Học viện Chính trị - hành chính quốc gia Hồ Chí Minh
-----------------------
Nguyễn văn hồng
vai trò của pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tổ chức và hoạt động của hải quan Việt Nam hiện nay
Chuyên ngành : Lý luận và Lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số : 60 38 01
luận văn thạc sĩ luật học
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trịnh đức thảo
Hà Nội - 2007
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Điều 12 Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) khẳng đị
119 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1746 | Lượt tải: 3
Tóm tắt tài liệu Vai trò của pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tổ chức và hoạt động của Hải quan Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh: "Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa (pháp chế XHCN).
Các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống các tội phạm, các vi phạm Hiến pháp, pháp luật.
Mọi hành động xâm phạm lợi ích nhà nước quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân đều bị xử lý theo pháp luật".
Để hiện thực hoá điều này của Hiến pháp trong thực tiễn, ngày nay giới khoa học pháp lý Việt Nam không chỉ tiếp tục nghiên cứu khẳng định những giá trị của Học thuyết Pháp chế XHCN, mà còn hướng đi sâu nghiên cứu pháp chế trong từng lĩnh vực cụ thể. Đến nay, đã có một số công trình khoa học đã được công bố như: Pháp chế XHCN trong quản lý nhà nước đối với nền kinh tế thị trường, pháp chế XHCN trong hoạt động lập pháp lập quy, pháp chế trong giao thông đường bộ... Song chưa có công trình nào nghiên cứu về pháp chế và vai trò của nó trong tổ chức và hoạt động của hải quan Việt Nam.
Kể từ năm 1990 đến nay, hệ thống pháp luật về tổ chức và hoạt động của Hải quan Việt Nam không ngừng được xây dựng, hoàn thiện. Từ Pháp lệnh Hải quan 1990, Luật Hải quan 2001 đến Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật hải quan ngày 26/5/2005 là một bước tiến to lớn về phương diện lập pháp đối với lĩnh vực hải quan. Trên cơ sở các văn bản pháp luật này, tổ chức và hoạt động của Hải quan Việt Nam ngày càng đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới, góp phần thúc đẩy hội nhập nền kinh tế và đảm bảo an ninh chính trị, kinh tế, trật tự an toàn xã hội, đảm bảo nguồn thu ngân khố quốc gia; đồng thời, góp phần củng cố, tăng cường pháp chế XHCN trong tổ chức và hoạt động của Hải quan Việt Nam hiện nay.
Thực tiễn cho thấy, thời gian qua, vai trò của pháp chế XHCN trong tổ chức và hoạt động của Hải quan Việt Nam không ngừng được tăng cường nhằm bảo đảm cho pháp luật hải quan đi vào đời sống kinh tế - xã hội và được tuân thủ nghiêm chỉnh. Hàng loạt vụ buôn lậu, gian lận thương mại, trốn thuế xuất nhập khẩu được phát hiện và xử lý kịp thời; góp phần quan trọng cho việc thu ngân sách nhà nước và giữ gìn an ninh kinh tế, chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Tuy nhiên, pháp chế XHCN trong tổ chức và hoạt động của Hải quan còn nhiều tồn tại không ít những yếu kém, khiếm khuyết, như:
- Hệ thống pháp luật về tổ chức và hoạt động của Hải quan Việt Nam vẫn còn có nhiều bất cập, thiếu tính ổn định, thiếu tính khả thi, chưa phù hợp, đáp ứng kịp thực tiễn đổi mới, mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế, chưa phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập. Công tác rà soát, kiểm tra việc xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật về tổ chức và hoạt động hải quan vẫn còn thiếu chủ động, chưa trở thành yếu tố góp phần tích cực vào việc hoàn thiện, đổi mới cơ cấu tổ chức, hoạt động hải quan.
- Sự tuân thủ pháp luật và chấp hành pháp luật hải quan của một bộ phận cán bộ, công chức hải quan và tổ chức, cá nhân hoạt động xuất nhập khẩu vẫn còn không nghiêm dẫn đến phát sinh tiêu cực, phiền hà, tham nhũng, gian lận thương mại, buôn lậu, trốn thuế, lừa đảo rút "ruột" ngân sách nhà nước... điều này tác động không nhỏ đến đời sống kinh tế - xã hội, kinh tế đối ngoại, đầu tư, du lịch, gây mất lòng tin của Đảng, Nhà nước, nhân dân đối với hệ thống tổ chức và hoạt động của Hải quan Việt Nam.
- Cơ chế đảm bảo cho việc tuân thủ và chấp hành nghiêm minh pháp luật, pháp chế hải quan còn thiếu rõ ràng, minh bạch, chưa hiệu quả, cũng như chưa đủ tính cưỡng chế đảm bảo duy trì việc tuân thủ và thực hiện pháp luật một cách thường xuyên, liên tục và đồng bộ...
Vì các lý do trên tôi chọn đề tài: "Vai trò của pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tổ chức và hoạt động của Hải quan Việt Nam" để nghiên cứu và viết luận văn thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Pháp chế XHCN là một trong những phạm trù pháp lý cơ bản có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn của đời sống chính trị, kinh tế và xã hội. Vì vậy được nhiều học giả quan tâm nghiên cứu, xem xét trên nhiều bình diện và nhiều khía cạnh khác nhau.
Các công trình nghiên cứu về pháp chế XHCN tiêu biểu cả trong và ngoài nước có thể chia thành hai nhóm:
Nhóm một là các công trình nghiên cứu về pháp chế nói chung:
Đến nay đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về pháp chế XHCN đề cập đến những vấn đề lý luận chung về pháp chế như khái niệm các mối quan hệ, nguyên tắc của pháp chế XHCN. Điều đó được thể hiện ở một số công trình khoa học như:
- GS.TS Trần Ngọc Đường, Suy nghĩ về một trong những luận điểm của V.I.Lênin, Dân chủ và pháp luật, số 11, Hà Nội, 1997, tr.2-3.
- Hồ Chủ tịch và pháp chế, TP. Hồ Chí Minh, Nxb Hội Luật gia Việt Nam, 1985, 266 trang. Sách giới thiệu những nội dung tư tưởng và yêu cầu của pháp chế của Hồ Chí Minh.
- Triệu Tử Bình (Trung Quốc), Học tập quán triệt văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XVI - "Nghiên cứu sâu sắc Luật học, đẩy mạnh xây dựng nền pháp chế toàn diện", Tạp chí Luật học Trung Quốc số 1/2006 Bắc Kinh, Nxb Tạp chí Luật học Trung Quốc.
Võ Khánh Vinh: "Pháp chế xã hội chủ nghĩa - một phương thức thể hiện và thực hiện quyền lực của nhân dân", Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 1/1991; Hoàng Văn Hảo: "Vấn đề giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa dân chủ và pháp chế trong quá trình đổi mới ở nước ta", Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 2/1992; Đào Trí úc: "Tăng cường tính thống nhất của pháp chế, nghiêm chỉnh tuân theo và chấp hành pháp luật", Tạp chí Cộng sản, số 3/1995...
Nhóm hai là các công trình tiêu biểu nghiên cứu pháp chế XHCN trên từng lĩnh vực cụ thể gồm có:
- "Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động của lực lượng công an nhân dân trên lĩnh vực bảo vệ an ninh quốc gia ở nước ta hiện nay", Luận án Phó tiến sĩ luật học của Nguyễn Phùng Hồng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 1994;
- "Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa về kinh tế trong quản lý nhà nước nền kinh tế thị trường định hướng pháp chế xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay", Luận án Phó tiến sĩ Luật học của Quách Sĩ Hùng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 1996;
- "Tăng cường pháp chế trong lĩnh vực giao thông đường bộ ở nước ta hiện nay", Luận văn thạc sĩ Luật học của Nguyễn Huy Bằng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2001;
- "Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội", Luận văn thạc sĩ Luật học của Nguyễn Chí Dũng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2003...
Các công trình đều đưa ra khái niệm pháp chế XHCN nói chung và khái niệm, đặc trưng vai trò và giải pháp tăng cường pháp chế XHCN trên từng lĩnh vực cụ thể.
Từ tình hình nghiên cứu trên cho thấy, đến nay chưa có công trình khoa học nào trực tiếp nghiên cứu "Vai trò của pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tổ chức và hoạt động của Hải quan Việt Nam". Mặc dù vậy, các công trình đã công bố nêu trên là tài liệu tham khảo có giá trị để nghiên cứu và viết hoàn thiện đề tài luận văn.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Về đối tượng nghiên cứu của luận văn: trên cơ sở nghiên cứu vai trò của pháp chế XHCN, luận văn nghiên cứu đặc điểm và nội dung vai trò của pháp chế XHCN trong tổ chức và hoạt động của Hải quan. Nghiên cứu thực trạng, tìm hiểu nguyên nhân của thực trạng vai trò pháp chế XHCN trong tổ chức và hoạt động của Hải quan. Luận giải các giải pháp nhằm bảo đảm vai trò pháp chế trong tổ chức và hoạt động của Hải quan Việt Nam hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu của luận văn:
Luận văn nghiên cứu vai trò của pháp chế XHCN trong tổ chức và hoạt động của toàn ngành Hải quan.
Thời gian từ năm 1990 đến nay.
4. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích nghiên cứu:
Luận văn có mục đích nghiên cứu là trên cơ sở nghiên cứu lý luận và đánh giá thực trạng vai trò của pháp chế XHCN trong lĩnh vực Hải quan, luận văn đề xuất các giải pháp nhằm bảo đảm pháp chế trong tổ chức và hoạt động của Hải quan Việt Nam hiện nay.
Nhiệm vụ của luận văn:
Để thực hiện mục đích nghiên cứu trên nhiệm vụ của luận văn là:
- Xây dựng khái niệm, đặc trưng của pháp chế XHCN trong tổ chức hoạt động của Hải quan.
- Phân tích vai trò của pháp chế XHCN trong tổ chức hoạt động của Hải quan.
- Phân tích các yêu cầu đảm bảo vai trò pháp chế trong tổ chức và hoạt động của Hải quan Việt Nam hiện nay.
- Đề xuất giải pháp đảm bảo vai trò của pháp chế trong tổ chức và hoạt động của Hải quan Việt Nam.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về pháp luật và pháp chế XHCN.
- Phương pháp nghiên cứu: dựa trên phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, luận văn đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: lịch sử - cụ thể, phân tích - tổng hợp, kết hợp với phương pháp xã hội học, thống kê, so sánh.
6. Những điểm mới của luận văn
Là luận văn là chuyên khảo đầu tiên nghiên cứu tương đối toàn diện và hệ thống "Vai trò pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tổ chức và hoạt động của Hải quan Việt Nam". Vì vậy, có những điểm mới cụ thể sau:
- Xác định khái niệm, nội dung vai trò của pháp chế trong tổ chức và hoạt động của Hải quan Việt Nam.
- Chỉ ra được những ưu điểm, tồn tại và nguyên nhân của những ưu điểm, tồn tại về vai trò của pháp chế XHCN trong tổ chức và hoạt động của Hải quan hiện hành.
- Xác lập hệ thống giải pháp có tính khả thi nhằm đảm bảo vai trò của pháp chế XHCN trong tổ chức và hoạt động của Hải quan Việt Nam.
7. ý nghĩa của luận văn
- Về mặt lý luận: Luận văn góp phần làm phong phú thêm lý luận về pháp chế XHCN trong lĩnh vực cụ thể.
- Về thực tiễn: Kết quả luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan nghiên cứu; sinh viên các trường đại học, cao đẳng và những người quan tâm đến lĩnh vực này.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn được kết cấu thành 3 chương, 8 mục.
Chương 1: Cơ sở lý luận về vai trò của pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tổ chức và hoạt động của Hải quan Việt Nam
Chương 2: Thực trạng vai trò pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tổ chức và hoạt động của Hải quan Việt Nam
Chương 3: Yêu cầu và giải pháp bảo đảm vai trò của pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tổ chức và hoạt động của Hải quan Việt Nam hiện nay
Chương 1
CƠ Sở Lý Luận Về VAI Trò Của Pháp Chế xã hội chủ nghĩa TRONG Tổ Chức Và Hoạt Động Của Hải QUAN việt NAM
1.1. Vị trí, vai trò và đặc trưng về tổ chức và hoạt động của hải quan
1.1.1. Vị trí, vai trò về tổ chức và hoạt động của Hải quan
Nghiên cứu các di sản, di tích lịch sử cổ đại cho thấy, Hải quan và hoạt động hải quan đã được thiết lập từ trước thiên niên kỷ thứ 2 (trước công nguyên) ở Ai Cập và ở Lưỡng Hà... Lúc đầu Hải quan chủ yếu tiến hành thu tiền cho ngân sách nhà nước từ các hoạt động trao đổi, buôn bán giữa các lãnh địa. Khi nền kinh tế thị trường tư bản phát triển, bên cạnh chức năng thu thuế truyền thống, Hải quan được giao nhiều chức năng mới, quan trọng nhất là bảo hộ sản xuất trong nước, bảo vệ lợi ích tư bản dân tộc". Đến khi, nền thương mại toàn cầu và giao lưu, hợp tác quốc tế ngày càng phát triển, đòi hỏi các quốc gia và lãnh thổ trên thế giới phải tìm cách hợp tác với nhau, nhằm tiêu chuẩn, đơn giản và thống nhất hoá các thủ tục, luật lệ hải quan, tạo thuận lợi cho thương mại, và có hiệu quả hơn trong phòng, chống buôn lậu, gian lận thương mại; phòng, chống vi phạm quyền sở hữu trí tuệ. Đáp ứng đòi hỏi thực tế này, năm 1950, Hội đồng hợp tác Hải quan (nay là Tổ chức Hải quan thế giới - WCO) được thành lập trước năm 1991, khối các nước xã hội chủ nghĩa đã hợp tác hải quan trên. Ngày nay hầu hết các quốc gia có chủ quyền hoặc lãnh thổ tự trị dù đã gia nhập hoặc chưa ra nhập các liên minh hải quan đều thiết lập ra tổ chức hải quan của mình để kiểm soát hàng hoá. phương tiện xuất- nhập khẩu, xuất- nhập cảnh, quá cảnh qua biên giới, thu thuế và thu khác cho ngân khố của quốc gia, lãnh thổ tự trị đó.
Hệ thống luật lệ của các nước đều xác định vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, nội dung hoạt động cũng như cơ cấu, tổ chức hải quan của Nhà nước đó. ở mỗi Nhà nước, hải quan đã và đang trở thành một công cụ quan trọng, thiết yếu trong nhiệm vụ thực thi chính sách về các quan hệ chính trị, kinh tế, văn hoá với các nước khác, là công vụ "đóng, mở" để đẩy mạnh sự giao lưu, hợp tác quốc tế, bảo vệ lợi ích, chủ quyền an ninh kinh tế và an ninh quốc gia.
Trong đời sống chính trị, kinh tế-xã hội của mỗi quốc gia, vị trí, vai trò của Hải quan được thể hiện chủ yếu ở những phương diện sau đây:
Một là, mỗi quốc gia, lãnh thổ tự trị đều xác định Tổ chức Hải quan là một công cụ quan trọng trong việc bảo hộ, thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế sản xuất hàng hoá của nước mình. Thông qua hàng rào hải quan để kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ hàng hoá, phương tiện xuất - nhập khẩu, xuất - nhập cảnh, quá cảnh; đấu tranh, ngăn chặn, đấu tranh mạnh mẽ với các hoạt động buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ,... qua biên giới. Tổ chức Hải quan đã góp phần đảm bảo cho nền kinh tế ổn định, bảo hộ sản xuất. tiêu dùng trong nước. Mặt khác, Tổ chức Hải quan đã trở thành công cụ quan trọng trong việc bảo vệ hàng rào thuế quan góp phần vào điều tiết các hoạt động kinh tế mỗi quốc gia. cũng như thông qua thu, nộp thuế đã góp phần không nhỏ vào nguồn tài chính tạo lên quốc khố.
Hai là, tổ chức Hải quan và hoạt động của Hải quan được xác định là một trong những công cụ góp phần không nhỏ vào việc bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội của mỗi nước. Vai trò này của Hải quan được thể hiện ở những hoạt động phát hiện, xử lý kịp thời những vi phạm pháp luật lĩnh vực hải quan, đảm bảo các quy tắc quản lý nhà nước về hải quan được tôn trọng, bảo vệ an ninh tư tưởng, văn hoá, an toàn vệ sinh - dịch tễ môi trường, sức khoẻ của nhân dân, bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng, kịp thời ngăn chặn những hành động đe doạ lợi ích, chủ quyền, an ninh quốc gia và lợi ích của người kinh doanh.
Ba là, tổ chức Hải quan, hoạt động hải quan góp phần quan trọng đáng kể vào việc cải thiện môi trường đầu tư nước ngoài, thúc đẩy và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của mỗi quốc gia. Bởi vì, thông qua việc xây dựng, ban hành, thực thi luật lệ, chính sách hải quan có liên quan đến đầu tư nước ngoài, Tổ chức Hải quan và hoạt động hải quan ảnh hưởng trực tiếp không nhỏ đến quyền, lợi ích của các nhà đầu tư nước ngoài...
1.1.2. Những đặc trưng về tổ chức và hoạt động của Hải quan Việt Nam
Một là, Hải quan Việt Nam là một thiết chế của Nhà nước. Thiết chế này được thành lập để trực tiếp quản lý nhà nước các hoạt động hải quan, là cơ quan có chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền thực hiện hoạt động hải quan theo các quy định của hệ thống pháp luật. Địa vị pháp lý Hải quan Việt Nam được xác định trong nhiều văn bản pháp luật thuộc hệ thống pháp luật Việt Nam. Trước hết được ghi nhận ở trong các văn bản pháp luật quan trọng, như: Luật Hải quan 2001 và Luật Hải quan sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật hải quan ngày 26/5/2005, Nghị định số 96/2002/NĐ-CP ngày của Chính phủ và Quyết định số 113/2002/QĐ-TTg ngày 4-9-2002 của Thủ tướng Chính phủ; đây là những văn bản xác định đặc trưng chủ yếu địa vị pháp lý của hải quan Việt Nam. Bên cạnh các văn bản này, địa vị pháp lý của Hải quan Việt Nam còn được khẳng định trong hàng loạt văn bản thuộc hệ thống văn bản pháp luật quản lý nhà nước lĩnh vực chuyên ngành khác có liên quan, như các luật thuế về hàng hoá xuất - nhập khẩu, Luật Thương mại và các văn bản chi tiết thi hành, Bộ luật Tố tụng hình sự Pháp lệnh điều tra hình sự, các văn bản pháp luật quy định về xử lý, tố tụng hành chính,...
- Vị trí, vai trò và hệ thống tổ chức của Hải quan Việt Nam.
Theo ghi nhận trong hệ thống pháp luật hiện hành, Hải quan Việt Nam là cơ quan giúp Chính phủ thực hiện thống nhất quản lý nhà nước về hải quan trên toàn quốc. Mặt khác, Hải quan Việt Nam là cơ quan trực thuộc Bộ Tài chính, còn giúp Bộ trưởng Bộ Tài chính thực hiện chức năng quản lý nhà nước chuyên ngành về hải quan; thực thi pháp luật hải quan trên phạm vi cả nước. Điểm này đã cho thấy, Hải quan Việt Nam là cơ quan quản lý hành chính nhà nước, nên có hầu hết bản chất, đặc trưng của loại hình cơ quan hành pháp, hành chính.
Tuy nhiên, do tính chất, đặc điểm đặc thù của quản lý nhà nước về hải quan, địa vị pháp lý của hệ thống cơ quan hải quan cũng mang tính chất đặc thù, đó là Hải quan Việt Nam được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung, thống nhất, là cơ quan của Bộ Tài chính; song Bộ Tài chính là thành viên Chính phủ và Chính phủ lại được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Điều này cho thấy, hệ thống các cơ quan hải quan từ trung ương đến địa phương, vị trí của nó có tính đặc thù so với các cơ quan quản lý hành chính nhà nước chuyên ngành khác. Theo các quy định pháp luật, Tổng cục Hải quan trực thuộc Bộ Tài chính, Cục Hải quan tỉnh, liên tỉnh thành phố trực thuộc Tổng cục Hải quan, Chi cục Hải quan cửa khẩu, và ngoài cửa khẩu trực thuộc Cục Hải quan tỉnh, liên tỉnh, thành phố, không lệ thuộc vào chính quyền địa phương các cấp về điều hành, tổ chức hoạt động.
Mặt khác, cũng cần phải thấy một cách rõ ràng là: vị trí pháp lý đặc biệt của Hải quan các cấp mặc dù được hình thành trên cơ sở nguyên tắc tập trung thống nhất, nhưng không phải là biệt lập, đóng kín, mà chỉ có tính độc lập tương đối, nó bị giám sát bởi các cơ quan quyền lực nhà nước ở Trung ương và địa phương trong vai trò là các cơ quan kiểm tra, giám sát các cơ quan hành pháp, hành chính nhà nước; và có mối quan hệ phối hợp với các cơ quan quản lý chuyên ngành khác ở các cấp để thực hiện các chức năng quản lý nhà nước; mối quan hệ phối hợp với Uỷ ban nhân dân các cấp trong hoạt động phòng, chống buôn lậu, gian lận thương mại trên địa bàn khu vực thuộc địa giới hành chính của từng địa phương.
- Chức năng, nhiệm vụ của Hải quan Việt Nam.
Cũng như hầu hết các cơ quan hành chính khác của Nhà nước, chức năng quản lý nhà nước về hải quan đã được chính thể Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (nay là Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam) hết sức quan tâm, coi trọng, kể từ ngay những ngày đầu tiên khi nước Việt Nam (mới) được thành lập.
Từ năm 1986, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, chức năng của Hải quan đã có có nhiều thay đổi lớn, sâu sắc. Trước tiên, các chức năng được bổ sung, đổi mới và ghi nhận trong nhiều văn bản có giá trị pháp lý cao, như Pháp lệnh Hải quan (ngày 20-6-1990), Luật Hải quan (29-6-2001) và Luật Hải quan sửa đổi, bổ sung một số điều ngày 26/5/2005. Hải quan Việt Nam từ chức năng chuyên chính" là chủ yếu để "kiểm soát ngoại thương", đã chuyển sang chức năng chủ đạo phục vụ hoạt động kinh tế đối ngoại, bảo hộ, góp phần phát triển kinh tế trong nước, thực hiện các cam kết hợp tác kinh tế quốc tế, phục vụ các hoạt động giao lưu và hợp tác quốc tế, là công cụ "gác cửa", "mở cửa" để thúc đẩy tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Mặt khác, để thực hiện được chức năng quản lý nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đòi hỏi Hải quan Việt Nam chủ động phối hợp với các cơ quan chức năng khác của Nhà nước để thực hiện các nhiệm vụ quản lý nhà nước về lĩnh vực hải quan.
Xuất phát từ chức năng và yêu cầu của quản lý nhà nước và bối cảnh đối với nền kinh tế thị trường mở cửa hội nhập quốc tế, Hải quan Việt Nam được giao đảm nhận, thực hiện bốn nhiệm vụ cơ bản, chủ yếu:
Thứ nhất, thực hiện kiểm tra, giám sát hàng hoá xuất nhập khẩu, quá cảnh; phương tiện vận tải xuất nhập cảnh, quá cảnh qua biên giới Việt Nam. Đây là một trong những nhiệm vụ cơ bản, chủ yếu nhất, nói lên bản chất vai trò của Hải quan trong nền kinh tế (nói chung), kinh tế đối ngoại nói riêng. Nhiệm vụ này đã được Nhà nước khẳng định, ghi nhận vào pháp luật, thể hiện, nói lên ý nghĩa sâu sắc: Hải quan là công cụ "gác cửa", "mở cửa", ngăn chặn đẩy lùi làn gió độc" để đến với thế giới, đón thế giới đến với Việt Nam; là tuyến đầu' trên mặt trận an ninh kinh tế, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, bảo hộ sản xuất trong nước, góp phần giữ vững ổn định chính trị, định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Thứ hai, phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới. Thực tiễn lịch sử đã chứng tỏ rằng, không chỉ thời đại ngày nay mới có buôn lậu vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới, mà hoạt động này đã phát sinh cùng với sự phát triển của nền sản xuất hàng hoá của xã hội loài người. Nhiệm vụ phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới đã được Nhà nước trao cho Hải quan Việt Nam, cùng với thời điểm ra đời, phát triển xuyên suốt hơn 60 năm qua của ngành Hải quan.
Thứ ba, tổ chức thực hiện pháp luật về thuế đối với hàng hoá xuất khẩu- nhập khẩu. Nhiệm vụ này được hình thành ngay từ khi Nhà nước thành lập Sở Thuế quan và Thuế gián thu và được kế thừa phát triển cho đến ngày nay. Nhiệm vụ này đảm bảo một phần nguồn thu cho quốc khố từ nguồn thuế và thu khác từ các hoạt động xuất -nhập khẩu quá cảnh hàng hoá, xuất -nhập cảnh, quá cảnh phương tiện vận tải.
Thứ tư, kiến nghị chủ trương, biện pháp quản lý nhà nước về hải quan đối với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh và chính sách thuế đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu. Phải nói rằng, nhiệm vụ này được phái sinh từ ba nhiệm vụ nêu trên.
Hai là, tổ chức, hoạt động Hải quan Việt Nam có mối quan hệ chặt chẽ với các cơ quan khác.
- Mối quan hệ của Tổ chức Hải quan với cơ quan quản lý nhà nước cấp trên.
Hiện nay, Tổng cục Hải quan là cơ quan trực thuộc Bộ Tài chính, Bộ Tài chính nằm trong cơ cấu tổ chức Chính phủ, tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, trong khi đó. Hải quan Việt Nam lại tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc "tập trung, thống nhất". Đây là điềm hết sức đặc thù trong tổ chức bộ máy Chính phủ, cho thấy dù về tổ chức có sự thay đổi, song vị trí. chức năng, nguyên tắc tổ chức và hoạt động, nhiệm vụ. quyền hạn của ngành Hải quan vẫn được khẳng định theo nguyên tắc này.
- Mối quan hệ giữa Tổng cục Hải quan với các cấp, đơn vị hải quan trực thuộc.
Cơ quan hành chính nhà nước chủ yếu chịu trách nhiệm thực hiện quản lý nhà nước lĩnh vực hải quan là các cơ quan Hải quan, gọi chung là Hải quan Việt Nam. Theo Luật Hải quan, "Hải quan Việt Nam được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung, thống nhất. Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan thống nhất quản lý, điều hành hoạt động của Hải quan các cấp; Hải quan cấp dưới chịu sự quản lý, chỉ đạo của Hải quan cấp trên".
Theo quy định trên. Hải quan Việt Nam-cơ quan hành chính được Nhà nước trao thẩm quyền thực thi các hoạt động quản lý nhà nước lĩnh vực hải quan được tổ chức thành một hệ thống. ở Trung ương là Tổng cục Hải quan, ở địa phương (nơi có hoạt động hải quan) có Cục Hải quan tỉnh. liên tỉnh thành phố trực thuộc Tổng cục Hải quan, các Chi cục Hải quan cửa khẩu và Chi cục Hải quan ngoài cửa khẩu trực thuộc Cục Hải quan tỉnh, liên tỉnh thành phố. Toàn bộ hệ thống tổ chức và hoạt động quản lý của hệ thống hải quan theo nguyên tắc tập trung, thống nhất chỉ đạo, điều hành quản lý từ Trung ương xuống địa bàn, cơ sở.
- Mối quan hệ giữa Hải quan với các cơ quan, đơn vị hữu quan.
Luật Hải quan xác định rõ: "Tổng cục Hải quan là cơ quan giúp Chính phủ thực hiện thống nhất quản lý nhà nước về hải quan"; các cơ quan khác của Nhà nước có trách nhiệm phối hợp thực hiện quản lý nhà nước lĩnh vực hải quan, như: Biên phòng, Cảnh sát biển, Cảnh sát kinh tế, Kiểm dịch động vật, Kiểm dịch thực vật, Kiểm dịch y tế, Kiểm tra văn hoá, uỷ ban nhân dân các cấp. Ngân hàng, Kho bạc,... Tổ chức, cá nhân thực hiện xuất - nhập khẩu, quá cảnh hàng hoá, xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh phương tiện vận tải là đối tượng quản lý có nghĩa vụ thực hiện các quyết định, yêu cầu phối hợp thực hiện pháp luật của cơ quan hải quan.
Cơ quan hải quan trong địa vị, vai trò là cơ quan chủ trì trong các trường hợp trên đây là nhằm đảm bảo cho các cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành tại cửa khẩu một mặt, hoàn thành chức năng, nhiệm vụ của mình, nhưng không được vi phạm thời hạn "ấn định" thông quan cho một loại hình hàng hoá xuất-nhập khẩu đã được quy định trong Luật, mặt khác, tránh được sự "tranh chấp", "chồng chéo" phi lý trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước không cần thiết, dẫn đến có thể tạo sơ hở cho buôn lậu, trốn thuế, gian lận thương mại hoặc tình trạng lạm dụng quyền hạn để trục lợi, dây dưa kéo dài xử lý vụ việc, gây thiệt hại cho lợi ích Nhà nước và nhân dân. Điều này đã được Luật Hải quan khẳng định rõ: trong trường hợp hàng hoá, phương tiện vận tải chưa đưa ra khỏi phạm vi địa bàn hoạt động hải quan mà cơ quan tổ chức, cá nhân phát hiện có hành vi buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới thì cơ quan. tổ chức, cá nhân đó báo ngay cho cơ quan hải quan để kiểm tra, xử lý". Song, để quy định này có thể thực hiện được trên thực tế đòi hỏi sự tự giác hợp tác, tôn trọng nguyên tắc "vì lợi ích quốc gia", "vì lợi ích của công dân" của các cơ quan chức năng chuyên ngành hữu quan. ở ngoài địa bàn hoạt động hải quan, các cơ quan quản lý chuyên ngành khác của Nhà nước và cơ quan hải quan tổ chức các hoạt động phối hợp phòng, chống buôn lậu, gian lận thương mại, vận chuyển trái phép qua biên giới theo quy định của pháp luật. Trong mối quan hệ này, các cơ quan hải quan đóng vai trò là cơ quan thực hiện chức năng phối hợp.
- Mối quan hệ giữa Hải quan với một số cơ quan quyền lực nhà nước và hệ thống chính trị.
Trong lĩnh vực quản lý nhà nước về hải quan, thực hiện thẩm quyền giám sát, ngoài các cơ quan, tổ chức, cá nhân, như Quốc hội, Đại biểu Quốc hội theo Luật tổ chức Quốc hội và Luật giám sát Quốc hội, và thêm vào đó còn gồm các cơ quan, tổ chức, cá nhân được quy định trong Luật Hải quan, gồm: i) Hội đồng nhân dân các cấp trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ. quyền hạn của mình giám sát việc thi hành pháp luật hải quan; ii) Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận động viên nhân dân nghiêm chỉnh thi hành pháp luật hải quan; giám sát việc thi hành pháp luật hải quan theo quy định của pháp luật; iii) nhân dân, chủ thể thực hiện giám sát đối với các hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước về hải quan. Nhân dân thực hiện giám sát thông qua các đại biểu của mình ở các cơ quan quyền lực Trung ương hoặc địa phương, hoặc thực hiện các quyền khiếu nại, tố cáo các cơ quan, cán bộ. công chức đã vi phạm hoặc cho là đã vi phạm pháp luật lĩnh vực hải quan.
Hệ thống các cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện quyền lực giám sát đối với các hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước lĩnh vực hải quan nói chung, của các cấp hải quan, cán bộ. công chức hải quan nhằm đảm bảo cho việc thực thi hệ thống pháp luật hải quan có hiệu quả trên thực tế, ngăn chặn, hạn chế các trường hợp thực thi nhiệm vụ vượt thẩm quyền, lạm quyền...cũng như các tiêu cực khác.
1.2. Khái niệm, đặc trưng của pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tổ chức và hoạt động của hải quan
1.2.1. Khái niệm pháp chế xã hội chủ nghĩa
Pháp chế XHCN là một khái niệm, một phạm trù pháp lý cơ bản của khoa học pháp lý XHCN. Đây là vấn đề không phải là mới mẻ. Song, sau khi các nước XHCN ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, các nước trong hệ thống XHCN đã đều tiến hành cải tổ đổi mới theo những con đường phát triển riêng của mình, pháp chế được bàn đến trong một điều kiện mới. Trong điều kiện của quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền, quá trình xây dựng phát triển nền kinh tế thị trường mở cửa, hội nhập quốc tế và xây dựng xã hội công dân, pháp chế XHCN (theo quan niệm cũ) không dễ gì có sự thống nhất về nội hàm của nó. Vì vậy, để đưa ra được một khái niệm về pháp chế XHCN một cách tương đối hoàn chỉnh, đúng với tên gọi của nó cần tiếp cận từ nhiều phương diện.
Thứ nhất, tiếp cận từ tư tưởng của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin về pháp chế XHCN, "pháp chế là một hiện tượng xã hội độc lập với tư cách là nhân tố của quyền lực chính trị". Pháp trị (hay pháp chế" là một chế độ chính trị của một nước dựa vào pháp luật để quản lý nhà nước và điều hành xã hội" [65, tr.1320]. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật là phương pháp pháp trị của nhà nước pháp quyền. Trong "Bộ Tư bản" C.Mác đã khái quát pháp chế là một chế độ thực hiện pháp luật của mọi tổ chức và công dân.
Các nhà kinh điển Mác-Lênin qua các tác phẩm của mình đã quan niệm pháp chế XHCN, là một hiện tượng xã hội tồn tại vận động theo các nguyên lý sau đây:
- Pháp chế là một chế độ đặc biệt của đời sống chính trị, kinh tế-xã hội trong đó mọi thành viên quan hệ với nhau theo pháp luật;
- Pháp chế là một nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động của Nhà nước xã hội chủ nghĩa;
- Pháp chế là một phương pháp quản lý nhà nước, phương pháp thực hiện những nhiệm vụ chuyên chính giai cấp, một bộ phận cấu thành của nền dân chủ chân chính.
- Pháp chế có quan hệ chặt chẽ với dân chủ, như là một bộ phận của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
- Pháp chế có mối liên hệ chặt chẽ với văn hoá, với ý thức tôn trọng, xử sự bằng pháp luật, niềm tin vào giá trị, tác dụng của pháp luật đối với người dân, đối với Nhà nước.
Thứ hai, tiếp cận từ quan điểm của Đảng ta về pháp chế XHCN trong các văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III đến lần thứ X, Đảng ta đều coi pháp chế XHCN là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Nhà nước. Muốn nâng cao hiệu lực, hiệu quả của quản lý Nhà nước và phát huy dân chủ XHCN phương pháp chủ yếu, tổng thể, toàn diện và thường xuyên là tăng cường pháp chế XHCN.
Có thể nói rằng các Nghị quyết của Đảng trong nhiệm kỳ khoá IX và X về xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật, về cải cách Tư pháp, về đẩy mạnh cải cách hành chính là đỉnh cao tư duy pháp lý nói chung và tư tưởng, quan điểm nội dung về xây dựng nền pháp chế XHCN ở nước ta nói riêng.
Nghị quyết của Bộ chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020. Nghị quyết số 48 ngày 24/5/2005) tạo tiền đề cơ sở và "công cụ" hữu hiệu cho "quản lý Nhà nước bằng pháp luật. Và đó cũng là cơ sở hình thành của pháp chế XHCN nói chung và pháp chế XHCN trên các lĩnh vực xã hội, trong đó có lĩnh vực tổ c._.hức hoạt động của Hải quan Việt Nam.
Tiếp theo chương trình tổng thể cải cách hành chính Nhà nước giai đoạn 2001 - 2010 (ban hành kèm theo Quyết định số 136/2001/QĐ-TTg ngày 17 tháng 9 năm 2001 của Thủ tướng Chính phủ), Nghị quyết Hội nghị lần thứ V Ban chấp hành TW khoá X về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy Nhà nước, ngày 01 tháng 8 năm 2007. Trong Nghị quyết quan trọng này Đảng ta đã xác định mục tiêu quan điểm yêu cầu và các chủ trương giải pháp đẩy mạnh cải cách hành chính. Trong đó vấn đề thể chế, pháp luật thủ tục hành chính, tổ chức hoạt động của bộ máy hành chính Nhà nước được Đảng ta quan tâm chỉ đạo rất cụ thể.
Nghị quyết của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp, đến năm 2020 số 49 - NQ/TW ngày 02/6/2005, xác định mục tiêu, quan điểm phương hướng và nhiệm vụ cải cách tư pháp cả về thể chế, bộ máy và nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan tư pháp: cơ quan điều tra, cơ quan công tố, xét xử thi hành án và giám sát hoạt động tư pháp.
Các Nghị quyết của Đảng nêu trên hình thành "Bộ Nghị quyết" toàn diện, đầy đủ nhất trong xây dựng nền pháp chế XHCN ở nước ta từ trước đến nay. Có thể coi đây là cơ sở lý luận, nội dung và biện pháp bảo đảm cho vai trò của pháp chế XHCN tiếp tục được tăng cường cũng như việc triển khai thực hiện Điều 12 của Hiến pháp năm 1992: "Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế XHCN.
Các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp luật, đấu tranh phòng chống và chống các tội phạm, các vi phạm Hiến pháp, pháp luật.
Mọi hành động xâm phạm lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân đều bị xử lý theo pháp luật".
Thứ ba, tiếp cận từ khái niệm pháp chế của khoa học pháp lý.
Có thể thấy rằng khái niệm (hay phạm trù) pháp chế XHCN được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều tác giả trong và ngoài nước. Song cho đến nay định nghĩa về pháp chế XHCN chưa phải là đồng nhất về nội dung của khái niệm này.
Theo V.N. Kyđriaxép: "pháp chế là chế độ nhất định của đời sống xã hội, là phương pháp lãnh đạo của Nhà nước trong việc tổ chức các quan hệ xã hội bằng phương thức ban hành và không giống thực hiện các đạo luật và các văn bản pháp luật khác" [25, tr.4]. Nội dung của định nghĩa này pháp chế có nội dung rộng. Pháp chế là chế độ của đời sống xã hội bao hàm cả việc ban hành pháp luật và thực hiện pháp luật, song nếu có vi phạm pháp luật thì pháp chế có vai trò như thế nào? Và pháp luật nào để xử lý các vi phạm pháp luật ấy?.
Một ý kiến khác của G.B Ataman Chúc, ông cho rằng "pháp chế là hệ thống các quy tắc, quy phạm phương tiện và các bảo đảm pháp lý tương ứng với chúng mà các cơ quan nhà nước thừa nhận đảm bảo thực hiện thực tế các đạo luật và các văn bản dưới luật [3, tr.310]...
ý kiến trên tác giả cũng cho rằng pháp chế bao gồm cả pháp luật, các bảo đảm pháp lý và bảo đảm pháp luật được thực hiện trong thực tế.
ở Việt Nam có các định nghĩa về pháp chế đáng chú ý sau đây:
- GS - TSKH Đào Trí úc cho rằng: "pháp chế là sự hiện diện của một hệ thống pháp luật cần và đủ để điều chỉnh các quan hệ xã hội, làm cơ sở cho sự tồn tại một trật tự pháp luật và kỷ luật, là sự tuân thủ và thực hiện đầy đủ pháp luật trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước, của các cơ quan, đơn vị tổ chức và đối với công dân" [56, tr.680].
- Trong tài liệu học tập nghiên cứu môn lý luận chung về nhà nước pháp luật, Tập 1, được Bản lý luận chính trị, định nghĩa: "pháp chế XHCN là chế độ thực hiện pháp luật nghiêm minh thống nhất và tự giác của các cơ quan nhà nước các tổ chức chính trị - xã hội, đơn vị kinh tế, lực lượng vũ trang, các cán bộ công chức nhà nước và mọi công dân" [24, tr.293].
"Pháp chế XHCN là một chế độ của đời sống chính trị xã hội, trong đó nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, các cơ quan nhà nước, lực lượng vũ trang nhân dân, các tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp, các tổ chức xã hội, các đơn vị kinh tế và mỗi công dân đều phải tôn trọng và thực hiện Hiến pháp, pháp luật.
Mọi vi phạm pháp luật đều bị xử lý theo pháp luật XHCN được quy định tại Điều 12 Hiến pháp năm 1992. Đồng tình với các khái niệm trên, theo tôi có thể hiểu pháp chế XHCN theo những nội dung cơ bản sau đây:
Thứ nhất: Pháp chế là chế độ của đời sống chính trị xã hội: pháp luật và pháp chế là hai hiện tượng xã hội khác nhau, độc lập tương đối với nhau, nhưng có mối quan hệ mật thiết với nhau: pháp luật với tư cách là hệ thống quy phạm pháp luật là tiền đề, cơ sở của pháp chế. Đây mới là khả năng là căn cứ tạo ra hiện tượng "sống, lao động, học tập theo Hiến pháp và pháp luật. Pháp chế là pháp luật hành vi, có đời sống thực của pháp luật. Nhận biết pháp luật trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật. Nhận biết pháp chế là ở trong đời sống chính trị - xã hội. Tức là hoạt động của nhà nước, của các tổ chức và của mọi công dân.
Thứ hai: Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Nội dung này dường như là "lẽ thường tình" và nó không phải là nội hàm của pháp chế. Thực tế không phải như vậy. Nhà nước phải quản lý xã hội chủ yếu bằng pháp luật, phải "pháp trị" mới là hiện tượng pháp chế. Khác với nhà nước đức trị, văn trị, nhân trị, và các "quốc đạo".
ở nước ta Đảng lãnh đạo nhà nước và xã hội bằng đường lối chủ trương. Nhưng đường lối chủ trương ấy phải được thể chế hoá, cụ thể hoá bằng pháp luật. Pháp luật là công cụ chủ yếu để quản lý nhà nước và xã hội. Qua pháp luật mà tính công khai, minh bạch được thể hiện - điều kiện bảo đảm cho pháp luật "ngự trị" trong đời sống xã hội.
Thứ ba: các chủ thể của quan hệ pháp luật như các cá nhân, các pháp nhân, các hộ gia đình, tổ hợp tác được nhấn mạnh theo tính chất của chủ thể là cơ quan nhà nước, các tổ chức Đảng, các đơn vị vũ trang nhân dân, các tổ chức chính trị xã hội, xã hội nghề nghiệp và xã hội thuần tuý cũng như các đơn vị kinh tế ở mọi thành phần kinh tế và công dân đều phải tôn trọng và thực hiện Hiến pháp và pháp luật. Nội dung này là "trụ cột" "xương sống" là nội dung cơ bản nhất của pháp chế. Tôn trọng là ý thức pháp luật, trình độ hiểu biết pháp luật nhất định tạo nên ý thức tự giác của sự thực hiện. Thực hiện pháp luật phải bao hàm các dạng thực hiện pháp luật phải bao hàm các dạng thực hiện pháp luật như: tuân thủ pháp luật, chấp hành pháp luật, sử dụng đúng pháp luật, và áp dụng pháp luật: Các dạng thực hiện pháp luật này cấu thành chế độ thực hiện pháp luật. Theo lý thuyết đây sẽ là chế độ pháp chế thống nhất đầy đủ.
Thứ tư: Nội dung của pháp chế còn là "mọi vi phạm pháp luật đều bị xử lý theo pháp luật. Vi phạm pháp luật là một hiện tượng xã hội. Nhưng pháp chế được thể hiện trong việc dùng pháp luật, căn cứ vào pháp luật, đối chiếu với pháp luật mà xử lý mọi hành vi xâm phạm đến an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, xâm phạm đến lợi ích nhà nước, lợi ích tập thể, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Vi phạm pháp luật về dân sự, kỷ luật nhà nước về trật tự quản lý hành chính nhà nước và pháp luật hình sự bị xử lý nghiêm minh triệt để kịp thời nhằm loại bỏ chúng ra khỏi đời sống pháp luật.
1.2.1. Khái niệm, đặc trưng của pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tổ chức và hoạt động của Hải quan
1.2.1.1. Khái niệm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tổ chức và hoạt động của Hải quan
Pháp chế XHCN trong tổ chức và hoạt động hải quan là một bộ phận của pháp chế XHCN ở Việt Nam. Bộ phận pháp chế này đòi hỏi trong quá trình tổ chức và hoạt động Hải quan phải tuân thủ các nguyên tắc pháp chế XHCN. Các chủ thể thuộc về tổ chức và hoạt động hải quan phải được thiết lập đúng nguyên tắc, thẩm quyền, hoạt động đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn pháp luật trao theo đó: "cơ quan nhà nước chỉ được hoạt động trong khuôn khổ pháp luật cho phép", "công dân được làm những gì pháp luật không cấm". Việc thiết lập tổ chức hải quan và thực thi các quyền năng của hải quan phải đảm bảo tính khoa học, hợp lý, dân chủ, hiệu quả, tiết kiệm, phục vụ nhân dân.
Từ đây, có thể hiểu pháp chế trong tổ chức và hoạt động hải quan như sau:
"Pháp chế trong tổ chức và hoạt động hải quan là một bộ phận pháp chế XHCN. Trong đó các cơ quan hải quan được tổ chức và hoạt động trên cơ sở pháp luật Hải quan và các quy định khác của pháp luật có liên quan đến lĩnh vực hải quan.
Các cơ quan nhà nước, các cơ quan hải quan, cán bộ, công chức hải quan, các đơn vị kinh tế, các tổ chức chính trị xã hội và mọi công dân Việt Nam và nước ngoài đều phải tôn trọng và thực hiện pháp luật trong hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá qua biên giới, trong thực hiện thuế quan.
Mọi vi phạm pháp luật về tổ chức và hoạt động hải quan đều bị xử lý theo pháp luật".
Theo định nghĩa trên pháp chế XHCN trong tổ chức và hoạt động của Hải quan có ba nội dung cơ bản sau đây:
Thứ nhất, pháp luật được coi là công cụ chủ yếu để quản lý nhà nước trong lĩnh vực Hải quan, các cơ quan Hải quan được tổ chức và hoạt động theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, các cơ quan nhà nước, lực lượng vũ trang nhân dân, các cơ quan hải quan, cán bộ công chức hải quan, các đơn vị kinh tế và mọi công dân phải tôn trọng và thực hiện pháp luật về quản lý nhà nước về hải quan, về vận chuyển xuất nhập khẩu hàng hoá và thuế quan.
Thứ ba, mọi vi phạm pháp luật trong tổ chức và hoạt động hải quan đều bị xử lý theo pháp luật.
1.2.1.2. Đặc trưng cơ bản của pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tổ chức và hoạt động hải quan
Thứ nhất, pháp chế XHCN trong tổ chức và hoạt động của hải quan được quy định bởi Luật Hải quan và các quy phạm pháp luật khác.
Pháp luật là tiền đề cơ sở của pháp chế nói chung. Tổ chức hải quan Việt Nam được quy định bằng pháp luật hải quan và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan. Nhưng Luật Hải quan là cơ bản, chủ yếu. Pháp luật Hải quan quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan hải quan từ trung ương đến cấp cơ sở và đến "công vụ" của từng chức danh hải quan... Cơ quan hải quan là cơ quan quản lý hành chính nhà nước nhưng là cơ quan quản lý hành chính đặc biệt, được gọi là hải quan... Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Hải quan thể hiện lĩnh vực hoạt động đặc thù: quản lý kiểm soát xuất nhập khẩu hàng hoá qua biên giới, thu thuế xuất nhập khẩu, và còn là lực lượng phòng và đấu tranh với các tội vận chuyển trái phép, buôn lậu hàng hoá, trốn thuế hải quan. Chính nội dung của pháp luật hải quan quy định đặc điểm của pháp chế XHCN về tổ chức hoạt động của Hải quan... Pháp luật hải quan và các điều ước quốc tế mà nước ta ký kết và tham gia quy định hoạt động của hải quan. Đặc trưng này cho thấy tính quy định của pháp luật về pháp chế và là cơ sở để đối chiếu đánh giá thực trạng pháp chế XHCN trong tổ chức, hoạt động của hải quan trong đời sống thực tiễn.
Thứ hai, pháp chế XHCN trong tổ chức hoạt động của Hải quan được thể hiện ở hành vi pháp lý (hành động hay không hành động) phù hợp với pháp luật của cơ quan hải quan, cán bộ công chức hải quan, của các đơn vị kinh tế, các tổ chức và công dân trong lĩnh vực hải quan.
Pháp luật là hiện tượng pháp lý ở trạng thái tĩnh. Còn pháp chế là đời sống pháp luật ở trạng thái động. Trạng thái động hay còn gọi là pháp luật hành vi. Pháp chế trong tổ chức hoạt động hải quan là hành vi hoạt động của các cơ quan, tổ chức, công dân tham gia hoạt động trong lĩnh vực hải quan (vận chuyển xuất nhập khẩu hàng hoá và thực hiện nghĩa vụ thuế quan). Các chủ thể tham gia các quan hệ pháp luật trong lĩnh vực hải quan thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể phù hợp với pháp luật - đó là pháp chế.
Các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực hải quan do pháp luật điều chỉnh gồm các nhóm quan hệ pháp luật sau đây:
- Nhóm các quan hệ pháp luật trong tổ chức, quản lý, điều hành hoạt động trong nội bộ hệ thống các cơ quan hải quan.
- Nhóm các quan hệ về lãnh đạo chỉ đạo quản lý hải quan và phối kết hợp giữa Hải quan với các cơ quan nhà nước khác. Như mối quan hệ pháp luật giữa Hải quan và Bộ Tài chính, các cơ quan nhà nước khác ở trung ương và địa phương, với các đơn vị Bộ đội biên phòng, Công an, Bộ y tế, Kiểm lâm...
- Nhóm các quan hệ giữa hải quan với đơn vị, cá nhân vận chuyển hành lý, hàng hoá qua biên giới với các chủ hàng hoá thực hiện xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá. Thông qua thủ tục thông quan, qua kiểm tra giám sát (tiền kiểm và hậu kiểm). áp dụng pháp luật của hải quan trong xử lý hoạt động vận chuyển trái phép, buôn lậu, áp thuế và chống trốn thuế...
Trong các quan hệ pháp luật kể trên các chủ thể là cơ quan nhà nước nói chung, cơ quan hải quan nói riêng, các tổ chức và công dân đều phải tuân thủ chấp hành và áp dụng đúng pháp luật.
Thứ ba, pháp chế XHCN trong tổ chức hoạt động hải quan là phương thức bảo vệ, bảo đảm lợi ích nhà nước quyền và lợi ích hợp pháp của các đơn vị kinh tế và mọi công dân trong lĩnh vực hải quan.
Quản lý nhà nước về hải quan và quản lý hải quan bằng pháp luật - từ đó pháp chế XHCN được hình thành. Nhưng pháp luật và pháp chế không làm ra của cải vật chất, không trực tiếp tạo ra "dân giầu nước mạnh". Nhưng pháp chế là phương thức (bao gồm các phương pháp, biện pháp pháp lý) để bảo vệ lợi ích nhà nước. Đó là nguồn thuế xuất khẩu thu được. Lợi ích nhà nước nói rộng ra còn là an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội ở các cửa khẩu biên giới, đất liền, đường biển và đường hàng không.
Pháp chế còn là phương pháp bảo vệ quyền, lợi ích kinh tế của các nhà đầu tư kinh doanh ở mọi thành phần kinh tế và công dân.
Pháp chế XHCN là phương pháp đặc trưng tạo ra sự thông thoáng, thuận tiện trong giao lưu quốc tế, xuất nhập khẩu hàng hoá do việc thực hiện cải cách thủ tục hành chính tạo ra và sự bình đẳng của mọi người trong kinh doanh xuất nhập khẩu, trong thực hiện nghĩa vụ về thuế.
Thứ tư, pháp chế XHCN trong tổ chức hoạt động hải quan là phương thức xây dựng lực lượng hải quan trong sạch, vững mạnh, chống mọi vi phạm pháp luật của cơ quan hải quan và cán bộ công chức hải quan.
Hải quan là người nhân danh nhà nước, thực hiện quyền lực nhà nước trong "kiểm soát" ngoại thương, người "canh đóng mở cửa biên giới". Họ cũng là con người nên về mặt chủ quan họ có thể lợi dụng vị trí, nhiệm vụ, quyền hạn để buôn lậu, tham nhũng và các tiêu cực khác. Mặt khách quan họ dễ bị mua chuộc, lôi kéo của những người tham gia hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá.
Phương thức phòng chống các tiêu cực trong ngành hải quan chủ yếu nhất, vững chắc nhất và xử lý theo pháp luật. Tức là truy cứu trách nhiệm pháp lý phải dựa trên những căn cứ pháp luật và áp dụng các chế tài pháp lý về kỷ luật nhà nước và kỷ luật vật chất, chế tài hành chính và truy cứu trách nhiệm hình sự.
Thứ năm, pháp chế XHCN trong tổ chức hoạt động hải quan là phương pháp phòng chống tội phạm vận chuyển trái phép, buôn lậu và trốn thuế và các tội phạm khác xảy ra trên biên giới.
Duy trì pháp luật hải quan trên biên giới, thiết lập pháp chế XHCN trong hoạt động Hải quan là một biện pháp phòng ngừa tội phạm rất hữu hiệu. Tuy nhiên, hoạt động kinh tế thị trường trong thời buổi hội nhập quốc tế sâu rộng, hàng hoá qua biên giới ngày càng tăng về nhịp độ lưu thông và gia tăng về giá trị hàng hoá. Hiện tượng tội phạm nảy sinh nhiều hơn và tập trung hơn ở khu vực biên giới đặc biệt là ở các cửa khẩu. Vì vậy, pháp chế không chỉ là tạo điều kiện cho vận chuyển lưu thông hàng hoá xuất nhập khẩu thuận tiện, mà pháp chế còn là phương pháp đấu tranh phòng, chống tội phạm.
1.3. nội dung Vai trò của pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tổ chức và hoạt động của hải quan
1.3.1. Pháp chế xã hội chủ nghĩa có vai trò quan trọng tổ chức hệ thống cơ quan hải quan Việt Nam
Vai trò của pháp chế XHCN trong tổ chức hải quan. theo đó cần phải đảm bảo việc xác lập, tuân thủ nghiêm túc các quy định của pháp luật về chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của các cơ quan hải quan và quyền nghĩa vụ của cán bộ công chức hải quan trong bộ máy hành chính nhà nước; thẩm quyền của Hải quan; nguyên tắc tổ chức và thiết lập bộ máy hải quan các cấp. Vai trò này thể hiện trên các mặt pháp lý như sau:
Thứ nhất, về địa vị pháp lý của cơ quan hải quan trọng hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước. Địa vị pháp lý của hải quan Việt Nam, pháp chế yêu cầu cơ quan hải quan phải được xác lập bằng văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành. Việc xác lập này bảo đảm nguyên tắc chính thức hoá các cơ quan hành chính nhà nước, minh chứng rằng, một cơ quan hành chính nhà nước có nhiệm vụ thực thi pháp luật ở phạm vi quốc gia, thậm chí quốc tế, phải được định vị bằng vãn bản do cơ quan quyền lực nhà nước hay nó là cơ quan hành chính do cơ quan quyền lực nhà nước thành lập để thực thi các nhiệm vụ, quyền hạn do cơ quan quyền lực trao cho. đó là cơ quan đại diện uỷ quyền của cơ quan quyền lực để thực thi chủ quyền quốc gia về hải quan. ở Việt Nam, cơ quan Hải quan được xác lập địa vị pháp lý tại Luật hải quan ngày 29/1 1/2001 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật hải quan ngày 26/5/2005.
Thứ hai, về vị trí, vai trò của cơ quan hải quan . Pháp chế XHCN đòi hỏi cơ quan hải quan phải được xác định rõ vị trí, vai trò của nó trong hệ thống các cơ quan hành chính và vai trò của nó đối với quốc gia, đối với xã hội, cũng như các khía cạnh khác nhau của quản lý nhà nước như: đảm bảo an ninh quốc gia, an toàn xã hội, tạo thuận lợi cho thương mại, giao lưu, hợp tác quốc tế, tạo thuận lợi cho các hoạt động du lịch, đi lại của các cá nhân có quốc tịch khác nhau qua biên giới quốc gia, cũng như trong công cuộc phối hợp chống tội phạm quốc tế, chống khủng bố quốc tế. Mặt khác, pháp chế đòi hỏi việc khẳng định vị trí, vai trò của cơ quan hải quan đối với nền kinh tế-xã hội, trong đó, khẳng định việc nguyên nhân sinh ra, tồn tại và ý nghĩa của nó là cần thiết đối với yêu cầu quản lý nhà nước và sự tham gia của nó trong vai trò là cơ quan đại diện cho chủ quyền quốc gia về hải quan,...
Thứ ba, thẩm quyền của cơ quan hải quan. Pháp chế XHCN đòi hỏi thẩm quyền của cơ quan hải quan phải được xác lập rõ trong văn bản quy phạm pháp luật dưới hình thức pháp lý nhất định. Hơn nữa, thẩm quyền của cơ quan hải quan phải được thi hành và bảo đảm thi hành trên thực tế để đảm bảo hoàn thành các chức năng, nhiệm vụ theo yêu cầu của quản lý nhà nước. Thẩm quyền của cơ quan hải quan bao gồm các quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm đảm bảo cho nó hoàn thành có hiệu lực, hiệu quả các chức năng chuyên biệt của cơ quan hải quan đối với từng lĩnh vực hoạt động nghiệp vụ chuyên môn như: làm thủ tục hải quan, kiểm tra giám sát hải quan , kiểm tra sau thông quan, thu nộp thuế hàng hoá xuất nhập khẩu, điều tra, phòng chống buôn lậu và vận chuyển trái phép hàn hoá, tiền tệ qua biên giới và các hành vi khác vi phạm pháp luật hải quan.
Thứ tư, về bộ máy hải quan hay hệ thống hải quan các cấp. Pháp chế XHCN đòi hỏi việc thiết lập hệ thống hải quan phải tuân theo quy định của pháp luật. Xuất phát từ tính chất đặc thù của cơ quan hải quan, đó là: hải quan luôn luôn là hải quan quốc gia, tổ chức theo hệ thống dọc, là cơ quan hành chính có thẩm quyền riêng, nguyên tắc tổ chức tập trung thống nhất. Do vậy, hệ thống hải quan phải được thiết kế là cơ quan quản lý hành chính độc lập, hoạt động từ trung ương đến các địa phương. Mặc dù tổ chức của nó được phân cấp thành các cấp, tổ chức độc lập để thực thi thẩm quyền ở các địa phương, địa bàn nhất định nhưng không phụ thuộc vào cơ quan hành chính địa phương và các cơ quan hành chính khác nhằm đảm bảo tính thống nhất trong việc thi hành luật pháp, đảm bảo chủ quyền hải quan như nhau trên mọi khu vực lãnh thổ, địa bàn hoạt động hải quan.
Thứ năm: về cán bộ, công chức hải quan. Pháp chế XHCN đòi hỏi công tác cán bộ, công chức hải quan phải được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng và phải tuân thủ nghiêm túc các quy định của pháp luật về cán bộ, công chức. Cán bộ, công chức hải quan là một bộ phận cán bộ, công chức nhà nước phải được quản lý, sử dụng nhằm mục tiêu phục vụ lợi ích đất nước, phục vụ nhân dân; được tuyển dụng, đào tạo, bổ nhiệm đúng ngạch bậc, đúng chuyên môn, nghiệp vụ. Cán bộ, công chức hải quan phải là những người trung thành tuyệt đối với Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; thực hành tiết kiệm. chống lãng phí, tích cực phòng, chống tham nhũng và các tiêu cực khác.
1.3.2. Vai trò của pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động của hải quan
Nói đến hoạt động hải quan là nói đến hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước. Tuy nhiên, do yêu cầu, tính chất đặc thù về phương diện tổ chức và hoạt động, nên cơ quan hải quan có chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn. cũng như phạm vi địa bàn, lãnh thổ hoạt động có nhiều yếu tố khác với các cơ quan hành chính và các cơ quan khác của nhà nước.
Đảm bảo vai trò của pháp chế đối với hoạt động của cơ quan hải quan, chính là việc đặt các hoạt động của cơ quan hải quan dưới các yêu cầu của pháp chế XHCN và các nguyên tắc hoạt động của các cơ quan nhà nước được quy định trong Hiến pháp và các văn bản quy phạm pháp luật. Đi cùng với đó, pháp chế XHCN cũng yêu cầu các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, cũng như công dân phải tôn trọng tuân thủ các quy định của pháp luật về các hoạt động hải quan, giúp đỡ, tạo điều kiện để cơ quan hải quan thực thi các hoạt động đúng các quy định của pháp luật.
Để thiết lập vai trò của pháp chế xã hội của nghĩa đối với hoạt động hải quan thì phải đặt các nội dung sau đây tuân thủ nghiêm minh các nguyên tắc của pháp chế đó là: lãnh thổ hải quan, địa bàn hoạt động hải quan, khu vực kiểm soát hải quan; các nội dung của hoạt động hải quan gồm: làm thủ tục hải quan, kiểm tra, giám sát hải quan, kiểm soát hải quan, kiểm tra sau thông quan, điều tra, phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới và các hành vi khác vi phạm pháp luật; hoạt động thu, nộp tlluế hàng hoá xuất nhập khẩu và các nghĩa vụ tài chính khác; các hoạt động để hỗ trợ nhằm đảm bảo tuân thủ pháp luật hải quan như: tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, hỗ trợ, cung cấp thông tin pháp luật cho các tổ chức, cá nhân tham gia các hoạt động hải quan.
Thứ nhất: về lãnh thổ hải quan, địa bàn hoạt động và khu vực kiểm soát hải quan pháp chế XHCN đòi hỏi ranh giới của hoạt động hải quan được thiết lập và khẳng định rõ ràng trong các văn bản pháp luật của cơ quan quyền lực nhà nước. Theo đó, cơ quan quyền lực nhà nước phải khẳng định và đảm bảo bằng quyền lực nhà nước về ranh giới cho các hoạt động hải quan dưới hình thức văn bản quy phạm pháp luật. Ranh giới hoạt động hải quan: lãnh thổ hải quan, địa bàn hoạt động hải quan và khu vực kiểm soát hải quan, nơi mà các hoạt động hải quan được triển khai thực thi. thẩm quyền của các cơ quan được thi hành hay nói cách khác, chủ quyền hải quan của Nhà nước được uỷ quyền thi hành bởi cơ quan hải quan và các cơ quan khác của Nhà nước. Các cơ quan có thẩm quyền thực thi quyền lực nhà nước về hải quan, các tổ chức, cá nhân tham gia các hoạt động hải quan phải tuân thủ nghiêm minh các quy định của pháp luật.
Thứ hai: về làm thủ tục hải quan. Pháp chế XHCN đòi hỏi thủ tục hải quan phải được ghi nhận trong văn bản quy phạm pháp luật. Thủ tục hải quan chính là một loại thủ tục hành chính trong đó xác lập các bước để xuất nhập khẩu hàng hoá, xuất nhập cảnh phương tiện vận tải thông qua các hoạt động của hai bên: một bên là cơ quan hải quan và bên kia là các cá nhân, tổ chức có quyền, nghĩa vụ tham gia vào thủ tục hải quan. Thủ tục hải quan, không chỉ là trình tự các bước để tiến hành thông quan cho hàng hoá, phương tiện vận tải qua hoặc quá cảnh qua biên giới quốc gia, mà nó là quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của các bên, mà theo đó là chủ quyền quốc gia, quyền tự do kinh doanh, quyền tự do đi lại của công dân. Do đó, thủ tục hải quan phải được xác lập, khẳng định bằng các văn bản của cơ quan quyền lực nhà nước và bảo hộ việc thực hiện bởi các quyền lực nhà nhà nước, chỉ có cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất mới là người thiết lập và đảm bảo thực hiện các thủ tục này.
Thứ ba: về kiểm tra, giám sát hải quan. Pháp chế XHCN đòi hỏi hoạt động giám sát hải quan phải được đặt dưới văn bản quy phạm pháp luật. Bởi vì, hoạt động kiểm tra, giám sát hải quan có liên quan, tác động đến các quyền nhân thân phi tài sản, quyền sở hữu động sản, các quyền tự do của con người gắn với hàng hoá, phương tiện vận tải trong quá trình đưa vào, đưa ra khỏi lãnh thổ hải quan địa bàn hoạt động, khu vực kiểm soát hải quan. Kiểm tra, giám sát hải quan vừa là chức năng, nhiệm vụ của cơ quan hải quan, vừa chính là quyền lực của Nhà nước trao cho cơ quan hải quan để thực thi chủ quyền quốc gia về hải quan. Chính vì vậy kiểm tra, giám sát hải quan phải được cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất xác lập và ghi nhận, bảo hộ giám sát bằng văn bản quy phạm pháp luật.
Thứ tư: về kểm soát hải quan. Pháp chế XHCN đòi hỏi các hoạt động kiểm soát hải quan phải được đặt dưới sự giám sát của các cơ quan quyền lực nhà nước bằng văn bản quy phạm pháp luật. Hoạt động kiểm soát hải quan được thực hiện thông qua các tổ chức của hải quan các cấp, các cơ quan khác của Nhà nước. Hoạt động kiểm soát hải quan được tiến hành thông qua việc áp dụng các nghiệp vụ công khai của hoạt động hải quan như kiểm tra, giám sát hải quan và các nghiệp vụ khác như tuần tra, trinh sát công khai, trinh sát bí mật, các hoạt động thu thập, phân tích thông tin hải quan, các hoạt động tình báo hải quan... Qua đó, có thể thấy, hoạt động kiểm soát hải quan sử dụng rất nhiều quyền lực nhà nước, tác động đến rất nhiều đối tượng khác nhau trong xã hội, ảnh hưởng đến rất nhiều quyền nhân thân, quyền tự do kinh doanh, quyền sở hữu động sản, bất động sản của cá nhân, tổ chức, không chỉ giới hạn trong phạm vi ranh giới hoạt động hải quan mà còn vượt cả ra ngoài ranh giới này.
Thứ năm: về hoạt động kiểm tra sau thông quan. ở hoạt động này, pháp chế XHCN đòi hỏi phải được đặt dưới sự kiểm tra, giám sát của các cơ quan quyền lực nhà nước, không chỉ dưới hình thức văn bản, mà còn ở dưới góc độ thực tiễn. Hoạt động kiểm tra sau thông quan là một bước tiến tiếp theo của thủ tục hải quan nhằm giảm bớt các hoạt động kiểm tra hải quan đối với hàng hoá, phương tiện đưa vào đưa ra khỏi ranh giới hải quan tạo điều kiện thuận lợi, nhanh chóng đưa hàng hoá, phương tiện kịp thời, lưu thông, phục vụ sản xuất, tiêu dùng với hiệu quả, chi phí giảm thiểu thấp nhất. Hoạt động kiểm tra sau thông quan đòi hỏi sự chấp hành, sự tuân thủ nghiêm túc tự giác của các bên trong mối quan hệ kiểm tra: một bên là cơ quan hải quan và một bên là các tổ chức, cá nhân sở hữu hoặc đại diện sở hữu hàng hoá, phương tiện đã tiến hành thủ tục hải quan. Cũng như một số hoạt động khác, kiểm tra sau thông quan liên quan, tác động đến rất nhiều quyền nhân thân, quyền tự do kinh doanh, quyền sở hữu bất động sản,... nên đòi hỏi hoạt động này phải được cơ quan quyền lực cao nhất thiết lập, ghi nhận và bảo hộ việc thực thi.
Thứ sáu: về hoạt động điều tra, phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới và các hành vi khác vi phạm pháp luật. Pháp chế XHCN đòi hỏi việc thực hiện các hoạt động này phải tuân thủ các văn bản quy phạm pháp luật quy định về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của cơ quan hải quan và các bên liên quan. Hoạt động điều tra, phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới là một hoạt động mang tính chất chuyên biệt của cơ quan hải quan nhằm phát hiện các hành vi gian lận thương mại, trốn thuế, buôn lậu hàng hoá hoặc vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới nhằm làm thất thu ngân sách nhà nước hoặc các hành vi khác vi phạm pháp luật như buôn lậu, vận chuyển trái phép qua biên giới: ma tuý, vũ khí, vật liệu nổ, chất phóng xạ, tài liệu phản động, di tích lịch sử, động vật hoang dã,... Cũng như những hoạt động khác, hoạt động này phải được xác nhận và bảo đảm thực hiện bằng các văn bản pháp luật của cơ quan quyền lực cao nhất.
Thứ bảy: về hoạt động thu, nộp thuế hàng hoá xuất nhập khẩu và các nghĩa vụ tài chính khác. Pháp chế XHCN đòi hỏi hoạt động này phải tuân thủ nghiêm minh các quy định của pháp luật về thuế đối với hàng hoá thuộc diện phải thu, nộp khi đưa vào hoặc đưa ra khỏi ranh giới hải quan. Hoạt động thu, nộp thuế hàng hoá xuất nhập khẩu liên quan đến thực thi quyền lực quốc gia đảm bảo cho quốc khố, thực hiện chủ quyền của quốc gia về các loại thuế gián thu đối với hàng hoá xuất nhập khẩu, nhằm điều tiết các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ... liên quan đến kinh tế đối ngoại không chỉ phạm vi ở một hoặc hai quốc gia mà có tính chất ảnh hưởng đến kinh tế toàn cầu. Chính vì vậy, hoạt động này phải được ghi nhận bằng văn bản pháp lý của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, phải được đảm bảo thực thi bằng toàn bộ hệ thống cơ quan thực thi quyền lực nhà nước. Thất thu thuế, giảm thu thuế tác động, ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh chủ quyền quốc gia, an ninh kinh tế, an ninh xã hội.
1.3.3. Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tổ chức và hoạt động hải quan có vai trò đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của quản lý hành chính trong lĩnh vực hải quan
Cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của quản lý hành chính nói chung lĩnh vực hải quan nói riêng là yêu cầu cấp thiết của quản lý nhà nước trong giai đoạn hiện nay. Cải cách hành chính đòi hỏi phải cải cách thể chế, cải cách bộ máy, cải cách tài chính đáp ứng các yêu cầu quản lý kinh tế đối ngoại. Chính vì vậy, tổ chức hải quan .Phải được cải cách- đổi mới đáp ứng phát triển ngày càng tăng của sản xuất, đầu tư, thương mại trên khắp ranh giới, lãnh thổ hải quan. Cơ cấu tổ chức phải được tái thiết kế, bố trí lại sao cho vừa đảm bảo nguyên tắc tổ chức và hoạt động tập trung, thống nhất, vừa đảm bảo đơn giản, gọn nhẹ.
Thủ tục hải quan phải đơn giản, minh bạch, công khai, các hoạt động kiểm tra, giám sát, kiểm soát phải giảm các biện pháp can thiệp trực tiếp, tăng cường các biện pháp gián tiếp để giảm phiền hà, tiêu cực, phát huy tính tích cực của mục tiêu lấy nhân dân, người tham gia các hoạt động xuất nhập khẩu, xuất nhập cảnh là đối tượng phục vụ. Đảm bảo các mục tiêu quản lý hải quan thu, nộp đúng chỉ tiêu ngân sách, giảm thất thoát, thiệt hại do các hoạt động tiêu cực, buôn lậu, gian lận thương mại gây ra. Cán bộ, công chức hải quan phải là những người được đào tạo, huấn luyện chuyên ._. các cấp. Tất cả các cơ quan nhà nước, công chức nhà nước, các tổ chức khác đồn trú tại địa phương đều chịu sự giám sát, kiểm tra của Hội đồng nhân dân các cấp. Sự giám sát, kiểm tra này thông qua báo cáo của cơ quan nhà nước trước các phiên họp của Hội đồng nhân dân các cấp hoặc thông qua các đại biểu Hội đồng nhân dân: trực tiếp hoặc tiếp nhận các khiếu kiện, tố cáo của tổ chức, công dân đối với các cơ quan nhà nước và gửi đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý hoặc giải quyết các khiếu kiện tố cáo này trong khuôn khổ pháp luật và thời hạn quy định phải trả lời.
- Ba là, kiểm tra, giám sát của các cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống chính trị. Hệ thống chính trị bao gồm các cơ quan tổ chức chính trị và các tổ chức chính trị- xã hội. Hiến pháp 1992, khẳng định quyền kiểm tra, giám sát tổ chức hoạt động của các tổ chức chính trị đối với tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, đảm bảo cho các cơ quan, cá nhân này tuân thủ Hiến pháp và pháp luật. Theo Điều 10 Hiến pháp: "mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Mặt trận phát huy truyền thống đoàn kết nhân dân, tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, cùng Nhà nước chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, động viên nhân dân thực hiện quyền làm chủ, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và pháp luật, giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, viên chức nhà nước". Là một bộ phận của bộ máy hành pháp, cơ quan Hải quan phải tuân thủ sự kiểm tra, giám sát của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội theo thẩm quyền quy định tại Điều lệ, hoặc Luật tổ chức và hoạt động của từng tổ chức, đảm bảo việc thực hiện pháp luật hải quan được đúng theo quy định. Cơ quan Hải quan các cấp trong nhiệm vụ, quyền hạn của mình tạo điều kiện để các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội thực thi quyền kiểm tra, giám sát của mình đúng thẩm quyền, đúng pháp luật, có hiệu quả.
- Bốn là, giám sát, kiểm tra của các phương tiện thông tin công cộng. Các phương tiện thông tin công cộng gồm các cơ quan báo chí, truyền hình, truyền thông đại chúng được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ các quy định của pháp luật về báo chí. Sự kiểm tra, giám sát của các phương tiện thông tin đại chúng như là một biện pháp tích cực, hữu hiệu giúp phát hiện những khuyết tật, yếu kém của các tổ chức và hoạt động của cơ quan nhà nước nói chung, tổ chức và hoạt động của cơ quan hải quan nói riêng trên phương diện chính sách, pháp luật và thực thi trên thực tiễn. Thông qua phản ánh của phương tiện thông tin đại chúng, Nhà nước, các cơ quan nhà nước nắm bắt được các nguồn thông tin đa dạng "dội ngược" lại từ các tổ chức, cá nhân chịu sự quản lý, tác động, điều chỉnh của các cơ quan nhà nước và pháp luật, để từ đó có biện pháp sửa đổi, chỉnh lý kịp thời, đáp ứng các yêu cầu của thực tiễn quản lý nhà nước đặt ra.
- Năm là, giám sát, kiểm tra của các công dân, doanh dân. Đây là chủ trương, chính sách lớn, một nhân tố tích cực và ưu việt nhất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam "nhà nước của dân, đo dân, vì dân". Công dân, doanh dân kiểm tra, giám sát các tổ chức và hoạt động của cơ quan nhà nước nói chúng, cơ quan hải quan nói riêng nhằm đảm bảo cho tổ chức và hoạt động của cơ quan nhà nước tuân thủ đúng Hiến pháp và pháp luật, phục vụ các quyền, lợi ích của công dân, doanh dân. Quyền giám sát, kiểm tra của công dân, doanh đần đối với tổ chức và hoạt động của cơ quan nhà nước đã được Hiến pháp khẳng định, thể hiện yếu tố dân chủ của Nhà nước trong nội dung luật pháp. Điều 53 Hiến pháp xác nhận: "Công dân có quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với cơ quan nhà nước, biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân". Quyền kiểm tra, giám sát của công dân đối với cơ quan nhà nước không chỉ dừng ở Hiến pháp mà nó đã được thể hiện cụ thể ở các văn bản luật pháp. Công dân, doanh dân giám sát, kiểm tra tổ chức và hoạt động của cơ quan nhà nước thông qua các đại biểu của mình là: đại biểu quốc hội. đại biểu hội đồng nhân dân các cấp; thông qua các tổ chức chính trị, chính trị xã hội mà người đó là thành viên. Mặt khác, công dân, doanh dân còn giám sát, kiểm tra tổ chức và hoạt động của cơ quan nhà nước bằng cách thực hiện các quyền khiếu kiện, tố cáo các hành vi trái của cán bộ, công chức, cơ quan nhà nước đến các cơ quan nhà nước, cơ quan tổ chức có thẩm quyền và yêu cầu các cơ quan nhà nước, tổ chức bênh vực bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
3.2.4. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra sự tuân thủ pháp luật về tổ chức và hoạt động của cơ quan hải quan
Trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa kinh tế, nhất là khi nước ta đã là thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới thì tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước phải được tái thiết kế cơ cấu tổ chức và hoạt động của cơ quan nhà nước đáp ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra. Trong điều kiện một đảng cầm quyền, quyền lực nhà nước tập trung ở cơ quan cao nhất là Quốc hội và phân chia thành: quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Trong đó, cơ quan hành pháp, là cơ quan thực thi tất cả các luật pháp đã được ban hành, do vậy, xu hướng lạm quyền, lộng quyền bộc lộ và phát triển mạnh mẽ. Là một bộ phận của cơ quan hành pháp của Chính phủ, cơ quan hải quan cũng không nằm ngoài xu hướng này. Do vậy, việc tăng cường thanh tra, kiểm tra sự tuân thủ pháp luật cả tổ chức và hoạt động của cơ quan nhà nước nói chung, cơ quan hải quan nói riêng là một biện pháp có tính chất khách quan nhằm phòng ngừa, ngăn chặn lạm quyền, lộng quyền và vi phạm pháp luật.
- Một là, tăng cường thanh tra, kiểm tra của Chính phủ. Đây là một trong những chủ trương, biện pháp hàng đầu của thanh tra, kiểm tra. Bởi vì, tổ chức và hoạt động của cơ quan hành pháp nói chung, cơ quan hải quan nói riêng đều nằm trong hệ thống tổ chức, bộ máy của Chính phủ, thực hiện các nhiệm vụ do Chính phủ giao. Các tổ chức và hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước được thiết lập trên cơ sở văn bản luật hoác các văn bản của Chính phủ. Thanh tra, kiểm tra của Chính phủ đảm bảo cho việc thiết lập các tổ chức và hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước đúng pháp luật. Trong đó, thanh tra, kiểm tra lại tính chính xác, yêu cầu về thực tiễn đặt ra của việc thiết lập, tổ chức các cơ quan, đơn vị hành chính có đảm bảo tiêu chí: "vì công việc mà thiết lập cơ quan tổ chức, chứ không vì người mà thiết lập, cơ quan tổ chức". Thông qua kết quả thanh tra, kiểm tra của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của cơ quan nhà nước có thể từ đó giúp Chính phủ xác định được cần phải cải cách bộ máy cho phù hợp yêu cầu quản lý thực tế, có hiệu quả: rút gọn đầu mối hoặc mở rộng đầu mối, quy mô hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước. Cũng trong công tác thanh tra kiểm tra của Chính phủ phát hiện được sự chồng chéo chức năng, không hiệu quả giữa cơ quan hải quan với các cơ quan nhà nước có liên quan; phát hiện, đánh giá được kết quả của sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước với cơ quan hải quan trong thực thi nhiệm vụ quản lý nhà nước lĩnh vực hải quan.
- Hai là, tăng cường thanh tra, kiểm tra chuyên ngành. Đây là biện pháp thanh tra, kiểm tra việc thực thi các nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của cơ quan hành chính nhà nước các cấp nói chung, đối với cơ quan hải quan nói riêng. Thông qua hoạt động kiểm tra, thanh tra chuyên ngành phát hiện được bất cập, sơ hở hoặc lạm dụng, vượt quyền của các đơn vị hải quan các cấp, phát hiện được những nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan hải quan không phù hợp với chức năng hoặc không còn phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, yêu cầu, mục tiêu quản lý nhà nước hải quan đặt ra trong điều kiện mới. Hoạt động kiểm tra, thanh tra chuyên ngành gắn liền với công tác thanh tra, kiểm tra bộ máy hải quan các cấp, chế độ tuyển dụng cán bộ, công chức, chế độ bổ nhiệm, miễn nhiệm, thôi việc, chế độ nâng lương, nâng ngạch, chuyển ngạch,...
- Ba là, tăng cường thanh tra, kiểm tra nghiệp vụ. Thanh tra, kiểm tra nghiệp vụ hải quan nhằm đảm bảo kiểm tra sự thi hành, tuân thủ các quy định pháp luật điều chỉnh đối với từng loại nghiệp vụ hải quan gắn với sự phân công, phụ trách từng lĩnh vực nghiệp vụ của từng đơn vị hải quan ở từng cấp hải quan. Thông qua công tác thanh tra, kiểm tra nghiệp vụ phát hiện được loại hình nghiệp vụ nào không được quan tâm, tuân thủ nghiêm minh, loại hình nghiệp vụ nào cần được phát triển, tăng cường, loại hình nghiệp vụ nào có thể phải thay đổi nội dung, biện pháp thi hành. Thanh tra, kiểm tra nghiệp vụ có tác dụng hỗ trợ, cung cấp tài liệu cho việc thay đổi các tiêu chuẩn thể chế điều chỉnh các hoạt động nghiệp vụ phù hợp với thực tế, yêu cầu quản lý đặt ra. Đồng thời, thanh tra, kiểm tra nghiệp vụ cũng có tác dụng cải cách lại cơ cấu, vị trí cán bộ, công chức trong các dây chuyền nghiệp vụ, rút ngắn được thời gian xử lý, giải quyết công việc, hiệu quả quản lý cao hơn.
- Bốn là, tăng cường thanh tra, kiểm tra công vụ. Điều này có nghĩa là tăng cường thanh tra, kiểm tra đối với việc thi hành pháp luật của cán bộ, công chức gắn với từng cấp hải quan. Thanh tra, kiểm tra công vụ gắn liền với việc thanh tra, kiểm tra mức độ hoàn thành công việc của công chức, sự bố trí cán bộ công chức có gắn đúng với chuyên môn nghiệp vụ được tuyển dụng, đào tạo hay bố trí không đúng dẫn đến sự lãng phí tài nguyên con người. Mặt khác, thanh tra, kiểm tra công vụ có vai trò phát hiện những tiêu cực, nhũng nhiễu nảy sinh để từ đó có biện pháp điều chỉnh, chấn chỉnh công tác quản lý cán bộ, công chức. Đồng thời qua công tác này, củng cố, tăng cường liêm chính trong ngành Hải quan ở các cấp, xây dựng lực lượng hải quan ngày càng trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, tính kỷ luật.
3.2.5. Nâng cao năng lực tổ chức và hoạt động của hải quan các cấp
- Một là, nâng cao năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của các cấp lãnh đạo. Năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của tổ chức và hoạt động của hải quan các cấp liên quan đến năng lực lãnh đạo của thủ trưởng đơn vị và năng lực của cán bộ, công chức làm công chức tham mưu, giúp việc lãnh đạo các cấp. Năng lực chỉ đạo, lãnh đạo của thủ trưởng đơn vị biểu thị ở năng lực tổ chức, sử dụng tốt nguồn nhân lực (cán bộ, công chức), phân công đúng người, đúng việc, biết động viên mọi người làm việc có hiệu quả. Có thể nói năng lực lãnh đạo, chỉ đạo điều hành của thủ trưởng đơn vị là "chìa khóa của mọi thành công", đánh giá về vai trò lãnh đạo của cán bộ trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định "Có cán bộ tốt, việc gì cũng xong. Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém". Kết quả của năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của các cấp lãnh đạo hải quan do nhiều yếu tố hợp thành: năng lực nghiên cứu thực tế và khả năng phát hiện những vấn đề phải giải quyết, lập trường và phương pháp giải quyết bất đồng trong tập thể; việc ra quyết định chính xác, kịp thời; khả năng đánh giá kết quả trên cơ sở biết phân tích và phê phán. Như vậy, có thể nói: năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của các cấp lãnh đạo hải quan chính là năng lực tổ chức thực hiện và đưa pháp luật hải quan vào cuộc sống thông qua vận hành bộ máy, đội ngũ cán bộ, công chức thừa hành ở các cấp hải quan.
- Hai là, nâng cao năng lực xây dựng hệ thống thể chế hành chính, nghiệp vụ. Đây là một trong những yếu tố đảm bảo thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của ngành Hải quan. Mục tiêu của chương trình tổng thể cải các hành chính Nhà nước đến 2010 khẳng định: "hoàn thiện hệ thống thể chế hành chính, cơ chế, chính sách phù hợp với thời kỳ công nghiệp hóa. hiện đại hóa đất nước, trước hết là các thể chế về kinh tế, về tổ chức và hoạt động của hệ thống hành chính". Vì vậy biện pháp nhằm nâng cao năng lực xây dựng hệ thống thể chế hành chính, nghiệp vụ là một nhân tố có tính chất khách quan, thiết yếu của nền hành chính hiện đại. Đảm bảo cho việc vận hành của hệ thống tổ chức hải quan hiện đại, thông suốt đòi hỏi phải có một hệ thống các thể chế hành chính, để làm khung, hành lang cho việc quản lý, chỉ đạo, điều hành các hoạt động hải quan đúng pháp luật, đúng các mục tiêu mà quản lý hải quan đặt ra.
- Ba là, nâng cao kỹ năng hành chính. Kỹ năng hành chính hải quan bao gồm các hoạt động tiếp nhận, xử lý văn bản hành chính; soạn thảo, ban hành. truyền đạt, lưu giữ các văn bản hành chính. Nâng cao năng lực hành chính điều này có nghĩa là nâng cao chất lượng hiệu quả, hiệu lực của các hoạt động tiếp nhận, xử lý văn bản hành chính; soạn thảo, ban hành, truyền đạt, lưu giữ các văn bản hành chính. Hoạt động thực hiện các kỹ năng hành chính phải chính xác, kịp thời góp phần vào việc thực thi thành công nhiệm vụ của các cấp hải quan, trong đó, chuyển giao kịp thời các thông tin, mệnh lệnh, chỉ đạo của cấp trên xuống cấp dưới, cấp dưới báo cáo, thỉnh thị kịp thời ý kiến chỉ đạo của cấp trên nhằm xử lý nhanh chóng, chính xác các công việc phát sinh. Cũng chính từ việc nâng cao kỹ năng hành chính, sẽ góp phần giải quyết, đáp ứng nhanh chóng, hiệu quả các yêu cầu của công dân, doanh dân trong các hoạt động hải quan.
- Bốn là, nâng cao năng lực văn hóa của hệ thống tổ chức hải quan. Văn hóa của tổ chức gồm hệ thống những giá trị, niềm tin, sự mong đợi của các thành viên trong tổ chức tác động qua lại với các cơ cấu chính thức và tạo nên những chuẩn mực hành động như những giả định không bị chất vấn về truyền thống và cách thức làm việc của tổ chức mà mọi người trong đó đều tuân theo khi làm việc. Văn hóa tổ chức ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của tổ chức, đến phương thức tồn tại và phát triển của tổ chức. Những khía cạnh quan trọng của văn hóa tổ chức phải kể đến là quan hệ giữa cán bộ, công chức trong công việc, các chuẩn mực xử sự, nghi thức tiếp xúc hành chính, phương thức giải quyết các bất đồng trong cơ quan, đơn vị, cách lãnh đạo, điều hành và ý thức chấp hành kỷ luật trong và ngoài cơ quan, đơn vị của cán bộ, công chức,... Chính vì vậy, nâng cao năng lực văn hóa trong hệ thống tổ chức hải quan vừa là biện pháp yêu cầu trước mắt, vừa là biện pháp, yêu cầu lâu dài, thường xuyên.
- Năm là, nâng cao năng lực thực thi công vụ của cán bộ, công chức hải quan. Nói đến năng lực thực thi công vụ của cán bộ, công chức là nói đến việc triển khai các nhiệm vụ quy định của pháp luật, các mệnh lệnh của cấp lãnh đạo vào trong công việc và hoàn thành tốt nhiệm vụ, chức trách được giao. Nâng cao năng lực thi hành công vụ của cán bộ, công chức điều đó có nghĩa là nâng cao năng lực thực hiện chức năng quản lý nhà nước, thi hành luật pháp, sử dụng hiệu quả các nguồn lực công (công sản, ngân sách) nhằm đáp ứng mục tiêu của Nhà nước đã đề ra trong giai đoạn phát triển. Như vậy, có thể nói rằng, công vụ luôn dùng để chỉ các hoạt động cụ thể thực thi quyền lực quản lý hành chính nhà nước. Nâng cao năng lực thi hành công vụ đòi hỏi phải nâng cao năng lực thực thi quyền lực quản lý hành chính nhà nước thông qua đội ngũ cán bộ, công chức đã được bổ nhiệm vào các chức vụ, chức danh, ngạch bậc nhất định trong hệ thống tổ chức hải quan, đảm bảo thi hành có hiệu quả pháp luật, phục vụ lợi ích của Nhà nước, công dân và doanh dân.
3.2.6. Đẩy mạnh hoạt động luyên truyền, phổ biến, giáo dục, nâng cao trình độ văn hóa, năng lực áp dụng pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức hải quan
- Một là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật. Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, giáo dục cho đội ngũ cán bộ, công chức hải quan các cấp phải được xác định là một nhiệm vụ thường xuyên, liên tục từ đó góp phần quan trọng vào việc nâng cao ý thức pháp luật, thực hiện đúng pháp luật của đội ngũ cán bộ, công chức. Tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật phải gắn với việc tuyên truyền, giáo dục đạo đức cho đội ngũ cán bộ, công chức. Bởi vì, pháp luật là cơ sở hình thành nên đạo đức xã hội, đạo đức cán bộ, công chức, đồng thời, đạo đức làm nền tảng cho việc tuân thủ và thực hiện pháp luật. Đạo đức xã hội nói chung, đạo đức của cán bộ, công chức hải quan phải được giáo dục, rèn luyện tạo thành kỷ luật tự giác, ý thức trách nhiệm trong mỗi hành động của từng cán bộ, công chức tuy nhiên, để đạt được điều này thì phải xuất phát từ sự tuân thủ, chấp hành pháp luật nghiêm minh, để từ đó tạo thành thói quen, tập quán pháp luật trong mỗi cán bộ, công chức.
- Hai là, nâng cao trình độ, năng lực áp dụng pháp luật. Muốn pháp luật được đi vào đời sống, điều chỉnh các quan hệ pháp luật thì phải thông qua nhiều biện pháp khác nhau, trong đó có biện pháp áp dụng pháp luật. Để áp dụng pháp luật, đưa pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội thì phải thông qua các hành vi pháp lý của cán bộ, công chức. Điều này có nghĩa là, pháp luật đã được biến đổi từ "vật chủ" là giấy, dữ liệu điện tử chuyển sang vật chủ mới là "con người". Năng lực áp dụng pháp luật yêu cầu phải áp dụng đúng quy phạm pháp luật hải quan chính xác với từng loại quan hệ hải quan. Trình độ, năng lực áp dụng pháp luật của cán bộ, công chức hải quan được biểu thị qua việc thuần thục thao tác, hiểu rõ các nội dung loại quy phạm, vận hành các quy phạm này để xử lý các quan hệ xuất nhập khẩu, xuất nhập cảnh, thuế,... đạt được mục tiêu quản lý nhà nước.
- Ba là, nâng cao trình độ văn hóa, ngoại ngữ, công nghệ thông tin. Để nâng cao trình độ pháp luật thì đòi hỏi phải nâng cao trình độ văn hóa, ngoại ngữ, công nghệ thông tin. Bởi vì, văn hóa là nền tảng, là khung cho sự phát triển trình độ, năng lực pháp luật. Muốn nâng cao trình độ pháp luật thì phải có một trình độ văn hóa nhất định, từ đó mới có thể hiểu và tiếp thu, học tập và sử dụng được pháp luật. Đồng thời, trong bối cảnh ngày nay, năng lực pháp luật luôn luôn gắn với năng lực ngoại ngữ và công nghệ thông tin. Có năng lực ngoại ngữ tốt thì mới có khả năng nghiên cứu, học tập các kinh nghiệm luật pháp của nước ngoài để làm giàu kinh nghiệm pháp luật cho bản thân từng cá nhân. Bên cạnh đó công nghệ thôn tin hỗ trợ, giúp sức cho phát triển năng lực pháp luật, bởi vì, thông qua mạng thông tin điện tử toàn cầu (mạng Internet), các dữ liệu điện tử pháp luật, các thông tin về áp dụng, sử dụng pháp luật được đăng tải rộng rãi. Trình độ, năng lực công nghệ thông tin tốt, giúp cho việc chủ động khai thác sử dụng các dữ liệu pháp luật, tự học tập, nâng cao trình độ pháp luật qua mạng điện tử toàn cầu.
- Bốn là, tăng cường giáo dục đạo đức cá nhân, đạo đức nghề nghiệp. Giáo dục đạo đức cá nhân đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ cán bộ, công chức là một yếu tố quan trọng góp phần vào việc hình hành pháp chế trong tổ chức và hoạt động của hải quan. Nếu pháp luật được coi là những mực thước, kẻ chỉ cứng nhắc, là bộ khung cho việc điều chỉnh các quan hệ xã hội, bắt buộc thực hiện bằng các biện pháp kể cả cưỡng chế thì đạo đức là những quan hệ mềm dẻo, điều chỉnh bằng những quan niệm về tốt, xấu, bằng dư luận xã hội. Có thể thấy ràng, một người có đạo đức cá nhân tốt, thường là những người chấp hành tốt pháp luật. Thực tiễn cho thấy, một cán bộ công chức hải quan có đạo đức tốt thì đồng thời cũng là người có đạo đức nghề nghiệp tốt, chấp hành tốt kỷ luật lao động, kỷ luật công vụ. Điều này cho thấy, tính chất của quan hệ pháp chế hải quan của mỗi cán bộ, công chức gắn chặt với quan hệ đạo đức cá nhân, quan hệ đạo đức nghề nghiệp. Do vậy, tăng cường giáo dục thường xuyên đạo đức cá nhân, đạo đức nghề nghiệp cho cán bộ, công chức hải quan là một trong những yếu tố quan trọng của công tác pháp chế trong tổ chức và hoạt động hải quan.
Kết luận
Tổ chức và hoạt động của Hải quan Việt Nam trong điều kiện mở cửa, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế quốc tế, một mặt phải đảm bảo hoạt động quản lý hải quan tạo thuận lợi, thông thoáng, tạo điều kiện cho phát triển thương mại, đầu tư, du lịch, nhưng phải đảm bảo được mục tiêu giữ gìn an ninh chính trị, an ninh quốc gia, an ninh kinh tế, trật tự an toàn xã hội. Để đảm bảo được các mục tiêu này, ngoài yếu tố tăng cường xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, đảm bảo một hành lang pháp lý rõ ràng, minh bạch, phù hợp với thực tiễn, phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế, đồng thời phải đảm bảo pháp luật được thực hiện nghiêm minh. Điều này chỉ có thể thực hiện và bảo đảm thực hiện được khi và chỉ khi pháp chế XHCN trong tổ chức và hoạt động của Hải quan Việt Nam được coi trọng và phát huy đầy đủ vai trò của nó.
Trong những năm qua, việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật từng bước được coi trọng, cũng như vai trò của pháp chế trong tổ chức và hoạt động của Hải quan từng bước được phát huy, đảm bảo hoàn thành được mục tiêu quản lý hải quan mà Đảng, Nhà nước giao cho Hải quan Việt Nam. Song do tác động của các nguyên nhân chủ quan và khách quan, pháp chế trong tổ chức và hoạt động Hải quan Việt Nam giai đoạn vừa qua vẫn tồn tại không ít yếu kém, khiếm khuyết, chưa thực sự đảm đương được vai trò của nó trong việc đảm bảo cho pháp luật hải quan được tuân thủ và chấp hành nghiêm chỉnh, dẫn đến sự vi phạm pháp luật hải quan có lúc, có nơi, trên một số địa bàn còn diễn ra nghiêm trọng, chưa kiểm soát được tình trạng tham nhũng, tiêu cực, buôn lậu, gian lận, trốn thuế... Vì vậy, để đảm bảo được yêu cầu đối với vai trò của pháp chế trong tổ chức và hoạt động của Hải quan Việt Nam giai đoạn hiện nay cần phải được tiến hành ở các phương diện chủ yếu:
- Đẩy mạnh xây dựng pháp luật về hệ thống tổ chức và hoạt động của Hải quan Việt Nam đáp ứng yêu cầu quản lý hải quan hiện đại, phù hợp với yêu cầu thực tiễn của hội nhập kinh tế trong điều kiện mới. Phát hiện những bất cập, khiếm khuyết của pháp luật, cơ chế đảm bảo thực hiện pháp luật để kiến nghị cấp có thẩm quyền hoàn thiện, xử lý kịp thời.
- Tăng cường rà soát, kiểm tra việc xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật hải quan; thanh tra, kiểm tra thực hiện, chấp hành pháp luật và thi hành công vụ của cán bộ, công chức hải quan; kiểm tra, thanh tra hoạt động xuất nhập khẩu của tổ chức, cá nhân; đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho mọi đối tượng ở đa dạng hình thức.
- Xử lý nghiêm minh, kịp thời vi phạm pháp luật hải quan không phân biệt đối tượng vi phạm, hoàn cảnh vi phạm.
Danh mục tài liệu tham khảo
Vũ Ngọc Anh (1996), Đổi mới và hoàn thiện pháp luật về hải quan ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Ann Seidman - Robert B.Seidman - Nalin Abeyeseskere (2003), Soạn thảo luật pháp vì tiến bộ xã hội dân chủ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
G.B. Atamanchúc (2004), Lý thuyết quản lý nhà nước, Nxb Omega, Mátxcơva, tiếng Nga.
Ban Cán sự Đảng - Tổng cục Hải quan (1996), Nghị quyết số 93/NQ-BCS về tăng cường công tác chính trị, tư tưởng, củng cố tổ chức, xây dựng đội ngũ cán bộ hải quan trong sạch vững mạnh, ngày 14-12, Hà Nội.
Ban Cán sự Đảng và Lãnh đạo Tổng cục Hải quan (1999), Nghị quyết liên tịch số 101/NQ/BCS-TCHQ về xử lý đối với công chức hải quan khi có khuyết điểm hoặc dấu hiệu sai phạm.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2005), Nghị quyết của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, ngày 24-5, Hà Nội.
Lê Thanh Bình (1998), Chống buôn lậu và gian lận thương mại, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Bộ Tài chính (2004), Về kế hoạch cải cách, phát triển và hiện đại hoá ngành hải quan giai đoạn 2004-2006, Quyết định số 810/QĐ-BTC của Bộ trưởng Tài chính, ngày 16-3, Hà Nội.
Chester Bamard, Các học thuyết quản lý.
Chính phủ (2000), Tờ trình về Dự án Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính (sửa đổi) (số 980/CP-PC), ngày 27-10, Hà Nội.
Chính phủ (2001), Tờ trình Quốc hội số 428/PC về Dự án Luật Hải quan, ngày 21-5, Hà Nội.
PGS.TS Nguyễn Đăng Dung (2002), Hiến pháp và bộ máy nhà nước, Nxb Giao thông vận tải, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
TS. Nguyễn Minh Đoan (2002), Hiệu quả pháp luật - Những vấn đề lý luận và thực tiễn (tái bản có sửa chữa, bổ sung), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Nguyễn Viết Hồng (2003), "Buôn lậu và gian lận thương mại ở Việt Nam: Thực tiễn và giải pháp", Tạp chí Thương mại, (3+4+5), tr.74-75.
Nguyễn Trọng Hùng (2002), "Ngành Hải quan đang và sẽ làm gì để giảm tối đa phiền hà cho các doanh nghiệp?", Tạp chí Thương mại, (15), tr.21-22.
Josef Thesing (2002), Nhà nước pháp quyền, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Nguyễn Phan Khiêm (2002), "Những kiến giải xử lý tội phạm trong lĩnh vực hoàn thuế", Tạp chí Pháp lý, (7), tr.27-28.
Nguyễn Đức Kiên (2002), "Ngành Hải quan gắn công tác xây dựng Đảng bộ trong sạch, vững mạnh với chống quan liêu, tham nhũng", Tạp chí Kiểm tra, (3), tr.21-29.
Khoa Nhà nước pháp luật (2004), Tài liệu học tập và nghiên cứu môn lý luận chung về nhà nước pháp luật, tập 1, Hà Nội.
V.N.Kyđriaxép (1998), Pháp chế: nội dung và trạng thái hiện nay "pháp chế ở Liên bang Nga", Nxb Iurixt, Matxcơva, tiếng Nga.
V.I.Lênin (1970), Bàn về pháp chế xã hội chủ nghĩa, Nxb Sự thật, Hà Nội.
V.I.Lênin (1977), Về pháp chế xã hội chủ nghĩa, Nxb Sự thật, Hà Nội.
V.I.Lênin (1981), Toàn tập, tập 30, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, J.Stalin (1968), Về vấn đề cán bộ, Nxb Sự thật, Hà Nội.
C.Mác - Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Mark Harrison - Giám đốc Trungtâm nghiên cứu Thuế và Hải quan, Trường Đại học Canberra - Australia (3/2005), Báo cáo về Luật Hải quan và các văn bản pháp lý liên quan, Khoá đào tạo quản lý pháp luật hải quan, Dự án hỗ trợ kỹ thuật chuẩn bị dự án hiện đại hoá hải quan, Hà Nội.
TS. Đinh Văn Mậu - TS. Phạm Hồng Hải (2002), Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, (tái bản lần thứ ba), Nxb Tổng hợp Đồng Nai.
Pháp lệnh cán bộ công chức (được sửa đổi, bổ sung năm 2003), Nxb Thống kê, Hà Nội.
Pháp lệnh Hải quan (1990), Nxb Pháp lý, Hà Nội.
Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992), Hiến pháp 1992, Hà Nội.
Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1999), Bộ luật hình sự, Hà Nội.
Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2001), Luật Hải quan, ngày 29-6.
Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2001), Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp 1992, Hà Nội.
Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2004), Bộ luật tố tụng hình sự, Hà Nội.
Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Hải quan, ngày 14-6.
PGS.TS Lê Minh Tâm (2000), "Pháp luật - yếu tố quan trọng bảo đảm tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững", Tạp chí Luật học, Hà Nội, (3).
Thủ tướng Chính phủ (2000), Chỉ thị số 22/2001/CT-TTg về chiến lược phát triển xuất - nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ thời kỳ 2001-2010, ngày 27-10, Hà Nội.
Tổ chức Hải quan Thế giới (WCO), Công ước Kyoto về đơn giản hoá và hài hoà thủ tục hải quan (sửa đổi, bổ sung năm 1999).
Tổng cục Hải quan (1997), Báo cáo tổng kết tình hình thực hiện nhiệm vụ năm 1996 và bàn biện pháp triển khai nhiệm vụ năm 1997 (số 182/TCHQ-VP), ngày 14-11, Hà Nội.
Tổng cục Hải quan (1997), Thông quan nhanh chóng, quản lý chặt chẽ hàng hoá xuất nhập khẩu, In tại Công ty in Nam Hải, Hà Nội.
Tổng cục Hải quan (1998), Báo cáo kiểm điểm tình hình thực hiện nhiệm vụ năm 1997 và chương trình công tác năm 1998 (số 55/TCHQ-VP), ngày 07-1, Hà Nội.
Tổng cục Hải quan (1999), Báo cáo kiểm điểm tình hình thực hiện nhiệm vụ năm 1998 và chương trình công tác năm 1999 (số 378/TCHQ-VP), ngày 20-1, Hà Nội.
Tổng cục hải quan (2000), Báo cáo số 5898/TCHQ-VP về Kế hoạch phát triển ngành Hải quan 2001-2005, ngày 20-12, Hà Nội.
Tổng cục Hải quan (2001), Báo cáo số 5597/TCHQ-TCCB về thực trạng đội ngũ cán bộ công chức Hải quan và phương hướng củng cố, xây dựng đội ngũ công chức ngành Hải quan giai đoạn 2001-2005, ngày 12-12, Hà Nội.
Tổng cục Hải quan (2003), Báo cáo đánh giá tình hình thu thuế, nợ đọng thuế và việc triển khai áp dụng giá tính thuế theo Hiệp định trị giá GATT, ngày 05-9, Hà Nội.
Tổng cục Hải quan (2003), Báo cáo kết quả thanh tra, kiểm tra công tác tổ chức cán bộ từ năm 1998 đến 6 tháng đầu năm 2003 của ngành Hải quan, ngày 13-8, Hà Nội.
Tổng cục Hải quan (2003), Báo cáo sơ kết 05 năm thực hiện Nghị quyết 09/1998/NQ-CP và chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm của ngành Hải quan, ngày 02-7, Hà Nội.
Tổng cục Hải quan (2003), Báo cáo về nội dung triển khai chủ trương định hướng của ngành Hải quan về tăng cường công tác chống buôn lậu và kiểm tra sau thông quan của lực lượng hải quan, ngày 09-9, Hà Nội.
Đỗ Quang Trung (2003), "Tiếp tục đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của tổ chức, bộ máy hành chính nhà nước theo Nghị quyết Đại hội IX của Đảng", Tạp chí Tổ chức Nhà nước, (8).
Trường Đại học Luật Hà Nội (2002), Giáo trình Luật hành chính, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
GS.TSKH Đào Trí úc (1997), Nhà nước và pháp luật trong sự nghiệp đổi mới, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Cao văn Uy (2003), "Trách nhiệm của người đứng đầu", Tạp chí Tổ chức Nhà nước, (12).
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (1989), Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự, Hà Nội.
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (2004), Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự, Hà Nội.
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (2002), Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, Hà Nội.
Văn phòng Chính phủ (2002), Thông báo số 181/TB-VPCP về kết luận cảu Phó Thủ tướng Vũ Khoan tại Hội nghị chống buôn lậu, gian lậu thương mại và thúc đẩy buôn bán biên giới, ngày 26-11, Hà Nội.
PGS.TS Nguyễn Cửu Việt (chủ biên) (2001), Giáo trình lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
PGS.TS Võ Khánh Vinh (2003), Lợi ích xã hội và pháp luật, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
TS. Nguyễn Xuân Yêm - PGS.TS Nguyễn Hoà Bình (chủ biên) (2003), Tội phạm kinh tế thời mở cửa, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
Nguyễn Như ý (chủ biên) (1999), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà Nội.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA2433.doc