Vai trò của quần chúng & nhân dân trong lịch sử

mở đầu trong thần thoại Hy lạp con người được xem như một bộ phận không thể chia cắt khỏi thế giới, bị chi phối một cách nặng nề bởi một sức mạnh vũ trụ huyền bí nào đó được mệnh danh là số phận. ở trong thế giới đó , con người sống chung với các thiên thần, những đại diện của số phận để thực hiện các chức năng khác nhau, hoặc là để giúp đỡ hoặc trừng phạt con người theo ý định của số phận. Từ trong di sản của các nhà triết học cổ đại, chúng ta có thể tìm thấy nhiều tư tưởng rất xuất sắc. Chẳn

doc14 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2870 | Lượt tải: 4download
Tóm tắt tài liệu Vai trò của quần chúng & nhân dân trong lịch sử, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g hạn đêmôcrít đã cho rằng lúc đầu con người cũng sống như các động vật, sử dụng các vật phẩm có sẵn trong tự nhiên. Ngay từ buổi đầu tách khỏi động vật, con người cũng phải chống chọi với tự nhiên và bắt đầu xác định quyền lực - dẫu còn rất yếu ớt - của mình đối với tự nhiên, bắt đầu có một ý thức sơ khai về sức mạnh của mình .F.Engen xem việc con người biết sử dụng lửa như là một bước tiến có ý nghĩa cực kỳ vĩ đại của nhân loại: lửa đã giúp cho con người chế ngự được một bộ phận các lực lượng tự nhiên, biết ăn thức ăn nấu chín ,...nhờ đó mà tách khỏi loài động vật. Ngay sự định nghĩa triết học "là lòng say mê, sự ham thích đối với sự hiểu biết " đã có ý nói lên rằng: con người bằng sức mạnh nhận thức, có sự hiểu biết về thế giới, về số phận của chính bản thân mình, hiểu biết đó có tính chất độc lập, không phụ thuộc vào các sức mạnh nằm ngoài con người. Sự tuyên chiến của triết học đối với niềm tin ngây thơ vào các sức mạnh siêu nhân huyền bí, các điều tiên tri kỳ lạ có cơ sở của nó là các tri thức mà con người lúc đó đã tập hợp được trong các ngành địa lý, thiên văn, toán học. Con người vừa là một bộ phận của thế giới vừa là một sinh vật xã hội nên nhiệm vụ chủ yếu của triết học là xây dựng môn đạo đức học tức là học thuyết về cách sử sự của con người nhằm dẫn người ta đến chỗ đạt được hạnh phúc. nội dung I . bản chất của con người Trong lịch sử tư tưởng của nhân loại đã từng tồn tại rất nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề nguồn gốc và bản chất của con người. Trước Mác, bản chất của con người chưa được giải đáp một cách chính xác có khoa học. Trong những năm 40 của thế kỷ XIX Mác đã hoàn thành cuộc cách mạng triết học vĩ đại, sáng tạo ra triết học mac- xít. Trong đó khi khảo sát về vấn đề bản chất của con người ông đã tìm ra được điểm xuất phát mới, đưa ra kết luận về bản chất của con người một cách có khoa học và vượt qua cả các vị tiền bối của ông, kể cả Phoiơbắc trong lĩnh vực nghiên cứu triết học về con người. 1. bản chất của con người dưới sự nhìn nhận của Mác và phoiơbắc. a ) Bản chất của con người dưới sự nhìn nhận của Phoiơbắc. Phoiơbắc sinh(1804-1872) là một trong những nhà duy vật lớn nhất của triết học thời kỳ trước Mác. Cuộc đấu tranh của ông chống lại chủ nghĩa duy vật và tôn giáo có ý nghĩa lịch sử to lớn về triết học duy vật, là một trong những nguồn gốc lý luận trực tiếp của triết học Mác. Là một nhà duy vật Phoiơbắc đã phản đối sự chia cắt giữa linh hồn và thể xác, không thừa nhận con người là sản vật của tinh thần. Ông cho rằng thể xác hữu hình là cơ sở tồn tại của bản chất của con người, đồng thời ông cũng cho thấy được bản chất của con người không chỉ là tính tự nhiên của con người. Ông đã đấu tranh chống lại các quan nịêm tôn giáo chính thống của thiên chúa đặc biệt quan niệm về thượng đế. Trái với các quan niệm truyền thống của tôn giáo và thần học cho rằng thượng đế tạo ra con người, ông khẳng định chính con người tạo ra thượng đế. Ông lập luận rằng bản chất tự nhiên của con người là hướng tới cái chân, cái thiện nghĩa là hướng tới những cái gì đẹp nhất trong một hình tượng đẹp về con người, nhưng trong thực tế con người không đạt được những cái đó nên đã gửi tất cả ước muốn của mình vào hình tượng thượng đế, từ đó ông phủ nhận mọi thứ tôn giáo và thần học về một vị thượng đế siêu nhân đứng bên ngoài, sáng tạo ra con người và chi phối cuộc sống con người. Tuy nhiên, triết học nhân bản của Phoiơbắc cũng bộc lộ mặt hạn chế. Con người theo quan điểm của Phoiơbắc là con người trừu tượng phi xã hội mang những thuộc tính sinh học bẩm sinh, bởi vì khi khảo sát con người tách rời với hoạt động thực tiễn năng động của họ trong điều kiện lịch sử nhất định chỉ coi con người là đối tượng cảm tính mà không phải là" hoạt động của cảm tính ". Triết học nhân bản của Phoiơbắc chứa đựng những yếu tố của chủ nghĩa duy tâm, ông cho rằng bản tính con người là tình yêu, tôn giáo cũng là một thứ tình yêu. Do đó thay thế cho thứ tôn giáo tôn sùng một vị thượng đế siêu nhiên xây dựng một thứ tôn giáo mới phù hợp với tình yêu của con người. "Khi Phoiơ bắc là nhà duy vật thì ông không bao giờ vận dụng đến lịch sử, còn khi ông nói đến lịch sử thì ông không phải là nhà duy vật, ở Phoiơbắc lịch sử và chủ nghĩa duy vật hoàn toàn tách rời nhau ". b) Mác và Phoiơbắc đều xuất phát từ con người "triết học của ông là triết học vì con người ","con người hiện thực là đối tượng triết học ". Song con người mà Mác và Phoiơbắc lấy làm điểm xuất phát lại có sự khác nhau căn bản về nội dung. Vận dụng phép biện chứng duy vật Mác đã kiểm soát bản chất của con người bắt nguồn từ hoạt động của họ và từ điều kịên sinh hoạt của họ. Ông nhìn thấy tiền đề thứ nhất của mọi sự sinh tồn của loài người là tư liệu sinh hoạt vật chất, hoạt động lịch sử thứ nhất của loài người là lao động sản xuất. Khi xét về bản chất của con người không xem xét nó một cách cô lập và phiến diện mà đặt nó vào mối quan hệ với tự nhiên, xã hội và con người, vì trong cuộc sống hiện thực của chúng ta bao gồm một cơ cấu ba mặt: tự nhiên, xã hội, con người. Ba mặt của cơ cấu này được nối với nhau bằng quan hệ hết sức chặt chẽ, trong đó chủ yếu là mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, với xã hội. Đấy là một thể hoàn chỉnh hợp thành thế giới của con người, trong đó con người vừa là điểm xuất phát vừa là khâu trung gian của những mối quan hệ ấy vì thiếu nó thì tất cả các mối quan hệ trên sẽ trở thành vô nghĩa, tự nhiên là cái có trước con người, sinh ra con người. Cho đến ngày nay, tuy đã ra đời trên dưới một triệu năm nhưng muốn hay không con người vẫn phải sống dựa vào tự nhiên như hết thảy mọi sinh vật khác. Nhưng con người sở dĩ trở thành con người là ở chỗ nó không chỉ sống dựa vào tự nhiên, F.Engen là người đầu tiên đã chỉ ra được bước chuyển biến từ vượn thành người là nhờ vào việc chế tạo ra công cụ lao động, những công cụ này nối dài bàn tay con người giúp con người có thể giành thêm những vật phẩm mà thiên nhiên không trực tiếp ban phát. Như vậy con người không chỉ thích ứng với thiên nhiên mà còn cải tạo thiên nhiên nữa, quá trình con người cải tạo thiên nhiên cũng chính là quá trình con người trở thành con người. Nếu như con người vừa là sản phẩm của tự nhiên, vừa là sản phẩm của xã hội thì trong con người cũng có hai mặt không thể tách rời đó là mặt tự nhiên và mặt xã hội. Như vậy con người chính là một thực thể sinh học - xã hội ( gọi là thực thể sinh học bởi vì nó là một cơ thể sống, gọi là thực thể xã hội bởi vì thực thể này mang tính chất xã hội). Như chúng ta đã biết điều kiện để con người sinh sống là lao động sản xuất và tư liệu sinh hoạt vật chất. Lao động là cơ sở hình thành các quan hệ xã hội trong tiến trình khách quan của sự phát triển lịch sử. Nó vừa là tiền đề cho sự tổng hoà quan hệ xã hội, vừa là kết quả của tổng hoà xã hội đó, cá nhân riêng lẻ cũng thông qua hoạt động của bản thân mình mà thực hiện quan hệ xã hội với người khác, từ đó thu được bản chất xã hội của bản thân mình. Như vậy bản chất của con người không phải là trừu tượng mà là hiện thực, không phải là tự nhiên mà là lịch sử, không phải là cái vốn có trong mỗi cá thể riêng lẻ mà là tổng hoà của toàn bộ các quan hệ xã hội. Tư tưởng đó là sự vận dụng triệt để chủ nghĩa duy vật vào lý luận về con người: tồn tại xã hội và ý thức xã hội quyết định sự tồn tại cá nhân và ý thức cá nhân Như thế có nghĩa là những mối quan hệ trong một hệ thống xã hội nhất định quyết định sự tồn tại của cá nhân, quyết định những nhu cầuvà mục đích hoạt động của cá nhân. 2. bản chất của con người là sự tổng hoà những quan hệ xã hội. khi vạch ra bản chất của con người điều Mác thực sự nhấn mạnh là "trong tính hiện thực". Luận điểm này chỉ rõ bản chất của con người là bản chất được xem xét trong hiện thực cụ thể, không phải là bản chất "loài " trừu tượng, thoát ly tính lịch sử, tính xã hội. Mác nói rõ: cá nhân được xem xét ở đây không phải là cá nhân trong tưởng tượng của bản thân họ hoặc của người khác mà là"những cá nhân đúng y như trong hiện thực, nghĩa là đúng như họ đang hành động, sản xuất một cách vật chất, tức là đúng như họ hành động trong những giới hạn, tiền đề và điều kiện vật chất nhất định, không phụ thuộc vào ý chí của họ". Trong một hình thái kinh tế - xã hội không phải lúc nào cũng chỉ có một thành phần kinh tế. Tuy nhiên, đối với mỗi hình thái kinh tế - xã hội bao giờ cũng có một kiểu quan hệ sản xuất nhất định giữ vai trò chi phối và chính kiểu quan hệ sản xuất đó là cái xét đến cùng tạo nên bản chất của con người trong giai đoạn lịch sử đó. Con người vốn đã là một hiện tượng phức tạp. Đem quy bản chất của nó vào các mối quan hệ xã hội không phải là Mác không đơn giản một vấn đề vốn dĩ phong phú về nội dung. Trái lại, chúng ta cho rằng không có gì phong phú và phức tạp hơn những mối quan hệ giữa người với người hình thành và phát triển trong quá trình đấu tranh cải tạo thiên nhiên và cải tạo xã hội. Bản chất của con người là do tổng hoà những quan hệ xã hội quy định. Các quan hệ xã hội của loài người có thể chia thành hai loại: quan hệ vật chất và quan hệ tư tưởng. Quan hệ sản xuất có thể chia thành quan hệ trong xã hội, phân phối, trao đổi, tiêu dùng dưới sự chi phối của chế độ sở hữu nhất định. Quan hệ tư tưởng là quan hệ chính trị, luật pháp, đạo đức, tôn giáo ... Trong hai loại quan hệ xã hội này quan hệ vật chất quyết định quan hệ tư tưởng cho nên quan hệ xã hội vật chất tức quan hệ xã hội là quan hệ quyết định cả bộ mặt của xã hội. Quan hệ sản xuất quyết định cả bộ mặt xã hội. Chỉ có đặt con người trong tổng hoà các quan hệ xã hội, trên cơ sở những quan hệ nhất định để tiến hành khảo sát, tổng hợp mới có thể nắm được toàn diện bản chất của con người. Trong cuộc sống hiện thực, quan hệ vật chất và quan hệ tư tưởng đan xen nhau, thâm nhập lẫn nhau. Chẳng hạn trong các quan hệ huyết thống, các quan hệ địa phương, quan hệ dân tộc ... đều bao gồm quan hệ vật chất lẫn quan hệ tư tưởng. Trong xã hội có giai cấp thì tính xã hội của con người hiện thực mang tính giai cấp. Trong xã hội có giai cấp, do địa vị của mọi người trong quan hệ sản xuất khác nhau, do quan hệ chiếm hữu đối với tư liệu sản xuất khác nhau mà dẫn tới sự khác nhau về các mặt lợi ích vật chất, phương thức sản xuất, tư tưởng đạo đức, tác phong ... cái gọi là con người trừu tượng, siêu giai cấp là không tồn tại. II . quan hệ giữa cá nhân và xã hội 1. Trong chủ nghĩa Mác, mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội gắn bó chặt chẽ với nhau, cái nọ lấy cái kia làm tiền đề cho sự tồn tại của mình. Một mặt, Mác cho rằng: " Chỉ có trong tập thể mới có những phương tiện làm cho mỗi cá nhân có khả năng phát triển toàn diện những năng khiếu của mình .. chỉ có trong tập thể mới có tự do cá nhân ". Nhưng mặt khác Engen cũng nói rằng: " Dĩ nhiên là xã hội không thể nào giải phóng cho mình được nếu không giải phóng cho mỗi cá nhân ". 2.Trong bất cứ xã hội nào cá nhân cũng không tách rời xã hội, cá nhân là hiện tượng có tính lịch sử. Trong xã hội nguyên thuỷ, quan hệ giữa cá nhân và xã hội không có đối kháng, lợi ích cá nhân phụ thuộc trực tiếp vào lợi ích sống còn hàng ngày của cộng đồng. Mỗi con người của xã hội nguyên thuỷ chưa trở thành những cá nhân theo nghĩa đầy đủ của nó. Trong xã hội này, không những lợi ích cá nhân mà vai trò của cá nhân cũng " tan biến " trong cộng đồng. Đến khi xã hội phát triển sang giai đoạn mới cao hơn, xã hội phân chia thành các giai cấp đối kháng, xã hội hình thái mới trong quan hệ cá nhân - xã hội. Giữa cá nhân và xã hội vừa có thống nhất vừa có mâu thuẫn sâu sắc. Những con người thuộc giai cấp bị bóc lột như nô lệ, nông nô, vô sản thiếu những điều kiện xã hội để trở thành những cá nhân thực sự. Mỗi con người trong các giai cấp ấy không thể khẳng định cá nhân của mình trên cơ sở làm chủ hoạt động lao động cũng như thành quả lao động của mình. Các thành viên giai cấp thống trị là những con người có đặc quyền đặc biệt được khẳng định với tư cách cá nhân và trở thành kiểu cá nhân đặc trưng cuả thời đại như cá nhân phong kiến, cá nhân tư sản ... 3. Trong quá trình quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội và ngay cả dưới chế độ xã hội chủ nghĩa vẫn có những mâu thuẫn giữa cá nhân và xã hội . Một là: Chỉ thấy cá nhân mà không thấy xã hội, đem cá nhân đối lập với xã hội đòi hỏi thoả mãn những nhu cầu của cá nhân mà không quan tâm đến việc những đòi hỏi đó có phù hợp với lợi ích của xã hội và với điều kiện chung của xã hội không, chỉ đòi hỏi xã hội phải đáp ứng mọt yêu cầu của mình mà không thực hiện nghĩa vụ đối với xã hội. Đó là chủ nghĩa cá nhân cần phê phán. Những người tuyệt đối hoá cái cá nhân đã không nhận thức rõ ràng rằng nếu không đảm bảo những lợi ích cơ bản của xã hội thì không thể thực hiện được lợi ích cá nhân chân chính. Hai là : Chỉ thấy xã hội mà không thấy cá nhân. Khuynh hướng này biểu hiện ở chỗ quan niệm sai lầm về lợi ích xã hội, về chủ nghĩa tập thể, thực chất là tư tưởng của chủ nghĩa bình quân dẫn đến thiếu sự quan tâm thiết thực lợi ích cá nhân, coi nhẹ việc hình thành và phát huy bản sắc cá nhân, tài năng cá nhân xem thường các nguyện vọng tâm lý, ý kiến của cá nhân. Không thấy được rằng sự phát triển của xã hội hội. III . vai trò của quần chúng và cá nhân trong lịch sử 1. Trước khi chủ nghĩa Mác ra đời, triết học duy tâm và triết học duy vật đều không hiểu đúng đắn vai trò của quần chúng và mối quan hệ giữa quần chúng và cá nhân trong lịch sử. Tư tưởng tôn giáo cho rằng mọi sự thay đổi trong xã hội là do ý chí của đấng tối cao, là do " mệnh trời ". ý chí đó được các cá nhân thực hiện. Triết học duy tâm cho rằng lịch sử nhân loại là lịch sử của các bậc vua chúa , anh hùng hào kiệt, thiên tài lỗi lạc. Còn quần chúng nhân dân chỉ là " lực lượng tiêu cực " là "phương tiện " mà các vĩ nhân cần đến để đạt được mục đích của mình. Những nhà duy vật trước Mác, tuy không tin vào thượng đế, thần linh nhưng cũng không hiểu được vai trò của quần chúng trong lịch sử. Họ cũng cho rằng nhân tố quyết định sự phát triển của xã hội là tư tương, đạo đức, là các vĩ nhân sớm nhận thức được tâm lý vĩnh cửu. Chủ nghĩa Mác -Lênin đã chứng minh một cách khoa học vai trò quyết định của quần chúng nhân dân trong lịch sử và xác định đúng đắn mối quan hệ giữa vai trò cá nhân và vai trò quần chúng trong sự phát triển của xã hội. 2. Quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra chân lý của lịch sử. Vai trò của quần chúng nhân dân được thể hiện ở những mặt sau đây: a) Quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội. Sản xuất vật chất, chế tạo và cải tiến công cụ lao động là hoạt động của toàn xã hội chứ không phải là của một số cá nhân. Lực lượng sản xuất cơ bản là đông đảo quần chúng nhân dân lao động bao gồm cả lao động chân tay và lao động trí óc. Thực tiễn sản xuất của loài người, của quần chúng nhân dân là cơ sở và động lực cho sự phát triển khoa học - kỹ thuật. Khoa học không có lý do tồn tại nếu không có hoạt động sản xuất. b) Quần chúng nhân dân có vai trò to lớn trong sản xuất tinh thần. Quần chúng nhân dân chẳng những đóng vai trò quyết định trong sản xuất vật chất, trong cách mạng xã hội mà còn đóng vai trò vô cùng to lớn trong sự phát triển của văn học, nghệ thuật, khoa học. Những nền văn hoá nghệ thuật lớn đều bắt nguồn từ văn học nghệ thuật dân gian. Mác viết: " thần thoại Hy lạp không những cấu thành kho tàng của nghệ thuật Hy lạp, mà còn là miếng đất đã nuôi dưỡng nghệ thuật Hy lạp nữa ". c) Quần chúng nhân dân đóng vai trò quyết định trong sự phát triển của lịch sử. Quần chúng công - nông đã lật đổ nền thống trị của các giai cấp ăn bám và bóc lột cũ nhưng giai cấp tư sản và tất cả bọn bóc lột cũng không bao giờ có thể hiểu được rõ tài năng và sức mạnh tạo tiền tàng của nhân dân lao động. Chúng cho rằng, họ chỉ có thể làm những công việc nặng nhọc và chịu sự chỉ huy điều khiển của chúng. Lịch sử tồn tại và phát triển của chính quyền Xô viết đã sớm bác bỏ những lời chế diễu và tiên đoán ngu xuẩn đó. Dưới sự lãnh đạo của Lênin và Đảng bônxêvích, giai cấp vô sản Nga liên minh với nhân dân lao động đã xây dựng nên bộ máy nhà nước của mình bao gồm chủ yếu những nhân viên tuyên thực từ trong những phần tử giác ngộ nhất, trung thành, kiên quyết nhất của đội ngũ đông đảo quần chúng công nông và binh lính C.Mác đã tham gia cách mạng tháng mười Nga. Qua sự nghiệp sáng tạo phong phú vĩ đại, quần chúng đã tự cải tạo mình loé dần nên thành những người lao động kiểu mới, chủ nhân thực sự của đất nước, chủ nhân chân chính của lịch sử. d) Quần chúng nhân dân là động lực cơ bản của mọi cuộc đấu tranh cách mạng. Từ trước đến nay chưa có chế độ nào lại quan tâm đầy đủ đến vận mệnh của con người như chủ nghĩa Mác- Lênin. Bởi lẽ, giai cấp vô sản không phải là một thực thể trừu tượng, mà thành viên của nó trước hết cũng là những con người. Sự nghiệp cách mạng của giai cấp vô sản chính là sự nghiệp đấu tranh để giải phóng con người. Hàng chữ vàng tươi trên lá cờ đỏ thắm của chủ nghĩa cộng sản " làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu " phản ánh khát vọng sâu xa của bao nhiêu thế hệ. Đó cũng là hai phạm trù cơ bản: hoạt động và nhu cầu thể hiện ý nghĩa tồn tại của con người. Trong xã hội có giai cấp thì mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất biều hiện thành mâu thuẫn giữa các giai cấp đối kháng, giữa giai cấp thống trị và giai cấp lao động bị trị. Khi quan hệ sản xuất đã trở thành xiềng xích của lực lượng sản xuất thì cần có các cuộc cách mạng xã hội để xoá bỏ quan hệ xã hội cũ, thiết lập quan hệ xã hội mới, giải phóng lực lượng sản xuất hình thành phương thức sản xuất mới cao hơn. Quần chúng nhân dân bao giờ cũng là lực lượng cơ bản của cách mạng, đóng vai trò quyết định thắng lợi của các cuộc cách mạng. Trong các cuộc cách mạng vĩ đại làm thay đổi hình thái kinh tế - xã hội, quần chúng nhân dân tham gia đông đảo, tự giác, tích cực thì cách mạng mới có thể giành được thắng lợi. Cách mạng là ngày hội của quần chúng, là sự nghiệp của quần chúng nhân dân chứ không phải là sự nghiệp của một số cá nhân. Việt Nam đánh Mỹ và thắng Mỹ là một biểu tượng của thời đại. Chính con người Việt Nam thời đại Hồ chí minh (ở đây không chỉ là một số nhỏ những cá nhân xuất sắc, lỗi lạc mà là cả một dân tộc với mây thế hệ kế tiếp nhau), với ý chí quyết chiến quyết thắng đã đem lại độc lập, tự do cho đất nước. Và thế hệ chúng ta ngày hôm nay luôn tự hào về một nền văn hiến có hơn bốn nghìn năm lịch sử của dân tộc ta. 4. Theo quan điểm của C.Mác và Lênin, vai trò của quần chúng và vai trò của cá nhân trong lịch sử không tách rời nhau, trái lại chúng có quan hệ khăng khít với nhau. Cá nhân ưu tú, Lãnh tụ kiệt xuất là sản phẩm của thời đại, đại diện cho lợi ích và ý chí của quần chúng và chỉ những cá nhân như thế mới được quần chúng nhân dân là người lãnh đạo thực sự của họ. Cá nhân ưu tú, Lãnh tụ kịêt xuất là sản phẩm, là con đẻ của phong trào quần chúng tạo nên sức mạnh của họ, trí tuệ của họ bắt nguồn từ quần chúng nhân dân. Lãnh tụ có vai trò vô cùng quan trọng đối với phong trào quần chúng . Lãnh tụ sáng suốt, đức độ, tài năng xuất hiện đúng lúc bao giờ cũng có tác dụng thúc đẩy phong trào quần chúng phát triển mạnh mẽ, chắc chắn, đúng hướng, ít sai lầm và do đó giúp cho phong trào quần chúng đạt tới những thành quả tốt đẹp nhất, to lớn nhất. Những phong trào quần chúng to lớn không thể thiếu những người lãnh đạo có tầm nhìn xa, thấy rộng, có năng lực tổ chức tập hợp đoàn kết quần chúng. VILênin viết " Trong lịch sử chưa hề có một giai cấp nào giành được chính quyền thống trị nếu nó không đào tạo ra được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiên phong có đủ khả năng tổ chức và lãnhđạo phong trào ". Sự xuất hiện của những lãnh tụ, cá nhân kiệt xuất tiêu biểu cho thời đại không phải hoàn toàn ngẫu nhiên mà mang tính tất yếu. Dân tộc Việt Nam vốn có tấm lòng yêu nước nồng nàn và tinh thần đó lại được nâng lên gấp bội lần cùng đất nước trải qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ dân tộc ta đã giành được độc lập sau bao nhiêu năm làm nô lệ. Bác Hồ là lãnh tụ kiệt xuất của dân tộc ta, là danh nhân văn hoá của thế giới. Cả cuộc đời của Bác đã cống hiến cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Bác là người thầy vĩ đại đã dày công vun xới cho nhân dân ta có được những phẩm chất tốt đẹp như ngày nay. Với sự giản dị, trong sáng của ngôn ngữ dân gian, những câu nói của Bác là sự kết tinh của truyền thống dân tộc là chân lý lớn của cách mạng Việt Nam. Mức thu hút và sự cảm hoá kỳ diệu của người không phải ở chỗ người là lãnh tụ cách mạng, là chủ tịch nước mà trước hết và chủ yếu là ở những đức tính của Người với tư cách là một con người. Nhân dân ta gửi gắm vào hai chữ " Bác Hồ " không phải là sự sùng bái ngưỡng mộ đối với một siêu nhân mà là tất cả niềm thương yêu, sự kính trọng đối với một con người được chúng ta xem là một tấm gương để chúng ta noi theo, vươn tới. kết luận Chưa bao giờ vấn đề con người với những khía cạnh khác nhau của nó như: bản chất của con người, cuộc sống hiện tại và tương lai của con người .. lại chiếm một vị trí nổi bật như hiện nay trong sinh hoạt tư tưởng của thời đại nói chung cũng như của đất nước chúng ta nói riêng. Nguyên lý có tính chất kinh điển của Mác được phát biểu lần đầu tiên trong " Các luận cương về Poiơbắc " xem bản chất của con người là tổng hoà các quan hệ xã hội, cho ta chiếc chìa khoá để phát hiện ra các bí mật về con người, bao gồm cả vấn đề về mối quan hệ giữa cái xã hội và cái sinh vật trong con người. Con người vừa là sản phẩm của tự nhiên vừa là sản phẩm của lịch sử xã hội, vừa là một thực thể xã hội, vừa là một thực thể sinh vật. Mặt xã hội và mặt sinh vật với tất cả các mối liên hệ tác động qua lại và phụ thuộc vào nhau với những quy luật đặc thù của mỗi lĩnh vực, tuy nhiên bản chất của con người được quyết định bởi mặt xã hội của nó. Quan điểm duy vật biện chứng trên đây giúp chúng ta khắc phục được các quan điểm nhị nguyên ( cho rằng hai mặt xã hội và sinh vật tồn tại một cách song song bên cạnh nhau, quan điểm tuyệt đối hoá mặt sinh vật trong con người ). Tuy vậy, để giải quyết triệt để vấn đề này khoa học còn phải tiếp tục nghiên cứu theo nhiều hướng khác nhau có liên quan chặt chẽ với nhau: Sự sinh thành về mặt tự nhiên, sự sinh thành về mặt xã hội,các vấn đề tâm sinh lý học, hoạt động và phát triển về mặt tâm lý, vai trò của các yếu tố di truyền trong sự phát triển của con người, mối quan hệ giữa nhân cách, cá thể giữa cơ thể .. Qua những sự nghiên cứu chúng ta phải tiến tới " phát hiện ra những phương thức tác động lẫn nhau thực tế, cụ thể giữa cái xã hội và cái sinh vật trong đó hai cái không bị đem đồng nhất với nhau, mà cũng không bị tách biệt khỏi nhau. Nói cách khác, cần phát hiện ra cái đặc thù của mỗi cái, đồng thời với sự kế thừa mối quan hệ với nhau, sự chuyển hoá lẫn nhau giữa hai cái đó ". mục lục nội dung trang mở đầu 1 nội dung 2 Bản chất của con người 2 Quan hệ giữa cá nhân & xã hội 6 Vai trò của quần chúng & nhân dân trong lịch sử 7 kết luận 12 sách tham khảo sách giáo khoa triết học mác - lênin tập 1 về vấn đề xây dựng con người mới ( uỷ ban khoa học xhnv viện triết học) ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docT0370.doc