MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Nhật Bản và Việt Nam cùng là các quốc gia nằm trong khu vực Châu á, có sự gần gũi nhau về mặt địa lý và nhiều điểm tương đồng về lịch sử, văn hóa, phong tục tập quán vì vậy Nhật Bản và Việt Nam đã thiết lập mối quan hệ ngoại giao từ vài thập kỷ nay. Sự trợ giúp nhiều mặt của Nhật Bản cho Việt Nam, đặc biệt là Viện trợ phát triển chính thức (ODA) đã đóng góp một phần hết sức quan trọng để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa ở nước ta và mối quan hệ Nhật Bản- Việt Nam trở nên
44 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1651 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Vai trò của ODA Nhật Bản với nền kinh tế Việt Nam. Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
gắn kết chặt chẽ như hiện nay là nhờ một phần không nhỏ của nguồn ODA từ Nhật Bản. Hiện nay Nhật Bản không chỉ là một trong những nhà tài trợ ODA lớn nhất cho Việt Nam , mà còn là bạn hàng thương mại và nhà đầu tư lớn vào Việt Nam. Nhật Bản trong nhiều năm qua luôn giữ vị trí hàng đầu về cả số vốn cam kết và lượng ODA được giải ngân. ODA nói chung và ODA Nhật Bản nói riêng đã phát huy tốt vai trò của mình trong trong quá trình xây dựng và phát triển các quốc gia Đông Nam á trong những thập niên cuối cùng của thế kỷ XX.
Đề tài tập trung phân tích chính sách, thực trạng và những thành tựu đạt được từ việc sử dụng nguồn ODA Nhật Bản và tình hình ODA của Nhật Bản tại Việt Nam .Từ đó rút ra những bài học trong việc thu hút- sử dụng ODA của Nhật Bản. Đồng thời dự báo hoạt động ODA của Nhật Bản cho Việt Nam và sau cùng là đưa ra một số giải pháp đối với Việt Nam để tăng cường thu hút và sử dụng ODA của Nhật Bản sao cho đạt hiệu quả cao nhất.
Bố cục của đề tài gồm 3 chương:
Chương I: Khái quát về hỗ trợ phát triển chính thức của Nhật Bản
Chương II: Vai trò của ODA Nhật Bản với nền kinh tế Việt Nam
ChươngIII: Một số giải pháp nhằm thu hút và sử dụng ODA của Nhật Bản ở Việt Nam
NỘI DUNG
Chương I : Khái quát về hỗ trợ phát triển chính thức của Nhật Bản
I. Khái quát về hỗ trợ phát triển chính thức
1.Khái niệm
Hỗ trợ phát triển chính thức (tiếng Anh là: Official Development Agency được gọi tắt là ODA).
Theo tổ chức Hợp tác kinh tế và phát triển (OECD) định nghĩa :ODA là các nguồn hỗ trợ do các tổ chức Chính Phủ, bao gồm chính quyền địa Phương, hoặc do các cơ quan thực thi của các tổ chức này hoặc do các tổ chức đa phương cung cấp cho các nước đang phát triển hoặc các tổ chức đa phương với các tiêu chí như sau:
-Được thực hiện với mục tiêu chính là khuyến khích phát triển kinh tế và phúc lợi xã hội tại các nước đang phát triển
-ODA có đặc tính ưu đãi và yếu tố không hoàn lại từ 25% trở lên
2.Đặc điểm
ODA có 3 đặc điểm chủ yếu như sau:
ODA là khoản viện trợ từ một Chính Phủ hoặc một tổ chức quốc tế cung cấp cho một Chính Phủ hoặc một tổ chức đa phương khác.
ODA chỉ được sử dụng vào các chương trình dự án không sinh lời (hoặc thu hồi vốn chậm) nhằm hỗ trợ phát triển kinh tế xã hội tại các nước đang phát triểnvới đối tượng hưởng lợi là các cộng đồng dân cư tại các nước này
ODA là khoản hỗ trợ ưu đãi cho các nước tiếp nhận: Dưới hình thức viện trợ không hoàn lại hoặc tín dụng ưu đãi với các yếu tố không hoàn lại từ 25% trở lên
3.Vai trò của ODA.
3.1.Đối với nước cung cấp ODA.
Nước cung cấp luôn mong muốn rằng nguồn ODA của mình sẽ phát huy hết hiệu quả vào việc phát triển kinh tế và phúc lợi xã hội ở các nước đang phát triển, thu hẹp khoảng cách Bắc-Nam. Bên cạnh đó thì họ cũng thể hiện một mục tiêu không kém phần quan trọng đó là thông qua hoạt động cung cấp ODA của họ sẽ mang lại những lợi ích lâu dài cho chính nền kinh tế, chính trị của nước đó trong việc mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa, tạo một lượng việc làm khá lớn cho các công ty trong nước, gây ảnh hưởng đối với nền kinh tế nước nhận ODA, xây dựng được vị thế của mình trên trường quốc tế...Nói tóm lại cung cấp ODA chính là một công cụ sắc bén để góp phần tạo nên sự ổn định về kinh tế và chính trị của nước mình.
3.2.Đối với nước nhận ODA.
Từ trước đến nay chúng ta thấy rằng hầu hết các nước được nhận ODA là các quốc gia đang phát triển, trình độ khoa học kỹ thuật còn thấp, ngân sách gặp khó khăn, văn hoá xã hội phát triển không đồng đều, kinh nghiệm và kiến thức quản lý kinh tế xã hội còn hạn chế...Một đất nước đang trong hoàn cảnh như vậy thì ODA đóng vai trò rất lớn trong việc giải quyết những vấn đề khó khăn trên. ODA góp phần phát triển cơ sở hạ tầng, thúc đẩy kinh tế, phát triển nguồn nhân lực, cải thiện mức sống của người dân ở nước tiếp nhận, cải thiện và chống ô nhiễm môi trường. Như vậy đối với những nước đang phát triển ODA góp một phần quan trọng trong chiến lược xây dựng và phát triển đất nước.
4.Ưu nhược điểm của ODA
4.1. Ưu điểm của ODA
Lãi suất thấp (dưới 2%, trung bình từ 0.25%năm)
Thời gian cho vay cũng như thời gian ân hạn dài (25-40 năm mới phải hoàn trả và thời gian ân hạn 8-10 năm)
Trong nguồn vốn ODA luôn có một phần viện trợ không hoàn lại, thấp nhất là 25% của tổng số vốn ODA.
4.2. Bất lợi khi nhận ODA
Các nước giàu khi viện trợ ODA đều gắn với những lợi ích và chiến lược như mở rộng thị trường, mở rộng hợp tác có lợi cho họ, đảm bảo mục tiêu về an ninh - quốc phòng hoặc theo đuổi mục tiêu chính trị... Vì vậy, họ đều có chính sách riêng hướng vào một số lĩnh vực mà họ quan tâm hay họ có lợi thế (những mục tiêu ưu tiên này thay đổi cùng với tình hình phát triển kinh tế - chính trị - xã hội trong nước, khu vực và trên thế giới)
Về kinh tế, nước tiếp nhận ODA phải chấp nhận dỡ bỏ dần hàng rào thuế quan bảo hộ các ngành công nghiệp non trẻ và bảng thuế xuất nhập khẩu hàng hoá của nước tài trợ. Nước tiếp nhận ODA cũng được yêu cầu từng bước mở cửa thị trường bảo hộ cho những danh mục hàng hoá mới của nước tài trợ; yêu cầu có những ưu đãi đối với các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài như cho phép họ đầu tư vào những lĩnh vực hạn chế, có khả năng sinh lời cao
Nguồn vốn ODA từ các nước giàu cung cấp cho các nước nghèo cũng thường gắn với việc mua các sản phẩm từ các nước này mà không hoàn toàn phù hợp, thậm chí là không cần thiết đối với các nước nghèo. Ví như các dự án ODA trong lĩnh vực đào tạo, lập dự án và tư vấn kỹ thuật, phần trả cho các chuyên gia nước ngoài thường chiếm đến hơn 90% (bên nước tài trợ ODA thường yêu cầu trả lương cho các chuyên gia, cố vấn dự án của họ quá cao so với chi phí thực tế cần thuê chuyên gia như vậy trên thị trường lao động thế giới).
Nguồn vốn viện trợ ODA còn được gắn với các điều khoản mậu dịch đặc biệt nhập khẩu tối đa các sản phẩm của họ. Cụ thể là nước cấp ODA buộc nước tiếp nhận ODA phải chấp nhận một khoản ODA là hàng hoá, dịch vụ do họ sản xuất.
Nước tiếp nhận ODA tuy có toàn quyền quản lý sử dụng ODA nhưng thông thường, các danh mục dự án ODA cũng phải có sự thoả thuận, đồng ý của nước viện trợ, dù không trực tiếp điều hành dự án nhưng họ có thể tham gia gián tiếp dưới hình thức nhà thầu hoặc hỗ trợ chuyên gia.
Tác động của yếu tố tỷ giá hối đoái có thể làm cho giá trị vốn ODA phải hoàn lại tăng lên.
Ngoài ra, tình trạng thất thoát, lãng phí; xây dựng chiến lược, quy hoạch thu hút và sử dụng vốn ODA vào các lĩnh vực chưa hợp lý; trình độ quản lý thấp, thiếu kinh nghiệm trong quá trình tiếp nhận cũng như xử lý, điều hành dự án… khiến cho hiệu quả và chất lượng các công trình đầu tư bằng nguồn vốn này còn thấp... có thể đẩy nước tiếp nhận ODA vào tình trạng nợ nần.
II.ODA Nhật Bản.
1. Vài nét khái quát về ODA Nhật Bản
Nhật Bản là một quốc gia nằm ở Đông Bắc á, có diện tích khoảng 377.810 km2, dân số 125.700.000 người. Với điều kiện tự nhiên không mấy thuận lợi, tài nguyên thiên nhiên nghèo nàn, hầu hết lượng tài nguyên khoáng sản sử dụng trong các nghành công nghiệp phải nhập khẩu từ nước ngoài, thêm vào đó nền kinh tế bị tàn phá nặng nề sau Chiến Tranh thế giới II, nhưng bất chấp những điều kiện hạn chế này Nhật Bản đã không những có thể xây dựng lại nền kinh tế của mình mà còn trở thành một trong những quốc gia công nghiệp hàng đầu trong hệ thống các nước tư bản. Hiện nay Nhật Bản là một trong 3 trung tâm kinh tế- tài chính lớn nhất thế giới. Tổng sản phẩm quốc dân (GNP) của Nhật năm 2001 đạt 4800 tỷ USD, chiếm 19,1% GNP toàn thế giới, bằng khoảng 70% GNP của Đông á và gấp 10 lần GNP của các nước ASEan. GNP tính theo đầu người đạt khoảng 39000 USD.
Sau chiến tranh nền kinh tế Nhật bản hồi phục một cách nhanh chóng, tốc độ phát triển kinh tế hai con số, từ cuối những năm 60 đến đầu 1970 Nhật Bản đã dẫn đầu các nước tư bản chủ nghĩa về các ngành công nghiệp như là: Điện tử dân dụng, đóng tầu, luyện thép, chế tạo ô tô, chất bán dẫn, người máy vv....Tiếp theo đó Nhật Bản còn tiếp tục đẩy mạnh phát triển các nghành có hàm lượng công nghệ cao như: Công nghệ sinh học, điện tử công nghiệp, gốm cao cấp, nghiên cứu đại dương vv...Nhờ sự gia tăng nhanh chóng của tổng sản phẩm kinh tế quốc dân đến đầu thập kỷ 80 Nhật Bản đã đứng thứ hai chỉ sau Mỹ trong số các nền kinh tế thị trường, kim nghạch xuất khẩu tăng liên tục, cán cân thanh toán dư thừa, nền kinh tế phát triển phồn vinh. Nhưng hàng năm Nhật phải nhập khẩu một lượng rất lớn khoáng sản đặc biệt là dầu mỏ do vậy nền kinh tế Nhật phụ thuộc sâu sắc vào nền kinh tế nước ngoài.
Nhật Bản hiện nay là chủ nợ lớn nhất thế giới, các nước Đông Nam á nợ Nhật 183 tỷ USD, Nhật có lượng dự trữ ngoại tệ lớn khoảng 220 tỷ USD.Thị trường chứng khoán Tokyo là một trong 3 thị trường chứng khoán lớn nhất thế giới cùng với New York và London.
Mục đích viện trợ của ODA Nhật Bản nhìn chung cũng giống như các nhà tài trợ khác đó là giúp các nước đang phát triển giải quyết những vấn đề khó khăn mà họ vấp phải như: nghèo đói, giáo dục, phát triển công nghiệp và những vấn đề thuộc môi trường. Trên cơ sở xác định ý tưởng đó, ODA song phương của Nhật Bản có 3 đặc điểm sau
Thứ nhất, ODA của Nhật Bản dành cho viện trợ kinh tế tùy thuộc vào tình hình phát triển của từng nước nhận viện trợ. Các nước đang phát triển rất đa dạng, mỗi nước đều có lịch sử và văn hóa riêng của chính đất nước họ. Bối cảnh phát triển của nước này cũng rất khác nhau. Vào những giai đoạn đầu của phát triển kinh tế, giải quyết đói nghèo là vấn đề được ưu tiên, và khi phát triển kinh tế đã đến mức tiên tiến thì việc cải cách những biến dạng của tăng trưởng kinh tế lại trở thành vấn đề mới mẻ. Theo cách này có rất nhiều vấn đề khác nhau. Vì vậy, viện trợ kinh tế đòi hỏi phải có những biện pháp khác nhau để giải quyết những vấn đề này. Nhật Bản thường tăng tỷ phần của viện trợ không hoàn lại cho các nước nhận viện trợ vào những giai đoạn đầu của quá trình phát triển, khi quá trình phát triển của các nước này tiến bộ, Nhật Bản sẽ giới hạn viện trợ của họ cho những lĩnh vực được xác định, trong khi tiếp tục tăng vai trò của khu vực tư nhân.
Thứ hai, ODA của Nhật Bản đóng vai trò quan trọng trong việc khuyến khích viện trợ kinh tế thông qua khu vực tư nhân bằng cách hợp tác với các hình thức viện trợ tương tự như vậy, bao gồm đầu tư trực tiếp của tư nhân dựa trên cơ sở các nguồn chính thức khác, bảo hiểm thương mại và viện trợ thông qua thương mại. Các hoạt động kinh tế của khu vực tư nhân cũng đóng góp vàp sự tăng trưởng kinh tế độc lập của các nước đang phát triển.
Thứ ba, ODA của Nhật Bản đóng vai trò quan trọng trong phát triển xã hội (bảo hiểm , y tế, giáo dục...) bổ sung cho phát triển kinh tế. Điều này nhằm giải đáp những lo ngại cho rằng chỉ tập trung vào phát triển kinh tế sẽ làm nảy sinh rất nhiều vấn đề bao gồm cả sự bất bình đẳng về thu nhập, sự khác biệt về khu vực trong phạm vi từng nước đang phát triển. Đặc biệt trong những năm trước, sự cân bằng giữa phát triển kinh tế và phát triển xã hội ngày càng đặt nhiều hy vọng vào các chương trình viện trợ của Nhật Bản.
2.Lịch sử hình thành và phát triển của Hỗ trợ phát triển chính thức Nhật Bản:
Hiện nay Nhật Bản được biết đến là một cường quốc về kinh tế, tài chính trên thế giới. Để có được vị trí như ngày nay đất nước mặt trời mọc đã trải qua rất nhiều giai đoạn lịch sử đáng ghi nhớ. Chúng ta biết rằng Nhật là một nước rất nghèo nàn về tài nguyên thiên nhiên, lại là nước thất bại trong chiến tranh thế giới thứ II.Vậy mà sau thế chiến II, Nhật đã tự mình tìm ra những hướng đi thích hợp để khôi phục và phát triển đất nước một cách ổn định và vững chắc.
Thật vậy sau chiến tranh nền kinh tế Nhật thiệt hại rất nặng nề, do đó từ năm 1945- 1954 Nhật phải nhận viện trợ từ Mỹ và Ngân hàng thế giới để khôi phục đất nước, song cho đến 1954 Nhật bản đã bắt đầu thực hiện chương trình viện trợ phát triển chính thức đối với các nước đang phát triển ở Châu á sau khi tham gia kế hoạch Colombo năm 1954.Từ đó cho đến nay thì quá trình viện trợ của Nhật được phân ra làm 4 giai đoạn chính.
-Giai đoạn 1: Từ 1954-1963: Thời kỳ này Nhật cung cấp viện trợ cho các nước Đông Nam á thông qua các khoản bồi thường chiến tranh đến Inđônêxia, philippin, Myanma, miền Nam Việt Nam. Ngoài ra Nhật Bản còn thực hiện viện trợ không hoàn lại cho Lào, Campuchia, Myanma.
-Giai đoạn2: Từ năm 1964-1976: Nhật Bản tiến hành mở rộng và đa dạng hóa các khoản viện trợ cả về khối lượng lẫn hình thức viện trợ.Trong giai đoạn này Nhật tham gia vào OECD, Ngân hàng phát triển liên Mỹ; thành lập cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA); Nhật bắt đầu một loạt các hình thức viện trợ mới như là:cung cấp tín dựng ưu đãi, cung cấp trang thiết bị, cử tình nguyện viên, hỗ trợ lương thực, đào tạo tại nước thứ 3, viện trợ không hoàn lại cho các hoạt động văn hóa
-Giai đoạn 3: Từ 1977-1988. Là thời kỳ viện trợ được hệ thống hóa bằng những kế hoạch trung hạn cụ thể là: cung cấp 2 gói tín dụng ODA cho Trung Quốc; tham gia Ngân Hàng phát triển Châu Phi; bắt đầu cung cấp các khoản tín dụng điều chỉnh cơ cấu qua WB; công bố kế hoạch hợp tác của mình
-Giai đoạn 4:Từ 1989 đến nay: Đây là giai đoạn Nhật bản đứng vị trí hàng đầu trong những nước cung cấp ODA trên thế giới, Nhật Bản lập quĩ nghiên cứu cao cấp về Phát triển quốc tế (FASID), trả hết nợ cho WB
ODA là hoạt động mang lại lợi ích cho cả nước cho và nước nhận.Cho nên ngay từ tháng 19/12/1952 sau khi Yoshida lên cầm quyền ông đã xác định tập trung hồi phục kinh tế đất nước dựa trên cơ sở thúc đẩy hợp tác kinh tế với Mỹ và xúc tiến quan hệ ngoại giao với các nước Đông Nam á, mở đầu Nhật tiến hành xây dựng chương trình bồi thường chiến tranh cho các nước Đông Nam á, đây chính là bước đột phá đầu tiên để khai thông chính sách ngoại giao với khu vực này.ODA Nhật Bản lúc giai đoạn đầu vào Đông Nam á không thu được lợi ích kinh tế thuần tuý trực tiếp mà lại là gián tiếp và thường là lâu dài về sau. Nhật coi ODA là 1 công cụ rất quan trọng để Nhật có được "Chiếc chìa khóa vàng" mở cửa vào các thị trường thương mại đầu tư ở các nước này.Cho nên trong thời gian đầu, hoạt động cung cấp ODA của Nhật bản chỉ tập trung vào khu vực Châu á, hoạt động này luôn tuân thủ 2 nguyên tắc:
-Duy trì sự ổn định về chính trị và xã hội ở nước tiếp nhận.
-Không nhằm giúp cho việc tăng cường quân sự hoặc cho mục đích quân sự hoặc cho những nước có chiến tranh.
Còn giai đoạn từ 1989 cho đến nay Nhật Bản trở thành nhà tài trợ lớn nhất thế giới, hỗ trợ phát triển chính thức của họ tăng không ngừng, từ 1989-1997 trong danh sách 7 nước cung cấp ODA chủ yếu trên thế giới thì Nhật Bản luôn ở vị trí số 1 (Bảy nước là: Nhật Bản, Mỹ, Pháp, Đức, Anh, Canada và Italia).Hoạt động cung cấp ODA của họ không chỉ giới hạn trong pham vi Châu á như trước kia mà họ đã tiến hành mở rộng sang các khu vực khác như: Châu phi, Trung đông, Trung và Nam Mỹ, Châu âu và châu Đại dương. Cùng với mở rộng về khu vực thì khối lượng ODA cũng tăng lên.
3.Phân loại ODA Nhật Bản
Từ trước đến nay hoạt động hỗ trợ và phát triển chính thức được thực hiện dưới 2 hình thức chủ yếu đó là song phương và đa phương.
3.1.ODA song phương.
Bao gồm các hoạt động hỗ trợ trực tiếp từ Chính phủ Nhật Bản cho Chính phủ nước tiếp nhận ODA. ODA song phương được chia làm 2 loại đó là: ODA không hoàn lại và ODA tín dụng.
¨ODA không hoàn lại: Hầu hết các hoạt động của ODA không hoàn lại được Chính phủ Nhật Bản thực hiện thông qua cơ quan hợp tác quốc tế Nhật bản viết tắt là JICA (Japan International Cooperation Agency), gồm có Viện trợ chung và hợp tác kỹ thuật.
-Viện trợ chung là khoản hỗ trợ tài chính không yêu cầu hoàn trả của Nhật Bản cho một nước đang phát triển nhằm thực hiện các dự án phát triển kinh tế và xã hội.Viện trợ không hoàn lại chung là một yếu tố quan trọng của ODA Nhật Bản. Đây là loại hỗ trợ có chất lượng cao nhất. Chất lượng của viện trợ thay đổi tỷ lệ thuận với khối lượng của viện trợ. Hình thức này bao gồm hoạt động cấp hỗ trợ tài chính cho các hình thức như: Các dự án chung; các hoạt động văn hóa; cứu trợ khẩn cấp và giảm nhẹ thiên tai; hỗ trợ lương thực và tăng khả năng sản xuất lương thực; phát triển nghành thuỷ sản...
-Hợp tác kỹ thuật của Chính Phủ Nhật Bản bao gồm các hình thức như sau:
+Đào tạo nâng cao trình độ cán bộ của nước tiếp nhận ODA, tổ chức đào tạo tại Nhật Bản hoặc một nước thứ 3.
+Cử chuyên gia Nhật Bản hoặc chuyên gia của một nước thứ 3 sang công tác tại nước tiếp nhận với mục tiêu chuyển giao công nghệ và kiến thức của chuyên gia tới các cán bộ của nước tiếp nhận ODA.
+Cung cấp trang thiết bị nhằm tạo thuận lợi cho việc chuyển giao và phổ biến công nghệ, đào tạo cán bộ
+Cử các thanh niên Nhật Bản sang các nước đang phát triển trong thời gian 2 năm nhằm góp phần vào công cuộc xây dựng, phát triển đất nước, đào tạo nguồn nhân lực của nước tiếp nhận. Ngoài ra còn nhằm mục đích là để tăng cường và thiết lập mối quan hệ hiểu biết sâu sắc lẫn nhau, xây dựng tình hữu nghị lâu dài giữa 2 quốc gia.
+Hợp tác kỹ thuật kiểu dự án: Là sự phối hợp 3 hình thức kỹ thuật trọn gói: Đào tạo kỹ thuật tại Nhật Bản; cử chuyên gia; cung cấp máy móc thiết bị.Những dự án dạng này thường được thực hiện trong khoảng thời gian từ 3 đến 5 năm, qua đó các kiến thức chuyên môn của Nhật bản được áp dụng và chuyển giao cho đối tác tại nước tiếp nhận, nhờ đó mà các kiến thức này được áp dụng và biết đến rất rộng rãi sau khi dự án kết thúc.
+Nghiên cứu phát triển: Là hình thức Chính phủ Nhật Bản cử các đoàn khảo sát nghiên cứu phối hợp làm việc với các cơ quan liên quan của nước tiếp nhận chuẩn bị các qui hoạch tổng thể, báo cáo khả thi hoặc thiết kế chi tiết (D/D) nhằm hỗ trợ cho nước này hoạch định các dự án cần được ưu tiên thực hiện trước.
¨Tín dụng ODA: Là khoản tín dụng trực tiếp của Chính phủ Nhật Bản dành cho nước tiếp nhận để thực hiện các dự án phát triển kinh tế- xã hội. Tín đụng ODA của Nhật bản có tính chất ưu đãi với lãi xuất thấp, ân hạn và thời gian hoàn trả dài, yếu tố không hoàn lại chiếm khoảng 50% đến 65% giá trị khoản vay, lãi xuất này tăng giảm tuỳ theo đối tượng tiếp nhận, tuy nhiên lãi xuất này phù hợp với các tiêu chuẩn của Uỷ Ban hỗ trợ phát triển (DAC) và OECD.Hiện nay thì việc cung cấp tín dụng của Nhật Bản được thực hiện thông qua Ngân Hàng hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JBIC- Japan for Bank International Cooperation)
Tín dụng ODA của Nhật Bản được chia thành 2 nhóm chính đó là: Tín dụng và tín dụng dự án.
-Tín dụng dự án gồm có 3 dạng như sau:
+Tín dụng dự án thông thường: Là một dạng tín dụng ODA cơ bản được cung cấp với mục đích mua sắm thiết bị, máy móc, xây dựng các công trình, mở các trung tâm dịch vụ tư vấn và các nhu cầu khác đối với dự án.
+Tín dụng thiết kế dự án (E/S): Là khoản tín dụng được cung cấp để tiến hành các dịch vụ cần thiết trước khi thực hiện dự án ví dụ như: Công tác lập dự án, công tác chuẩn bị đấu thầu...
+Tín dụng 2 bước (STL): Là khoản tín dụng được thực hiện qua một tổ chức tài chính gián tiếp taị nước tiếp nhận với đối tượng thụ hưởng là các doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc các lĩnh vực công nghiệp chế tạo và nông nghiệp.
-Tín dụng ODA phi dự án bao gồm:
+Tín dụng hàng hóa được cấp cho các nước đang phát triển, các nước này muốn nhập khẩu hàng hóa nhưng không có tiền, nhờ hình thức này nước nhận có thể ổn định và phát triển kinh tế trước mắt.
+Tín dụng điều chỉnh cơ cấu (SAL) được cung cấp để các nước đang phát triển tiến hành cải cách toàn bộ nền kinh tế
+Tín dụng ngành là tín dụng hàng hóa hỗ trợ phát triển một nghành cụ thể của nước tiếp nhận.
3.2.ODA đa phương:
Là hình thức đóng góp tài chính hoặc ký thuật của Chính phủ Nhật Bản cho các tổ chức quốc tế đa phương như: UNDP, UNFPA, UNCTAD, DAC, OECD...và các tổ chức tài chính quốc tế như: WB, ADB... tất cả đều nhằm mục tiêu góp phần vào việc thúc đẩy sự phát triển và ổn định tại các nước đang phát triển. Đóng góp cho các tổ chức đa phương thường được thực hiện dưới dạng hợp tác kỹ thuật , còn đóng góp cho các tổ chức tài chính quốc tế bằng tài chính.
4.Chính sách ODA Nhật Bản:
4.1.Chính sách ODA Nhật Bản trước những năm 90:
4.1.1. Chính sách ưu tiên cung cấp theo khu vực địa lý:
Nhật Bản và Châu á có sự gần gũi về địa lý cũng như văn hóa, tôn giáo, phong tục ...do vậy kể từ khi bắt đầu hoạt động cung cấp ODA cho đến những năm đầu thập kỷ 70 Châu á luôn chiếm 90% thậm chí có thời điểm 100% lượng ODA của Nhật, trong đó thì khu vực Asean chiếm từ 30%-50%. Châu á luôn là khu vực nhận được ODA của Nhật Bản với tỷ lệ cao nhất
Khi chuyển sang giai đoạn 1977-1988 Nhật Bản có sự thay đổi về chính sách mở rộng sang các khu vực khác một phần là do sự phản đối Nhật Bản diễn ra ở một số nước trong khu vực Châu á. Cho nên lượng ODA cho Châu á giảm xuống 65.1% trong năm 1988 nhưng khu vực Asean vẫn chiếm 30% tổng ODA dành cho Châu á, như vậy tuy giảm về tỷ lệ xong khối lượng vẫn tăng đều.
Giai đoạn 1989-2002 Nhật Bản vẫn duy trì là nhà tài trợ số 1 của thế giới, Nhật tiếp tục mở rộng khu vực cung cấp ODA cho nên tỷ lệ ODA cho Châu á còn 59,3% và ODA dành cho Asean có sự thay đổi về hình thức, tức là giai đoạn trước ODA chủ yếu là hình thức viện trợ thì nay chuyển sang hình thức cung cấp tín dụng với lãi suất thấp. Tỷ lệ ODA giảm nhưng lượng không giảm, chúng ta có thể tìm hiểu một số nguyên nhân chủ yếu như sau:
Ta biết rằng sau một thời gian dài viện trợ cho Đông Nam á thì hàng hóa Nhật Bản tràn ngập thị trường các nước này tạo nên làn sóng phản đối mạnh mẽ tại các quốc gia nhận.Thêm vào đó là cuộc khủng hoảng dầu mỏ vào năm 1973 cũng ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế Nhật bản (Nhật Bản là một nước phải nhập khẩu 100% lượng dầu mỏ). Đứng trước tình hình như vậy nước này đã tìm hướng và thiết lập quan hệ ngoại giao với các khu vực khác.
Sang giai đoạn 1977-1988 Nhật càng mở rộng hơn nữa mối quan hệ của mình, để tăng cường ảnh hưởng của mình Nhật đã hệ thống hóa qua các kế hoạch trung hạn cho việc tăng cường viện trợ đến Châu Phi, Châu Mỹ, Trung Đông
Một điều đặc biệt là vào năm 1990 có sự thay đổi về kinh tế ở các nước Đông Nam á, Hàn quốc đã chuyển từ nước nhận ODA sang nước cung cấp, các nước Asean phát triển khá mạnh sắp đuổi kịp các nước công nghiệp mới.Trước tình hình này Chính phủ Nhật bản cho rằng khi nước tiếp nhận ODA đã phát triển rồi thì ODA sẽ cắt giảm để tập trung vào phát triển quan hệ thương mại. Do đó ODA cho các nước này phần lớn chỉ còn dưới dạng cho vay và hỗ trợ kỹ thuật.
Trong thời gian gần đây nền kinh tế Nhật gặp nhiều khó khăn nên tổng ODA của Nhật đã giảm đi, đây là lý do rất chính đáng, nhưng việc cắt giảm này cũng làm ảnh hưởng đến một số nước nhận ODA Nhật Bản.
Tóm lại Nhật Bản luôn dành cho ASEAN những ưu tiên trong cung cấp ODA cũng là điều dễ hiểu như đã nêu ở trên, ngoài ra mục đích của Nhật Bản còn để thu hẹp khoảng cách Bắc-Nam và khai thác thị trường nguyên liệu rẻ, phong phú, nguồn lao động dồi dào, thị trường tiêu dùng dễ tính của Asean...Theo xu thế quốc tế hóa để duy trì vị trí là một trung tâm kinh tế- tài chính của thế giới đòi hỏi Nhật phải tạo cho mình một thị trường tiêu thụ ổn định, Châu á nói chung và Asean nói riêng chính là mục tiêu của Nhật Bản. Như vậy một Châu á phát triển lành mạnh và ổn định sẽ là thị trường lớn cho hàng hóa của Nhật Bản.
Biểu1: Vốn ODA Nhật Bản cho ASEAN 10 vay đến 1998
Đơn vị: Tỷ yên
Nước
Vốn vay
Viện trợ
Hợp tác công nghệ
Tổng cộng
Inđônêxia
3.432,3
189,7
207,4
3.829,4
Philippin
1.772,6
211,6
129,6
2.113,8
Thái Lan
1.665,4
161,4
161,8
1.988,6
Malaysia
754,0
11,9
83,3
849,2
Việt Nam
520,2
77,3
22,1
619,6
Myanma
405,5
159,3
19,1
583,6
Lào
9,1
66,3
18,1
93,5
Campuchia
2,3
54,7
13,1
70,1
Xingapo
12,7
3,1
21,4
37,2
Brunây
0,0
0,0
39,3
39,3
(Nguồn: Bộ ngoại giao Nhật Bản)
4.1.2.Chính sách ưu tiên theo lĩnh vực:
ODA của Nhật Bản tập trung ưu tiên vào các lĩnh vực như là: Giao thông vận tải, năng lượng, y tế, giáo dục..Thúc đẩy nâng cao kỹ thuật và năng suất các ngành nông- lâm- ngư nghiệp
¨Ngành nông nghiệp:ODA nhằm giữ vững sự ổn định về cung cấp lương thực, thực phẩm cho người dân nước sở tại và đặc biệt chú ý tăng sản phẩm gia súc, gia cầm. Đối với các nước đang phát triển thì nông nghiệp được coi là một "ngành công nghiệp chính" vì thế việc thực hiện ổn định lương thực, thực phẩm được các nước cung cấp ODA coi như một tiêu chuẩn chủ yếu để đánh giá sự ổn định về tăng trưởng kinh tế. Do đó ODA Nhật Bản cũng nhằm thúc đẩy nông nghiệp và coi đó là một lĩnh vực ưu tiên trong kế hoạch phát triển kinh tế. Khoản ODA cho lĩnh vực này thường chiếm một tỷ lệ đáng kể trong tổng ODA được cung cấp. Ví dụ năm 1993 ODA dành cho nông nghiệp chiếm 8,1%. Trong các nước ASEAN thì Inđônêxia là nước nhận nhiều nhất ODA Nhật Bản ở lĩnh vực nông nghiệp, mà chủ yếu là hỗ trợ cho trang trại chăn nuôi, phát triển nông nghiệp và xây dựng các làng trồng trọt...
Đây là ngành trụ cột ở hầu hết các nước đang phát triển, đặc biệt là trong các nước Asean phần đông dân số vẫn hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp. Phát triển nông nghiệp góp phần rất quan trọng cho việc ổn định an ninh lương thực, thực phẩm ở nước tiếp nhận. Đây chính là tiêu chuẩn chủ đạo để đánh giá sự ổn định về tăng ttrưởng kinh tế cho một nước. ODA của Nhật Bản cho lĩnh vực này thường được thực hiện bằng viện trợ không hoàn lại và viện trợ tín dụng.
¨Lĩnh vực y tế: ODA sử dụng nhằm nâng cao sức khỏe của người dân, hỗ trợ xây dựng, nâng cấp bệnh viện, cung cấp máy móc y tế hiện đại...Thường ở dạng viện trợ không hoàn lại và hợp tác kỹ thuật. Năm 1993 Nhật bản dành 14% tổng ODA cho y tế, trong đó 53,6% của số viện trợ này đưa vào Châu á. Ngoài ra Nhật Bản còn đóng góp vào các tổ chức quốc tế cho phong trào chống AIDS của toàn thế giới.
¨Giáo dục: Đây là lĩnh vực được các nước thực hiện ODA quan tâm và được coi như là phương tiện để thúc đẩy sự phát triển xã hội và nền kinh tế của nước nhận tài trợ. ở lĩnh vực này Nhật Bản thường thực hiện nhiều khoản viện trợ không hoàn lại. Ví dụ trong thời gian 1989-1993, ODA Nhật Bản đã giúp xây dựng 380 trường tiểu học và trung học... Đồng thời ODA Nhật còn chú ý vào dạng viện trợ hợp tác kỹ thuật để trang bị cho trường học. Ngoài ra Chính phủ Nhật Bản còn hỗ trợ các tổ chức phi Chính phủ của Nhật trong việc thực hiện các dự án xây dựng trường học cho các nước nhận ODA.
¨Lĩnh vực năng lượng: Nhật Bản chú trọng vào xây dựng các nhà máy điện, công nghệ sản xuất dầu, vì thế ODA của họ thường tập trung vào qui trình công nghệ tiết kiệm năng lượng và giúp các nước nhận ODA sử dụng năng lượng có hiệu quả hơn. Hơn nữa cũng phải ghi nhận kỹ thuật công nghệ làm giảm bớt sự ô nhiễm môi trường của Nhật Bản. ODA dành cho khu vực này từ 1989- 1993 chiếm khoảng 17% trong tổng số các khoản viện trợ và thường là viện trợ tín dụng. Ví dụ trong năm 1993 tổng ODA cho vay dành cho năng lượng là 297,551 tỷ yên chi cho 23 dự án của 9 nước là ấn Độ, Việt Nam, Inđônêxia, Thái Lan, Bangladesh, Malaysia, Trung Quốc, Sri Lan ca và Iran.
¨Giao thông vận tải: Nhật Bản quan tâm khá nhiều đến lĩnh vực này, dành 20% lượng ODA cho giao thông vận tải. Phần lớn ngân sách ODA dành cho GTVT là cho vay vì nói chung đều là những dự án được thực hiện ở Châu á (chiếm khoảng 98% trên tổng số ODA dành cho GTVT), trong đó chủ yếu cho các nước ASEAN. Tuy nhiên, Nhật Bản cũng có thực hiện viện trợ không hoàn lại và viện trợ hợp tác kỹ thuật cho lĩnh vực này. Bên cạnh đó ODA Nhật Bản còn quan tâm đến việc giúp đỡ để đào tạo cán bộ kỹ thuật có chuyên môn trong việc quản lý và điều hành hệ thống giao thông vận tải.
¨Truyền thông và viễn thông, ODA Nhật Bản đã tỏ rõ sự quan tâm đặc biệt tới lĩnh vực này, do đặc điểm của thông tin truyền thông có hiệu quả tác động rất lớn tới công nghiệp, thương nghiệp, quản lý nhà nước, giáo dục, văn hóa và nhiều lĩnh vực hoạt động kinh tế xã hội vì thế Nhật Bản đã đưa vào Châu á từ năm 1989- 1993 là 78,4% vốn ODA cho vay trong tổng số ODA cho lĩnh vực truyền thông và viễn thông, 50% hệ thống vi sóng phủ 2500km ở Inđônêxia và 76% hệ thống này ở Jakarta được xây dựng từ nguồn ODA của Nhật Bản. Các khoản viện trợ không hoàn lại trong lĩnh vực này thường được đưa đến những vùng hẻo lánh để xây dựng cơ sở vật chất. Còn phần viện trợ hợp tác kỹ thuật được dùng vào việc nhận người đến đào tạo tay nghề tại Nhật Bản. Về lâu
dài ở lĩnh vực này Nhật Bản muốn tăng cường hợp tác với các nước nhận tài trợ để đào tạo những cán bộ kỹ thuật có trình độ hiểu biết và quản lý được hệ thống truyền thông hiện đại để thực hiện các cuộc tiếp nhận chuyển giao kỹ thuật mới.
Biểu2:Vốn vay ODA của Nhật Bản cho bốn nước thành viên ASEANtới 1998
Đơn vị: tỷ yên
Lĩnh vực
Inđônêxia
Philippin
Thái Lan
Malaysia
Tổng
Giao thông
725,2
542,8
681,0
129,4
2.078,4
Năng lượng
616,5
244,7
296,3
372,4
1.529,9
Viễn thông
148,1
50,4
102,8
13,4
314,7
Công nghiệp
110,8
91,8
112,7
75,6
390,9
Nông nghiệp
408,5
138,2
164,8
0,0
711,5
Nghành khác
1.664,6
716,1
326,3
157,3
2.864,3
Tổng
3.673,7
1.784,0
1.683,9
748,1
7.889,7
( Nguồn: Bộ ngoại giao Nhật Bản- 2000)
4.2. Một số thay đổi gần đây về chính sách ODA.
4.2.1. ODA Nhật Bản từ vai trò kinh tế chuyển sang vai trò kinh tế chính trị:
ODA của Nhật Bản đã bước vào một thời kỳ mới, chính sách ODA của Nhật Bản đã nhấn mạnh vào phát triển kinh tế của các nước đang phát triển cho đến tận giữa những năm 1980, nhưng hiện nay mục tiêu và vai trò của nó đã được mở rộng hơn. Trong những năm 80, nền kinh tế Nhật Bản có được khoản thặng dư về tài khoản hiện hành khổng lồ và Nhật Bản bị đòi hỏi phải chuyển các khoản thặng dư này trở lại cho các nước đang phát triển. Cũng gần như cùng thời gian đó, vấn đề nợ lũy tiến đã nổi lên chủ yếu ở các nước Mỹ La Tinh. Toàn bộ hệ thống tài chính quốc tế sẽ bị đe dọa nếu như cộng đồng thế giới ở vào tình trạng phải đương đầu xử trí một cách thích đáng đối với cuộc khủng hoảng nợ này. Với tình hình tài chính như vậy, việc tái chu chuyển lượng tiền mặt tới các nước đang phát triển của Nhật Bản thực chất là sự cung cấp hàng hóa cho cộng đồng quốc tế, có nghĩa là làm ổn định hệ thống tài chính quốc tế.
Liên quan đến vấn đề trên Nhật Bản đã quyết định sẽ tăng những đóng góp của họ đối với các tổ chức tài chính đa phương và các tổ chức tài chính cùng với ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 25602.doc