Vai trò của quy hoạch xây dựng đô thị trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế địa bàn thủ đô trong thời kỳ đổi mới

Lời nói đầu Đất nước ta trong quá trình hội nhập với nền kinh tế khu vực và trên thế giới . Nhìn chung, tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước ta trong những năm gần đây là tương đối cao và đời sống của nhân dân ta ngày càng được nâng cao rõ rệt. Để đạt được những thành tựu đó , Đảng và nhà nước ta đã có những chính sách phát triển kinh tế đúng đắn. Một trong những biện pháp nhằm phát triển đất nước ta thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế . Quá trình ở nước ta đang diễn ra ở nhiều vùng , nhiều ngà

doc27 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1417 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Vai trò của quy hoạch xây dựng đô thị trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế địa bàn thủ đô trong thời kỳ đổi mới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh và nhiều địa phương trong cả nước .Trong quá trình phát triển có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Một trong những nhân tố đó là quy hoạch xây dựng đô thị. Quả thật song song với quá trình kinh tế là sự mở rộng dân số đô thị quá trình đô thị hóa ở nước ta Đảngdiễn ra với một tốc độ cao, do đó quá trình quy hoạch xây dựng đô thị cũng cần được quan tâm đúng mức . quy hoạch xây dựng đô thị không chỉ là vấn đề quan tâm chú trọng của các cấp chinh quyền từ trung ương đến địa phương trong cả nước mà còn là vấn đề quan tâm của cả cộng đồng. quy hoạch xây dựng đô thị một mặt còn giải quyết các vấn đề giữa hiện tại và tương lai , mặt khác còn có tác dụng thúc đẩy quá trình đô thị hoá trên địa bàn cả nước . quy hoạch xây dựng đô thị hợp lý sẽ tạo ra sự phát triển đồng bộ trong cả nước. Tuy nhiên trong bài viết này chúng tôi xin đề cập đến “Vai trò của quy hoạch xây dựng đô thị trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế địa bàn thủ đô trong thời kỳ đổi mới”. Mặc dù đây là những ý kiến nhận xét rất chủ quan của chúng tôi về những gì , đã đang và sẽ diễn ra trên địa bàn thủ đô. Chúng tôi hy vọng rằng khi những ý kiến này được đưa ra chúng tôi sẽ có được một cái nhìn toàn diện hơn sâu sắc hơn về vai trò của quy hoạch xây dựng đô thị đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Hà nội, để từ đó đưa ra những giải pháp hợp lý nhất thúc đẩy sự phát triển kinh tế của đất nước. Chúng tôi cho rằng đây cũng là vấn đề nhiều người quan tâm và trở thành một vấn đề bất cập trong sự phát triển của đất nước, do đó chúng tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của bạn đọc để bài viết của chúng tôi được hoàn thiện hơn. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn! Nội Dung I. Khái niệm về cơ cấu kinh tế- cơ cấu kinh tế đô thị: Khái niệm về cơ cấu kinh tế: Có lẽ đã từ lâu nhiều người đã nhắc đến vấn đề “Cơ cấu kinh tế”. Như vậy để chúng ta có thể hiểu vấn đề cơ cấu như thế nào để cho đúng và hợp lý với ý nghĩa đích thực của nó.Thế nào là cơ cấu? trong một khía cạnh , với một lĩnh vực , cơ cấu kinh tế sẽ được hiểu như thế nào ? và các đặc trưng của cơ cấu là gì ? chúng tôi xin đưa ra một số ý kiến xung quanh vấn đề này. “Cơ cấu hay kết cấu” là một phạm trù triết học phản ánh cấu trúc bên trong của một đối tượng. Nó thường được hiểu là một tập hợp mối quan hệ cơ bản tương đối ổn định giữa các yếu tố cấu thành nên đối tượng đó trong một thời gian nhất định. Có thể khái quát rằng : “Cơ cấu kinh tế là tổng thể các mối quan hệ chủ yếu về chất lượng và số lượng tương đối ổn định của các yếu tố kinh tế hoặc các bộ phận của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất với toàn bộ hệ thống trong một hệ thống tái sản xuất xã hội với những điều kiện KTXH nhất định trong một khoảng thời gian nhất định”. Như vậy, cơ cấu phản ánh tính toàn vẹn đồng bộ của hệ thống thông qua cấu trúc của hệ thống đó. Nếu chỉ xem xét một vài quan hệ trọng yếu giữa một loại yếu tố cấu thành bên trong nền kinh tế , cơ cấu sẽ chỉ mang tính chất bộ phận và chỉ phản ánh một khía cạnh của hiện trang nền kinh tế. Do đó chúng tôi xin đưa ra những đặc trưng của cơ cấu kinh tế. Cơ cấu kinh tế mang tính khách quan: Tính khách quan của cơ cấu kinh tế là thể hiện cơ cấu kinh tế tồn tại một cách tự nhiên , không tuân theo quy luật của con người, dù muốn hay không , nó vẫn tồn tại. Nói như vậy không có nghĩa là không có yếu tố chủ quan trong việc xác định cơ cấu kinh tế thông qua nhận thức ngày càng sâu sắc về những quan hệ đó mà người ta phân tích những xu thế phát triển khác nhau để từ đó tìm ra được một cơ cấu kinh tế hợp lý và có hiệu quả cao nhất. Cơ cấu kinh tế mang tính lịch sử và xã hội: cơ cấu kinh tế ngoài việc phát triển những quy luật chung của quá trình phát triển còn biểu hiện cả sự thích ứng của nền kinh tế với điều kiện đặc thù của một nước về tự nhiên, lịch sử, KTXH ... Do đó tuỳ thuộc vào điều kiện xã hội của từng nước mà chúng ta sẽ xây dựng và xác định một cơ cấu kinh tế hợp lý phù hợp với từng thành phần kinh tế. Cơ cấu kinh tế luôn luôn biến động : cơ cấu kinh tế được gắn liền với sự biến đổi , phát triển không ngừng của bản thân các yếu tố bộ phận trong nền kinh tế và mối quan hệ giữa chúng. 1.1 Khái niệm nền kinh tế đô thị – cơ cấu kinh tế đô thị Trong các tài liệu về kinh tế có nhiều cách tiếp cận khác nhau về khái niệm “nền kinh tế”. Chúng tôi xin đưa ra một vài khái niệm cơ bản dựa trên quan điểm duy vật biện chứng và theo nghĩa triết học. Theo quan điểm duy vật biện chứng:” nền kinh tế đô thị là tổng thể những hoạt động lao động sản xuất của con người được hình thành trong một giai đoạn lịch sử nhất định để thực hiện quá trình sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng sản phẩm”. Đó là một hệ thống hoạt động lao động sản xuất xã hội và các mối quan hệ phức tạp có thể được phân chia theo nhiều hình thức khác nhau thành các bộ phận cấu thành nên những mối quan hệ đa dạng. Trong sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội của tất cả các quốc gia trên thế giới, các đô thị đóng vai trò là những trung tâm hạt nhân quan trọng. Các hoạt động kinh tế văn hoá chủ yếu của quốc gia đó sẽ được điều tra chủ yếu ở đô thị . Như vậy, nền kinh tế đô thị đóng vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế của một quốc gia. Để thấy được vai trò đó chúng ta phải đi sâu vào bản chất, quy luật và những mối quan hệ được hình thành và phát triển của các hoạt động kinh tế đô thị. Mặt khác, theo nghĩa triết học cơ cấu kinh tế đô thị được hiểu như là tập hợp những mối quan hệ cơ bản, tương đối ổn định giữa các yếu tố cấu thành bên trong nền kinh tế đô thị. Mối quan hệ kinh tế cơ bản nhất là hình thành trong tái sản xuất xã hội ở đô thị là những mối quan hệ giữa các ngành, các khu vực và các thành phần kinh tế. Vì thế CDCC kinh tế đô thị còn được nghiên cứu trên góc độ cơ cấu tổng giá trị sản xuất và tổng sản phẩm thu nhập theo khu vực và theo thành phần kinh tế. 1.2 Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành: Để đi sâu vào phân tích phân tích vấn đề này chúng ta phải hiểu ngành kinh tế là gì? theo quan điểm của chúng tôi:“Ngành kinh tế là tập hợp cá tổ chức, các doanh nghiệp có cùng vị trí chức năng trong hệ thống phân công lao động xã hội”. Do đó, cơ cấu ngành kinh tế là tổ hợp các thành các tương quan tỉ lệ biểu hiện mối quan hệ giữa các nhóm ngành của nền KTQD. Đối với thành phần kinh tế : Cơ cấu ngành kinh tế đô thị biểu thị bằng tỉ trọng của từng ngành trong kinh tế đô thị . Nó phản ánh vai trò và những mối quan hệ giữa những tập hợp các tổ chức, doanh nghiệp cùng thực hiện một chức năng trong hệ thống phân công lao động xã hội đô thị. Nó phản ánh tốc độ phân công lao động và tốc độ phát triển của lực lượng sản xuất. Cơ cấu ngành kinh tế của đô thị luôn luôn do sự tăng trưởng và phát triển nhanh chóng của đô thị . Cơ cấu ngành theo tổng việc làm: là mối quan hệ giữa bộ phận lao động cơ bản và lao động phục vụ của đô thị trong từng ngành trong tổng thể nền kinh tế quốc dân. Cơ cấu ngành theo tổng giá trị sản xuất GO và GDP: GO và GDP là nhiều cỉ tiêu quan trọng nhất phản ánh quy mô kinh tế của đô thị. Nó phản ánh vai trò của từng ngành trong việc sáng tạo ra sản phẩm xã hội ở đô thị và phản ánh hiệu quả sản xuất ở đô thị. 1.2.1 Cơ cấu kinh tế theo thành phần kinh tế Nền KTQD là một thể thống nhất trong đó bao gồm nhiều bộ phận cấu thành. Nếu xét trên góc độ sở hữu , nền KTQD bao gồm các thành phần kinh tế khác nhau tạo một cơ cấu kinh tế khác loại ... Trong lịch sử phát triển kinh tế của đất nước, sau một giai đoạn dài đã duy trì một cơ chế kinh tế tập trung bao cấp mà đặc trưng của nền kinh tế đó là nền kinh tế hiện vật tự cung cấp là chủ yếu. Vì vậy, nền kinh tế trong thời kỳ quá độ chỉ bao gồm kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể. Sau đại hội VI, đường lối của đảng và nhà nước là đổi mới kinh tế với mô hình kinh tế là nền kinh tế hàng hoá trong đó đa dạng hoá các thành phần kinh tế. Phát huy sức mạnh tổng hợp của nhiều thành phần kinh tế góp phần phát triển kinh tế quốc gia. Theo phương hướng đổi mới của Đảng, đó là nền KTTT theo định hướng XHCN trong đó bao gồm 6 thành phần kinh tế bao gồm : TPKT nhà nước , TPKT tư nhân, TPKT tư bản tư nhân, TPKT nước ngoài, TPKT cá thể và TPKT có vốn đầu tư nước ngoài. Sự chuyển hoá các thành phần kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá diễn ra dưới nhiều hình thức phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Chính sự chuyển hoá này đã tạo điều kiện thúc đẩy nền sản xuất hàng hoá phát triển mạnh và có hiệu quả. Trong nền kinh tế thị trường, mối thành phần đều có vị trí riêng và cùng hợp thành một thể thống nhất có quan hệ thống nhất, tương hỗ với các thành phần kinh tế khác. Như vậy, chúng ta có thể hiểu cơ cấu thành phần kinh tế như thế nào ? Các thành phần kinh tế phản ánh trình độ phát triển của quan hệ sản xuất mà trước hết là quan hệ sở hữu trong nền kinh tế. Việc nghiên cứu cơ cấu kinh tế đô thị được thực hiện trên cơ sở những thành phần kinh tế thực tế đang tồn tại. Cơ cấu kinh tế thể hiện số lượng và vai trò của từng thành phần qua đó thấy được mức độ thống trị của quan hệ sản xuất chủ đạo trong kinh tế đô thị. Một trong những đặc trưng cơ bản của cơ cấu này là xu hướng đơn giản hoá của nó. Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta có chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần để thấy rõ được cơ cấu này. Trong thực tế đó là 3 thành phần kinh tế: thành phần kinh tế Nhà nước( Quốc doanh ), không phải nước ngoài ( ngoài quốc doanh) và thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, trong mỗi thành phần này người ta có thể tiếp tục nghiên cứu cơ cấu bên trong của nó. Thành phần kinh tế quốc doanh bao gồm các tổ chức, doanh nghiệp có chế độ sở hữu nhà nước về tư liệu sản xuất, các tổ chức còn lại phụ thuộc vào hình thức ngoài quốc doanh. Như vậy về mặt lý thuyết nên chỉ chia ra làm 2 thành phần. Một cơ cấu kinh tế hợp lý phải dựa trên cơ sở hệ thống tổ chức kinh tế với chế độ sở hữu có khả năng đảm bảo sự phát triển của lực lượng sản xuất và thúc đẩy sự phân công lao động xã hội. Theo nghĩa đó, cơ cấu kinh tế cũng là một nhân tố tác động đến cơ cấu ngành và cơ cấu lãnh thổ. Sự tác động đó là một biểu hiện sinh động của mối quan hệ giữa các loại cơ cấu trong nền kinh tế. 1.2.2 Cơ cấu kinh tế theo lãnh thổ Như chúng ta đã trình bày ở trên , cơ cấu kinh tế hình thành từ quá trình phân công lao động và chuyên môn hoá sản xuất. Hơn thế nữa, sự phát triển các ngành kinh tế đó đạt được hiệu quả là một phần dựa trên cơ sở những điều kiện tiền đề thuận lợi của từng vùng nhất định. Điều kiện đó tạo nên một cơ cấu các ngành theo cùng lãnh thổ. Như vậy, cơ cấu kinh tế lãnh thổ được hình thành chủ yếu từ việc bố trí sản xuất theo không gian địa lý. Chúng ta nhận thấy rằng, cơ cấu lãnh thổ và cơ cấu ngành kinh tế là hai mặt của một thể thống nhất và là đều là biểu hiện của sự phân công lao động xã hội. Cơ cấu lãnh thổ hình thành gắn liền với cơ cấu ngành. Chúng ta nghiên cứu cơ cấu lãnh thổ trong nền kinh tế là cần thiết để hiểu rõ hơn về các vùng kinh tế. Thật vậy, trước hết các ngành kinh tế gắn liền với không gian nhất định tạo ra sự chuyên môn hoá vùng. Mặt khác, điều đó cũng làm cho các vùng lãnh thổ có sự phụ thuộc lẫn nhau, sự liên kết hợp tác giữa các vùng kinh tế . Đối với mỗi nền kinh tế để thực hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế xã hội cần có một cơ cấu lãnh thổ hợp lý. Trong đó, mỗi vùng lãnh thổ giải quyết những nhiệm vụ phù hợp với điều kiện của mình và cùng trợ giúp các vùng khác tạo sức mạnh tổng hợp để phát triển kinh tế. Có thể nói rằng, một cơ cấu lãnh thổ hợp lý , có thể khai thác tốt tiềm năng kinh tế cùng góp phần nâng cao năng suất lao động, từ đó thúc đẩy tăng trưởng phát triển kinh tế. Theo quan điểm của chúng tôi, một cơ cấu lãnh thổ hợp lý cần đảm bảo các yêu cầu: Đó là cơ cấu lãnh thổ cần có “tính phù hợp” tức là cơ cấu đó phải phù hợp với những điều kiện và nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội. Nó cần đảm bảo “tính đồng bộ” trong cơ cấu có nghĩa là cần có “sự ăn khớp” giữa các bộ phận cấu thành và giữa các bộ phận của vùng lãnh thổ này với vùng lãnh thổ khác. Sau nữa, nó phải đảm bảo “tính tối ưu” mà theo đó có được hiệu quả kinh tế xã hội cao nhất. Mặt khác, đối với mỗi vùng kinh tế có một cơ cấu trong đó các ngành kinh tế đạt được hiệu quả kinh tế xã hội cao và đáp ứng mục tiêu của nền kinh tế. Điều đó có nghĩa là cơ cấu lãnh thổ đó cần đảm bảo cho lãnh thổ hoàn thành được những nhiệm vụ mà nền kinh tế đặt ra đối với vùng. Sau đó, cần phải tăng cường nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên và các nguồn lực sản xuất có trong lãnh thổ đó. Từ đó tạo ra tiền đề, cơ sở vật chất kỹ thuật cũng như kinh tế xã hội để phất triển kinh tế vùng và nâng cao đời sống nhân dân và bảo vệ môi trường thiên nhiên. Nhưng một trong những mục tiêu của nền kinh tế ta không thể bỏ qua đó là cơ cấu lãnh thổ phải thúc đẩy sự phát triển đồng đều giữa các vùng lãnh thổ của đất nước hay xoá bỏ chênh lệch về trình độ phát triển. Điều đó là cần thiết bởi vì một nền kinh tế có được sự phát triển đồng đều mới tạo được sự đồng bộ. Mối quan hệ qua lại chặt chẽ từ đó lên sức mạnh tổng hợp để thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Nguyên nhân của sự phát triển không đồng đều giữa các vùng lãnh thổ có nhiều bao gồm: do điều kiện lịch sử để lại; do sự phân bố dân cư; lực lượng sản xuất không tương xứng với tiềm năng với yêu cầu thoả mãn nhu cầu của dân cư trong vùng và sự tham gia vào mối liên hệ với vùng khác. Để đạt được các mục tiêu đó , cơ cấu lãnh thổ phải theo hướng chuyên môn hoá vùng theo chiều sâu và quan hệ hợp tác ngày càng toàn diện. Kinh tế lãnh thổ phát triển nhiều mặt, tổng hợp dựa trên một vài ngành và gắn liền với sự hình thành sự phân bố dân cư phù hợp với điều kiện tiềm năng phát triển kinh tế của lãnh thổ. Việc chuyển dịch cơ cấu lãnh thổ phải đảm bảo sự hình thành và phát triển có hiệu quả của các ngành, các thành phần kinh tế theo lãnh thổ và trên phạm vi cả nước, phải phù hợp với đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội, phong tục tập quán, truyền thống của mỗi vùng, nhằm khai thác triệt để thế mạnh của vùng đó. 2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế đô thị 2.1 Khái niệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế Như phần trên đã trình bày chúng ta đã hiểu được một cách khá rõ ràng về cơ cấu kinh tế . Thế còn “chuyển dịch cơ cấu kinh tế” có ý nghĩa là gì?. Chính sự “chuyển dịch” có vai trò và ý nghĩa như thế nào đối với quá trình phát triển kinh tế đô thị. Để làm rõ được điều đó chúng ta phải hiểu thế nào là “chuyển dịch”. “Chuyển dịch” đó là sự thay đổi từ vị trí này sang vị trí khác trong một tổng thể xác định. Nhìn chung, cơ cấu kinh tế luôn thay đổi trong từng thời kỳ phát triển bởi các yếu tố hợp thành cơ cấu kinh tế không cố định. Đó là sự thay đổi về số lượng các ngành hoặc sự thay đổi về quan hệ tỉ lệ giữa các ngành trong các vùng, các thành phần do sự xuất hiện hoặc biến mất của một số ngành và tốc độ tăng trưởng giữa các yếu tố cấu thành cơ cấu kinh tế không đồng đều. Sự thay đổi của cơ cấu kinh tế từ trạng thái này sang trạng thái khác cho phù hợp với môi trường phát triển được gọi là sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đây không phải đơn thuần là sự thay đổi vị trí mà là sự biến đổi cả về lượng và chất trong nội bộ cơ cấu. Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải dựa trên cơ sở của một cơ cấu hiện có do đó nội dung của chuyển dịch cơ cấu là cải tạo cơ cấu cũ, lạc hậu hay chưa phù hợp để xây dựng cơ cấu mới, tiên tiến hay hoàn thiện và bổ sung cơ cấu cũ nhằm biến đổi cơ cấu cũ thành cơ cấu mới hiện đại và phù hợp hơn. Như vậy, chuyển dịch cơ cấu kinh tế về thực chất là sự điều chỉnh ba mặt biểu hiện của cơ cấu kinh tế nhằm hướng sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế theo các mục tiêu kinh tế xã hội cho từng thời kỳ phát triển. Như vậy, có thể nói rằng chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một bước nhảy vọt cho sự phát triển kinh tế. Chính nhờ sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã thúc đẩy nền kinh tế phát triển theo chiều sâu. Do đó, không chỉ là sự thay đổi về số lượng mà còn bao hàm cả sự biến đổi về chất lượng trong tất cả các ngành và các thành phần kinh tế. Do đó, chuyển dịch cơ cấu kinh tế giữ một vai trò quan trọng trong quá trình phát triển đất nước cũng như tạo điều kiện phát triển kinh tế ở đô thị. 2.2 Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là tất yếu khách quan trong quá trình đô thị hoá Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một quá trình làm thay đổi cả về số lượng, chất lượng, tỉ trọng của các ngành các vùng trong cả nước. Đặc biệt, trong quá trình tốc độ đô thị hoá đang diễn ra nhanh chóng như hiện nay , vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế giữ một vai trò quan trọng. Thay đổi cơ cấu là một điều kiện cơ bản để xoá bỏ những mất cân đối đang tồn tại tạo ra một trình độ cân đối nhất định trong nền kinh tế làm tiền đề cho sản xuất phát triển mạnh mẽ và ổn định. Trước khi có chuyển dịch cơ cấu kinh tế , nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu tỉ lệ lao động trong công nghiệp thấp, lao động trong nông nghiệp là chủ yếu còn dịch vụ ở trong các khu đô thị là kém phát triển. Chính vì lẽ đó, chuyển dịch cơ cấu đã xoá bỏ được những mất cân đối đang tồn tại, tỉ lệ lao động trong nông nghiệp đã giảm hơn so với trước và ngành dịch vụ đang phát triển với tốc độ cao phù hợp và thúc đẩy nhanh đến quá trình đô thị hoá. Nhờ có chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn thủ đô, ngành công nghiệp tăng 29,2% (năm 1990) lên 33,01% (năm 1995) và 38,5% (năm 2000) với tốc độ tăng trưởng cao trong nhiều năm tỉ trọng GDP của Hà nội chiếm trong tổng số cả nước đã tăng từ 5,5% (năm 1990) lên 6,1% (năm 1995) và 7,3% (năm 2000). Như vậy, chuyển dịch cơ cấu đã tạo tiền đề cho sản xuất phát triển mạnh mẽ và ổn định. Sự thay đổi cơ cấu tạo nên cơ sở vật chất kỹ thuật phù hợp để thực hiện những phương hướng quyết định của tiến bộ khoa học kỹ thuật. Nhờ đó có quá trình chuyển dịch cơ cấu, chúng ta đã tích cực tiến hành chuyển giao công nghệ KHKT. Chính nhờ quá trình chuyển giao công nghệ, năng suất lao động trong đô thị cũng như trong toàn bộ nền KTQD được nâng cao rõ rệt. Sự thay đổi cơ cấu và ứng dụng KHKT trong nền kinh tế có mối quan hệ qua lại với nhau một cách chặt chẽ . Tiến bộ KHKT buộc cơ cấu kinh tế phải có sự thay đổi phù hợp nhưng thay đổi CCKT lại có tác dụng mở đường cho việc thực hiện tiến bộ KHKT. trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế chúng ta đã ưu tiên phát triển một số ngành trọng điểm trên địa bàn thủ đô như điện năng, cơ khí, hoá chất, điện nguyên tử, và tự động hoá… đã tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển vượt bậc. Thay đổi cơ cấu kinh tế là sự phân công mới lao động xã hội không chỉ ở giác độ ngành kinh tế mà cả ở giác độ lãnh thổ. Chính nhờ sự thay đổi cơ cấu kinh tế này đã làm cho dân cư đô thị ngày càng tăng , diện tích đô thị ngày càng được mở rộng. Hiện nay, dân cư Hà Nội chiếm 1,3 triệu người bằng 8,1% dân số đô thị toàn quốc. Chính quá trình đô thị hoá đã xoá bỏ sự khác biệt rất lớn trong thành phần kinh tế đô thị về trình độ văn hoá đời sống nhân dân đảm bảo quốc phòng an ninh được vững chắc. Thay đổi cơ cấu kinh tế đã tạo tiền đề và nền tảng ban đầu cho quá trình đầu tư nước ngoài vào các khu đô thị. Nhờ có chuyển dịch cơ cấu mà tốc độ thu hút vốn đầu tư của chúng ta đã tăng lên rõ rệt do đó tạo ra nhiều công ăn việc làm cho người lao động. Tóm lại, chuyển dịch cơ cấu kinh tế là tất yếu, ngẫu nhiên. Trong quá trình đô thị hoá, nhờ có chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đô thị Việt nam ngày càng được phát triển hơn đặc biệt là ở Hà nội. Nguồn vốn được đầu tư có hiệu quả và sự chuyển dịch cơ cấu giữa các ngành và các thành phần kinh tế là hợp lý và đồng bộ. 2.3 Các đặc trưng của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt nam hiện tại đang là một trong những nước nghèo trên thế giới. Mặc dù trong những năm gần đây, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu trong sự phát triển kinh tế và ổn định xã hội. Song, so với thế giới và khu vực , chúng ta còn phải tiếp tục phấn đấu nhiều hơn nữa. Một trong những giải pháp quan trọng là phải điều chỉnh cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu ngành kinh tế nói riêng cho phù hợp, đặc biệt là điều chỉnh cơ cấu kinh tế đô thị ở thủ đô. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá là quá trình có tính quy luật phổ biến. Trong mỗi giai đoạn khác nhau của sự phát triển, quá trình này cũng có những đặc điểm riêng đòi hỏi phải được các chủ thể nhận thức đúng đắn và phù hợp. ở nước ta hiện nay, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế đô thị mang đầy đủ những đặc điểm của chuyển dịch cơ cấu kinh tế chung. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế đang ở trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá, tuy rằng trong thời gian qua đã có nhiều chuyển biến mạnh mẽ. mặc dù có nhiều cố gắng như tỉ trọng công nghiệp có tăng song chưa đạt mức mong muốn. Hiện nay, các trang thiết bị kỹ thuật còn thấp, cơ sở vật chất của các doanh nghiệp còn thiếu và phần lớn phụ thuộc vào thế hệ cũ, trang bị chắp vá, lao động thủ công và bán cơ giới còn khá phổ biến nên năng suất lao động thấp, giá thành sản phẩm cao, chất lượng sản phẩm chưa đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Hiện nay, nền kinh tế Việt nam nói chung và nền kinh tế đô thị nói riêng đang bước sang một giai đoạn mới về chất, giai đoạn mà sự phát triển theo chiều rộng, đòi hởi nền kinh tế và từng nhóm ngành phải chuyển hướng sang tìm kiếm và khai thác các yếu tố phát triển theo chiều sâu. Đặc biệt phát triển ngành : điện, xi măng, dịch vụ, công nghệ thông tin, … tạo ra sự tăng tốc của công nghiệp. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới. Do đó cần phải có yếu tố mới trong quá trình CDKT (thị trường tài chính, luật thu hút đầu tư, tiếp thị công nghệ mới …). Vì vậy, khi tham gia hội nhập chúng ta vấp phải một số khó khăn: thiếu vốn, trình độ công nghiệp thấp kém, lao động có trình độ thấp…Do đó cần phải có giải pháp đồng bộ. Việt nam đi vào thời kỳ công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước trong thời điểm thế giới đang diễn ra những thay đổi lớn về kinh tế và chính trị. Lực lượng lao động ngày càng có tính quốc tế hoá cao và sự tác động của khoa học công nghệ mới đã tạo ra công cụ thật sự hữu hiệu, internet, thương mại điện tử đặc điểm này đời hỏi kinh tế phát triển theo hướng mở. Quán triệt đặc điểm này là yếu tố quan trọng để chuyển dịch cơ cấu kinh tế đúng hướng và có hiệu quả . 2.4 Những nhân tố ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế Xác định và thực hiện các phương hướng và biện pháp nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế đô thị trong thời kỳ công nghiệp hoá hiện đại hoá là một trong những nhiệm vụ quan trọng của quản lý Nhà nước về kinh tế về kinh tế. Để thực hiện nhiệm vụ này cần phải nghiên cứu và phân tích kỹ các nhân tố khách quan và chủ quan ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Sự phát triển của thị trường trong nước và quốc tế khẳng định ngay rằng phát triển ảnh hưởng trực tiếp đến việc hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, trước hết là cơ cấu ngành. Bởi lẽ, phát triển là yếu tố hướng dẫn và điều tiết các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Mỗi doanh nghiệp phải hướng ra thị trường xuất phát từ quan hệ cung cầu, hàng hoá trên thị trường để định hướng chiến lược và chính sách kinh doanh của mình. Bởi vậy, sự hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường như thị trường vốn, thị trường lao động, thị trường KHCN … đều tác dộng mạnh mẽ đến quá trình hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Sự điều tiết của nhà nước: Trong cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, Nhà nước tạo điều kiện phát triển đồng bộ, điều tiết các loại thị trường và tạo môi trườngcho các hoạt động sản xuất, kinh doanh. Nhà nước nắm bắt tình hình của từng thời kỳ, đề ra cơ sở kinh tế tác động một cách đồng bộ đến thị trường. Các nguồn lực và lợi thế so sánh tạo điều kiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế một cách bền vững và hiệu quả. Trước hết, việc xác định các ngành mũi nhọn, các ngành cần ưu tiên phát triển phải dựa trên cơ sở xác định lợi thế so sánh và các nguồn lực trên địa bàn thủ đô và trên cả nước. Tài nguyên thiên nhiên (khoáng sản, ngành nước, lâm sản …) và các điều kiện tự nhiên (khí hậu, thời tiết…) phong phú và thuận lợi tạo điều kiện phát triển các ngành công nghiệp, du lịch… Tuy vậy, việc khai thác các điều kiện đó để phục vụ cho quản lý và chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố chủ quan và khách quan. Do đó, sự đa dạng và phong phú của tài nguyên thiên nhiên và các điều kiện tự nhiên không chỉ có ảnh hưởng đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế mà còn là nhân tố phải tính đến trong quá trình hoạch định chiến lược cơ cấu. Dân số, lao động được xem là nguồn lực quan trọng cho sự phát triển kinh tế, sự tác động của các nhân tố này nên quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế được xem xét trên các mặt chủ yếu sau: Thứ nhất, kết cấu dân cư và trình độ dân trí, khả năng tiếp thu khoa học kỹ thuật mới là cơ sở quan trọng để phát triển các nhành công nghệ kỹ thuật cao và nâng cao hiệu quả sản xuất lao động trong các ngành đang hoạt động, là nhân tố thúc đẩy tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất. Đây là một thuận lợi rất lớn đối với thủ đô. Hà Nội là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hoá của cả nước nên kết cấu dân cư hợp lý, trình độ dân trí cao có điều kiện để tiếp thu nhiều cái mới. Thứ hai, quy mô dân số và kết cấu dân cư và thu nhập của họ có ảnh hưởng lớn đến quy mô và cơ cấu của nhu cầu thị trường. Hà Nội có quy mô dân số lớn, mật độ cao và thu nhập ổn định, đó là cơ sở để phát triển các ngành công nghiệp và các ngành phục vụ tiêu dùng. Thứ ba, sự phát triển các ngành nghề truyền thống trong công nghiệp cũng như các ngành kinh tế khác thường gắn liền với tập quán, truyền thống, phong tục của địa phương. Vị trí địa lý kinh tế của thủ đô rất thuận lợi khi định hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, đó là một yếu tố quan trọng để xây dựng một nền kinh tế mới, tăng cường mở rộng các quan hệ kinh tế quốc tế hội nhập vào đời sống kinh tế khu vực và thế giới. Tiến bộ khoa học công nghệ không những tạo ra những khả năng sản xuất mới, đẩy nhanh trình độ phát triển của một số ngành làm tăng tỷ trọng của chúng (làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế) mà còn tạo ra những nhu cầu mới, đòi hỏi sự chuyển hoá một số ngành công nghiệp non trẻ, công nghiệp tiên tiến, có triển vọng phát triển mạnh trong tương lai. Tiến bộ khoa học công nghệ cho phép tạo ra các sản phẩm mới chất lượng cao chi phí sản xuất hạ , có sức cạnh tranh mạnh trên thị trường trong nước và quốc tế. Kết quả đã làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng xuất khẩu thay thế nhập khẩu và hội nhập vào đời sống kinh tế khu vực và thế giới. Như vậy, trong nền kinh tế đô thị có rất nhiều yếu tố tác động làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chúng có phát huy được hêt những lợi thế hay không còn phải phụ thuộc vào nhiều yếu tố đặc biệt là quy hoạch xây dựng đô thị. II. Hệ thống những khái niệm về quy hoạch xây dựng đô thị 1. Khái niệm quy hoạch xây dựng đô thị Chúng ta đã biết rằng, trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội của Việt Nam, các đô thị đã hình thành và phát triển. Cùng với những hình thái xã hội phát triển từ thấp đến cao, các đô thị cũng phát triển tương xứng với nó. Đô thị có vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế xã hội, nó là động lực phát triển của vùng cũng như của cả nước. Từ khi đô thị mới phát triển, con người dù không chủ định nhưng đều chọn một không gian cư chú thích hợp tạo ra một sự cân đối hài hoà để phục vụ cho sản xuất và đời sống của mình…Đô thị là một thực thể sống động và luôn phát triển, điều khiển sự phát triển đó không đơn giản. Làm sao để cho đô thị phát triển hợp lý, tạo ra hiệu quả kinh tế đô thị cao? Để điều khiển được sự phát triển đô thị, ta cần có quy hoạch để chỉ đạo. Có rất nhiều cách tiếp cận về QHXD đô thị khác nhau, nhưng chúng ta có thể hiểu rằng: QHXD đô thị là sự sắp xếp, tổ chức, bố trí không gian lãnh thổ dưạ trên những tiền đề sẵn có theo thứ tự ưu tiên, hợp lý. QHXD do nhà nước tổ chức nhằm phát triển kinh tế xã hội của đô thị và bảo vệ môi trường trong đó đảm bảo sự cân bằng nhu cầu sử dụng trong tương lại, giải quyết mối quan hệ giữa nhu cầu con người, tự nhiên và xã hội. Tuy nhiên, QHXD đô thị thường mang màu sắc chính trị. Đối với mỗi giai đoạn, mỗi thể chế chính trị khác nhau , các đô thị được quy hoạch theo ý đồ của các nhà làm quy hoạch là khác nhau. Từ đó tạo ra một không gian khác nhau để phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của đô thị. Nhưng cùng với thời gian và sự phát triển kinh tế và cũng là xuất phát tù nhu cầu phát triển kinh tế xã hội mà QHXD đô thị phát triển theo hướng ngày càng hoàn thiện. Hiện nay, phát triển đô thị là vấn đề trọng tâm, nó quyết định sự đi lên của đất nước và càng khẳng định cần phải có quy hoạch. QHXD đô thị căn cứ vào định hướng phát triển kinh tế xã hội của đô thi. Và để đạt được hiệu quả mà quy hoạch mong muốn , vấn đề đặt ra là quy hoạch phải luôn có sự điều chỉnh cập nhập cho phù hợp với tình hình và điều kiện thực tiễn. 2. Thực tiễn của quy hoạch xây dựng đô thị: Như định nghĩa về QHXD đô thị , mục tiêu của QHXD đô thị nói chung là nhằm phát triển kinh tế xã hội và bảo vệ môi trường đồng thời cân bằng nhu cầu sử dụng giữa hiện tại và tương lai. Như vậy, QHXD đô thị nhằm định hướng chiến lược phát triển những vấn đề chung nhất của đô thị như phát triển dân số, nguồn nhân lực, khu ở, khu nghỉ ngơi, khu công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ thương mại, cơ sở hạ tầng sao cho chúng phát triển ổ định, cân đối giữa các ngành, các thành phần kinh tế tạo điều kiện phát triển toàn điện đô thị. Trước tiên, QHXD phục vụ đời sống của con người. QHXD đô thị nhằm phát triển đô thị, nó quyết định sự đi lên của đô thị. QHXD dựa trên những những tiền đề của đô thị, đó là vai trò của đô thị trong hệ thống đô thị, nhu cầu của con người, dân số đô thị, các nguồn lực tự nhiên xã hội, cơ sở hạ tầng của đô thị. Từ đó, bố trí không gian một các hợp lý nhằm phục vụ nhu cầu của con người, làm cho con người có nơi làm việc, nơi nghỉ ngơi, giải trí tốt nhất, đi lại thuận tiện nhất. Bằng cách bố trí các công trình nhà, công trình công cộng hợp lý thoả mãn mọi nhu cầu hoạt động của con người. Ngoài ra, nó còn tạo môi trường sống trong sạch, an toàn, tạo điều kiện hiện đại hoá cuộc sống của người dân đô thị, phục vụ cho con người phát triển toàn diện. Sau nữa, QHXD nhằm phát triển kinh tế đô thị. QHXD định hướng tổ chức sản xuất trong đô thị.._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc3662.doc