Tài liệu Vai trò của quy luật giá trị đối với sự phát triển Kinh tế thị trường ở Việt Nam.: PHẦN MỞ ĐẦU
Nền kinh tế thị trường đã đưa thế giới bước vào vònh xoáy phát triển không ngừng trên mọi phương diện. Trong đó sự phát triển vượt trội của lĩnh vực kinh tế dẫ tạo tiền đề thúc đẩy các lĩnh vực khác phát triển, sự phát triển này thể hiện rõ nhất ở quá trình toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế …bên cạnh sự phát triển này vẫn tồn tại nhiều vấn đề như khủng hoảng kinh tế chu kỳ; suy thoái đạo đức; phân hoá giàu nghèo …vậy những thành tựu và tồn tại trên phải chăng bắt nguồn từ quy l... Ebook Vai trò của quy luật giá trị đối với sự phát triển Kinh tế thị trường ở Việt Nam.
42 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2851 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Vai trò của quy luật giá trị đối với sự phát triển Kinh tế thị trường ở Việt Nam., để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uật giá trị. quy luật giá trị là gì ?có vai trò như thế nào, biểu hiện và tác động ra sao đến quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta ngày nay.
Cảm ơn thầy giáo đã giúp em hoàn thành tốt đề tài này.
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: QUY LUẬT GIÁ TRỊ VÀ CÁC VẤN ĐỀ CÓ LIÊN QUAN
Quy luật giá trị và các vấn đề có liên quan
1. 1. 1. Khái niệm giá trị hàng hoá:
Gía trị hàng hoá là lao động xã hội kết tinh trong hàng hoá hay là chi phí lao động xã hội cần thiết để sản xuất hàng hoá.
1. 1. 2 Quy luật giá trị - quy luật kinh tế căn bản của sản xuất và trao đổi hàng hoá.
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế căn bản của sản xuất và lưu thông hàng hoá.
Nội dung của quy luật này: sản xuất và trao đổi hàng hoá thực hiện theo hao phí lao động xã hội cần thiết. Hay nói cách khác: sản xuất và trao đổi hàng hoá phải trên cơ sở lao động xã hội cần thiết để sản xuất và tái sản xuất ra hàng hoá đó. Yêu cầu của quy luật này: sản xuất, trao đổi hàng hoá phải được tiến hành theo nguyên tắc ngang giá. Những người sản xuất và trao đổi hàng hoá tuân theo mệnh lệnh của giá cả thị trường. Thông qua sự vận động của giá cả thị trường sẽ thấy được sự hoạt động của quy luật giá trị. Giá cả thị trường lên xuống xoay quanh giá trị hàng hoá và trở thành cơ chế tác động của quy luật giá trị, Cơ chế này phát sinh tác dụng trên thị trường thông qua cạnh tranh, cung cầu, sức mua của đồng tiền. Điều này cắt nghĩa vì sao khi trình bày quy luật giá trị, một quy luật bao quát cả bản chất và các nhân tố cấu thành cơ chế tác động của nó. Do tầm quan trọng của cơ chế tác động và để tăng ý nghĩa thực tiễn của quy luật giá trị, những năm gần đây, các nhà khoa học thấy cần phải nhấn mạnh các nhân tố cạnh tranh, lượng tiền cần thiết cho lưư thông và cung cầu đối với sự biến động của giá cả thị trường và trình bày chúng thành các quy luật kinh tế riêng, song về nhận thức lý luận, chúng ta cũng chỉ nên coi chúng là những quy luật phát sinh từ quy nluật giá trị, hiểu thao nghĩa đầy đủ của quy luật này.
1. 1. 3. Mối quan hệ giữa giá cả, giá cả thị trường, giá cả độc quyền và giá trị hàng hoá.
Quy luật giá trị biểu hiện qua các giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản thành quy luật giá cả sản xuất( giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh) và thành quy luật giá cả độc quyền ( giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền). Nó tiếp tục tồn tại và hoạt động trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hộỉ các nước xã hội chủ nghĩa ở các nước và ở nước ta.
Ta xét mối quan hệ giũa giá cả, giá cả thị trường, giá cả độc quyền với giá trị hàng hoá:
Gía cả: là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá. Gía trị là cơ sở của giá cả. Khi quan hệ cung cầu cân bằng,giá cả hàng hoá cao hay thấp là ở giá trị của hàng hoá quyết định Trong diều kiện sản xuất hàng hoá, giá cả hàng hoá tự phát lên xuỗngoay quanh giá trị tuỳ theo quan hệ cung cầu, cạnh tranh và sức mua của đồng tiền. Sự hoạt động của quy luật giá trị biểu hiện ở sự lên xuống của giá cả trên thị trường. Tuy vậy, sự biến động của giá cả vẫn có cơ sở là giá trị, mặc dầu nó thường xuyên tách rời giá trị. Điều đó có thể hiểu theo hai mặt:
Không kể quan hệ cung cầu như thế nào, giá cả không tách rời giá trị xã hội. Nếu nghiên cứu sự vận động của giá cả trong một thời gian dài thì thấy tổng số giá cả bằng tổng só giá trị, vì bộ phận vượt quá giá trị sẽ bù vào bộ phận giá cả thấp hơn giá trị (giá cả ở đây là giá cả thị trường. Giá cả thị trường là giá cả sản xuất giữa người mua và người bán thoả thuận với nhau). Giá cả sản xuát là hình thái biến tướng của giá trị, nó bằng chi phí sản xuất của hàng hoá cộng với lợi nhuận bình quân. Trong giai đoạn tư bản tự do cạnh tranh do hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân nên hàng hoá không bán theo giá trị mà bán theo giá cả sản xuất Gía trị hàng hoá chuyển thành giá cả sản xuất không phải là phủ nhận quy luật giá trị mà chỉ lả biểu hiện cụ thể của quy luật giá trị trong giai đoạn tư bản tự do cạnh tranh. Qua hai điểm dưới đây sẽ thấy rõ điều đó:
Tuy giá cả sản xuất của hàng háo thuộc ngành cá biệt có thể cao hơn hoặc thấp hơn giá trị, nhưng tổng giá trị sản xuất của toàn bộ hàng hoá của tất cả các ngành trong toàn xã hội đều bằng tổng giá trị của nó. Tổng số lơi nhuận mà các nhà tư bản thu được cũng bằng tổng số giá trị thặng dư do giai cấp công nhân sáng tạo ra.
Giá cả sản xuất lệ thuộc trực tiếp vào giá trị. Gía trị hàng hoá giảm xuống, giá cả sản xuất giảm theo, giá trị hàng hoá tăng lên kéo theo giá cả sản xuất tăng lên.
Giá cả độc quyền: Trong giai đoạn tư bản độc quyền, tổ chức độc quyền đã nâng giá cả hàng hoá lên trên giá cả sản xuất và giá trị. Gía cả độc quyền bằng chi phí sản xuất cộng với lợi nhuận độc quyền. Lợi nhuận độc quyền vượt quá lợi nhuận bình quân. Khi nói giá cả độc quyền thì thường hiểu là giá cả bán ra cao hơn giá cả sản xuất và giá trị, đồng thời cũng cần hiểu còn có giá cả thu mua rẻ mà tư bản độc quyền mua của người sản xuất nhỏ, tư bản vừa và nhỏ ngoài độc quyền. Gía cả độc quyền không xoá bỏ giới hạn của giá trị hàng hoá, nghĩa là giá cả độc quyền không thể tăng thêm hoặc giảm bớt giá trị và tổng giá trị thặng dư do xã hội sản xuất ra; phần giá cả độc quyền vượt quá giá trị chính là phần giá trị mà những người bán ( công nhân, người sản xuất nhỏ, tư bản vừa và nhỏ…) mất đi. Nhìn vào phạm vi toàn xã hội, toàn bộ giá cả độc quyền cộng với giá cả không độc quyền về đại thể bằng toàn bộ giá trị.
1. 1. 4. Các quy luật có liên quan và mối quan hệ của chúng với quy luật giá trị.
a/ Quy luật lưu thông tiền tệ.
Còn sản xuất hàng hoá thì còn lưu thông hàng hoá và lưu thông tiền tệ. Quy luật lưu thông tiền tệ xuất hiện và tồn tại là một tất yếu khách quan. Nội dung của quy luật này thể hiện ở mối quan hệ giữa lượng tiền tệ phát hành với các nhân tố có liên quan. Các Mác trình bày nội dung của quy luật này qua côngh thức khái quát và công thức ở dạng cụ thể của nó:
Ở dạng khái quát, nội dung của quy luật này là:
M
=
P.Q
V
Trong đó:
M là lượng tiền phát hành cần thiết cho lưu thông
P là mức giá cả hàng hoá, dịch vụ
Q là khối lượng hàng hoá, dịch vụ đem ra lưu thông
V là vòng quay trung bình của đồng tiền cùng loại
Ở dạng cụ thể, khi Các Mác xem xét công thức khái quát gắn với các chức năng thanh toán, gắn với tín dụng, công thức biểu diễn nội dung quy luật này là:
M
=
(1) - (2) - (3) + (4)
(5)
Trong đó:
là tổng giá cả hàng hoá, dịch vụ đem bán
là tổng giá cả hàng hoá, dịch vụ bán chịu
là tổng giá cả hàng hoá, dịch vụ khấu trừ cho nhau
tổng giá cả hàng hoá, dịch vụ đến kỳ thanh toán
là vòng quay trung bình của tiền tệ cùng tên gọi.
Từ công thức trên có thể tìm thấy những nhân tố có quan hệ đến lượng tiền phát hành, trong đó: M tỷ lệ thuận với (1) và (4) và tỷ lệ nghịch với (2), (3) và (5).
Cần ý thức rằng quy luật lưu thông tiền tệ như đã phân tích ở trên là quy luật lưu thông của tiền (vàng). Khi vận dụng quy luật này trong điều kiện tiền giấy thì tình hình có sự khác đi nhất định. Vì tiền giấy không có tác dụng tự điều chỉnh qua hai kênh lưu thông và tích luỹ như tiền (vàng). Bởi vậy, để quy luật này có hiệu lực trong điều kiện tiền giấy phải rất coi trọng khi điều khiển và khống chế lượng tiền giấy phát hành cho lưu thông. Trong nền kinh tế thị trường hiện đại làm xuất hiện nhiều loại tiền như: Tiền mặt, tiền điện tử. Việc tính toán lượng tiền phát hành sẽ phức tạp hơn nhiều nên quy luật lưu thông tiền tệ của Các Mác mang nhiều ý nghĩa về mặt định tính hơn là về mặt định lượng. Bởi vậy, khi vận dụng cần lưu ý đặc điểm này, nhất là khi nền kinh tế tồn tại nhiều thành phần, hệ thống ngân hàng, trình độ chuyên môn và cơ sở vật chất chưa được hiện đại hoá, chưa phù hợp với trình độ và thông lệ quốc tế.
b/ Quy luật cung cầu hàng hoá, dịch vụ
Lý luận và thực tiễn đều khẳng định: ở nơi nào có nhu cầu thì ở nơi đó cũng xuất hiện luồng cung ứng hàng hoá, dịch vụ để hình thành mối quan hệ cung cầu. Mối quan hệ nhân quả giữa cung và cầu liên tục tiếp diễn trên thị trường, tồn tại một cách khách quan, độc lập đối với ý thứccủa con người được gọi là quy luật cung cầu. Sự hoạt động của quy luật này thể hiện ở cơ chế vận động giữa giá cả thị trường và giá trị hàng hoá thông qua các trường hợp: cung bằng cầu, cung lớn hơn cầu và cung nhỏ hơn cầu:
Khi cung bằng cầu thì giá cả bằng giá trị hàng hoá trong sản xuất
Khi cung lớn hơn cầu thì giá cả thấp hơn giá trị hàng hoá trong sản xuất
Khi cung nhỏ hơn cầu thì giá cả cao hơn giá trị hàng hoá trong sản xuất
Vai trò của quy luật cung cầu:Quy luật cung cầu giải thích rõ nhất, chính xác nhất vì sao giữa giá trị và giá cả thị trường lại không ăn khớp với nhau, tạo điều kiện cho quy luật giá trị có cơ chế hoạt động. Tuy cung cầu không trực tiếp quyết định sự hình thành giá trị hàng hoá, nhưng nó cũng ảnh hưởng gián tiếp đến chu kỳ sản xuất sau đối với việc hình thành giá trị hàng hóa, thông qua tác động của thị trường làm thay đổi điều kiện sản xuất và thay đổi năng suất lao động, giúp các giám đốc có những quyết định năng động, linh hoạt trong sản xuất, kinh doanh và trong ký kết các hợp đồng kinh tế
c/ Quy luật cạnh tranh
Cạnh tranh là sự ganh đua, đấu tranh về kinh tế giữa những người sản xuất với nhau, giữa người sản xuất với người tiêu dùng hàng hoá và dịch vụ, nhằm giành được những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu dùng để thu được nhiều lợi ích nhất cho mình.
Những người sản xuất, tiêu thụ có điều kiện khác nhau về trình độ trang bị kỹ thuật, chuyên môn, không gian, môi trường sản xuất, điều kiện nguyên vật liệu v. v. nên chi phí lao động cá biệt khác nhau. Kết quả có người lãi nhiều, người lãi ít, người phá sản. Để giành lấy các điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm buộc họ phải cạnh tranh. Cạnh tranh có hai loại: Cạnh tranh lành mạnh và cạnh tranh không lành mạnh. Cạnh tranh lành mạnh là dùng tài năng của mình về kinh tế và quản lý để tăng năng suất, chất lượng và hiệu quả, vừa có lợi cho nhà kinh doanh, vừa có lợi cho xã hội. Cạnh tranh không lành mạnh là dùng những thủ đoạn phi đạo đức, vi phạm pháp luật (trốn thuế, nâng giá…) có hại cho xã hội và người tiêu dùng. Quy luật cạnh tranh có tác dụng đào thải cái lạc hậu, bình tuyển cái tiến bộ để thúc đẩy xã hội phát triển.
Tóm lại: Nghiên cứu các quy luật giá trị, lưu thông tiền tệ và cung cầu không chỉ để nhận thức lực lượng khách quan chi phối cơ chế thị trường, mà còn có ý nghĩa đối với việc thực hiện chức năng quản lý ở hai tầng quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước và quản lý kinh tế vi mô của các doanh nghiệp. Có thể khái quát mối quan hệ giữa các quy luật kinh tế của nền kinh tế thị trường qua sơ đồ sau:
Quy luật giá trị
Quy luật lưu thông tiền tệ
Quy luật cạnh tranh
Quy luật cung cầu
Từ sơ đồ trên cho thấy không thể làm chủ kinh tế thị trường và cơ chế vận hành của nó nếu không nắm bắt và vận dụng một cách tổng hợp các quy luật kinh tế nói trên trong kinh tế và quản lý kinh tế. Cũng từ sơ đồ trên cho thấy các quy luật cạnh tranh, quy luật lưu thông tiền tệ, quy luật cung cầu chỉ là những quy luật kinh tế phái sinh từ quy luật giá trị. Nó có tác dụng bổ sung và thông qua bổ sung tạo ra vẻ đẹp cho sự hoạt động hay tạo ra cơ chế hoạt động của quy luật giá trị. Từ đó cần phê phán những quan điểm không đúng khi họ cường điệu quá đáng, thậm chí thừa nhận quy luật cung cầu mà không thừa nhận quy luật giá trị với tư cách là quy luật kinh tế căn bản của sản suất và trao đổi hàng hoá đã được các nhà kinh tế chính trị tư sản cổ điển và Các Mác phát hiện và hoàn thiện quy luật này.
1. 2. Vai trò của quy luật giá trị.
Trong nền kinh tế hàng hoá, quy luật giá trị có những vai trò sau:
a/ Điều tiết sản suất và lưu thông hàng hoá.
Trong nền kinh tế hàng hoá thường xảy ra tình hình: Người sản xuất bỏ ngành này đổ xô vào ngành khác, quy mô sản xuất của ngành nàyđược thu hẹp, trong khi ở ngành khác lại được mở rộng, làm cho tư liệu sản xuất và sức lao động được phân bố lại giữa các ngành. Hiện tượng này được gọi là sự điều tiết sản xuất. Sự điều tiết này được hình thành một cách tự phát, thông qua sự biến động của giá cả trên thị trường. Có thể hiểu vai trò điều tiết này thông qua những trường hợp biến động quan hệ cung cầu xảy ra trên thị trường:
Khi cung nhỏ hơn cầu, sản phẩm không đủ để thoả mãn nhu cầu xã hội, giá cả cao hơn giá trị, hàng hoá bán chạy với lãi cao, người sản xuất mở rộng quy mô sản xuất, những người trước đây sản xuất hàng hoá khác, nay chuyển sang sản xuất hàng hoá này. Như vậy, tư liệu sản xuất và sức lao động được chuyển và ngành này nhiều hơn vào các ngành khác. Khi cung lớn hơn cầu, sản phẩm làm ra quá nhiều so với nhu cầu xã hội, giá cả thấp hơn giá trị, hàng hoá bán không chạy, có thể lỗ vốn, tình hình đó buộc người sản xuất ở ngành này thu hẹp quy mô sản xuất hay chuyển sang ngành khác, làm cho tư liệu sản xuất và sức lao động giảm đi ở ngành này mà tăng ở ngành khác mà họ thấy có lợi hơn.
Như vậy là theo “mệnh lệnh” của giá cả thị trường lúc lên, lúc xuống xoay quanh giá trị, khiến cho ngành sản xuất khác có lợi hơn ngành sản xuất này, mà có sự di chuyển tư liệu sản xuất và sức lao động từ ngành này sang ngành khác, quy mô sản xuất của ngành khác được mở rộng nhanh hơn ngành này. Điều đó làm cho tư liệu sản xuất và sức lao động bỏ vào từng ngành trong từng lúc có xu hướng phù hợp với yêu cầu của xã hội. Đó là biểu hiện vai trò điều tiết của quy luật giá trị, tạo nên những tỷ lệ cân đối nhất định giữa các ngành sản xuất. Nhưng vì sản xuất trong điều kiện chế độ tư hữu cạnh tranh vô chính phủ nên những tỷ lệ hình thành một cách tự phát đó thường xuyên bị phá vỡ và gây ra những lãng phí về của cải xã hội. Vì vậy, cân đối đó chỉ là hiện tượng tạm thời.
Quy luật giá trị không chỉ điều tiết sản xuất hàng hoá, mà còn điều tiết cả lưu thông hàng hoá. Gía cả của hàng hoá hình thành một cách tự phát theo quan hệ cung cầu. Cung và cầu có ảnh hưởng lớn đến giá cả, nhưng giá cả cũng có tác dụng khơi thêm luồng hàng, thu hút luồng hàng từ nơi giá thấp đến nơi giá cao. Vì thế lưu thông hàng hoá cũng do quy luật giá trị điều tiết thông qua sự lên xuống của giá cả xoay chung quanh giá trị.
CHƯƠNG 2. VAI TRÒ CỦA QUY LUẬT GIÁ TRỊ ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM.
2. 1. Khái niệm và đặc trưng của kinh tế thị trường
Kinh tế thị trường là nền kinh tế có các đặc trưng sau đây:
2.1.1. Quá trình lưu thông vật chất được thực hiện chủ yếu bằng phương thức mua bán với phạm vi ngày càng mở rộng, từ quốc gia tới khu vực và quốc tế.
a/ Lưu thông vật chất trong kinh tế là sự chuyển dịch kết quả sản xuất từ khâu này đến khâu khác của quá trình tái sản xuất mở rộng của xã hội. Sự lưu thông vật chất này bao gồm: Sự lưu thông vật chất từ khâu này đến khâu khác trong hệ thống các khâu của quá trình sản xuất. Chẳng hạn bông được chuyển từ các trang trại trồng bông tới nhà máy sợi, sơị được chuyển tới nhà máy dệt;Sự lưu thông vật chất từ sản xuất tới tiêu dùng. Chẳng hạn quần áo được chuyển từ các công ty mayđến người mặc; bánh mỳ được chuyển từ các lò bánh mỳ đến người ăn. Sở dĩ có sự luân chuyển vật chất trong nền kinh tế quốc dân là do có sự phân công chuyên môn hoá nhằm tạo được năng suất lao động xã hội cao. Do chuyên môn hoá, mỗi khâu sản xuất chỉ thực hiện thực hiện một phần của quá trình sản xuất. Kết quả tạo ra ở mỗi khâu chưa phải là thành phẩm và cần phải được gia công tiếp ở khâu liền kề. Muốn vậy, chúng phải được chuyển dịch.
b/ Sự luân chuyển vật chất trong quá trình sản xuất có thể được thực hiện được bằng nhiều cách:
Chu chuyển nội bộ: chu chuyển trong doanh nghiệp, như sợi được chuyển từ phân xưởng sợi qua phân xuởng dệt, vải được chuyển từ phân xưởng dệt sang phân xưởng nhuộm, in hoa…
Chu chuyển qua mua bán, khi đó,các phân xưởng nói trên trở thành các doanh nghiệp độc lập, thuộc các chủ riêng rẽ.
Theo lý thuyết trên, chỉ có sự luân chuyển theo phương thức mua bán mới được gọi là kinh tế thị trường, trong đó mua bán là sự trao đổi ngang giá trị. Sự trao đổi là kết quả tất yếu của phân công lao động xã hội. Nhưng trao đổi theo cách nào lại tuỳ thuộc vào chế độ xã hội. Trao đổi ngang giá trị hoặc sự mua bán chỉ xảy ra khi xuất hiện tư hữu. Khi chưa xuất hiện tư hữu về tư liệu sản xuất, việc trao đổi ít xảy ra, nhưng nếu có, cũng chỉ là sự san xẻ, nhường nhịn, đắp đổi cho nhau giữa các thành viên của những cộng đồng nguyên thuỷ. Do đó, một trong những dấu hiệu của nền kinh tế thị trường là sự trao đổi ngang giá.
c/ Sự trao đổi chủ yếu bằng phương thức mua bán có nghĩa là: Qúa nửa số chủng loại sản phẩm được trao đổi bằng phương thức mua bán. Với mỗi chủng loại sản phẩ, tỷ lệ lưu thông bằng phương thức mua bán chiếm quá nửa tổng số sản phẩm đó trong luân chuyển. Phạm vi lưu thông rộng lớn, không bó hẹp trong cộng đồng làng xã, mà mở rộng ra cả nước và xuyên quốc gia và hội nhập quốc tế.
2. 1. 2 Người trao đổi hàng hoá phải có quyền tự do nhất định khi tham gia trao đổi trên thương trường.
a/ Quyền tự do phải được thực hiện trên ba mặt sau đây: Tự do lựa chọn nội dung trao đổi. Có nghĩa là, nền kinh tế được gọi là nền kinh tế thị trườngchỉ khi nào trong nền kinh tế đó, người tham gia trao đổi có quyền chọn cái mà mình cần bán hay cần mu. Bởi vì, nếu không như thế, hành vi mua bán sẽ không còn đúng nghĩa của nó nữa;Tự do chọn đối tác trao đổi. Có nghĩa là, người tham gia thị trường có quyền bán cho hay mua của người mà mình muốn; Tự do thoả thuận giá cả trao đổi.
b/ Sự tự do nêu trên chỉ có tính tương đối: Sở dĩ như vậy là vì, về lý thuyết, không có tự do tuyệt đối. Về thực tế, nếu có ai đó được tự do tuyệt đối thì sẽ có người khác mất tự do. Vì thế, mọi thành viên tham gia thị trường chỉ có thể có tự do nhất địng mà thôi.
2.1.3. Hoạt động mua bán phải được thực hiện thường xuyên ổn định, trên cơ sở một kết cấu hạ tầng tối thiểu, đủ để việc mua bán diễn ra thuận lợi, an toàn.
Tính thường xuyên, ổn định thể hiện ở thời gian và địa điểm diễn ra hoạt động mua bán. Không thể gọi một nền kinh tế nhất thời, bấp bênh, chưa định hình tổ chức và địa chỉ…là nền kinh tế thị trường được. Ngoài ra, sự ổn định và thường xuyên còn cần được bảo đảm bằng một kết cấu hạ tầng nhất định, đủ để quá trình mua bán đạt được mục đích cuối cùng là chuyển giao giá trị sử dụng.
2. 1. 4 Nền kinh tế hiện đại bao gồm những doanh nhân biết thống nhất mục tiêu kinh tế với các mục chính trị-xã hội nhân văn.
Đặc trưng này nói lên rằng, ngay nay không có nền kinh tế nào được gọi là kinh tế thị trường mà trong lòng nó lại gồm những doanh nhân chỉ biét phấn đấu cho một mục tieu là lợi nhuận Đặc trưng trên là kết quả của sự từng trải của nhiều thế hệ doanh nhân, trong đó người sản xuất, kinh doanh giác ngộ được chân lý “làm phúc cũng như làm giàu”, hiểu sâu sắc rằng tính nhân văn, nhân đạo để giàu có và bền vững. Tính nhân văn, nhân đạo của nền kinh tế mỗi nước, mỗi thời kỳcó thể có những nội dung riêng, xuất phát từ lịch sử, trình độ phát triển kinh tế, bản chất giai cấp của xã hội …của mỗi nước, trong mỗi thời kỳ nhất định. Tuy vậy, tính chung nhất của nó thể hiện ở sự tôn trọng của hoạt động kinh tế đối với lợi ích toàn diện và lâu dài của đất nước, của cộng đồng, của dân tộc, gắn kinh tế với bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường, với quốc phòng và an ninh, với phát triển y tế, văn hoá, giáo dục và bảo trợ xã hội, kinh tế không thuần tuý chạy theo lợi nhuận cá nhân, nhất thời theo đuổi lợi nhuận bằng bất cứ giá nào.
2.1.5. Có sự quản lý của nhà nước.
Đặc trưng này mới hình thành ở các nền kinh tế thị trường trong vài thập kỷ gần đây, do nhu cầu không chỉ của nhà nước, xuất phát từ lợi ích của giai cấp cầm quyền mà còn do nhu cầu của chính mọi thành viên tham gia kinh tế thị trường. Nhà nước được coi như là nhân tố bảo đảm cho nền kinh tế thị trường có được các đặc trưng nêu ở trên. Nói cách khác là, ngày nay không có nền kinh tế nào được gọi là kinh tế thị trường mà không có sự quản lý của nhà nước.
2. 2. Mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa về bản chất và cấu trúc của nó.
Về bản chất: Kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức nền kinh tế vừa dựa trên những nguyên tắc và quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên nguyên tắc và mục tiêu của xã hội chủ nghĩa, gồm hai nhóm nhân tố cơ bản được kết hợp với nhau, tồn tại trong nhau, xâm nhập và bổ sung cho nhau, đó là các nhân tố cơ bản của kinh tế thị trường và nhóm các nhân tố của xã hội đang định hướng xã hội chủ nghĩa. Nói cách khác, nó là một kiểu tổ chức kinh tế được kết hợp giữa cái chung (kinh tế thị trường) và cái đặc thù là xã hội chủ nghĩa, trong đó cái đặc thù quy định tính chất của tổ chức kinh tế đó.
Bản chất kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã quy định việc tổ chứa nền kinh tế theo bốn nguyên tắc cơ bản sau: Nguyên tắc về sở hữu: Với tính đa dạng về hình thức, trong đó sở hữu nhà nước giữ vai trò chủ đạo; Nguyên tắc về cơ chế vận hành: Cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác. Nhà nước nói ở đây là nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của dân do dân và vì dân;Nguyên tắc về phân phối thu nhập: Thực hiện sự kết hợp chặt chẽ nguyên tắc phân phối của chủ nghĩa xã hội (phân phối theo lao động, phân phối thông qua phúc lợi xã hội) và nguyên tắc phân phối của kinh tế thị trường như phân phối theo giá trị sức lao động, phân phối theo vốn, theo tài sản; Kết hợp hài hoà giữa văn hoá truyền thống dân tộc và văn hoá hiện đại có chọn lọc, trong đó văn hoá dân tộc là gốc.
* Các luận điểm của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa xét về cấu trúc:Từ bản chất và nguyên tắc cơ bản đã phân tích ở trên có thể hình dung, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa về mặt cấu trúc thể hiện rõ ở các điểm sau: Một là: Dựa trên tính đa dạng về hình thức sở hữu và do đó đa thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước mà doanh nghiệp nhà nước là một bộ phận giữ vai trò chủ đạo. Đặc điểm này có tác dụng tạo tiền đề cho tự do kinh tế (tự do cạnh tranh, tự do kinh doanh và tự chủ) mà thiếu nó kinh tế thị trường không thể tồn tại và phát triển được. Hai là: Dựa trên một lực lượng sản xuất sao cho thúc đẩy tăng trưởng cao và lâu bền, đi tắt vào những ngành, lĩnh vực kinh tế mũi nhọn của thời đại, sớm hình thành cơ cấu thị trường đồng bộ. Tất cả được triển khai theo hướng ưu tiên cho sự hình thành các nhân tố xã hội chủ nghĩa. Ba là: Lấy cơ cấu kinh tế như một hệ thống mở cả trong lẫn ngoài để tồn tại và phát triển kinh tế thị trường. Độ mở của hệ thống kinh tế tuỳ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, các thành phần kinh tế, tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế và vai trò quản lý vĩ mô của nhà nước. Thích ứng với đặc trưng này là chiến lược hướng mạnh vế xuất khẩu, chuyển giao công nghệ mới; đồng thời với việc sản xuất thay thế nhập khẩu những hàng hoá ta có điều kiện và lợi thế. Bốn là: Kinh tế thị trường tồn tại và phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa được thực hiện qua vai trò chủ đạo trong thực tế của khu vực kinh tế nhà nước; qua việc giữ gìn và phát huy truyền thống bản sắc dân tộc Việt Nam và qua vai trò quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Như ta đã biết hầu hết các nước đi theo kinh tế thị trường hiện đại đều có sở hữu nhà nước và do đó có khu vực kinh tế nhà nước. Song một vấn đề có ý nghĩa về nguyên tắc là cần phân biệt sự khác nhau về bản chất giữa kinh tế thị trường ở nước ta và kinh tế nhà nước ở các nước khác về định hướng phát triển kinh tế thị trường. Tính định hướng xã hội chủ nghĩa của kinh tế thị trường, ngoài vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước đảm bảo, còn một yếu tố không kém phần quan trọng,nếu không muốn nói là quyết định, đó là sự tác động của nhà nước thông qua vai trò quản lý vĩ mô đối với nền kinh tế thị trường. Với tư cách là cái chung của kinh tế thị trường hiện đại, vai trò nói trên của nhà nước thì các nước đều có, nhưng ở nước ta, vai trò đó có sự khác biệt. Có lẽ ngoài sự khác nhau về trình độ phát triển của kinh tế thị trường, về kinh nghiệm và trình độ quản lý vĩ mô của nhà nước, phải kể đến sự khác nhau cơ bản là ở tính chất của nhà nước pháp quyền. Một bên là nhà nước xã hội chủ nghĩa mà tính chất của nó là của dân, do dân và vì dânvà quyền lực của nó thể hiện ở hệ thống luật pháp dựa trên sự thống nhất có phân công giữa ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp và tư pháp, từng bước được hiện thực hoá. Còn nhà nước trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, mặc dù vẫn tồn tại hai tính chất: tính giai cấp và tính nhân dân, nhưng tính trội thuộc về giai cấp tư sản, mà nhà nước là công cụ phục vụ lợi ích của giai cấp cầm quyền. Chính sự khác nhau này là các đảm bảo để khu vực kinh tế nhà nước giữ được vai trò chủ đạo; là các đảm bảp cho bản sắc dân tộc được giữ gìn và phát huy đúng hướn; là các đảm bảo cho phép phát huy được ưu thế tích cực và khắc phục những mặt tiêu cực của kinh tée thụ trường, nhất là về mặt xã hội, môi sinh, thong qua cá chính sách thuế, chính sách xã hội của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Phấn đấu cho đặc trưng này trở thành hiện thực, đủ sức vạch hành lang, tạo môi trường kinh tế, chính trị, xã hội thuận lợi cho các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế, đưa nền kinh tế thị trường phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa đã chọn là ván đề rất bưc xúc và không dễ dàng.
Bốn nhược điểm nói trên có quan hệ biện chứng với nhau, mỗi đặc diểm có vị trí tưong đối nhất định của nó, song đặc điểm thứ nhất và đặc điểm thứ tư có ý nghĩa đặcbiệt quan trộng, nếu không muốn nói là có ý nghĩa quyết định đối với sự tồn tại và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
2.2.1. Mô hình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Việt nam với tư cách là nước phát triển muộn về kinh tế thị trường, lại diễn ra trong bối cảnh thời đại mới khác nhièu so với trước. Để nắm bắt” cơ hội’, vượt qua “thách thức”, rút ngắn khoảng cách lạc hậu, “tụt hậu” xa so với các nước, giữ vững địng hướng xã hội chủ nghĩa đã chọnh, không thể phát triển theo mô hình kinh tế thị trường cổ đioển, mà nên chọn mô hình phát triển kinh tế thị trường rút ngắn, hiện đại là thích hợp. Tất nhiên không hoàn toàn giống như các nước đã đi theo mo hình này, nhất là về tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nó. Mô hình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩả nước ta bao gồm các đặc trưng chủ yếu sau:Phát triển trong sự kết hợp hài hoà giữa quy luật phát triển tuần tự với quy luật phát triển nhảy vọt; Phát triển cùng một lúc ba trình độ phát triển của hình thái kinh tế hàng hoá, đó là kinh tế hàng hoá giản đơn, kinh tế thị trường tự do(cổ điển) và kinh tế thị trường hỗn hợp(hiện đại). Tất nhiên, trong từng thời điểm, tính trội của mỗi trình dộ có khác nhau; Phát triển trong sự kết hợp hài hoà giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời dại, coi trọng việc kết hợp vai trò thúc đẩy sự ra đời các nhân tố của kinh tế thị trường và vai trò quản lý vĩ mô của nhà nước xa hội chủ nghĩa trong qúa trình chuyển sang kinh tế thị trường hiện đại.
Ba đặc trưng nói trên có quan hệ mật thiết với nha, trong đó đặc trưng thứ ba có ý nghĩa quyết định.
2.2.2. Vai trò của quy luật giá trị trong sự phát triển kinh tế thị trường ở nước ta.
Theo văn kiện đại hội đảng IX” Đảngvà nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã họi chủ nghĩa”. Với các đặc trưng của mô hình này như đã nói ở trên, các quy luật kinh tế được phép phát huy tác dụng của nó trong đó quy luật giá trị đóng vai trò là quy luật kinh tế căn bản chi phối toàn bộ sự phát triển của nền kinh tế. Như đã phân tích ở trên, quy luật giá trị có vai trò lớn trong nền sản xuất hàng hoá. Với mô hình kinh tế như ở nước ta hiện nay, quy luật giá trị đã đóng góp vào sự phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta qua các vai trò sau:
a/ Thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Một nguyên tắc căn bản của kinh tế thị trường là trao đổi ngang giá tức là thực hiện sự trao đổi hàng hoá thông qua thị trường, sản phẩm phải trở thành hàng hoá. Nguyên tắc này đòi hỏi tuân thủ quy luật giá trị _ sản xuất và trao đỏi hàng hoá phải dựa trên cơ sở thời gian lao động xã hội cần thiết. Cụ thể:Xét ở tầm vi mô: Mỗi cá nhân khi sản xuát các sản phẩm đều cố gắng làm cho thời gian lao động cá biệt nhỏ hơn thời gian lao động xã hội; Xét ở tầm vĩ mô:Mỗi doanh nghiệp đều cố gắng nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, giảm thời gian lao động xã hội cần thiết. Do vậy, mỗi người phải luôn tự hoàn thiện mình, nâng cao trình độ chuyên môn của mình. Mỗi doanh nghiệp phải cố gắng cải tiến may móc, mẫu mã, nâng cao tay nghề lao động. Nếu không, quy luật giá trị ở đây sẽ thực hiện vai trò đào thải của nó: loại bỏ những cái kém hiệu quả, kích thích các cá nhân\, nghành, doanh nghiệp phát huy tính hiệu quả. Tất yếu điều đó dẫn tới sự phát triển của lực lượng sản xuất mà trong dó đội ngũ lao động có tay nghề chuyên môn ngày càng cao, công cụ lao động luôn luôn được cải tiến. Và cùng với nó, sự xã hội hoá, chuyên môn hoá lực lượng sản xuất cũng được phát triển.
b/ Nâng cao tính cạnh tranh của nền kinh tế.
Việc chuyển từ chế độ tầp trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường thì cùng với nó là việc loại bỏ cơ chế xin cho, cấp phát, bảo hộ trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Mỗi doanh nghiệp phải tự hạch toán, không bị ràng buộc quá đáng bởi các chỉ tiêu ssản xuất mà nhà nước đưa ra và phải tự nghiên cứu để tìm ra thị trường phù hợp với các sản phẩm của mình; thực hiện sự phân đoạn thị trường để xác định tấn công vào đâu, bằng những sản phẩm gì. Mặt khác, cùng với xu hướng công khai tài chính doanh nghiệp để giao dịch trên sàn giao dịch chứng khoán, thúc đẩy tiến trình gia nhập AFTA, WTO; mỗi cá nhân, mỗi doanh nghiệp đều phải nâng cao sức cạnh tranh của mình để có thể đứng vững khi bão táp của qúa trình hội nhập quốc tế ập đến. Sức cạnh tranh được nâng cao ở đây là nói đến sức cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp trong nươc, giữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp nước ngoài, giữa các cá nhân trong nước với cá nhân trong nước, giữa cá nhân._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 10231.doc