Lời mở đầu
ở kỳ đại hội đảng lần 8, Đảng đã xác định: đất nước ta vẫn tiếp tục thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong đó, Đảng cũng xác định vấn đề trọng tâm trong giai đoạn này là: “Tiến hành quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá”.
Đảng cũng xác định: đối với điều kiện lịch sử, kinh tế và nền văn hoá chính trị lâu đời của nước ta. “Vai trò của nhà nước đối với quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá” là hết sức quan trọng.
Trong quá trình phát triển của nền kinh tế hơn mười năm qua
23 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1564 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Vai trò của nhà nước trong quá trình CNH-HĐH ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kể từ thời kỳ đổi mới đến nay chúng ta đã thu được nhiều kết quả đáng kể. Và yếu tố quan trọng nhất góp vào sự thành công đó là vai trò của Đảng và nhà nước. Với những chính sách chiến lược đúng đắn được vạch ra rõ ràng và thuyết phục đã phát huy một cách có hiệu quả những mặt tích cực của nền kinh tế và hạn chế, kiểm soát tốt những tác động xấu của nền kinh tế thị trường. Đảng và nhà nước đã có những bước đI đúng đắn theo định hướng xã hội chủ nghĩa và nhân dân đã lựa chọn, đây cũng chính là điều khác biệt giữa nước ta với nước khác trong chiến lược kinh tế.
Và mặc dù chúng ta nhận định rõ ràng vai trò của nhà nước là điều tất yếu và không thể thiếu nhưng chúng ta cũng không thể không xem xét và nhận định rõ thực tế với những thành công và hạn chế của chúng ta hiện nay. Đó là những yếu tố mang dấu tích của xã hội cũ, những sai sót nhầm lẫn trong chiến lược bước đI của Đảng và nhà nước ta hiện nay. Điển hình như sự cồng kềnh của bộ máy nhà nước và thói quen xấu trong xã hội (cơ chế cũ); sự tha hoá của một số cán bộ: sự bất cập và lo ngại khi chuyển đối cơ chế và tham gia vào cơ chế thị trường
Qua đây ta cũng xác định được lý do, mục tiêu khi viết đề tài. Bản thân ta chọn đề tài ; “Vai trò của nhà nước trong quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá ở nước ta hiện nay”. Thông qua đây, ta thấy rõ vai trò, thực trạng của nhà nước ta trong quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá hiện nay. Qua đó nêu lên một số ý kiến của cá nhân trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá hiện nay. Tham khảo và góp một số ý kiến của cá nhân nhằm nâng cao vai trò của nhà nước.
Phần nội dung
Chương 1
Cơ sở lý luận về vai trò của việc công nghiệp hoá - hiện đại hoá
1.1.Khái niệm chung về công nghiệp hoá - hiện đại hoá
1.1.1.Quan niệm về công nghiệp hoá - hiện đại hoá
Khi bàn về công nghiệp hoá - hiện đại hoá chúng ta thường gặp những cách tiếp cận khác nhau:
Công nghiệp hoá hiện đại hoá là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ một nền kinh tế trong đó công nghiệp và dịch vụ chiếm tỷ trọng ngày càng lớn. Riêng trong công nghiệp lại diễn ra quá trình chuyển dịch từ công nghiệp khai thác sang chế biến… Cách tiếp cận này lẫn lộn giữa kết quả với nội dung của công nghiệp hoá và hiện đại hoá.
Công nghiệp hoá hiện đại hoá là một chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, khoa học – công nghệ trong một thời gian dài. ở đây công nghiệp hoá hiện đại hoá được hiểu như là một chiến lược phát triển trong đó có phương hướng, mục tiêu của nền kinh tế mà không nêu được bản chất của công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
Công nghiệp hoá hiện đại hoá là quá trình cải biến lao động thủ công sang lao động dùng kỹ thuật và công nghệ tiên tiến để đạt được năng suất lao động xã hội cao.
Trong ba cách hiểu trên thì cách tiếp cận thứ ba là đúng đắn nhất vì nó nêu rõ được mục tiêu của việc công nghiệp hoá hiện đại hoá là tăng năng suất lao động xã hội ( đây là điều quyết định cho sự tồn tại của một chế độ xã hội).
Điều này cũng phù hợp với định nghĩa về công nghiệp hoá hiện đại hoá của đảng và nhà nước ta đưa ra tại hội nghị lần thứ bẩy Ban chấp hành trung ương Đảng khoá 7 : “Công nghiệp hoá - hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ phương tiện và phương pháp tiên tiến hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học – công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao”.(1)
Cũng có thể nói, thực chất công nghiệp hoà là sự phát triển công nghệ, là quá trình chuyển nền sản xuất xã hội (công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ) từ trình độ công nghệ thấp lên trình độ công nghệ hiện đại. Lực lượng lao động sẽ chuyển dịch thích ứng về cơ cấu ngành nghề, về trình độ tay nghề chuyên môn và học vấn.
Các tổ chức quốc tế và công nghệ đã thống nhất rằng công nghệ được biểu hiện trong 4 thành phần: thiết bị con người, thông tin và tổ chức quản lý. Phát triển công nghệ theo 4 nội dung trên là công nghiệp hoá về bản chất. Công nghiệp hoá mang lại khả năng cạnh tranh hàng hoá trên thị trường và duy trì sự phát triển kinh tế – xã hội bền vững ngày càng cao và là cơ sở vật chất để ổn định xã hội.
Hiện đại hoá trong công nghiệp thường được hiểu là công nghiệp sử dụng những yếu tố của công nghệ thuộc “đời chót” hoặc không cách xa “đời chót” là bao nhiêu. Ví dụ ta thường nói công nghệ của thập kỷ 50, 60, 70… tức là những công nghệ đặc trưng của từng thập kỷ, được sử dụng đại trà trong khoảng thời gian đó. Tuổi thọ công nghệ ngày càng được rút ngắn trong vòng một thập kỷ, thậm chí còn ít hơn thế nữa , song mỗi thập kỷ đều có những công nghệ đặc trưng.
Các nước đang phát triển cũng có nghĩa là đang trong thời kỳ công nghiệp hoá thì vẫn có thể hiện đại hoá được bằng cách sử dụng những công nghệ đã được quốc tế hoá và du nhập vào từng nước. Như vậy việc hiện đại hoá của các nước đang phát triển không có nghĩa là công nghệ được dùng nhất thiết phải là sản phẩm của nước nước đó. Đó chính là tính phát triển không tuần tự của các nước đang phát triển. Hiện đại hoá thường có những bước đi trước so với công nghiệp hoá của một nước phát triển. Vấn đề là phải biết cách lựa chọn công nghệ thích hợp với điều kiện cụ thể của từng nước để tạo khả năng thâm nhập vào thị trường quốc tế.
1.1.2.Bản chất của công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta. Mô hình chiến lược công nghiệp hoá.
(Văn kiện hội nghị lần thứ bẩy; ban chấp hành Trung ương khoá 7, Hà Nội, 1994, tr.65).
ở nước ta công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa được coi là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ. Đảng ta đã xác định thực chất của công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa chính là “ quá trình thực hiện cách mạng kỹ thuật, thực hiện sự phân công mới về lao động xã hội là quá trình tích luỹ xã hội chủ nghĩa để không ngừng thực hiện tái sản xuất mở rộng”. (2)
Từ quan điểm này có một loạt giải thích về quá trìn2 Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần 3 của Đảng lao động Việt Nam, 1960, tr.182
h công nghiệp hoá. Cách phổ biến cho rằng: “Công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là quá trình xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, do giai cấp công nhân và nhân dân lao động thực hiện dưới sự chỉ đạo và tổ chức của nhà nước chuyên chính vô sản, sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa có nhiệm vụ đưa nền kinh tế nước ta từ nền sản xuất nhỏ tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa theo đường lối xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa của Đảng cộng sản Việt Nam. Qua đó làm nhà nước ta trở thành mọt nhà nước xã hội chủ nghĩa có kinh tế công nông nghiệp hiện đại, văn hoá và khoa học kỹ thuật tiên tiến, quốc phòng vững mạnh, cuộc sống văn minh hạnh phúc”.
Khi đề cập đến việc công nghiệp hoá chúng ta đề cập đến một thuật ngữ: “mô hình chiến lược phát triển” mà không phải ai cũng hiểu được rõ bản chất và lý lẽ của vấn đề. Thực ra bản chất của việc này không phải là giải thích luận giải về thuật ngữ này mà là ở nội dung cốt lõi của vấn đề.
bản thân của công nghiệp hoá là một quá trình nhiều mặt, bởi vậy mà chiến lược thực hiện cũng phải thể hiện tính toàn diện và tổng hợp của quá trình này. Từ thực tiễn của nhiều nước và đặc biệt là các nước công nghiệp phát triển đã thực hiện thành công quá trình công nghiệp hoá, người ta khái quát thành ba loại mô hình chiến lược phát triển như sau:
Chiến lược thay thế nhập khẩu (hướng nội)
Chiến lược hướng về xuất khẩu (hướng ngoại)
Chiến lược hỗn hợp (trung hoà)
Ba loại mô hình chiến lược này bao hàm những mặt sau:
- Công nghiệp hoá là quá trình trang bị và trang bị lại công nghệ hiện đại cho tất cả các ngành của nền kinh tế quốc dân, trước hết là các ngành chiếm vị trí trọng yếu. Thực hiện công nghiệp hoá trong điều kiện cách mạng khoa học kỹ thuật ngày nay. Quá trình trang bị này phải gắn liền với quá trình hiện đại hoá ở cả phần cứng và phần mềm của công nghệ. Quá trình này cũng đồng thời là quá trình xây dựng xã hội văn minh công nghiệp và cải biến các ngành kinh tế, các hoạt động theo phong cách của nền công nghiệp lớn hiện đại. Quá trình ấy phải làm cho nhịp độ tăng trưởng kinh tế xã hội nhanh và ổn định, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của mọi tầng lớp dân cư, thu hẹp chênh lệch trình độ kinh tế – xã hội của đất nước với các nước phát triển.
- Quá trình phát triển công nghệ không chỉ liên quan đến phát triển công nghiệp mà còn là quá trình bao trùm tất cả các ngành, các lĩnh vực hoạt động của một nước. Đó là lẽ tất yếu vì nền kinh tế của mỗi nước là một hệ thống thống nhất, các ngành các lĩnh vực hoạt động có quan hệ tương đối với nhau.
- Quá trình công nghiệp hoá trong bất kỳ giai đoạn nào đều là vừa quá trình kinh tế- kỹ thuật, vừa là quá trình kinh tế-xã hội. Hai quá trình này có quan hệ chặt chẽ với nhau và ràng buộc lẫn nhau. Quá trình kinh tế kỹ thuật tạo điều kiện vật chất kỹ thuật cho việc thực hiện các nội dung của quá trình kinh tế-xã hội. Ngược lại quá trình kinh tế-xã hội góp phần tạo nên động lực cho thực hiện quá trình kinh tế-kỹ thuật.
- Quá trình công nghiệp hoá cũng là quá trình mở rộng quan hệ quốc tế. Trong điều kiện ngày nay, mở rộng phân công lao động quốc tế và quốc tế hoá đời sống kinh tế trở thành xu hướng phát triển ngày càng mạnh mẽ. Mỗi nước trở thành một bộ phận của hệ thống kinh tế thế giới, có tác động tương hỗ ở mức độ khác nhau tới kinh tế của các nước khác nhau và chịu ảnh hưởng của biến động kinh tế thế giới. ở mỗi nước cần phải đặt sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước trong việc xây dựng hệ thống kinh tế mở, tăng cường quan hệ thương mại quốc tế, tham gia tích cực vào cuộc cạnh tranh và liên kết kinh tế quốc dân.
- Công nghiệp hoá không phải là mục đích tự thân, mà là một phương thức có tính chất phổ biến để thực hiện mục tiêu của mỗi nước. Mỗi nước hệ thống mục tiêu riêng của mình. Nhưng đa phần có những đặc điểm chung như: xây dung cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, khai thác có hiệu quả các nguồn lực của đất nước, bảo đảm nhịp độ tăng trưởng của đất nước và cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho các tầng lớp dân cư…
1.1.3.Tính tất yếu của quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá trong quá trình phát triển nền kinh tế:
Công nghiệp hoá và hiện đại hoá là một quy luật khách quan trong tiến trình phát triển của tất cả các nước chưa thoát ra khỏi tình trạng nông nghiệp lạc hậu muốn tạo ra một cơ sở vật chất – kỹ thuật hiện đại, bảo đảm cho tăng trưởng kinh tế nhanh, đồng bộ và bền vững, nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân.
Đối với nước ta, việc đi vào công nghiêp hoá và hiện đại hoá là đi vào một cuộc trường chinh mới với rất nhiều vận hội cơ may, nhưng cũng không ít những lo âu, bất trắc. Do hoàn cảnh chiến tranh mà nền kinh tế nước ta chậm hơn so với mặt bằng phát triển chung của thế giới rất nhiều lần.à việc các nước đế quốc có nền công nghệ phát triển đang có âm mưu biến các nước chậm phát triển thành bãi thải công nghệ của chúng là việc không phải không có hòng kìm hãm sự phát triển của các nước này để dễ bề thao túng bóc lột nền tài nguyên và nhân lực. Do đó để thành công trong việc công nghiệp hoá nước ta phải tận dụng ưu thế của người đi sau là tranh thủ thành tựu của khoa học kỹ thuật hiện đại nhưng chủ yếu vẫn phải đi lên bằng nội lực bằng sức mạnh trí tuệ, bằng tài nguyên con người của chính mình.
1.2. Vai trò của nhà nước trong quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá.
1.2.1.Tính tất yếu của sự quản lý của nhà nước trong quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá.
Theo xu thế tự nhiên của toàn thế giới, sự quản lý điều tiết của nhà nước vào nền kinh tế là một diều phù hợp với sự phát triển chung của thế giới. Nhà nước phải có sự điều tiết và can thiệp vào nền kinh tế nhằm kiểm soát, phát triển và định hướng nền kinh tế đi theo đúng với chủ trương của mỗi nước.
Trong quá trình thực hiện công cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hoá ở nước ta, sự quản lý của nhà nước là mang tính tất yếu và phù hợp với tiến trình phát triển của nền kinh tế. Nhà nước có vai trò quyết định trong việc định hướng cũng như thực hiện các bước. Bởi vì chỉ có nhà nước mới có thể quyết định tiêu chiến lược và kế hoạch tiến hành quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá trong từng giai đoạn. Chỉ có nhà nước mới có thể huy động và phân bổ tập trung các nguồn vốn và các nguồn lực cần thiết trong tiến trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá.
1.2.2. Vai trò của nhà nước xã hội chủ nghĩa trong quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá.
Kinh nghiệm trong quá trình công nghiệp hoá của nhiều nước đã khẳng định rằng nhà nước có vai trò quyết định trong việc tổ chức thực hiện quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá.
Vai trò quyết định của nhà nước ở Việt Nam trong việc tổ chức quản lý quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá nền kinh tế nước ta được thể hiện trước hết trên các mặt chủ yếu sau:
Quyết định mục tiêu, chiến lược và kế hoạch tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá nền kinh tế trong từng giai đoạn.
Quyết định việc tổ chức lực lượng để thực hiện thành công quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đặc biệt là phân công nhiệm vụ, phân phối nguồn lực, bố trí cán bộ và tổ chức bộ máy quản lý nhà nước.
Quyết định việc phối hợp và điều hoà các hoạt động của quá trình thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân theo mục tiêu và định hướng đúng đắn đã được xác định, vì quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá chỉ có thể thành công khi đạt được sự phối hợp đồng bộ cả chiều ngang và chiều dọc.
Quyết định việc tổ chức kiểm tra quá trình thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá nền kinh tế để phát hiện kịp thời những khó khăn, trục trặc, sai sót,lệch lạc mất cân đối. Quyết định đúng đắn việc điều chỉnh quá trình thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá là việc làm cần thiết và thường xuyên để cân đối lại, hoàn chỉnh, nâng cao chất lượng các hoạt động thực tiễn của các ngành, các địa phương và các cơ sở.
Vai trò của nhà nước còn thể hiện trong việc lựa chọn sử dụng các công cụ quản lý có hiệu lực như hệ thống pháp luật, các chính sách kinh tế – xã hội, đặc biệt là chính sách kinh tế đã tạo động lực mạnh nhằm thực hiện thành công công nghiệp hoá và hiện đại hoá.
Vai trò của nhà nước cũng cần thể hiện ở việc lựa chọn tối ưu các phương pháp quản lý quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá như phương pháp giáo dục thuyết phục và động viên, phương pháp tổ chức – hành chính; phương pháp kinh tế. Mỗi một phương pháp có vị trí quan trọng khác nhau trong quản lý quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá nền kinh tế, nhưng có quan hệ chặt chẽ với nhau tạo điều kiện cho nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển. Trong đó cần nhấn mạnh vai trò của phương pháp kinh tế trong toàn bộ quá trình công nghiệp hoá nền kinh tế. Để điều hành quá trình này nhà nước pháp quyền còn có vai trò quyết định trong việc lựa chọn phương pháp thực hiện. Thực tiễn cho thấy nước ta cần lựa chọn phương pháp kết hợp giữa tuần tự và nhảy vọt một cách thích hợp cho từng ngành từng lĩnh vực. Vai trò của nhà nước pháp quyền còn thể hiện ở việc lựa chọn đúng đắn cơ cấu tổ chức bộ máy có hiệu lực và bố trí hợp lý các cán bộ đầu ngành chủ chốt trong các cơ quan quản lý nhà nước. Trong quá trình thực hiện vai trò quyết định của mình , nhà nước cần lựa chọn và sử dụng đồng bộ các phương tiện quản lý hiện đại trong các cơ quan quản lý.
Chương 2
Thực trạng vai trò của nhà nước Việt Nam đối với quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá
2.1. Những kết quả bước đầu
Thực trạng công nghiệp hoá ở nước ta được thể hiện ở hai thời kỳ phát triển: trước đổi mới và từ sau đổi mới tới nay.
Kết quả của hai thời kỳ công nghiệp hoá là đã xây dựng được hệ thống các cơ sở sản xuất kinh doanh cho cách ngành kinh tế, địa phương, hình thành các ngành kinh tế, các khu cụm công nghiệp và một số công trình quan trọng làm cơ sở cho việc xây dựng và phát triển sau này. Đặc biệt là sau thời kỳ đổi mới kinh tế đến nay, bằng việc đổi mới cơ chế kinh tế vĩ mô (chính sách tài chính quốc gia), chính sách vi mô: giao ruộng đất khoán lâu dài cho các hộ nông dân – thực chất là chuyển quản lý sản xuất nông nghiệp từ hợp tác xã sang hộ kinh tế gia đình – là bước ngoặt về giải phóng sức sản xuất nông nghiệp, tạo điều kiện cho nền kinh tế nông nghiệp phát triển; mở rộng quyền tự chủ kinh doanh cho các doanh nghiệp quốc doanh tạo điều kiện cho các doanh nghiệp quốc doanh tự chủ, chủ động kinh doanh thích nghi với cơ chế thị trường. Thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần tạo điều kiện cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh được thành lập và tự do kinh doanh không hạn chế quy mô theo Luật doanh nghiệp tư nhân, Luật công ty.. Các chính sách trên đây đã tạo ra sự chuyển biến quan trọng cho việc ổn định kinh tế, chặn đứng lạm phát phi mã, chuyển dịch cơ cấu kinh tế của những năm 1991-1994 với tốc độ khá, đồng thời có tác động tích cực đến công nghiệp hoá. Khuyến khích các hộ kinh tế gia đình, tư nhân, các doanh nghiệp chủ động bỏ vốn đầu tư, thực hiện liên kết kinh doanh, chủ động huy động vốn để phát triển quy mô sản xuất, đổi mới công cụ, công nghệ, áp dụng công nghệ trong môi giới công nghiệp, trồng trọt, chăn nuôi, cải tiến công cụ và công nghệ.
Trong lĩnh vực ngoại thương, các chính sách đổi mới kinh tế đã từng bước chuyển từ chế độ nhà nước giữ độc quyền sang chế độ tự do hoá thương mại quốc tế . Trong những năm gần đây, một số nỗ lực chính sách trực tiếp khuyến khích xuất khẩu mạnh hơn bao gồm: thành lập các cục xúc tiến thương mại thuộc bộ thương mại, giao nhiệm vụ tìm kiếm và mở rộng thị trường cho các cơ quan ngoại giao ở nước ngoài, cải cách thủ tục hải quan và gần đây nhất là Luật hải quan đã được thông qua (tại kỳ họp thứ 9 quốc hội khoá X (6-2001))…
2.2. Những hạn chế cần khắc phục:
Trên đây là những kết quả sơ lược mà chúng ta đạt được nhưng không phải là không có những hạn chế cần phải khắc phục. Để xem xét thực trạng này chúng ta cần đánh giá qua “năm hoá” như sau:
Cơ khí hoá: Ngoài các cơ sở cơ khí có đầu tư của nhà nước với quy mô tương đối lớn còn các doanh nghiệp khác hầu như đều có quy mô vừa và nhỏ, công nghệ thấp và lạc hậu; có trình độ thua kém so với các nước tiên tiến từ 4-5 thế hệ. Quy mô sản xuất chưa lớn; sản phẩm cơ khí động lực, cơ khí công cụ, đặc biệt là cơ khí nhỏ cầm tay phục vụ cho kinh tế gia đình chưa nhiều, chưa đáp ứng được nhu cầu của nền kinh tế, của những đòi hỏi của các ngành sản xuất. Năng suất lao động chưa cao, giá thành sản phẩm còn đắt và chất lượng sản phẩm nhiều khi không được bảo đảm. Về hệ số sử dụng phương tiện, công cụ cơ khí, cơ giới rất thấp. Tính trung bình chỉ sử dụng 20-30% số đầu máy công cụ và máy có động cơ, còn lại đều trong tình trạng hư hỏng nặng, thiếu phụ tùng thay thế. Trình độ cơ khí hoá của một số ngành sản xuất nhìn chung còn rất thấp, dưới mức trung bình.
Tự động hoá: tình trạng chung về tự động hoá sản xuất là rất thấp. Tỷ lệ tự động hoá trong sản xuất còn rất thấp, nhất là trong nông nghiệp; cao nhất là trong công nghiệp thì tỷ lệ cũng không quá 7% (trong các xí nghiệp quốc doanh trung ương).
Hoá học hoá: mặc dù được xác định là quan trọng trong tiến trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá và cũng có được sự đóng góp tích cực vào nhiều ngành với nhiều ứng dụng nhưng nhìn chung việc đầu tư vào nghành hoá chất còn ít. Hoá học chưa thành nhân tố mũi nhọn cho sự phát triển kinh tế, tỷ trọng sản phẩm hoá học chỉ chiếm khoảng 5-6% trong tổng giá trị sản phẩm hàng hoá công nghiệp (đây là một nhược điểm của việc phát triển nền kinh tế thiếu đồng bộ của nước ta trong thời gian qua).
Sinh học hoá: Công nghệ sinh học áp dụng chưa được nhiều. Chỉ có một số ngành sản xuất non trẻ là có áp dụng của công nghệ sinh học vào sản xuất như: rượu bia, nước giải khát; trong công nghiệp phân bón vi sinh… Nhưng nói chung là tỷ lệ áp dụng chưa được cao
Tin học hoá: Trong khoảng thời gian gần đây, công nghệ tin học đã phát triển một cách khá nhanh và trở thành một ngành mũi nhọn, phát triển mạnh mẽ gắn kết thị trường. Tuy nhiên hệ thống thông tin tin học quy mô lớn của nước ta chưa nhiều nên việc phát triển của truyền thông dữ liệu còn bị hạn chế. Công nghệ thông tin chưa có cơ sở đáng kể, chủ yếu là lắp ráp phần cứng. Đa phần các thiết bị phải nhập ngoại.
Đây là thực trạng của quá trình công nghiệp hoá hiện nay của nước ta và ảnh hưởng trực tiếp đến tình trạng và kết quả này có một phần rất lớn của Đảng và nhà nước với các biện pháp, đường lối chính sách. Vấn đề cần xem xét trong phần này chính là thực trạng của vai trò nhà nước đối với sự phát triển của quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá.
Trước đổi mới, công nghiệp hoá được thực hiện trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, đo đếm các quá trình kinh tế chủ yếu bằng hiện vật. Khi chuyển sang cơ chế thị trường thì tính chất “mù quáng” này cũng bị triệt tiêu. Chuyển sang cơ chế thị trường, đảng và nhà nước đã có những bước đI khả quan nhưng xét về tổng thể và sự thể hiện vai trò của nhà nước đối với quá trình công nghiệp hoá thì chúng ta vẫn còn những bất cập:
Hành lang pháp lý của chúng ta vẫn còn tỏ ra yếu kém, vẫn còn những lỗ hổng để cho những tên buôn lậu, chốn thuế hoạt động ngang nhiên và nhức nhối. Các bộ luật và chính sách chưa thật sự phát huy hiệu lực và tạo điều kiện tốt nhất cho việc kinh doanh của các nhà đầu tư. Nhiều bộ luật bất cập và tỏ ra không phù hợp trong công cuộc hiện nay, nó tạo nhiều rào cản, phiền nhiễu trong kinh doanh và điều này làm cho chúng ta không phát huy hết tiềm năng của nền kinh tế.
Khâu quản lý nhà nước còn nhiều kẽ hở, tạo điều kiện cho những cán bộ tha hoá, những kẻ bất lương làm giầu một cách phi pháp. Tình trạng tham nhũng, suy thoái không nhỏ ở một số bộ phận những cán bộ, đảng viên là rất quan trọng và nhức nhối.
2.3.Nguyên nhân của thực trạng hiện nay:
Sở dĩ có tình trạng hiện nay là do những nguyên nhân khách quan và cả chủ quan (và đây là nguyên nhân chính). Ban chấp hành trung ương Đảng và nhà nước đã có sự xem xét và tự kiểm điểm, phê bình trước đại hội và trước toàn nhân dân về việc sai lầm và chậm khắc phục các khuyết điểm, làm chậm tiến trình, sai mục tiêu đã đề ra của chúng ta trong giai đoạn này. Một số quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước chưa được rõ ràng và chưa có sự thống nhất, thông suốt ở các cấp, các ngành; cải cách hành chính còn chậm chạp, thiếu kiên quyết và thiếu tính hiệu quả. Điều này dẫn đến sự bất hoà nội bộ cấp trên, chiếm quyền lạm chức của cấp dưới, tạo nên các ung nhọt trong nội bộ nhà nước ta.
Trong công cuộc xây dựng công nghiệp hoá và hiện đại hoá hiện nay lẽ ra vấn đề năng lực chất xám phải được đặt lên hàng đầu. Tuy nhiên hiện nay chính sách đãi ngộ trong khoa học còn bất hợp lý, lao động chất xám vẫn còn rẻ hơn lao động giản đơn. Điều kiện làm việc và hoạt động của các cán bộ khoa học còn chưa được bảo đảm. Đấy là tầng lớp trí thức nòng cốt của quốc gia thì vậy, còn đa phần trình độ dân trí, trình độ kỹ thuật và tay nghề lao động của công nhân, người lao động nước ta còn quá thấp, và chắc chắn là chưa tương xứng với tiến trình công nghiệp hoá hiện nay.
Thời gian chuyển đổi, công nghiệp hoá và hiện đại hoá của nước ta là còn ít. Thành công bước đầu không là không thể phủ nhận. Và mặc dù là một nước đi sau với rất nhiều lợi thế nhưng chúng ta vẫn phải có thời gian để thích ứng, hoà nhập và phát triển với cơ chế thị trường. Phải có thời gian để bỏ hẳn thói quen ỷ lại, lạc hậu của cơ chế cũ.
Và thời gian hội nhập chưa lâu cũng khiến cho chúng chưa có sự kiểm soát, tác động đúng mức của nhà nước vào nền kinh tế. Chúng ta vẫn còn rất nhiều sai sót trong khâu tổ chức, trong các bộ luật cũng như chính sách đối với thị trường. Và cần có thời gian và đúc kết kinh nghiệm thực tế để dần có sự điều chỉnh và hoàn thiện bộ máy nhà nước, cũng như các bộ luật của nước ta.
Chương 3
Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao vai trò của nhà nước đối với công nghiệp hoá và hiện đại hoá.
3.1.Những điều kiện tiền đề cho quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá
3.1.1.Nhân tố con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá
Trong công cuộc hiện nay chúng ta hoàn toàn nhất trí với nhau về vai trò quyết định của con người trong mối quan hệ với tài nguyên thiên nhiên, đất đai, vốn và kỹ thuật – công nghệ hiện đại. Chúng ta cũng nhấn mạnh rằng phải phát triển con người để tạo nguồn nhân lực cho quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước… Vấn đề tiếp theo là phải làm như thế nào để tạo ra được một hệ thống đồng bộ các cơ chế chính sách để có thể tích cực hoá nhân tố con người phấn đấu hết sức mình nhằm hoàn thành công cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
ở thời điểm hiện nay, vấn đề con người-nhân tố con người phải được chúng ta nhận thức một cách đúng đắn, đầy đủ và sâu sắc hơn. Nói đến phát triển con người không chỉ để tạo ra nguồn lực với nghĩa là tạo ra một lực lượng lao động có tay nghề cao , có trí tuệ sáng cao mà phải hiểu là để tạo ra nguồn lực con người trong mọi lĩnh vực nhằm đáp ứng một cách tốt nhất yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
Về nguồn lực con người, nhân tố đầu tiên có ý nghĩa quyết định thành công của công nghiệp hoá và hiện đại hoá là thành lập được một đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, có tầm tư duy chiến lược cao, có trí tuệ sáng suốt và trong sạch để định hướng đường lối chính sách đúng đắn, biết lựa chọn giải pháp, bước đi phù hợp. Đội ngũ cán bộ cũng phải có tính năng động sáng tạo trong tổ chức thực hiện , biết điều chỉnh kịp thời và giải quyết mâu thuẫn trong quá trình triển khai thực hiện, nhất là biết ứng phó thành công trước những biến động phức tạp của cơ chế thị trường.
Nhân tố tiếp theo có ý nghĩa quan trọng không kém là đội ngũ cán bộ khoa học – công nghệ có trình độ chuyên môn cao (cả về khoa học cơ bản và khoa học ứng dụng). Phải có những con người như vậy mới có khả năng tiếp cận các thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến của thế giới và biến những công nghệ đó thành của mình mà không hề chấp nhận là một bãi thải công nghệ của các nước phát triển. Chúng ta phải tạo ra được đội ngũ cán bộ đầu ngành để thúc đẩy được sự phát triển của ngành công nghiệp non trẻ của nước ta, mới có thể bồi dưỡng và tạo những thế hệ cán bộ khoa học kỹ thuật mới. Và chính đội ngũ cán bộ này sẽ là đảm bảo về cơ sở khoa học cho việc hoạch định chiến lược , đường lối phát triển và khả năng dự báo chính xác về những triển vọng cũng như những nguy cơ hậu quả có thể xảy ra cho chúng ta trong tương lai gần.
Nhân tố thứ ba là đội ngũ đông đảo cán bộ công nhân và người lao động đã qua đào tạo, có trình độ văn hoá, lao động và phẩm chất cao. Đây chính là đội ngũ trực tiếp tham gia vào quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
3.2. Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao vai trò của nhà nước đối với công nghiệp hoá và hiện đại hoá.
3.2.1.Đào tạo một đội ngũ cán bộ nhà nước có trình độ và chuyên môn cao và năng lực lãnh đạo tốt
Cán bộ quyết định tất cả là một nguyên lý luôn đúng trong mọi trường hợp. Do đó không có một đội ngũ cán bộ viên chức nhà nước giỏi, có phẩm chất tốt thì không thể có nền hành chính quốc gia vững mạnh. Họ là tầng lớp quyết định và là đầu tầu để tạo nên những lớp kế cận cho công cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Tất nhiên nhà nước phải tạo điều kiện và có những chính sách hỗ trợ kịp thời cho họ làm tròn nhiệm vụ và phát huy hết sức mạnh của mình.
Từ đó phải có mô hình đào tạo tổ chức cán bộ hành chính và nhà quản lý doanh nghiệp. Kết hợp các biện pháp khuyến khích tạo điều kiện tốt nhất và một môi trường hoạt động mạnh mẽ để nhằm phát huy hết tiềm lực của họ. Việc lựa chọn mô hình đào tạo thích hợp cho từng loại cán bộ là một vấn để nghiêm túc và không phải đơn giản, cần được nghiên cứu một cách nghiêm túc.
3.2.2.Nâng cao hiệu quả của các chính sách nhằm phát triển, thúc đẩy tiến trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá.
Chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế cho phù hợp với những bước đi chậm dãi và vững chắc của tiến trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Trong những năm trước mắt hiện nay, Đảng và nhà nước đã xác định cơ cấu ngành kinh tế nước ta là công nghiệp-nông nghiệp-dịch vụ. Theo phương hướng này chúng ta đẩy mạnh khai thác một cách có hiệu quả tiềm năng đa dạng của nước ta về nông lâm ngư nghiệp. ứng dụng một cách có hiệu quả các tiến bộ khoa học kỹ thuật để kết hợp hài hoà giữa công nghiệp và nông lâm ngư nghiệp.
Phát triển mạnh mẽ sản xuất hàng tiêu dùng thông thường để thoả mãn tiêu dùng cơ bản, thiết yếu và phổ thông của dân cư, hạn chế một cách tối đa nhập khẩu loại mặt hàng này.
Xây dựng, nâng cấp hệ thống kết cấu hạ tầng phục vụ cho việc phát triển kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân và thu hút hiệu quả đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam.
Chủ trương xây dựng một số ngành công nghiệp nặng có chọn lọc, tạo dựng một nền tảng vững chắc cho tiến trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá.
Kết hợp hài hoà các chính sách kinh tế như: chính sách thị trường, chính sách tài chính tiền tệ, chính sách nguồn nhân lực…
- chính sách làm cho các quan hệ thị trường phát huy tác dụng trong các lĩnh vực: hàng hoá, tiêu dùng, sản xuất và dịch vụ, tiền tệ và vốn, bất động sản,công nghệ…
- Chính sách tài chính tiền tệ làm đảm bảo sự ổn định giá trị đồng tiền, huy động, phân bổ và sử dụng các nguồn vốn có hiệu quả.
- Chính sách nguồn nhân lực đảm bảo cho giáo dục đào tạo, sử dụng các nguồn nhân lực có hiệu quả cao nhất.
Ngoài ra còn có chính sách xã hội và môi trường nhằm đảm bảo sự công bằng, tiến bộ, an toàn, ổn định xã hội và hạn chế tình trạng ô nhiễm môi trường. Chính sách kinh tế đối ngoại đảm bảo sự thông thương quan hệ thương mại với bên ngoài và có sức hấp dẫn đối với các nguồn vốn bên ngoài.
Tất cả các chính sách trên nhằm vào các mục tiêu chủ yếu như:
- Định hướng quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá đã được xác định là xây dựng một xã hội dân giầu nước mạnh, công bằng và văn minh. Tiếp đó là định hướng vào xuất khẩu có tính đến những nhu cầu của thị trường trong nước. Và định hướng vào việc giữ vai trò chủ đạo đồng thời khuyến khích các thành phần kinh tế tư nhân hợp tác, tự do phát triển trong các lĩnh vực được phép. Một định hướng nữa là tập trung vào các nguồn vốn đầu tư của nhà nước vào việc xây dựng các cơ sở hạ ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34625.doc