Vai trò của nhà nước trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của VN

PHẦN I: LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Như trước đây chúng ta đã biết thì khi mà nhà Nguyễn thực thi chính sách ''Bế quan tỏa cảng'' thì nền kinh tế của đất nước đã trải qua thời kì rất kém phát triển.Tổng kết được những kinh nghiệm của các giai đoạn trước đó thì Đảng và Nhà nước ta đã thực thi chính sách mở cửa thị trường,hội nhập kinh tế quốc tế và đã đạt được những thành quả nhất định.Đặc biệt trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay thì việc mở rộng quan hệ kinh tế với các nước trên thế giới là vô cùng cấp

doc16 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1549 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Vai trò của nhà nước trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của VN, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bách và quan trọng.Trong một nền kinh tế hiện đại,bên cạnh bàn tay vô hình là cơ chế thị trường thì luôn có cả bàn tay hữu hình là nhà nước.Chính nhờ những sự can thiệp có hiệu quả của nhà nước ma kinh tế nước ta mới có những bước tiến như hiện nay.Và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta hiện nay cũng không thể thiếu vai trò của nhà nước.Chính vì thấy được vai trò quan trọng của nhà nước đối với hội nhập kinh tế quốc tế nên tôi đã chọn đề tài này để viết. PHẦN II: THỰC TRẠNG HIỆN NAY: Hiện nay chúng ta đã tham gia rất nhiều tổ chức kinh tế trên thế giới như tổ chức thương mại thế giới WTO,ASEAN,APEC,ASEM... qua đó mở rộng quan hệ hợp tác với nhiều nước trên thế giới.Có thể nói lợi ích mà hội nhập kinh tế thế giới đem lại là rất lớn.Trước hết kinh tế Việt Nam có cơ hội phát triển khi có thể tự do trao đổi hàng hóa,đối xử công bằng như hàng hóa của các nước khác,mở rộng thị trường buôn bán,trao đổi.Lợi ích thì ai cũng thấy rõ nhưng không phải ai cũng biết đến những khó khăn do hội nhập kinh tế quốc tế đem lại. Hội nhập kinh tế quốc tế là thách thức với mọi nền kinh tế,kể cả các nền kinh tế có trình độ cao hơn Việt Nam.Thách thức này càng khắc nghiệt hơn khi chúng ta là một nước đang phát triển đồng thời là nền kinh tế chuyển đổi. Hội nhập kinh tế quốc tế mở ra thị trường rộng lớn để xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ; tạo điều kiện cho ta tiếp nhận vốn, công nghệ sản xuất và công nghệ quản lý; các khoản vay ưu đãi từ các nước… Đây là những nguồn lực to lớn góp phần đưa nền kinh tế nước ta có những bước phát triển mạnh mẽ trong những năm vừa qua.Những lợi ích của hội nhập kinh tế đã rõ ràng. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt thuận lợi ấy, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế cũng đặt ra 6 thách thức to lớn: Một là, cạnh tranh trở nên quyết liệt hơn. Cạnh tranh không chỉ giữa doanh nghiệp nước ta với doanh nghiệp các nước trên thị trường nước ngoài để xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ mà cạnh tranh ngay trên thị trường trong nước. Điều đó gây sức ép không nhỏ đối với nhiều doanh nghiệp, nhất là những doanh nghiệp đã quen với sự trợ giúp của Nhà nước, những doanh nghiệp có tiềm lực tài chính và công nghệ yếu kém mà tình trạng này lại khá phổ biến ở doanh nghiệp nước ta. Hai là, hội nhập kinh tế quốc tế với sự chuyển dịch tự do qua biên giới các yếu tố của quá trình tái sản xuất hàng hóa và dịch vụ tiềm ẩn nhiều rủi ro, trong đó có cả những rủi ro về mặt xã hội. Thách thức ở đây là đề ra được những chính sách đúng đắn nhằm tăng cường khả năng kiểm soát vĩ mô, nâng cao tính năng động và khả năng thích ứng nhanh của toàn bộ nền kinh tế, củng cố và tăng cường các giải pháp an sinh xã hội để khắc phục những khó khăn ngắn hạn. Tóm lại, phải tạo dựng được môi trường để quá trình chuyển dịch cơ cấu và bố trí lại nguồn lực diễn ra một cách suôn sẻ, với chi phí thấp. Ba là, hội nhập kinh tế quốc tế đang đặt ra những yêu cầu hết sức cấp bách cho việc bổ sung và hoàn thiện thể chế. Trong thời gian qua, mặc dù đã có nhiều nỗ lực để hoàn thiện khuôn khổ pháp luật có liên quan đến kinh tế và thương mại nhưng chúng ta vẫn còn rất nhiều việc phải làm. Trước hết, phải liên tục hoàn thiện môi trường kinh doanh để thu hút đầu tư và phát huy mọi tiềm lực của tất cả các thành phần kinh tế. Đồng thời không ngừng hoàn thiện các quy định về cạnh tranh để bảo đảm một môi trường cạnh tranh lành mạnh và công bằng khi hộp nhập. Bốn là, hội nhập kinh tế quốc tế cũng đã làm bộc lộ nhiều bất cập của nền hành chính quốc gia. Do một trong những nguyên tắc chủ đạo của WTO là minh bạch hóa nên khi gia nhập WTO, nền hành chính quốc gia chắc chắn sẽ phải có sự thay đổi theo hướng công khai hơn, minh bạch hơn và hiệu quả hơn. Đó phải là nền hành chính vì quyền lợi chính đáng của mọi người dân, trong đó có doanh nghiệp và doanh nhân,lấy người dân, doanh nghiệp, doanh nhân làm trọng tâm phục vụ, khăc phục mọi biểu hiện trì trệ, thờ ơ và vô trách nhiệm. Nếu không tạo ra được một nền hành chính như vậy thì chẳng những không tận dụng được các cơ hội do hội nhập kinh tế nói chung và việc gia nhập WTO nói riêng đem lại mà cũng không chống được tham nhũng, lãng phí nguồn lực. Năm là, để bảo đảm tiến trình hội nhập đạt hiệu quả, bên cạnh quyết tâm về chủ trương,cần phải có một đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước và đội ngũ doanh nhân đủ mạnh. Đây cũng là một thách thức to lớn đối với Việt Nam do phần đông cán bộ của ta còn bị hạn chế về kinh nghiệm điều hành nền kinh tế mở, có sự tham gia của yếu tố nước ngoài. Nếu không có sự chuẩn bị phù hợp, thách thức này sẽ chuyển thành những khó khăn dài hạn rất khó khắc phục. Sáu là, hội nhập kinh tế quốc tế dẫn đến sự hợp tác về an ninh và văn hóa. Đồng thời, việc mở cửa thị trường, mở rộng giao lưu trong điều kiện bùng nổ thông tin hiện nay, bên cạnh nhiều mặt tốt, những cái xấu cũng du nhập vào, đòi hỏi các cấp lãnh đạo, quản lý và mọi người dân phải nâng cao bản lĩnh chính trị,giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc nhằm nâng cao sức đề kháng, chống lại sự tha hóa, biến chất, chống lại lối sống hưởng thụ, tự do tư sản… Trước những khó khăn và cơ hội như vậy,chúng ta hãy cùng xem xét thực trạng hoạt động quản lý của nhà nước đối với kinh tế trong quá trình hội nhập quốc tế: Tại Việt Nam,nhà nước có sự quan tâm không đồng đều tới các vấn đề kinh tế.Có hoạt động được quan tâm nhiều và đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận như đầu tư trực tiếp từ nước ngoài,hoạt động xuất nhập khẩu.Có hoạt động còn nhiều hạn chế như hoạt động chuyển giao công nghệ.Đồng thời có hoạt động chưa được quan tâm đầy đủ cả về lý luận lẫn thực tiễn như hoạt động của các dịch vụ có thu ngoại tệ,hoạt động đầu tư vốn của Việt Nam ra nước ngoài… Từ khi Đảng và nhà nước ta thực hiện công cuộc đổi mới đến nay,Nhà nước ta đã đặc biệt quan tâm tới quản lý kinh tế đối ngoại.Đã hiện diện một hệ thống pháp luật điều chỉnh các hoạt động kinh tế đối ngoại tương đối đồng bộ như:Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam,Luật thương mại,Luật dầu khi,Luật khoáng sản,Luật tài nguyên nước,Luật thuế thu nhập doanh nghiệp,Luật thuế giá trị gia tăng,Luật thuế tiêu thụ đặc biệt,Luật khoa học và công nghệ…Đồng thời còn có các văn bản dưới luật,như:Pháp lệnh du lịch,pháp lệnh thuế tài nguyên,pháp lệnh chất lượng…Nhà nước thực hiện cải cách hành chính,trong đó trong đó là cải cách các thủ tục hành chính trong hoạt động kinh tế đối ngoại.Do đó giảm được nhiều phiền hà cho các đối tác khi tham gia các hoạt động kinh tế tại Việt Nam.Trình độ đội ngũ cán bộ công chức làm công tác quản lý nhà nước về hợp tác kinh tế quốc tế đã được nâng cao thêm một bước và ngày càng hoàn thiện trong hoạt động thực tiễn. Bên cạnh những mặt mạnh thì quản lý nhà nước về kinh tế trong thời kỳ hội nhập cũng còn một số yếu kém cần khắc phục như: Một số luật sau khi ban hành,trong một thời gian ngắn đã phải sửa đổi bố sung.Chẳng hạn như Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong 13 năm sau khi ban hành đã phải sửa đổi bổ sung tới 4lần vào các năm 1990, 1992, 1996, 2000.Có lĩnh vực rất cần có Luật nhưng chưa được ban hành ví dụ như hoạt động đầu tư vốn của Việt Nam ra nước ngoài Hoạt động của các dịch vụ có thu ngoại tệ nằm ở nhiều bộ,ngành khác nhau,đây là một bộ phận hữu cơ trong tổng thể hoạt động kinh tế đối ngoại nhưng cho đến nay vẫn chưa có đầu mối quản lý cho các dịch vụ này. Mặc dù nhà nước đã thực hiện cải cách các thủ tục hành chính trong hoạt động kinh tế đối ngoại nhưng khi đi vào thực tiễn tiếp xúc với một bộ phận công chức nhà nước để triển khai dự án thì vẫn gặp nhiều khó khăn.Tình trạng này gọi là''trên nhoáng,dưới bó''. Như vậy,trong hội nhập kinh tế quốc tế,dưới tác động của nhà nước kinh tế nước ta đã đạt được nhiều thành tựu đáng ghi nhận.Tuy nhiên trong những năm tiếp theo,Nhà nước cần có phương hướng,biện pháp hoàn thiện quản lý nhà nước để mở rộng quy mô và phát triển kinh tế. PHẦN III. MỘT SỐ PHƯƠNG HƯỚNG ĐỂ TĂNG CƯỜNG VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC VỚI HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ *Trước hết nhà nước cần bảo đảm ổn định về chính trị và phát triển kinh tế trong nước.Để phát triển hội nhập kinh tế quốc tế điều kiện tiên quyết là giữ vững môi trường hòa bình và hữu nghị với các nước trong khu vực và trên thế giới,tạo bầu không khí thuận lợi cho các hoạt động đầu tư kinh tế từ nước ngoài.Bảo đảm sự ổn định vĩ mô nền kinh tế,trong đó chú ý bảo đảm tỷ giá hối đoái ổn định và phù hợp,khắc phụctình trạng nhập siêu cao và kéo dài,bảo đảm cân bằng cán cân thanh toán quốc tế nhằm làm tăng sức hấp dẫn môi trường đầu tư và kinh doanh Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật ,tiếp tục cải cách hành chính,nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong hội nhập kinh tế quốc tế.Phải xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ,nhất quán,ít thay đổi,đồng thời phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế nhằm tạo hành lang pháp lý rõ ràng cho các hoạt động kinh tế đối ngoại. Pháp luật phải đi vào đời sống của kinh tế dối ngoại một cách nghiêm túc.Các công chức thực thi hoạt động kinh tế đối ngoại phải căn cứ vào luật pháp,không gây trở ngại cho đối tác. Kiện toàn bộ máy quản lý theo hướng gọn nhẹ,có hiệu lực. Thực hiện quản lý ''một cửa'' cho các hoạt động kinh tế đối ngoại khắc phục sự chồng chéo,phiền hàđùn đẩy trong các thủ tục hành chính. Sau khi tạo dựng được môi trường pháp lý và cơ chế chính sách thông thoáng,hấp dẫn,vấn đề then chốt,có tính quyết định là việc chỉ đạo điều hành tập trung thống nhất và kiên quyết của Chính Phủ,việc nghiêm túc thực hiện của cán bộ,ngành và địa phương. Xây dựng quy chế phối hợp chặt chẽ giữa các bộ tổng hợp,các bộ phận quản lý ngành,ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong việc quản lý hoạt động kinh tế đối ngoại theo đúng thẩm quyền trách nhiệm của từng cơ quan quản lý nhà nước.Bộ Kế Hoạch và Đầu tư quản lí nhà nước về đầu tư nước ngoài,Bộ Thương Mại quản lí nhà về xuất nhập khẩu,bộ Tài Chính quản lí nhà nước về thuế,bộ khoa học công nghệ quản lí nhà nước về hợp tác và chuyển giao công nghệ,Bộ lao động và thương binh xã hội quản lí đất nước về xuất khẩu lao động...giúp chính phủ quản lí thống nhất hoạt động kinh tế đối ngoại.Đồng thời cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ ngành địa phương giải quyết những vấn đề phát sinh trong hoạt động kinh tế đối ngoại.Các Bộ ngành địa phương thực hiện quản lí nhà nước về kinh tế đối ngoại theo đúng chức năng thẩm quyền theo luật định. Ủy ban nhân dân các tỉnh,thành phố và các ban quản lí khu công nghiệp,khu chế xuất được phân cấp,ủy quyền quản lí các hoạt động kinh tế đối ngoại trên cơ sở bảo đảm nguyên tắc tập trung,thống nhất về quy hoạch,cơ cấu,chính sách,cơ chế quản lí,tăng cường sự hướng dẫn và kiểm tra các Bộ ngành trung ương,nâng cao kỉ luật thực hiện để vừa phát huy sức mạnh chủ động sáng tạo của địa phương và cơ sở vừa tránh phá vỡ quy hoạch tránh mọi sơ hở. Ủy ban nhân dân Tỉnh thành phố phải chịu trách nhiệm về quản lí nhà nước đối với các doanh nghiệp có vốn nước ngoài,các doanh nghiệp làm nhiệm vụ xuất nhập khẩu,các dịch vụ có thu ngoại tệ trên địa bàn,tập trung giải quyết các vấn đề phát sinh,giúp đỡ doanh nghiệp giải quyết những khó khăn và xử lí kịp thời các vi phạm pháp luật.Giám sát kiểm tra các cán bộ thừa hành ,thực hành nghiêm túc các quy định của luật pháp,chính sách chủ trương của Nhà nước,kịp thời xử lí các cán bộ có hành vi tham nhũng,sách nhiễu,tiêu cực. Cần quy định cụ thể chế độ kiểm tra của các cơ quan quản lí nhà nước để chấm dứt sự kiểm tra tùy tiện,hết sức tránh hình sự hóa các quan hệ kinh tế của doanh nghiệp.Đồng thời vẫn phải bảo đảm giám sát được doanh nghiệp và áp dụng các chế tài đối với sự vi phạm pháp luật của doanh nghiệp. Cần triệt để và kiên quyết hơn trong việc quy định rõ ràng,minh bạch các thủ tục hành chính ở mọi khâu,mọi cấp,công khai các quy trình,thời hạn trách nhiệm xử lý các thủ tục hành chính nhằm tạo lên sự chuyển biến căn bản,mạnh mẽ về cải cách hành chính trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại. *Phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng Kết cấu hạ tầng tốt là tiền đề để phát triển kinh tế trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng và phát triển kinh tế đất nước nói chung.Mặc dù còn gặp nhiều khó khăn nguồn vốn đầu tư phát triển còn hạn chế nhưng kết cấu hạ tầng cần đi sớm một bước để mở đườngcho kinh tế đối ngoại phát triển.Trong kết cấu hạ tầng có cơ sở hạ tầng kinh tế-kĩ thuật,gồm năng lượng,sân bay,bến cảng,hệ thống đường giao thông,hệ thống thông tin liên lạc,cơ sở hạ tầng các khu công nghiệp,khu chế xuất.Đồng thời phải chuy ý phát triển cơ sở hạ tầng văn hóa-xã hội,tạo điều kiện thuận lợi cho người nước ngoài sinh sống như các trung tâm y tế công nghệ cao,trung tâm tin học tập cho con em người nước ngoài,trung tâm vui chơi giải trí… *Chú trọng công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ quản lí,chuyên gia kĩ thuậ và đội ngũ công nhân kĩ thuật: Trong hoạt động kinh tế thời kì hội nhập kinh tế,công tác cán bộ đặc biệt quan trọng vì cán bộ vừa là người tham gia hoạch định chính sách vừa là người tham gia vận dụng luật pháp,chính sách để xử lí tác nghiệp hàng ngày liên quan dến mọi hoạt động kinh tế đối ngoại.Cán bộ quản lí Việt Nam trong các liên doanh đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ lợi ích của nhà nước Việt Nam,của người lao động,đảm bảo doanh nghiệp hoạt động theo đúng pháp luật.nói chung,phải đặc biệt chú trọng đến công tác đào tạo bỗi dưỡngnâng cao phẩm chất chính trị,đạo đức năng lực trình độ chuyên môn cho các cán bộ của đội ngũ công chức nhà nước đang hoạt động trong các lĩnh vực của kinh tế đối ngaọi như cán bộ ;ập dự án,quản kí dự án,cán bộ thẩm định công nghệ,tiếp nhận chuyển giao công ngh,cán bộ làm nhiệm vụ xuất nhập khẩu và cần nâng cao trách nhiệm của các tham táncủa Việt nam tại nước ngoài..Phấn đấu xây dựng được một đội ngũ cán bộ quản lí,chuyên gia kĩ thuật đầu ngành làm kinh té đối ngoại. Cẫn xây dựng quy chế cán bộ Việt Nam tham gia hội đồng quản trị và quản lí doanh nghiệp liên doanh,trong đó cần quy định rõ chế độ báo cáo,kiểm tra,tiêu chuẩn chuyên môn,nghiệp vụ và chính trị,trách nhiệm,nghĩ vụ và quyền lợi của cán bộ trong và sau thoiừi gian làm việc tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Bộ Giáo Dục và Đào Tạo cần tăng cường chất lượng đào tạo chính quy theo chuyên ngành cán bộ làm công tác kinh tế đối ngoại nói chung trong đó cán bộ quản lí dự án ,các cán bộ quản lí làm việc trong các doanh nghiệp có vốn nước ngoài. Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư,bộ Thương Mại cần phối hợp mở các lớp tập huấn số cán bộ Việt Nam đang làm việc tại các doanh nghiệp liên doanh,các doanh nghiệp làm nhiệm vụ xuất nhập khẩu nhằm trang bị kiến thức chuyên môn.nghiệp vụ,luật pháp,kinh nghiệm cần thiết nhất. Bộ Lao động – Thương Binh và Xã Hội,Ủy ban nhân dân các cấp Tỉnh,Ban quản lí khu công nghiệp,khu chế xuất phối hợp tổ chức đào tạo công nhân lành nghề làm việc cho các doanh nghiệp có vốn nước ngoài. *Tăng cường quản lý của Nhà Nước trong xuất nhập khẩu Đối với XUẤT KHẨU: Bằng các công cụ quản lý ngoại thương,Nhà Nước khuyến khích nhập các thiết bị máy móc và nguyên liệu,nhiên liệu đáp ứng nhu cầu sản xuất của trong nước.Đồng thời hạn chế tối đa việc nhập khẩu các mặt hàng tiêu dùng,đặc biệt là đối với các mặt hàng thay thế đã sản xuất được trong nước. Đối với các nước đang phát triển như nước ta,giai đoạn đầu của thời kì công nghiệp hóa phải chấp nhận hiện tượng nhập siêu.Có nhập siêu mới đáp ứng được nhu ầu sãnuất trong nước và một phần đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của dân cư.Giai đoạn tiếp theo là cân bằng giữa xuất khẩu với nhập khẩu để từ đó hướng tới xuất siêu. Đối với NHẬP KHẨU: Tăng cường vai trò của Nhà Nước của các Bộ trong việc mở rộng thị trường.Trong quá trình đàm phán hợp tác kinh tế song phương,đa phương cần đặt vấn đề về mở cửa thị trường cho Việt Nam trên cơ sở các bên đều có lợi.Ví dụ,trong quá trình đàm phán với EU để được tăng thêm hạn ngạch hàng đẹt may 26% trong 3 năm và mặt hàng thủy sản lên nhóm 1 cho 28 doanh nghiệp của Việt Nam trong số 33 doanh nghiệp do Việt Nam đề nghị,chúng ta phải chấp nhận mở cửa thị trường cho EU như giảm danh mục dược phẩm không cho nhập khẩu vào nước ta.Bộ Thương Mại là cục xúc tiến thương mại cần tích cựctổng hoạp thông tin về thị trường để thông báo cho các địa phương cung như tạo mọi điều kiện để địa phương đi tìm hiểu thị trường,tham gia các hội chợ để giới thiệu sản phẩm,tăng thêm cơ hội xuất nhập khẩu hàng hóa ngày càng có hiệu quả. *Hoàn thiện quản lý nhà nước về chuyển giao công nghệ Nước ta là nước đang phát triển quá trính công nghiệp hóa hiện đại hóa vẫn còn tiếp tục.Vì vậy để có thể hoàn thành tốt công cuộc có ý nghĩa vô cùng quan trọng này nhà nước của ta cần phải tích cực nhập trang thiết bị máy móc kĩ thuật từ nước ngoài.Tuy nhiên việc lựa chọn được trang thiết bị tốt không phải vấn đề đơn giản.Chính vì thế mà Nhà nước cần phải tăng cường quản lí về thẩm định công nghệ.Hầu hết các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đều có kèm theo nội dung chuyển giao công nghệ.Cần khắc phục tình trạng trước đây,như ở thời điểm có 2300 dự án đầu tư trực tiếp nước ngaòi nhưng chỉ có 95 hồ sơ chuyển giao công nghệ xin được thẩm định.Bộ kế Hoạch và Đầu tư,ủy ban nhân dân cấp Tỉnh,Ban quản lí các khu công nghiệp,khu chế xuất –gọi chung là cơ quan cấp giấy phép đầu tư,khi cấp giấy phép cho dự án nào cần quan tâm đến nội dung góp vốn bằng công nghệ,đồng thời có sự phối hợp chặt chẽ cới vụ Định giá,thẩm dịnh và giám định công nghệ của Bộ Khoa Học và Công Nghệ để cơ quan này thực hiện nhiệm vụ quản lí nhà nước là đánh giá,thẩm định và giám định hợp đồng chuyển giao công nghệ.Hiện nay,bước đầu đã có sự phân cấp xuống sở Khoa Học và Công nghệ cấp tỉnh để đánh giá theo quy mô và tính chất của dự ánđầu tư.Bên giao và bên nhận công nghệ phải nhận thức việc trình hồ sơ chuyển giao công nghệ với cơ quan có thẩm quyền nhà nước để thẩm định là một nghĩa vụ bắt buộc. *Hoàn thiện quản lí Nhà Nước trong hoạt động đầu tư ra nước ngoài . Chúng ta tự hỏi Tại sao các nhà đầu tư nước ngoài không đầu tư ở chính quốc mà họ đầu tư ra nước ngoài? Rất dễ hiểu,theo các nhà Kinh tế học đã phân tích đầu tư ở nước ngoài đạt tỷ suất lợi nhuận/vốn đầu tư bao giờ cũng cao hơn đầu tư trong nước.Vì vậy sự đầu tư của các doanh ngiệp Việt Nam ra nước ngoài nhất là trong thời kì hội nhập kinh tế quốc tế phát triển thì điều đó lại càng cần thiết hơn bao giờ.Tuy nhiên trong việc đầu tư ra nước ngoài bên cạnh thực lực cũng như việc vạch định kế hoạch thì doanh nghiệp rất cấn sự ủng hộ giúp đỡ của Nhà Nước.Trong thực tế,đầu tư ra nước ngoài thường đạt kết quả cao hơn trong nước nhưng gặp rất nhiều rủi ro hơn đầu tư trong nước nên cần có sự bảo trợ của Nhà nước. * Vai trò của Nhà nước trong các chính sách tài chính và tiền tệ Nhà nước trong các nền kinh tế thị trường đóng một vai trò rất lớn trong việc tạo ra các điều kiện kinh tế để thị trường tư nhân có thể phát huy hết hiệu quả hoạt động của mình. Một trong các vai trò đó là tạo ra một thị trường tiền tệ ổn định, được chấp nhận rộng rãi, có khả năng loại bỏ hệ thống giao dịch cồng kềnh, kém hiệu quả và đồng thời có khả năng duy trì giá trị tiền tệ thông qua các chính sách hạn chế lạm phát. Trong lịch sử, các nền kinh tế thị trường luôn rơi vào tình trạng bị đe doạ bởi khi thì đồng tiền tăng giá đột ngột, khi thì nạn thất nghiệp tăng cao, khi thì vừa có tình trạng thất nghiệp, vừa có tình trạng lạm phát. Mặc dù các giai đoạn đó thường diễn ra nhẹ nhàng, kéo dài không lâu khoảng một năm hoặc ngắn hơn. Tuy nhiên, lịch sử vẫn chưa quên thời kỳ trầm trọng của siêu lạm phát ở Đức những năm 20, đặc biệt cuộc đại suy thoái kinh tế thế giới những năm 30 của thế kỷ XX, khi cả thế giới lâm vào tình trạng thất nghiệp. Chính sách tài chính bao gồm các chính sách thuế và chi tiêu ngân sách của Nhà nước nhằm điều tiết chu kỳ kinh tế, đảm bảo công ăn việc làm, ổn định giá cả và tăng trưởng liên tục của nền kinh tế. Trong những thời kỳ kinh tế suy giảm, chính sách tài chính có tác dụng kích cầu và sản xuất bằng cách Chính phủ tăng mua, giảm thuế, do đó tạo ra được một thu nhập quốc dân khả dụng lớn hơn để đưa vào luồng tiêu đùng. Còn trong những thời kỳ kinh tế "quá nóng", chính phủ làm ngược lại. Để cân bằng lại những biện pháp tài chính cố ý này, Nhà nước tạo ra nhưng cái gọi là cơ chế ổn định, như thuế thu nhập luỹ tiến và phụ cấp thất nghiệp. Chính sách tài chính được điều hành một cách độc lập với chính sách tiền tệ là chính sách nhằm điều tiết hoạt động kinh tế bằng cách kiểm soát việc cung ứng tiền. Khi tăng chi tiêu vào thời điểm thất nghiệp cao và lạm phát thấp, Nhà nước đã tăng cung ứng tiền, dẫn tới giảm lãi suất (tức giám giá đồng tiền), nhờ đó ngân hàng mới có nhiều điều kiện cho vay và chi tiêu cho tiêu dùng được tăng lên. Điều đó có nghĩa là kích cầu vì tiêu dùng là bộ phận cấu thành lớn nhất và ổn định nhất của tổng cầu. Lãi suất thấp, đồng thời khuyến khích đầu tư, các chủ doanh nghiệp có thể mở rộng sản xuất, thuê thêm công nhân. Trong thời kỳ lạm phát cao và thất nghiệp thấp thì ngược lại, Nhà nước “làm nguội" nền kinh tế bằng cách tăng lãi suất, giảm cung ứng tiền. Cùng với việc giảm tiền và tăng lãi suất, cả chỉ tiêu lẫn giá cả đều có xu hướng giảm hoặc ít nhất, nếu có tăng thì cũng rất chậm, và kết quả là thu hẹp lại sản lượng và việc làm. Trước năm 1960, chính sách tài chính và tiền tệ không được áp dụng rộng rãi để ổn định các chu kỳ kinh doanh. Ngày nay, trừ các trường hợp liên quan tới thiên tai và thảm hoạ chiến tranh, các chính sách này đã trở thành giải pháp hữu hiệu để khắc phục lạm phát và giải quyết việc làm. Những tác động của nó chưa ro ràng khi cả lạm phát và thất nghiệp xảy ra đồng thời. Có một vài nguyên nhân cho sự hạn chế này. Đó là khó xác định chính xác thời điểm của vấn đề cần giải quyết để từ đó, đưa ra các biện pháp, chính sách hỗn hợp cho phù hợp. Ngoài ra, thời gian chờ đợi các chính sách phát huy tác dụng không phải là ngày một ngày hai. Điều thật tai hại là có khi đến lúc chính sách Nhà nước phát huy tác đụng thì khó khăn ban đầu đã tự giải quyết xong và đang chuyển sang một hướng hoàn toàn khác hẳn. Trong những trường hợp như thế, các chính sách ổn định kinh tế vĩ mô tỏ ra không cần thiết và thậm chí có khi còn phản tác dụng. Khi cả thất nghiệp và lạm phát xảy ra đồng thời, chính phủ có thể rơi vào tình trạng tiến thoái lưỡng nan. Bởi vì, các chính sách tài chính và tiền tệ đều điều chỉnh lại mức chi tiêu của cả một nền kinh tế quốc dân, nhưng lại không thể đối phó với sự giảm đột ngột về cung - một nhân tố có thể đẩy nhanh cả lạm phát lẫn thất nghiệp. Tình trạng này đã xảy ra vào những năm 70 của thế kỷ XX, khi có lệnh đình chỉ xuất khẩu đầu của các nước sản xuất dầu, dẫn tới giá cả tăng nhanh trong nền kinh tế các nước công nghiệp hoá. Như vậy, sự giảm cung sẽ dẫn đến tình trạng giá cả tăng nhanh trong khi đó thì sản xuất và việc làm lại giảm. Để đối phó với cú sốc cung này đối với nền kinh tế quốc dân, Nhà nước có thể tăng cường các biện pháp khuyến khích sản xuất, tiết kiệm và đầu tư, tăng hiệu quả cạnh tranh băng cách giảm sự độc quyền, khắc phục sự trì trệ và kìm hãm của các nguồn lực quan trọng. Như vậy, có thể nói, dẫu Nhà nước không thể cung cấp phương thuốc bách bệnh trong cuộc đấu tranh muôn thuở với lạm phát và thất nghiệp trong các nền kinh tế thị trường hội nhập kinh tế quốc tế thì nó vẫn được coi là nhân tố tích cực trong việc điều hoà các ảnh hưởng của chúng. Hầu hết các nhà kinh tế hiện nay đều thừa nhận tầm quan trọng của Nhà nước trong cuộc đấu tranh chống lạm phát và thất nghiệp thông qua các chính sách ồn định dài hạn. PHẦN IV: TỔNG KẾT Những thành tựu và những hạn chế của kinh tế Việt Nam trong giai đoạn hội nhập quốc tế gắn liền với hoạt động quản lý của Nhà Nước.Trước thực tiễn nêu trên và những đòi hỏi trong bối cảnh nền kinh tế Việt nam đang trong tiến trình hội nhập kinh té khu vực và kinh tế thế giới,vấn đề nâng vao hiệu quả quản lí của Nhà nước nhằm mở rộng và phát triển kinh tế đối ngoại nước ta đang là một đòi hỏi khách quan.Hoạt động kinh tế quốc tế nằm ở nhièu ngành kinh tế quốc dân và quản lí Nhà nước một mặt căn cứ vào hệ thống pháp luật và chính sách hiện hành ,mặt khac phải quan tâm đến luật pháp của nước đối ác và thông lệ quốc tế.Đồng thời,hoạt động quản lí nhà nước về hợp tác kinh tế quốc tế đòi hỏi phải quán triệt những quan điểm,đường lối của Đảng. và nắm vững những xu hướng vận động của nền kinh tế quốc tế cùng các quan hệ kinh tế quốc tế biến động và phát sinh.Mong muốn rằng Nhà Nước sẽ không ngừng nâng cao vai trò lãnh đạo của mình trong thời kì hội nhập kinh tế quốc tế. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo trình Kinh tế Chính Trị 2. Chính sách kinh tế đối ngoại - lý thuyết và kinh nghiệm quốc tế 3. Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc 6, 7, 8 4. Thời báo kinh tế Việt Nam 5. Tạp chí những vấn đề kinh tế thế giới 6. Kinh tế Việt Nam -NXB Hà Nội, 1993 VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc24726.doc