Phần I. Mở đầu
Đây là lần thứ hai tôi viết một bài tiểu luận. Không còn bỡ ngỡ như lần đầu khi viết bài tiểu luận triết học, nhưng tôi lại cảm thấy như có một sức ép về tâm lý thôi thúc tôi phải làm thật hay, thật ấn tượng. Mỗi sinh viên sẽ có một cách thể hiện riêng, một ý tưởng riêng. Ngoài những kiến thức tiếp thu thầy cô chỉ bảo ở trên lớp, mỗi sinh viên còn phải tham khảo còn phải tham khảo thêm rất nhiều tài liệu để thu thập thêm kiến thức nhằm học hỏi, khám phá những gì còn là bí ẩn. Cơ
19 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2060 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hội để chứng tỏ điều này chính là những bài tiểu luận ở cuối mỗi môn học hay đúng hơn là một đề tài nghiên cứu riêng của từng sinh viên, khả năng vận dụng vào thực tế, đi sâu nghiên cứu tìm tòi trên cơ sở những kiến thức mà mình đã có. Tuy nhiên, để làm một cái gì đó thật ấn tượng thì không phải ai cũng làm được, nhưng tôi sẽ cố gắng hết mình dù cho kết quả đến đâu thì tôi sẽ không phải hối hận vì những gì mình đã làm.
Việt Nam đang trên chặng đường đầu của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, không qua chế độ tư bản chủ nghĩa, nền kinh tế còn tồn tại nhiều thành phần, nhiều thiếu xót còn tồn tại trong thời kì đã qua, còn rất nhiều điều phải làm khi muốn vươn tới một nền kinh tế thực sự ổn định và vững mạnh, chính vì vậy:”Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt nam là rất quan trọng”. Đây là một đề tài mà rất nhiều người quan tâm, bao gồm cả những người thuộc Chính phủ, do vậy nó vừa dễ, lại vừa khó, dễ ở chỗ có rất nhiều tài liệu mội người dều biết, đều hiểu và quan tâm, cò khó thì cũng chính là ở chỗ đó.
Khi đề cập đến vấn đề mà mọi người rất quan tâm, tôi biết mình đang đứng trước một thử thách khó khăn, nhưng với những gì mà thầy cô giáo đã truyền dạy tôi sẽ cố gắng hết sức mình để có một bài tiểu luận thật hay, thật ấn tượng để thể hiện đúng sự hiểu biết của chính mình, tuy nhiên với một sinh viên năm thứ hai như tôi khi làm một bài tiểu luận rất được nhiều người quan tâm tôi sẽ không tránh khỏi những thiếu xót trong khi làm bài. Qua đây tôi cũng xin chân thành cảm ơn thầy giáo Đỗ Quốc Hùng cùng toàn thể các thầy cô trong khoa KTCT đã giúp đỡ tôi hoàn thành bài tiểu luận này. Cảm ơn những tác giả của những tài liệu mà tôi tham khảo trực tiếp cũng như gián tiếp giúp đỡ tôi hoàn thành đề án này.
Sinh viên: Nguyễn Mạnh Cường
Phần II. Nội dung
I.Tính tất yếu khách quan vai trò can thiệp của Nhà nước đối với nền kinh tế
1.Sự hình thành và phát triển vai trò kinh tế của Nhà nước
a.Trong giai đoạn tự do cạnh tranh của CNTB.
* Các học thuyết của chủ nghĩa trọng thương.
Chủ nghĩa trọng thương (CNTT) là một học thuyết kinh tế lần đầu tiên nghiên cứu về mặt lý luận của phương thức sản xuất TBCN, không những thế nó còn là một đường lối kinh tế của chủ nghĩa tư sản trong thời kỳ tích luỹ nguyên thuỷ. Tư tưởng xuất phát của CNTT cho rằng tiền là nội dung căn bản của của cải, là tài sản thật của mỗi quốc gia. Do đó mục đích chủ yếu trong các chính sách kinh tế của mỗi nước là phải tăng được khối lượng tiền tệ của quốc gia. Họ quan niệm một nước càng có nhiều tiền (vàng) thì càng giàu có. Còn hàng hoá chỉ là phương tiện để tăng thêm khối lượng tiền mà thôi. Nó đã biết lợi dụng Nhà nước để làm giàu, thông qua các chính sách kinh tế, các luật về kinh tế để làm tăng lượng tiền trong nước. Trong giai đoạn đầu (TK XV-XVI), tư tưởng chủ yếu là “bảng cân đối tiền tệ”. Họ dùng các chính sách ngăn chặn không cho tiền ra khỏi quốc gia, bắt các thương nhân nước ngoài mua hết số tiền mà họ đã bán hàng ở nước của mình, Nhà nước ban hành những luật lệ, chính sách cấm xuất tiền. Còn ở giai đoạn sau (TK XVII) thì tư tưởng chủ yếu là “bảng cân đối thương mại”. Họ mong bán hàng ra với số tiền nhiều hơn số tiền mua hàng, để thực hiện chính sách này, Nhà nước đã đặt ra hàng loạt các chính sách ngoại thương nhằm đạt mục đích đó.
Như vậy, đặc điểm lý luận của CNTT là họ chưa biết và không thừa nhận quy luật kinh tế. Họ đánh giá cao các chính sách kinh tế của Nhà nước, dựa vào Nhà nước vì họ cho rằng chỉ có dựa vào Nhà nước mới có thể phát triển được kinh tế
*Trường phái cổ điển và tân cổ điển.
Trong trường phái này, điển hình là lý luận của Adam Smith , ông cho rằng hoạt động kinh tế của con người là hoạt động tự do, do “bàn tay vô hình” hay quy luật khách quan chi phối. Nền kinh tế phải được phát triển trên cơ sở tự do kinh tế. Hoạt động sản xuất và lưu thông hàng hoá được phát triển theo sự điều tiết của bàn tay vô hình. Nhà nước không nên can thiệp vào kinh tế. Vai trò kinh tế của Nhà nước được thể hiện khi những nhiệm vụ kinh tế vượt quá sức của các doanh nghiệp.
b. Trong giai đoạn CNTB hiện đại
* Học thuyết của J.M.KEYNES
Vào những năm 30 của thế kỷ XX, khủng hoảng kinh tế, thất nghiệp diễn ra thường xuyên và nghiêm trọng. Các học thuyết kinh tế ở các giai đoạn trước không đảm bảo cho nền kinh tế phát triển lành mạnh, thay vào đó là lý thuyết về “Bàn tay hữu hình” của KEYNES. Theo ông, để bảo đảm cho sự cân bằng kinh tế, khắc phục thất nghiệp và khủng hoảng thì không thể dựa vào cơ chế thị trường tự điều tiết mà cần có sự can thiệp của Nhà nước vào kinh tế để tăng cường có hiệu quả, kích thích tiêu dùng và sản xuất, kích thích đầu tư cơ bản để đảm bảo việc làm và tăng thu nhập. Vì vậy ông đề nghị Nhà nước phải có các chính sách như : duy trì cầu đầu tư, đưa tiền tệ vào lưu thông, in thêm tiền giấy, coi trọng hệ thống thuế khoá và công trái Nhà nước.
Như vậy, ta thấy rằng ông đánh giá rất cao vai trò kinh tế của Nhà nước và các chính sách kinh tế của Nhà nước tới nền kinh tế của một quốc gia.
*Chủ nghĩa tự do mới.
Chủ nghĩa tự do mới là lý thuyết tư sản coi nền kinh tế TBCN là hệ thống tự động do quy luật kinh tế khách quan tự điều tiết. Nó áp dụng và kết hợp tất cả các quan điểm cũng như phương pháp luận của trường phái KEYNES và chủ nghĩa tự do cũ để điều tiết hình thái kinh tế TBCN. Tư tưởng của họ là tự do kinh doanh, vai trò của Nhà nước chỉ ở mức độ nhất định.
*Trường phái chính hiện đại.
Những bàn tay vô hình đôi khi cũng đưa nền kinh tế tới những sai lầm. Nó chính là những khuyết tật trong nền kinh tế. Những khuyết tật này có thể do tác động bên ngoài gây nên. Để đối phó với những khuyết tật, các nhà kinh tế hiện đại phối hợp giữa bàn tay vô hình và bàn tay hữu hình của thuế khoá, chi tiêu và luật lệ của chính phủ. Theo quan điểm của trường phái chính hiện đại thì chính phủ trong nền kinh tế thị trường có 4 chức năng sau :
- Thiết lập khuôn khổ pháp luật bao gồm các nguyên tắc quy định về hoạt động kinh doanh, luật pháp về kinh tế.
- Chính phủ sữa chữa những thất bại của thị trường để thị trường hoạt động có hiệu quả.
- Đảm bảo sự công bằng cho xã hội.
- Ôn định kinh tế vĩ mô.
Theo các nhà kinh tế trường phái chính hiện đại vai trò của Nhà nước và các chính sách kinh tế của Nhà nước là rất quan trọng, với tác động của nó có thể làm cho nền kinh tế thị trường phát triển một cách hoàn chỉnh hơn, hạn chế và sửa chữa những khuyết tật của thị trường.
c.Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò kinh tế của Nhà nước.
Theo Mac-Lênin, cơ chế thị trường là cơ chế tốt nhất điều tiết nền kinh tế hàng hoá một cách có hiệu quả, tuy nhiên cơ chế thị trường cũng có một loạt những khuyết tật. Vì vậy, ở tất cả các nước mà nền kinh tế do cơ chế thị trường điều tiết đều có sự can thiệp của Nhà nước để đảm bảo nền kinh tế vận hành theo các quy luật kinh tế khách quan kết hợp với các chính sách kinh tế thích hợp. Bảo đảm thị trường thống nhất, mở rộng các mục tiêu tăng trưởng, hiệu quả, ổn định và cân bằng. Nhà nước dùng luật pháp, kế hoạch định hướng và chính sách kinh tế dẫn dắt thị trường phát triển lành mạnh, dùng chính sách phân phối và điều tiết để đảm bảo phúc lợi cho toàn dân và thực hiện công bằng xã hội.
2. Sự hình thành, phát triển vai trò kinh tế của Nhà nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam.
a. Mô hình kinh tế chỉ huy.
Đặc trưng của nền kinh tế chỉ huy là nền kinh tế bị hiện vật hoá, tư duy hiện vật, chỉ có sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là phổ biến, nền kinh tế khép kín với cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung cao độ. Vai trò người tiêu dùng bị hạ thấp, hệ thống quản lý quan liêu tỏ ra không có khả năng gắn sản xuất với nhu cầu. Kinh tế chỉ huy tuy đã có tác dụng trong điều kiện chiến tranh nhưng khi chuyển sang xây dựng và phát triển kinh tế, chính mô hình đó đã tạo ra nhiều khuyết tật : nền kinh tế không có động lực, không có sức đua tranh, không phát huy được tính chủ động sáng tạo của người lao động, của các chủ thể sản xuất - kinh doanh, sản xuất không gắn với nhu cầu, ý chí chủ quan đã lấn át khách quan và triệt tiêu mọi động lực và sức mạnh nội sinh của bản thân nền kinh tế.
b. Mô hình kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Mô hình kinh tế chỉ huy đã kìm hãm sự phát triển kinh tế của đất nước, đi ngược lại với các quy luật kinh tế khách quan. Vì vậy, tất yếu mô hình kinh tế mới xuất hiện với nhiều ưu điểm, đó là mô hình kinh tế thị trường với sự quản lý của Nhà nước. Mô hình này có những đặc trưng cơ bản như: Phát triển kinh tế hàng hoá, mở rộng thị trường, tự do kinh doanh, tự do thương mại, tự định giá cả, đa dạng hoá sở hữu, phân phối do quan hệ cung cầu. Đó là cơ chế hỗn hợp “có sự điều tiết vĩ mô” nhằm khắc phục những khuyết tật của mô hình kinh tế chỉ huy. Mô hình này ảnh hưởng lớn đến đời sống kinh tế, xã hội, môi trường... nên nó đòi hỏi có sự can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế để đảm bảo sự ổn định, công bằng và hiệu quả. Sự can thiệp của Nhà nước một mặt nhằm định hướng thị trường nhằm phục vụ tốt các mục tiêu kinh tế xã hội trong từng thời kỳ, mặt khác nhằm sửa chữa, khắc phục những khuyết tật vốn có của kinh tế thị trường.
II. Đặc điểm kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam.
1. Đặc điểm chung của nền kinh tế thị trường.
Chuyển nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN là yêu cầu khách quan nhằm phát triển lực lượng sản xuất xã hội. Quá trình chuyển đỏi nền kinh tế nước ta sang nền kinhtế thị trườngtất yếu phải đòi hỏi nghiên cứu những đặc trưng của mô hình kinh tế hướng tới. Nếu tính đến những đặc trưng chung nhất, vốn có của nền kinh tế, có những đặc điểm mang tính phổ biến sau:
*Một là: Tính tự chủ của cấc chủ thể kinh tế rất cao.
Các chủ thể tự bù đắp những chi phí và tự chịu trách nhiệm đối cới kết quả sản xuất và kinh doanh của mình. Các chủ thể kinh tế được tự do liên kết, liên doanh, tự do tổ chức quá trình sản xuất theo luật định. đây là đặc trưng rất quan trọng của kinh tế thị trường. Đặc trưng này xuất phát từ những điều kiện khách quan của việc tồn tại nền kinh tế hàng hoá, đồng thời cũng là biểu hiện và là yêu cầu nội tại của nền kinh tế thị trường
*Hai là: Hàng hoá đa dạng phong phú.
Người ta tự do mua, bán hàng hoá. Trong đó người mua chọn ngươi bán, người bán tìm người mua. Họ gặp nhau ở giá cả thị trường. Đặ trưng này phản ánh tính ưu việt hơn hẳn của kinh tế thị trường so với kinh tế tự nhiên.
Sự đa dạng và phong phú về số lượng và chủng loại những loại hàng hoá trên thị trường , một mặt phản ánh trình độ của năng suất lao động xã hội, mặt khác cũng nói lên mức độ phát triển của quan hệ trao đổi, trình độ phân công lao động xã hội và sự phát triển của thị trường.
*Ba là: Tự do hoá giá cả.
Giá cả thị trường vừa là biểu hiện bằng tiền của giá thị trường, và chịu sự tác động của quan hệ cạnh tranhvà quan hệ cung cầu hành hoá và dịch vụ. Trên cơ sở giá thị trường, giá cả là kết quả của sự thương lượng và thoả thuận giữa người mua và người bán. Đặc trưng này phản ánh yêu cầu của quy luật lưu thông hàng hoá. TRong quá trình trao đổi mua bán hàng hoá, người bán luôn muốn bán với giá cao, người mua lại luôn muốn mua với giá thấp. Đối với người bán, giá cả phải đáp ứng nhu cầu bù đắp được chi phí và có doanh lợi. Chi phí là phần dưới của giá cả còn doanh lới càng nhiều càng tốt. Đối với người mua, giá cả phải phù hợp với lợi ích giới hạn của họ. Giá cả thị trường dung hoà được giữu lợi ích của người mua lẫn lợi ích của người bán. Cuộc giằng co sẽ nghiêng về người bán, nếu như cung ít hơn cầu và ngược lại.
*Bốn là: Cạnh tranh là một tất yếu của kinh tế thị trường.
Nó tồn tại trên cơ sở những đơn vị sản xuất hàng hoá độc lập và khác nhau về lợi ích kinh tế. Theo yêu cầu của quy luật giá trị, tất cả các đơn vị sản xuất hàng hoá đều phải sản xuất và kinh doanh trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết. Trong điều kiện đó, muốn có nhiều lợi nhuận các đơn vị sản xuất kinh doanh phảiđua nhau cải tiến kĩ thuật, áp dụnh kĩ thuật mới vào sản xuất để nâng cao năng suất lao độnh cá biệt, giảm hao phí lao động cá biệt nhằm thu lợi nhuận iêu ngạch.
Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh diễn ra một cách phổ biến cả trong lĩnh vực sản xuất và trong lĩnh vực lưu thông. Cạnh tranh trong lĩnh vực sản xuất bao gồm: cạnh tranh nội bộ ngành và cạnh tranh giữa các ngành. Cạnh tranh trong lĩnh vực lưu thông bao gồm: cạnh tranh giữa những người tham gia vào trao đổi hàng hoá và dịch vụ trên thị trường (người bán với người bán, người mua với người mua). Hinh thức và những biện pháp cạnh tranh có thể rất phong phú nhưng động lực và mục đích cuối cùng của canh tranh chính là lợi nhuận.
*Năm là: Kinh tế thị trường là hệ thống kinh tế mở.
Nó rất đa dạng, phức tạp và được diều hành bởi hệ thống tiền tệ và hệ thống pháp luật Nhà nước.
2. Định hướng XHCN
a. Mục đích
KTTT ở Việt Nam sẽ được phát triển theo định hướng XHCN. Đó là sự định hướng của một xã hội mà sự hùng mạnh của nó nhờ vào sự giàu có và hạnh phúc của dân cư. Xã hội không có chế độ người bóc lột người, dựa trên cơ sở “nhân dân lao động làm chủ, con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm lo, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn dân". Xã hội có nền kinh tế phát triển cao trên cơ sở khoa học, công nghệ và lực lượng sản xuất hiện đại.
Mục tiêu của chiến lược phát triển KTTT định hướng XHCN được xác định: Tạo ra sự phát triển năng động, hiệu quả cao của nền kinh tế. Nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực hiện có, tăng thêm các nguồn lực mới bằng cách nâng cao tỷ lệ tiết kiệm, tăng tích luỹ và đầu tư hiện đại hoá, đổi mới cơ cấu kinh tế, tạo ra tốc độ tăng trưởng kinh tế cao... để đưa nước ta thoát khỏi tình trạng nghèo và kém phát triển.
b. Về sở hữu
KTTT ở các nước trên thế giớivề thức chất là mô hình đa sở hữuvà nhấn mạnh đến tầm quan trọng của sở hữu tư nhân. Cốt lõi của kinh tế thị trường là sự trao đổi, mua bán hàng hoá, dịch vụ trên nguyên tắc bình đẳng các bên đều có lợi. Sự trao đổi đảm bảo nguyên tắc trên chỉ xẩy rakhi mọi chủ thể tham gia thị trường ý thức rõ ràng về nguyên tắccủa sở hữu của vật đem trao đổi, cũng như lợi ích từ trao đổi. Nếu không sự trao đổi sẽ bị lạm dụngvà trở thành đối tượng của sự tham ô hay cướp đạt của cải của người khác, chủ thể khác.
Nền KTTT định hướng XHCN cũng dựa trên nhiều hình thức sở hữu đa dạng như: sở hữu nhà nước và toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu và tư nhân hỗn hợp, song nhấn mạnh đến vai trò nền tảng của sở hữu Nhà nướcvà sở hữu tập thể. Nhà nước thừa nhận và đảm bảo bằng pháp luật không chỉ sở hữu toàn dân, nhà nước, mà cả sở hữu tư nhân về tiền vốn, của cải để dành và các tài sản hợp pháp khác.Sở hữu tư nhân cũng như sự tồn tại của kinh tế tư nhân không bị giới hạn về mức độ, phạm vi hay quy mô (trừ lĩnh vực pháp luật cấm). Sở hữu tập thể và kinh tế hợp tác tự nguyện được khuyến khích và hỗ trợ
c. Cơ chế quản lý
Cơ chế vận hành nền KTTT định hướng XHCN là CCTT có sự quản lý của Nhà nướcdưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt nam. Cỏ chế đó đảm bảo tính hướng dẫn, điều khiển hướng tới đích XHCN của nền kinh tế theo phương châm: Nhà nước điều tiết vĩ mô, thị trường hướng dẫn doanh nghiệp.Cơ chế vận hành nền KTTT định hướng XHCN nêu trên thể hiện rõ các mặt cơ bản:
*Một là, nhà nước XHCN- nhà nước của dân, do dân và vì dân, là nhân tố đóng vai trò" nhân vật trung tâm" và điều tiết nền kinh tế vĩ mô nhằm:
- Tạo dựng và bảo đảm môi trường pháp lý, kinh tế... thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động theo cơ chế thị trường
- Thực hiện chính sách xã hội, bảo đảm công bằng xã hội
- Can thiệp trực tiếp vào các hoạt động kinh tế nhằm đạt được các mục tiêu đề ra
* Hai là,cơ chế thị trường là nhân tố trung tâmcủa nền kinh tế, đóng vai trò "trung gian" giữa nhà nước và doanh nghiệp.
d. Cơ chế phân phối thu nhập.
Sự thành công của nền KTTT định hướng XHCN, không chỉ dừng lại ở tốc độ tăng trưởng kinh tế, mà còn phải không ngừng nâng cao đời sống nhân dân,đảm bảo tốt các vấn đề xã hội và công bằng bình đẳng trong xã hội.Thể hiện đặc trững xã hội trong nền KTTT là:
- Xác định các chỉ tiêu cần đạt đượccủa nên KTTT, như tốc độ tăng trưởng GDP; các chỉ tiêu về phát triển giáo dục, y tế, việc làm,về xoá đói giảm nghèo, về văn hoá xã hội, đảm bảo môi trường, môi sinh
- Nâng cao chức năng của nhà nước XHCN trong cơ chế bảo hiểm xã hội, trong chính sách phân phối thu nhập, đồng thời có chính sách bảo đảm xã hội đối với những đối tượng đặc biệt...
Tình hình đó đặt ra cho nền KTTT định hướng XHCN phải thực hiện hài hoà ba vấn đề sau:
- Kết hợp vấn đề lợi nhuận với vấn đề xã hội.
- Kết hợp chặt chẽ những nguyên tắc phân phối của CNXH và nguyên tắc KTTT.
- Điều tiết phân phối thu nhập, một mặt đòi hỏi nhà nước phải có chính sách sao cho giảm bớt khoảng cách chênh lệchgiữa người giầu và người nghèo... mặt khác, phải có chính sách , biện pháp nâng cao thu nhập chính đáng của người giầu, người nghèo và của toàn xã hội.
III.Vai trò chức năng kinh tế của Nhà nước
1. Vai trò
Vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước bắt nguồn từ sự cần thiết phải phối hợp hoạt động chung và do các tính chất xã hội hoá quy định. Lực lượng sản xuất ngày càng phát triển, trình độ xã hội hoá ngày càng rộng và mức độ đổi mới càng cao. Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường được thực hiện qua các chức năng cơ bản sau :
a. Định hướng phát triển
Có thể nói vận mệnh của nền kinh tế phụ thuộc rất lớn vào sự định hướng của Nhà nước. Nếu Nhà nước ta đi chệch hướng thì dù chúng ta có làm tốt đến đâu thì kết quả cũng chỉ là con số không và còn tệ hơn đó nữa. Vì vậy đòi hỏi Nhà nước chúng ta phải nắm bắt các quy luật vận động và phát triển của nền sản xuất xã hội và có thể biết được các biến động có thể xảy ra, từ đó đưa ra những ưu sách nhằm tác động, khống chế, điều tiết các sự việc xấu có thể xảy ra. Và cũng qua đó đem ra những quyết định đúng đắn về con đường mà chúng ta sẽ đi sao cho nó phù hợp với quy luật nhưng lại hạn chế những sự việc xấu có thể xảy ra ở mức tối thiểu nhằm mục đích đẩy mạnh sự phát triển của nền kinh tế nước nhà.
b. Thiết lập khuôn khổ pháp luật
Chức năng này có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế. Nhà nước đề ra các quy tắc, các trò chơi kinh tế mà các doanh nghiệp, người tiêu dùng và cả bản thân chính phủ cũng phải tuân thủ. Nó bao gồm những quy định về tài sản, các quy tắc về hợp đồng và hoạt động kinh doanh, các trách nhiệm tương hỗ của các liên đoàn lao động, ban quản lý và nhiều luật lệ để xác định môi trường kinh tế.
Về nhiều mặt, các quyết định của khuôn khổ pháp luật xuất phát từ những mối quan hệ vượt ra ngoài lĩnh vực kinh tế đơn thuần. Các luật lệ đưa ra nhằm đáp ứng những giá trị và quan điểm được đồng tình rộng rãi về sự công bằng hơn là qua một sự phân tích kinh tế được mài dũa rất cẩn thận về chi phí và lợi lộc. Những khuôn khổ pháp luật có thể tác động sâu sắc đến các ứng xử kinh tế của con người.
c. Điều phối, điều tiết mọi hoạt động của nền kinh tế
Nhà nước cần sửa chữa những khiếm khuyết của thị trường để thị trường hoạt động có hiệu quả bằng hình thức điều phối, điều tiết mọi hoạt động cũng như vật chất một cách hợp lý, phù hợp với điều kiện địa lý và môi trường sống để hạn chế những sự lãng phí không cần thiết từ đó nâng cao hiệu quả kinh tế.
d. Đảm bảo sự công bằng trong xã hội
Nhà nước phải vừa đảm bảo ổn định xã hội vừa không làm triệt tiêu tính tích cực sản xuất kinh doanh của các thành viên trong xã hội. Để thực hiện chức năng này, một mặt Nhà nước phải tạo ra những cơ sở về tổ chức để mọi người có cơ hội ngang nhau và đều được hưởng phần tương xứng với kết qỉa lao động và phần đóng góp của mình. Mặt khác trong điều kiện hoạt động hoàn hảo nhất, lý tưởng nhất của cơ chế thị trường, vẫn phải thấy rằng sự phân hoá, bất bình đẳng sinh ra từ kinh tế thị trường là tất yếu. Một hệ thống thị trường có hiệu quả vẫn có thể xảy ra những bất bình đẳng lớn. Vì vậy chính phủ cần thiết phải thông qua những chính sách để phân phối lại thu nhập lớn hơn người nghèo mà điển hình là giá điện loại hai
Bên cạnh đó còn phải có hệ thống hỗ trợ thu nhập để giúp đỡ cho người già, người tàn tật, người không nơi nương tựa.
e. Kiểm soát ổn định kinh tế vĩ mô
Nhà nước cần phải sử dụngquyền lực của mình một cách thận trọng gián tiếp thông qua luật pháp để kiểm soát nền kinh tế một cách có hiệu quả nhằm ổn định nền kinh tế. Vì một nền kinh tế phát triển thì trước hết mức độ dao động của nó phải thấp, đều và hiện có xu hướng phát triển
2. Chức năng
a. Luật pháp
Nhà nước tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho các cá nhân, các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế hoạt động. ở nước ta hiện nay, các cá nhân, các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế được quyền tự chủ sản xuất kinh doanh; các cá nhân, các doanh nghiệp khi lựa chọn phương án sản xuất kinh doanh đều lấy lợi nhuận làm thước đo hiệu quả, đồng thời làm mục tiêu định hướng các hoạt động kinh tế của mình. Tất nhiên, tự chủ kinh doanh theo pháp luật và mọi hành vi đều phải tuân theo pháp luật. Do đó, Nhà nước phải ban hành một hệ thống pháp luật đầy đủ và đồng bộ như : luật về các quyền (sở hữu, sử dụng, thừa kế...), luật hợp đồng, luật thương mại...
b. Chiến lược kinh tế và kế hoạch định hướng.
c. Các chính sách kinh tế và xã hội.
* Tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất hàng hoá nhiều thành phần phát triển. Chúng ta thấy mỗi cơ chế kinh tế chỉ có thể hoạt động khi có môi trường với những điều kiện kinh tế - xã hội cần và đủ. Thực tiễn cho thấy rằng con đường lịch sử tự nhiên của các nước có nền kinh tế thị trường phát triển rất lâu dài. Ngày nay khi kinh nghiệm lịch sử của các nước đã trở thành lý luận, các nước đi sau có thể rút ngắn chặng đường phát triển của mình chỉ bằng cách Nhà nước chủ động sử dụng kiến trúc thượng tầng - quyền lực Nhà nước để tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp yên tâm đầu tư, mở rộng phát triển sản xuất. Để hoàn thành vai trò của mình thông qua chức năng quản lý vĩ mô Nhà nước ta sẽ làm và đã làm.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình tự do hoá giá cả thương mại hoá nền kinh tế.
- Quy định và bảo đảm các quyền của người chủ sở hữu về tư liệu sản xuất.
- Đa dạng hoá chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất.
Trong nền kinh tế thị trường, sự khác nhau về sở hữu của cải, về năng lực sở trường trình độ tay nghề và may mắn dẫn đến sự khác nhau trong thu nhập. Nhà nước cần phải lựa chọn phương án phân phối lại như thế nào để cho các hoạt động kinh tế có hiệu quả trong sự bất bình đẳng cho phép.
* Quản lý tài sản quốc gia, phân bố các nguồn lực một cách hợp lý
Trong nền kinh tế thị trường hướng tới ở nước ta, Nhà nước cùng một lúc phải hoàn thành hai nhiệm vụ lớn trong lĩnh vực kinh tế.
Điều khiển sự vận động của nền kinh tế bằng cách hoạch định các chiến lược phát triển kinh tế xã hội bằng cách hoạch định các chiến lược kinh tế và xã hội dài hạn và ngắn hạn. Quyết định các phương án phân phối và phân phối lại thu nhập quốc dân sao cho bình đẳng công bằng, hiệu quả tạo môi trường thuận lợi, hướng dẫn cho các doanh nghiệp làm ăn, can thiệp vào nền kinh tế mỗi khi có “cú sốc” để làm giảm các chấn động mục tiêu hiệu quả để đạt được mục đích chung của toàn xã hội.
Cùng với chức năng điều khiển nền kinh tế, Nhà nước còn phải đóng vai trò người quản lý tài sản quốc gia, phân bố các nguồn lực của sản xuất một cách hợp lý.
Nhà nước là người thay mặt nhân dân quản lý các đặc quyền đặc lợi về kinh tế trong lĩnh vực quốc gia. Về mặt đối ngoại Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm về các nguồn lực, ngăn chặn mọi âm mưu từ bên ngoài đến các vùng đặc quyền đặc lợi trong vùng đất, vùng trời và vùng biển. Về mặt đối nội, Nhà nước là người chủ sở hữu các nguồn lực này, phân bố sử dụng giữa các thành phần kinh tế sao cho hợp lý.
Đồng thời Nhà nước còn là chủ sở hữu của khu vực doanh nghiệp nhà nước, với tư cách là chủ sở hữu của doanh nghiệp Nhà nước. Nhà nước quản lý trực tiếp và đóng vai trò độc quyền ở các thị trường quan trọng, quyết định sự tồn tại của thể chế, với tư cách là người chủ quản lý đất nước. Nhà nước là người trọng tài, là chủ thể quá trình phân công lại vai trò giữa các thành phần kinh tế, không làm ảnh hưởng đến lợi ích chung của toàn xã hội.
d. Các công cụ kinh tế khác.
IV. Phương hướng cải cách bộ máy nhà nước:
Trong thời đại ngày nay, việc nâng cao vai trò quản lý của nhà nước là xu hướng khách quan đối với tất cả các nước không phân biệt chế độ chính trị. Ngày nay, không có một nhà nước nào đứng ngoài đời sống kinh tế, không có một nền kttt nào thuần tuý mà ở những mức độ khác nhau đều có sự can thiệp của nhà nước.
Mỗi quốc gia, trong các trường hợp kinh tế phát triển thành công hay suy thoái trì trệ, giàu hay nghèo, ổn định hay rối loạn đều tìm thấy nguyên nhân chủ yếu ở vai trò của nhà nước. Vì thế chuyển sang kinh tế thị trừng chỉ là điều kiện cân, điều kiện đủ chính là vai trò của nhà nước. Ơ nước ta quản lý nhà nước về kinh tế là sự quan tâm đặc biệt của đảng và nhà nước và tất cả chúng ta. Vì trong một thời gian dài đã tồn tại trong kinh tế hiện vật với sự cường điệu quá mức vai trò của nhà nước trở thành nhân tế kìm hãm sự phát triển kinh tế tạo ra mô hình cnxh hành chính nhà nước. Vì vậy chuyển sang kinh tế thị trường, vai trò của nhà nước trong kinh tễ là rất quan trọng và là xu hướng tất yếu. Vì vậy chúng ta luôn luôn phải củng cố và nâng cao thông qua các công cụ quản lý vĩ mô như :
- Luật pháp.
- Kế hoạch:
+ Kinh tế xã hội
+ Sản xuất kinh doanh
- Chính sách tài chính
- Chính sách tiền tệ
- Kinh tế quốc tế,thông qua các công cụ quản lý vĩ mô
1 .Xây dựng mục tiêu chiến lược phát triển KT-XH phù hợp với đặc điểm KT-XH ở nước ta và bối cảnh quốc tế hiện nay.
Bối cảnh quốc tế hiên nay đang đứng trước diễn biến mới, xu thế thương mại hoá toàn cầu cùng với xu tế hoà bình ổn định, cải cách và chuyển dịch cơ cấu để phát triển .... đang là sự lựa chọn của các quốc gia để tồn tại và phát triển. Cạnh tranh kinh tế quốc tế ngày càng ác liệt, toàn diện để tìm kiếm thị trường, nguồn nguyên liệu vốn đầu tư, khoa học công nghệ, chất xám... nên làm nảy sinh nhiều vấn đề và nó tác động sâu sắc đến mọi mặt của đời sống kinh tế- xã hội nước ta, tạo ra những cơ hội và thách thức mới, đòi hỏi chúng ta phải xác định mục tiêu và chiến lược phát triển một cách đúng đắn có cơ sở, không được tuỳ tiện nhằm phát huy những thành tựu đã đạt được, ra sức phấn đấu tranh thủ thời cơ, đẩy lùi nguy cơ, đưa đất nước vào thời kỳ phát triển mới, thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá tạo ra những cơ sở vật chất và nguồn lực cho bước phát triển nhanh và bền vững về kinh tế, chặn đứng tiến tới đẩy lùi tiêu cực, bất công xã hội, xoá đói giảm nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, củng cố quốc phòng an ninh,giữ vững ổn định chính trị-xã hội, phấn đấu thực hiện vượt mức các mục tiêu đề ra, đưa đất nước ngày một thoát khỏi tình trạng nước nghèo và lạc hậu, tạo đà mạnh mẽ để phát triển nhanh chóng vào những năm đầu thế kỷ XXI và sau đó.
2. Tăng trưởng kinh tế và điều kiện đảm bảo tăng trưởng cao và bền vững.
Tăng trưởng kinh tế và việc tăng GDP bình quân theo đầu người. Hiện nay ở nước ta GDP còn thấp khoảng 230 USD một người, là một trong những nước nghèo nhất trên thế giớivì vậy vấn đề đặt ra là nhà nước chúng ta cần phải có chiến lược năng động, sáng tạo để cùng nhân dân phấn đấu đưa nước ta ra khỏi danh sách các nước nghèo trên thế giới, muốn vậy nhà nước chúng ta phải:
- Có những phương pháp hữu hiệu để thu hút vốn đầu tư rrong và ngoài nước bằng cách:
+ Đảm bảo lãi suất tiền gửi phải cao hơn tỷ lệ lạm phát
+ Phát hành công trái để huy động vốn
+ Phát triển công ty cổ phần và thị trường chứng khoán
+ Tạo môi trường đầu tư thuận lợi
+ Tăng cườngcác biện pháp vĩ mô dể kiềm chế lạm phát đảm bảo được thu hút tiền gửi tiết kiệm dài hạn, trung hạn.
+ Kết hợp chặt chẽ các hình thức đầu tư
+ Đối với đầu tư FDI cần hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách và cải tiến quản lý
+ Tăng cường xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội nhằm tăng sức hấp dẫn và tạo môi trường đầu tư thuận lợi.
- Ngoài ra nhà nước ta phải có chiến lược phát triển khoa học công nghệ và cần phải quan tâm đến phát triển nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng nhất
- Giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng và lạm phát.
- Giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng và dân số.
- Giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng và vấn đề môi trường.
- Giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng và phân phối thu nhập.
- Giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng và thị trường.
3. Đổi mới cơ chế quản lý và sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước tránh hai khuynh hướng.
Quan niệm vai trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước một cách may móc, duy trì, phát triển một cách tràn lan, không tính đến hiệu quả.
Coi hình thức sở hữu là nhân tố chủ yếu, cho kinh tế tư nhân có hiệu quả nên cần tư nhân hoá các doanh nghiệp nhà nước.
4. Xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ.
Pháp luật là công cụ để điều chỉnh các hoạt đông trong sản xuất kinh doanh theo một xu hướng nhất định và đảm bảo công bằng, đưa lại lợi ích cao nhất vì vậy nên nó rất quan trọng.
Đối với nước ta hệ thống pháp luật chưa được hoàn thiên còn có nhiều sai sót cần phải sửa đổi và bổ xung mà chủ yếu là ở các lĩnh vực.
Trong việc sử dụng, chuyển nhượng, cho thuê đất, thị trường bất động sản, thị trường vốn, thị trường chứng khoán công ty tài chinh, chế độ kế toán, kiểm toán và báo cáo tài chính công khai bắt buộc.
Bổ sung điều chỉnh bộ luật thức tránh chồng chéo phân tán theo hướng mở rộng.
Khuyến khích đầu tư trong nước, sửa đổi, bổ sung luật công ty và luật doanh nghiệp tư nhân, kiểm soát độc quyền và cạnh tranh.
Xây dựng bộ luật thương mại, luật ngân sách, luật hành chính nhà nước, các hiệp định đa phương và song phương.
Nâng cao hiệu lực thi hành pháp luật, hoàn thiện hệ thống các cơ quan thi hành pháp luật, xây dựng nhà nước pháp quyền và quản lý kinh tế bằng pháp luật.
Xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm cá nhân, nhất là những người lãnh đạo chủ chốt.
5. Cải cách hành chính gắn liền với đổi mới kinh tế.
Hệ thống hà._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35271.doc