điều đó phải được pháp luật hoá và được thực hiện nhờ sự cưỡng bức của bộ máy nhà nước. Ngoài ra, nhà nước còn sử dụng nhiều phương tiện khác để xác lập ,củng cố tư tưởng, ý chí của giai cấp thống trị, làm cho chúng trở thành chính thống trong xã hội.
Chức năng đối ngoại của nhà nước nhằm bảo vệ biên giới lãnh thổ quốc gia và thực hiện các mối quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội với các nhà nước khác vì lợi ích của giai cấp thống trị cũng như lợi ích quốc gia, khi lọi ích quốc gia không mâu thuẫn với lợi ích của giai cầp thống trị. Ngày nay, trong xu thế hội nhập khu vực và quốc tế, việc mở rộng chức năng đối ngoại của nhà nước có tầm quan trọng đặc biệt.
Cả hai chức năng đối nội và đối ngoại của nhà nước dều xuất phát từ lợi ích của giai cấp thống trị. Chúng là hai mặt của một thể thống nhất. Tính chất của chức năng đối nội quyết định tính chất của chức năng đối ngoại của nhà nước, ngược lại tính chất và những nhu cầu của chức năng đối ngoại có tác động mạnh mẽ trở lại chức năng đối nội.
“Kiểu nhà nước” là khái niệm dùng để chỉ bộ máy thống trị đó thuộc về giai cấp nào, tồn tại trên cơ sở kinh tế nào, tương ứng với hình thái kinh tế- xã hội nào. Kiểu nhà nước do chế độ kinh tế của xã hội sinh ra nó quy định. Do đó, tương ứng với ba hình thái kinh tế- xã hội có giai cấp đối kháng thì có ba kiểu nhà nước: nhà nước chiếm hữu nô lệ, phong kiến, và nhà nước tư sản. Còn nhà nước XHCN là kiểu nhà nước đặc biệt, nhà nước kiểu mới.
Kiểu nhà nước chủ nô, kiểu nhà nước phong kiến, kiểu nhà nước tư sản mặc dù có những đặc điểm riêng nhưng chúng đều là những “nhà nước theo đúng nghĩa”, được xây dựng trên cơ sở của chế độ tư hữu về TLSX và là công cụ để duy trì sự thống trị của giai cấp bóc lột đối với đông đảo quần chúng nhân dân lao động.
Khác với các kiểu nhà nước của giai cấp bóc lột, kiểu nhà nước XHCN là nhà nước kiểu mới, nhà nước của nhân dân lao động, thực hiện dân chủ và công bằng xã hội cho tất cả công dân. Sứ mệnh lịch sử của nhà nước XHCN là ở chỗ vừa chuyên chính bằng bạo lực, trấn áp đối với thù trong, giặc ngoài, vừa tổ chức xây dựng thành công CNXH, CNCS; trong đó chức năng tổ chức, xây dựng là căn bản nhất.
“Hình thức nhà nước” là khái niệm dùng để chỉ cách thức tổ chức và phương thức thực hiện quyền lực nhà nước. Nói cách khác, đó là hình thức cầm quyền của giai cấp thống trị.Hình thức nhà nước có ảnh hưởng trong việc củng cố, bảo vệ và thực thi quyền lực nhà nước.Chính vì vậy mà các giai cấp cầm quyền rất quan tâm đến việc tìm kiếm hình thức nhà nước cho phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể của đất nước để thực thi quyền lực thống trị chính trị của mình một cách hiệu quả nhất.
Trong lịch sử xã hội loài người có hai hình thức nhà nước cơ bản là: Hình thức chính thể và hình thức cấu trúc. Hình thức chính thể bao gồm: chính thể quân chủ chuyên chế (Trung Quốc, …), chính thể quân chủ lập hiến (Anh, Thái Lan, …), và hình thức nhà nước cộng hoà (Pháp, …). Hình thức cấu trúc bao gồm: cấu trúc đơn nhất và cấu trúc liên bang.
Nhà nước chiếm hữu nô lệ là nền chuyên chính của giai cấp chủ nô tồn tại dưới những hình thức khác nhau như: chính thể quân chủ và chính thể cộng hoà. Song dù tồn tại dưới chính thể nào thì giai cấp nô lệ cũng không có quyền về kinh tế và chính trị, không được tham gia vào công việc nhà nước.
Nhà nước phong kiến có những hình thức: quân chủ phân quyền và quân chủ tập quyền. Song dù tồn tại dưới hình thức nào thì nhà nước phong kiến vẫn là nền chuyên chính của giai cấp địa chủ phong kiến nhằm bảo vệ chế độ chiếm hữu ruộng đất phong kiến và những đặc quyền đặc lợi của nó. Ở phương Đông (tiêu biểu là Trung Quốc và Ấn Độ), hình thức quân chủ tập quyền là hình thức nhà nước phổ biến dựa trên chế độ sở hữu nhà nước về ruông đất. Trong nước này, quyền lực của vua được tăng cường rất mạnh, hoàng đế có uy quyền tuyệt đối, ý chí của vua là pháp luật.
Nhà nước tư sản cũng được tổ chức dưới nhiều hình thức khác nhau nhưng nói chung chỉ có hai hình thức cơ bản nhất là: hình thức cộng hoà và hình thức quân chủ lập hiến. Hình thức cộng hoà lại được tổ chức dưới những hình thức khác nhau như: cộng hoà đại nghị, cộng hoà tổng thống; trong đó hình thức cộng hoà đại nghị là hình thức điẻn hình và phổ biến nhất. Sự khác nhau về hình thức của nhà nước tư sản không làm thay đổi bản chất của nó – đó là nền chuyên chính của giai cấp tư bản đối với các giai cấp và tầng lớp khác trong xã hội. Đề cập đến bản chất đó của nhà nước tư sản, V.I.Lênin viết: “Những hình thức của các nhà nước tư sản thì hết sức khác nhau, nhưng thực chất chỉ là một: chung quy lai thì tất cả những nhà nước ấy, vô luận thế nào, cũng tất nhiên phải là nền chuyên chính tư sản”.
Nhà nước vô sản có thể tồn tại dưới những hình thức khác nhau. “Công xã Pari 1871” đã đi vào lịch sử như hình thức đầu tiên của nhà nước vô sản. Hình thức thứ hai của chuyên chính vô sản là “Xô Viết” do Cách mạng
tháng Mười năm 1917 sáng lập.Và có một số nhà nước vô sản tồn tại dưới hình thức “dân chủ nhân dân” …
Thực tiễn xây dựng CNXH mang lại cho nhà nước chuyên chính vô sản nhiều hình thức mới. Tính đa dạng của nhà nước của nhà nước đó tuỳ thuộc vào từng điều kiện lịch sử cụ thể của thời điểm xác lập nhà nước ấy; tuỳ thuộc vào tương quan lực lượng giữa các giai cấp và khối liên minh giai cấp tạo thành cơ sở xã hội của nhà nước. Hình thức cụ thể của nhà nước trong thời kỳ quá độ có thể rất khác nhau nhưng bản chất của chúng chỉ là một – chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản.
Tư tưởng tích cực, tiến bộ về Nhà nước pháp quyền luôn gắn liền với tư tưởng phát triển dân chủ, bảo đảm quyền con người, loại trừ chuyên chế, vô chính phủ bằng công cụ pháp luật đã hình thành ngay từ thời cổ đại, thể hiện trong quan điểm của các nhà tư tưởng tiêu biểu thời kỳ này như Xôcrat (469-399 Tr.CN). Đêmôcrit (460-370 Tr.CN), Palaton (427-347 Tr.CN) Arixtốt (384-322 Tr.CN), Xixêrôn (106-43 Tr.CN)... Những quan điểm tư tưởng này thể hiện khát vọng của nhân dân về tự do, công bằng, dân chủ, chống lại nhà nước chuyên chế, độc tài.
Quan điểm, tư tưởng về Nhà nước pháp quyền của các nhà tư tưởng thời cổ đại đã được các nhà tư tưởng chính trị và pháp lý tư sản sau này như JohnLocke (1632-1704), Montesquieu (1698-1755), J.J.Rút-xô (1712-1778), I.Kant (1724-1804), Hêghen (1770-1831), Tômát Jepphecxơn (1734-1826) của tác giả Tuyên ngôn độc lập Mỹ năm 1776), Tômát Pên (1737-1809), Jôn Ađam tiếp tục bổ sung, phát triển, thể hiện đầy đủ hơn trong các học thuyết chính trị pháp lý, hình thành học thuyết về nhà nước pháp quyền. Đó là sự kết tinh trí tuệ của nhân loại tiến bộ, là thế giới quan tích cực, tiến bộ về nhà nước, pháp luật trong việc bảo đảm dân chủ, quyền con người.
Nhìn chung, các quan điểm tư tưởng về Nhà nước pháp quyền rất phức tạp, phong phú và có cách tiếp cận khác nhau. Tuy vậy, có thể khái quát những đặc trung cơ bản của Nhà nước pháp quyền trong lịch sử tư tưởng nhân loại như sau :
Nhà nước pháp quyền là nhà nước bảo đảm tính tối cao của pháp luật trong đời sống xã hội, trong đó pháp luật phải phản ánh ý chí chung của nhân dân, lợi ích chung của xã hội.
Nhà nước pháp quyền là nhà nước thực hiện và bảo vệ được các quyền tự do, dân chủ của công dân: Nhà nước pháp quyền không chỉ công nhận và tuyên bố các quyền tự do của công dân, mà còn phải bảo đảm thực hiện và bảo vệ các quyền đó khi chúng bị xâm hại.
Nhà nước pháp quyền là nhà nước chịu trách nhiệm trước công dân về những hoạt động của mình, còn công dân phải thực hiện các nghĩa vụ đối với nhà nước xã hội.
Nhà nước pháp quyền phải có hình thức tổ chức quyền lực nhà nước thích hợp, bảo đảm chủ quyền thuộc về nhân dân và có cơ chế giám sát sự tuân thủ pháp luật, xử lý các vi phạm pháp luật, bảo đảm quyền và lợi ích của nhân dân, chống lại sự tùy tiện của nhà nước. Muốn thế phải phân chia và ngăn chặn lẫn nhau giữa ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp (“tam quyền phân lập”); bảo đảm tính pháp quyền của các thiết chế quyền lực nhà nước và xác lập sự tôn trọng Hiến pháp, bảo đảm sự độc lập của tòa án và tính chất dân chủ, minh bạch của pháp luật.
Như vậy, với bản chất tiến bộ và nhân đạo, các tư tưởng và quan điểm khoa học về nhà nước pháp quyền đã trở thành một giá trị văn minh của nhân loại đang được tiếp tục bổ sung, hoàn thiện.
Trong học thuyết Mác-Lênin, mặc dù, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin chưa sử dụng khái niệm nhà nước pháp quyền, nhưng, những tư tưởng khoa học về nhà nước pháp quyền đã được kế thừa, phát triển theo quan điểm khoa học và cách mạng: xây dựng một nhà nước kiểu mới thực sự của dân, do dân, vì dân, hợp hiến, hợp pháp; một hệ thống pháp luật dân chủ triệt để, pháp chế nghiêm minh theo hướng giải phóng con người và tất cả vì con người.
“Nhà nước XHCN”, đó là một trong những tổ chức chính trị cơ bản nhất của hệ thống chính trị XHCN, một công cụ quản lý mà đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo nhân dân tổ chức ra để qua đó là chủ yếu, nhân dân lao động thực hiện quyền lực và lợi ích của mình; cũng qua đó là chủ yếu mà giai cấp công nhân và Đảng của nó lãnh đạo xã hội về mọi mặt trong quá trình bảo vệ và xây dựng CNXH.
Chủ nghĩa Mác-Lênin cũng quan niệm nhà nước XHCN là thống nhất về căn bản với nhà nước chuyên chính vô sản cả về bản chất, mục tiêu, vai trò, chức năng và các hoạt động theo những nguyên tắc, pháp luật, chính sách của nó.
Nhà nước XHCN nằm trong nền dân chủ XHCN và hệ thống chính trị XHCN. Đã là một loại hình nhà nước dân chủ thì nó có kế thừa và phát huy các thành quả chung - những giá trị của quá trình phát triển dân chủ mà nhân loại đã sản sinh ra. Ví dụ, dân chủ XHCN cũng kế thừa khái niệm và thuật ngữ “dân chủ”, với bản chất nhất là “quyền lực của dân”. Nhà nước XHCN cũng do nhân dân bầu ra và có thể bãi miễn nó. Nhà nước XHCN cũng kế thừa tính hợp lý về cơ cấu tổ chức có tính pháp quyền của nhà nước dân chủ tư sản: cũng có các cơ quan lập pháp (Quốc hội), hành pháp (Chính phủ) và tư pháp (Toà án, Viện kiểm sát). Tất nhiên, về bản chất, mục tiêu, quyền lực, lợi ích… thì khác về căn bản so với nhà nước “tam quyền phân lập tư sản”.
Theo chủ nghĩa Mác-Lênin thì nhà nước pháp quyền XHCN là nhà nước trong đó mọi chủ thể, kể cả nhà nước đều tuân thủ và chấp hành pháp luật. Tính chất của nhà nước pháp quyền XHCN của nhà nước được thể hiện trong các dấu hiệu cơ bản sau:
Thứ nhất, mọi hoạt động của các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp,tổ chức kinh tế, đơn vị cũ trang nhân dân và của mọi công dân đều phải được đặt trong khuôn khổ pháp luật.
Thứ hai, nhà nước xây dựng một một hệ thống pháp luật đầy đủ, đồng bộ và ngày càng hoàn thiện nhằm điều chỉnh có hiệu quả các quan hệ xã hội, trong đó các đạo luật chiếm vị chí tối thượng.
Thứ ba, nhà nước đảm bảo các quyền tự do, dân chủ của nhân dân thông qua sự quy định và bảo vệ của pháp luật.
Thứ tư, quyền lực nhà nước là thống nhất, tập trung nhưng các quyền lực lập pháp, hành pháp, tư pháp được phân định rõ ràng có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực thi các quyền lực đó.
Như vậy, nhà nước pháp quyền XHCN là nhà nước của dân, do dân và vì dân nhưng mỗi thành viên trong xã hội đều phải tuân thủ và thực hiện tốt những điều khoản pháp luật do nhà nước đề ra.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân là một hệ thống các quan điểm lý luận về bản chất, chức năng, cơ chế hoạt động, tổ chức bộ máy, xây dựng đội ngũ cán bộ công chức nhà nước; trong đó, quan niệm về nhà nước pháp quyền là một tư tưởng nhất quán, thể hiện tầm nhìn vượt thời đại và có giá trị lâu bền. Trong di sản lý luận của mình, Hồ Chí Minh đã có lần chính thức sử dụng thuật ngữ "chế độ pháp trị". Tiếp xúc với nền văn minh Âu - Mỹ, nhất là kinh nghiệm tổ chức, điều hành đời sống xã hội, Hồ Chí Minh cho rằng, quản lý xã hội bằng pháp luật là dân chủ, tiến bộ và có tính chất phổ biến đối với các xã hội hiện đại.
Nhận thức được tầm quan trọng của luật pháp, từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã đề cập đến vai trò của chúng trong điều hành và quản lý xã hội. Năm 1919, tám yêu sách của nhân dân An Nam gửi tới Hội nghị Véc- xây đã có bốn điểm liên quan đến vấn đề pháp quyền, còn lại liên quan đến công lý và quyền con người.
Sau này, bản Yêu sách của nhân dân An Nam được Hồ Chí Minh chuyển thành "Việt Nam yêu cầu ca", trong đó yêu cầu thứ bảy là:
"Bảy xin hiến pháp ban hành,
Trăm điều phải có thần linh pháp quyền".
"Trăm điều" là một đại lượng được sử dụng theo cách ẩn dụ để đề cập một cái chung, bao quát. Còn "thần linh pháp quyền" là một cách nói theo ngôn ngữ ngày nay, là ý thức, tinh thần pháp luật phải chi phối, chỉ đạo mọi hành vi, hoạt động của bộ máy, cơ quan nhà nước; môi trường pháp lý phải bao trùm mọi mặt, mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Đây là tư tưởng rất đặc sắc của Hồ Chí Minh, phản ánh nội dung cốt lõi của Nhà nước dân chủ mới - Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Đồng thời, đây cũng là nguyên tắc xuyên suốt trong hoạt động quản lý nhà nước của Người.
Sau Cách mạng Tháng Tám, năm 1945, Hồ Chí Minh đề ra một trong sáu nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa là: Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ. Cùng với chủ trương xây dựng Hiến pháp, ngày 10-10-1945, Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh SL/47 cho phép sử dụng một số điều khoản của pháp luật cũ để điều chỉnh các quan hệ dân sự. Trong nhận thức của Hồ Chí Minh, pháp luật của các chế độ xã hội có những giá trị nhân bản chung mà chúng ta có thể kế thừa, phát triển. Ở đây, Hồ Chí Minh đã nhìn nhận pháp luật trong chiều sâu văn hóa của nó.
Sau năm 1954, khi miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đất nước đạt được nhiều thành tựu quan trọng, nhiều quy định trong Hiến pháp năm 1946 không còn phù hợp, Hồ Chí Minh đã chủ trương sửa đổi và ban hành Hiến pháp mới - Hiến pháp năm 1959. Trong tư duy Hồ Chí Minh, một khi điều kiện kinh tế - xã hội thay đổi thì pháp luật, nhất là đạo luật "gốc" - Hiến pháp, cũng phải thay đổi để bảo đảm khả năng điều chỉnh hợp lý các quan hệ xã hội đã phát sinh và định hình.
Ngoài hai bản Hiến pháp, từ năm 1945 đến 1969, Hồ Chí Minh còn chỉ đạo soạn thảo, ký quyết định công bố 16 đạo luật và 1.300 văn bản dưới luật. Khối lượng văn bản luật đó luôn thể hiện rõ việc đề cao tính nhân đạo và nhân văn, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp của nhà nước mà nhân dân là chủ và do nhân dân làm chủ.
Hồ Chí Minh luôn khẳng định: Pháp luật của ta là pháp luật dân chủ, phải nghiêm minh và phát huy hiệu lực thực tế. Nhà nước ta cũng sử dụng pháp luật để quản lý xã hội. Song pháp luật của ta đã có sự thay đổi về chất, mang bản chất của giai cấp công nhân, là một loại hình pháp luật kiểu mới, pháp luật thật sự dân chủ, vì nó bảo vệ quyền tự do, dân chủ rộng rãi cho nhân dân lao động. Tuy nhiên, pháp luật dân chủ ở Hồ Chí Minh cũng được xem xét trong các mối quan hệ hết sức đặc trưng:
Trong quan niệm về thực chất của dân chủ: "Không nên hiểu lầm dân chủ. Khi chưa quyết định thì tha hồ bàn cãi. Nhưng khi đã quyết định rồi thì không được bàn cãi nữa, có bàn cãi cũng chỉ là để bàn cách thi hành cho được, cho nhanh, không phải để đề nghị không thực hiện. Phải cấm chỉ những hành động tự do quá trớn ấy"
Trong việc xác định rõ giới hạn của các quyền tự do cá nhân, Người nói: Nhân dân ta hiện nay có tự do, tự do trong kỷ luật. Mỗi người có tự do của mình, nhưng phải tôn trọng tự do của người khác. Người nào sử dụng quyền tự do của mình quá mức là phạm đến tự do của người khác, là phạm pháp. Không thể có tự do cho bọn việt gian, bọn phản động, bọn phá hoại tự do của nhân dân.
Trong việc xử lý mối quan hệ giữa quyền và nghĩa vụ công dân, pháp luật dân chủ vừa thể hiện các quyền, lợi ích của công dân, nhưng cũng quy định rõ các nghĩa vụ mà người dân phải thực hiện. Hưởng quyền và thực hiện nghĩa vụ là thuộc tính hai mặt của một người dân làm chủ nhà nước.
Hồ Chí Minh nhấn mạnh: Pháp luật của ta là pháp luật dân chủ; mọi công dân của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đều bình đẳng trước pháp luật cả về quyền lợi và nghĩa vụ; ai vi phạm pháp luật đều phải xử lý nghiêm khắc, cho dù người đó ở vị trí nào trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của Đảng, Nhà nước. Theo Người, hiệu lực của pháp luật chỉ có được khi mọi người đều nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật; pháp chế chỉ bảo đảm khi các quy phạm pháp luật được thực thi trong các quan hệ xã hội; mọi hành vi vi phạm pháp luật phải bị xử lý. Như vậy, trong thực thi luật pháp, việc thưởng phạt phải nghiêm minh. Vì nếu thưởng phạt không nghiêm minh thì người cúc cung tận tụy lâu ngày cũng thấy chán nản, còn người hư hỏng, vi phạm pháp luật, kỷ luật sẽ ngày càng lún sâu vào tội lỗi, làm thiệt hại cho nhân dân. Trong một nước, thưởng phạt phải nghiêm minh thì nhân dân mới yên ổn, kháng chiến mới thắng lợi, kiến quốc mới thành công.
Với Hồ Chí Minh, pháp luật không phải là để trừng trị con người mà là công cụ bảo vệ, thực hiện lợi ích của con người. Tư tưởng pháp quyền của Người không chỉ dừng lại ở các quyền con người được ghi trong các văn bản pháp luật mà còn thấm đượm một tấm lòng thương yêu nhân dân, chăm lo cho ấm no, hạnh phúc của nhân dân, thấm đượm lòng nhân ái, nghĩa đồng bào theo đạo lý truyền thống ngàn năm của dân tộc Việt Nam. Vì thế, pháp quyền Hồ Chí Minh là pháp quyền đặc biệt, pháp quyền nhân nghĩa - một thứ nhân nghĩa có nội hàm triết lý, mang đậm tính dân tộc và dân chủ sâu sắc.
Trên thế giới, từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây tồn tại hai phương thức trị nước chủ yếu: đức trị và pháp trị. Bản thân Hồ Chí Minh cũng đã có lần đề cập đến chế độ pháp trị: ... Tư pháp cần góp phần của mình là thực hiện chế độ pháp trị, giữ vững và bảo vệ quyền lợi nhân dân, bảo vệ chế độ dân chủ nhân dân. Nhưng trong thực tế, Người đã kết hợp chặt chẽ việc quản lý, điều hành xã hội bằng pháp luật với việc tuyên truyền, giáo dục đạo đức cách mạng, nâng cao bản lĩnh công dân, giác ngộ lý tưởng cách mạng cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Hồ Chí Minh nhận rõ cả pháp luật và đạo đức đều dùng để đi._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7363.doc