Lời mở đầu
Trên bình diện chung của quốc tế hiện nay, không có ở một nước nào nền kinh tế hàng hoá hay kinh tế thị trường lại vận động hoàn toàn theo cơ chế thị trường "hoàn hảo" hoàn toàn do "Bàn tay vô hình" theo cách nói của A.Smith - nhà kinh tế chính trị học tư sản cổ điển Anh. Trái lại, chúng đều vận động theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của các doanh nghiệp lớn và Nhà nước, với mức độ và phạm vi khác nhau, tuỳ thuộc điều kiện lịch sử của mỗi nước.
Chính vì thế đã có câu: "Nền kinh
15 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1630 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tế thiếu một trong hai yếu tố cơ bản: thị trường hay Nhà nước thì chẳng khác gì định vỗ tay bằng một bàn tay".
Chúng ta đã đi qua chặng đường của 10 năm đổi mới và đã bước sang thế kỷ 21 - thế kỷ của phát triển và hội nhập, đặt chúng ta trước nhiều thách thức và vận hội mới. Xác định đúng đắn vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường và có phương hướng thực hiện là những vấn đề ngày càng trở nên bức thiết hơn.
Trong khuôn khổ của bài tiểu luận này, do sự hiểu biết và kinh nghiệm thực tế còn hạn hẹp, em không có tham vọng trình bày được hết những giải pháp nhằm nâng cao vai trò và hiệu quả quản lý của Nhà nước mà em chỉ xin đề cập đến: "Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường".
Kết cấu của bài tiểu luận gồm 2 phần:
Chương I- Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường được thể hiện như thế nào?
Chương II- Thực trạng quản lý của Nhà nước ta trong thời gian qua.
Bài tiểu luận của em chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong được sự chỉ bảo của thầy cô để em củng cố thêm vốn kiến thức và hiểu sâu hơn vấn đề mà mình quan tâm.
Em xin chân thanh cảm ơn!
Chương I-
Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường
I- Các khái niệm cơ bản:
Kinh tế hàng hoá là một kiểu tổ chức kinh tế - xã hội mà trong đó hình thái phổ biến của sản xuất là sản xuất ra sản phẩm để bán, để trao đổi trên thị trường.
Có thể hiểu kinh tế hàng hoá là mô hình kinh tế mà trong đó hầu hết các quan hệ kinh tế được thực hiện trên thị trường dưới hình thái hàng hoá và dịch vụ, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Kinh tế hàng hoá tồn tại trong nhiều hình thái kinh tế xã hội. Trong mấy thập niên gần đây, kinh tế hàng hoá phát triển mạnh mẽ nhờ sự tác động và thúc đẩy của công nghệ mới và lực lượng sản xuất mới. Vì vậy, xu thế chuyển sang kinh tế thị trường - trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hoá đang có sức hấp dẫn mạnh mẽ đối với các nhà soạn thảo chiến lược phát triển kinh tế - xã hội hiện nay ở các nước XHCN.
ở nước ta, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII đã xác định phương hướng: phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, theo định hướng XHCN vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
II- Đặc điểm của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam:
Nước ta đang từng bước quá độ lên CNXH không qua giai đoạn phát triển TBCN, xu hướng vận động và phát triển kinh tế hàng hoá gắn liền với những đặc điểm sau đây:
- Nền kinh tế nước ta đang trong quá trình chuyển biến từ nền kinh tế kém phát triển, mang nặng tính tự cấp, tự túc và quản lý theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế hàng hoá, vận hành theo cơ chế thị trường.
- Nền kinh tế hàng hoá dựa trên cơ sở nền kinh tế nhiều thành phần:
Đại hội VII đã khẳng định, các thành phần kinh tế đang tồn tại khách quan tương ứng với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong giai đoạn lịch sử hiện nay, đó là: kinh tế Nhà nước, kinh tế hợp tác, kinh tế cá thể, kinh tế tư nhân TBCN, và kinh tế TBNN.
- Nền kinh tế phát triển theo hướng mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài.
Thông qua mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài để biến nguồn lực bên ngoài thành nguồn lực bên trong. Điều đó tạo điều kiện cho quá trình phát triển rút ngắn ở nước ta.
- Nền kinh tế hàng hoá phát triển theo định hưonứg XHCN thông qua bản chất và vai trò quản lý của Nhà nước.
Sự vận động của nền kinh tế hàng hoá theo cơ chế thị trường không thể nào giải quyết hết được những vấn đề do chính cơ chế đo và bản thân đời sống kinh tế - xã hội đặt ra. Đó là tình trạng thất nghiệp, lạm phát, khủng hoảng, phân hoá bất bình đẳng, ô nhiễm môi trường, sự bùng nổ dân số cũng như những hiện tượng xã hội khác. Những tình trạng và hiện tượng trên ở những mức độ khác nhau, trực tiếp hay gián tiếp đều có tác động ngược trở lại, làm cản trở sự phát triển "bình thường" của một xã hội nói chung và của nền kinh tế hàng hoá nói riêng. Vì vậy, sự tác động của Nhà nước - một chủ thể có khả năng nhận thức và vận dụng các qui luật khách quan vào nền kinh tế là một tất yếu của sự phát triển kinh tế - xã hội. Thiếu sự "can thiệp" của Nhà nước voà kinh tế để cho nền kinh tế nước ta sẽ không thể có hiệu quả.
Sự quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế hàng hoá ở nước ta được thực hiện bằng luật pháp và các công cụ chính sách vĩ mô khác. Nhà nước sử dụng những công cụ đó để quản lý các hoạt động kinh tế làm cho nền kinh tế "lành mạnh" hơn, giảm bớt những thăng trầm, đột biến xấu trên con đường phát triển của nó, khắc phục được tình trạng phân hoá bất bình đẳng, bảo vệ được tài nguyên môi trường của đất nước. Như vậy, sự vận động của nền kinh tế hàng hoá theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước ở nước ta là một sự vận động được điều tiết bởi sự thống nhất giữa cơ chế thị trường - "bàn tay vô hình" và sự quản lý của Nhà nước - "bàn tay hữu hình".
III- Vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước và sự quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước.
1. Vai trò định hướng XHCN của kinh tế Nhà nước.
- Trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, kinh tế Nhà nước với bản chất vốn có của nó, lại nắm giữ các ngành, lĩnh vực then chốt và trọng yếu, nên trở thành nhân tố kinh tế bảo đảm cho kinh tế hàng hoá của các thành phần kinh tế khác phát triển theo định hướng XHCN.
- Tính hiện thực của vai trò định hướng XHCN của kinh tế Nhà nước chỉ được khẳng định khi nó phát huy được sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế khác, khi nó sớm đổi mới cơ chế quản lý theo hướng năng suất, chất lượng và hiệu quả đứng vững và chiến thắng trong môi trường hợp tác và cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế.
2. Vai trò quản lý của Nhà nước, nhân tố đảm bảo cho định hướng XHCN của kinh tế hàng hoá.
- Sự phát triển kinh tế hàng hoá bên cạnh mặt tích cực, đem lại sự phát triển lực lượng sản xuất, tăng trưởng kinh tế cao của nó, mặt khác, nó không tránh khỏi những khuyết tật nhất định về mặt xã hội như: phá sản, khủng hoảng, phân hoá giàu nghèo, lừa đảo, giả dối, áp bức bất công, tàn phá môi trường …. Những khuyết tập này đòi hỏi phải có sự quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước.
- Nền kinh tế hàng hoá bên cạnh mặt tích cực, đem lại sự phát triển lực lượng sản xuất, tăng trưởng kinh tế cao nhưng giữa các nước, ngoài sự khác nhau về trình độ phát triển và về sự phân phối lợi ích kinh tế giữa các tầng lớp dân cư do kinh tế hàng hoá đem lại nhằm mục đích gì, có lợi cho ai? Còn có sự khác nhau không kém phần quan trọng là ở trình độ quản lý theo cơ chế thị trường của Nhà nước. Những sự khác nhau này lại được quyết định bởi trình độ xã hội hoá sản xuất của nền kinh tế Nhà nước và tính chất Nhà nước của mỗi nước.
ở những nước có nền kinh tế hàng hoá đạt trình độ phát triển cao, nhất là ở các nước kinh tế phát triển, nhờ biết sử dụng nhiều thành tựu khoa học, công nghệ, điều chỉnh lại các quan hệ sở hữu; sử dụng nhiều công cụ tính toán và nhiều lý thuyết quản lý kinh tế hiện đại lại trải qua nhiều thế kỷ hình thành và phát triển, nên đã đưa kinh tế hàng hoá từ hình thái tế bào sang hình thái bao trùm, tạo ra một kiểu Nhà nước mà sự tác động vĩ mô của nó vào nền kinh tế luôn tuân thủ các qui luật kinh tế của thị trường, đã đem lại hiệu quả kinh tế khá cao, tạo điều kiện khắc phục khuyết tật về mặt xã hội của nó.
- Nước ta do chịu ảnh hưởng lâu ngày của cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp, nên hệ thống ngân hàng, tín dụng, thuế, giá cả, quĩ bảo hiểm… với tư cách là những công cụ để Nhà nước điều hành vĩ mô nền kinh tế hàng hoá, còn thấp kém. Đất nước mới bắt đầu xây dựng pháp luật về kinh tế, nhưng lại chưa đồng bộ, xã hội chưa quen tập quán chấp hành luật pháp trong hoạt động kinh tế. Bộ máy Nhà nước hiểu biết ít về cơ chế thị trường, thiếu các chiến lược kinh tế mang tính khoa học và thực tiễn còn lúng túng trong các quản lý kinh tế vĩ mô. Trong điều kiện đó, phấn đấu nâng cao năng lực và tăng cường các công cụ và do đó nâng cao trình độ quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước là xu hướng vận động khách quan ở nước ta trước mắt lẫn lâu dài. Chính vì thế mà Đảng ta chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. ở đây, Nhà nước "của dân, do dân và vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định nhất bảo đảm tính định hướng XHCN". Nhờ kết quả của 10 năm đổi mới, vai trò quản lý của Nhà nước đã được tăng cường. Bằng các công cụ pháp luật, kế hoạch, các thiết chế về tài chính, tiền tệ và những phương tiện vật chất khác, Nhà nước tạo điều kiện khuyến khích, phát huy những mặt tích cực của kinh tế hàng hoá, ngăn ngừa, hạn chế tính tự phát và các khuyết tật của cơ chế thị trường.
Chương II
Thực trạng quản lý của Nhà nước ta
trong thời gian qua
I- Nguyên tắc chung:
Quản lý kinh tế là chức năng quan trọng, cũng là nhiệm vụ đầy khó khăn và phức tạp của Nhà nước. Sự nghiệp đổi mới nói chung và chuyển đổi chức năng kinh tế của Nhà nước ta nói riêng trong 15 năm qua đã thu được những thành tựu đáng tự hào, nhưng nguy cơ lớn và thách thức cũng vốn rất lớn. Vì thế việc tiếp tục đưa công cuộc đổi mới đất nước đi vào càng sâu, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hoàn thiện Nhà nước XHCN Việt Nam được xác định là những nhiệm vụ tất yếu hiện nay.
Nhìn suốt 20 năm qua, có thể nêu lên những đổi mới có tính đột phá của Đảng và Nhà nước về cơ chế, chính sách như sau:
- Coi thị trường vừa là căn cứ, vừa là đối tượng của kế hoạch, kế hoạch chủ yếu mang tính định hướng và đặc biệt quan trọng trên bình diện vĩ mô, thị trường có vai trò trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn lĩnh vực hoạt động và phương án tổ chức sản xuất kinh doanh, trên cơ sở đó đã không ngừng tạo lập đồng bộ dần các yếu tố của thị trường (hàng hoá và dịch vụ), công nghệ, các dịch vụ thông tin, tư vấn, tiếp thị, pháp lý, tài chính, ngân hàng, kiểm toán, bh, tiền vốn, sức lao động…) công tác kế hoạch Nhà nước tập trung vào việc xây dựng chiến lược, các chương trình và dự án lớn, chuyển sang kế hoạch 5 năm là chính có phân ra từng năm, bao quát các ngành, các lĩnh vực và thành phần kinh tế.
- Xác lập quyền tự chủ của các doanh nghiệp, đồng thời tăng cường và thực hiện đúng chức năng quản lý của Nhà nước, phân định quyền của chủ sở hữ và chủ sử dụng các tài sản và vốn của Nhà nước, trên cơ sở đó hệ thống cơ chế, chính sách đối với các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp Nhà nước đã được bổ sung hoàn thiện dần.
- Mở rộng thị trường, giao lưu hàng hoá thông suốt trong cả nước, mở rộng quan hệ và từng bước hội nhập kinh tế quốc tế.
- Giá cả, tỷ giá hối đoái, lãi suất tín dụng hình thành theo cơ chế thị trường, Nhà nước dùng các biện hpáp kinh tế là chủ yếu để tác động đến cung, cầu trên thị trường, thực hiện chủ trương xoá bao cấp qua tín dụng.
- Tạo môi trường thuận lợi cho hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, thực hiện độc quyền Nhà nước trong một số ngành, một số lĩnh vực nhất định vì lợi ích của đất nước, hạn chế độc quyền kinh doanh, không kể lợi dụng đơn vì toàn quyền để duy trì đặc quyền, đặc lợi, lũng đoạn thị trường.
- Khẳng định rõ đất đai thuộc sở hữu toàn dân, cần quản lý thống nhất và chặt chẽ, các họ nông dân được Nhà nước giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài và được cấp giấy chứng nhận, qui định việc thực hiện thừa kế và chuyển quyền sử dụng ruộng đất, các cơ sở sản xuất khác nói chung được Nhà nước cho thuê đất, thực hiện thu tiền thuê đất hoặc tiền thuê đất tuỳ theo mục đích sử dụng và địa bàn.
- Tăng cường quản lý của Nhà nước đi đôi với thực hiện quyền tự chủ của doanh nghiệp, Nhà nước quản lý bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác, xác định quyền của người sở hữu, quyền của người sử dụng tư liệu sản xuất và quyền quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực kinh tế, để cho mọi tư liệu sản xuất đều có người làm chủ, mọi đơn vị kinh tế đều tự chủ, tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của mình, đổi mới và nâng cao hiệu lực hướng dẫn, kiểm soát và điều tiết của Nhà nước.
Quá trình đổi mới cơ chế, chính sách kinh tế trong thời gian qua luôn gắn với giải quyết những vấn đề cấp bách, nóng bỏng của nền kinh tế. Thực tế chứng minh, bằng cơ chế, chính sách kinh tế được đổi mới để đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, phá được thế bị bao vây, cấm vận kinh tế và hiện nay cũng đang còn nhiều vấn đề tồn tại về cơ chế, chính sách cần được tập trung tháo gỡ, đổi mới.
Tồn tại nổi lên hiện nay là nền kinh tế phát triển chưa vững chắc, sửcc thấp, một số vấn đề xã hội gay gắt bức xúc chưa được giải quyết tốt, cơ chế, chính sách còn thiếu, chưa đồng bộ và chưa tạo được động lực mạnh để Đảng và Nhà nước chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, nói gọn là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là phát huy mọi nguồn lực vào phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH, cải thiện đời sống của nhân dân, sử dụng cơ chế thị trường để kích thích sản xuất, phát huy tinh thần năng động, sáng tạo của người lao động, giải phóng sức sản xuất của mọi thành phần kinh tế, thúc đẩy CNH - HĐH, lãnh đạo, quản lý nền kinh tế để phát triển đúng hướng đi lên CNXH.
Trước các yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và hoàn thiện Nhà nước XHCN Việt Nam, vấn đề đặt ra là phải xác định rõ những nguyên tắc hoàn thiện chức năng kinh tế của Nhà nước ta với tính cách là tư tưởng chỉ đạo cho hoạt động tổ chức thực tiễn để củng cố bộ máy Nhà nước, hoàn thiện và nâng cao hiệu quả của hệ thống pháp luật. Các nguyên tắc này được rút ra từ nội dung đường lối, các chính sách của Đảng và Nhà nước ta, chúng vạch rõ những giới hạn chung và định hướng lớn cho quá trình hoàn thiện chức năng kinh tế của Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay.
- Đảm bảo định hướng XHCN trong phát triển kinh tế:
Định hướng XHCN là hướng nền kinh tế quốc dân phát triển theo con đường đi tới CNXH - mô hình xã hội lý tưởng của cách mạng Việt Nam mà Đảng và nhân dân ta đã chọn. Đây là nguyên tắc chung, nó vạch rõ hướng đích cho cả quá trình phát triển lâu dài, ổn định ở nước ta nói chung, trong đó có phát triển nền kinh tế.
Trên thực tế, những giải pháp của Nhà nước ta từ khi đổi mới đến nay "phần lớn mang tính quá độ trung gian. Để đảm bảo giữ vững định hướng XHCN cho quá trình phát triển kinh tế của đất nước trong giai đoạn đổi mới theo chiều sâu thì không chỉ dừng lại ở những tư tưởng, đường lối chung, mà phải cụ thể hoá bằng những nội dung mang tính xác định về mặt pháp lý.
Nguyên tắc định hướng XHCN là giới hạn quan trọng hàng đầu cho mọi biện pháp để hoàn thiện chức năng kinh tế của Nhà nước ta. Nguyên tắc định hướng XHCN đòi hỏi chức năng kinh tế của Nhà nước phải được hoàn thiện trong mối liên hệ hữu cơ với việ hoàn thiện các chính sách chính trị, chức năng xã hội của Nhà nước và chức năng kinh tế của Nhà nước cũng hướng tới các mục tiêu cao cả là giải phóng con người, giải phóng xã hội theo lý tưởng của cách mạng XHCN.
- Đảm bảo sự vận hành tự do và an toàn của nền kinh tế thị trường.
Bản chất của QHKT thị trường là tính độc lập, tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các chủ thể kinh tế. Do vậy, sự vận hành một cách tự do và an toàn của các QHKT là điều kiện để ổn định và tăng trưởng nền kinh tế quốc dân. Nhà nước chính là nhân tố đảm bảo cho nền kinh tế thị trường phát huy được các ưu điểm và có thể khắc phục được những khuyết tật vốn có của nó. Bởi thế, nguyên tắc đảm bảo sự vận hành tự do và an toàn của nền kinh tế thị trường bao hàm những nội dung rộng lớn, trong đó cốt lõi là sự đảm bảo từ phía Nhà nước cho tự do kinh doanh, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các hoạt động kinh doanh cũng như phòng tránh những tổn thất cho các chủ thể kinh doanh. Việc đảm bảo cho sự vận hành tự do và an toàn của nền kinh tế thị trường thực chất là xây dựng và củng cố nền dân chủ XHCN trên lĩnh vực kinh tế, vì đó là giá trị cao cả của xã hội mà chúng ta đang phấn đấu xây dựng. Chức năng kinh tế của Nhà nước là phương thức, khuôn khổ của dân chủ XHCN trong lĩnh vực kinh tế. Cho nên, hoàn thiện chức năng kinh tế của Nhà nước có nghĩa là Nhà nước phải đảm bảo cho việc thực hiện các quyền tự do dân chủ về kinh tế Nhà nước phải không ngừng mở rộng quyền dân chủ về kinh tế - xã hội, đảm bảo hiện thực hoá quyền tự do kinh doanh của các chủ thể "kinh doanh và phải tạo ra được cơ chế kết hợp hài hoà các lợi ích kinh tế. Quản lý là quyền của Nhà nước còn hoạt động kinh doanh là quyền của các chủ thể kinh tế, nhưng hai quyền đó phải thống nhất với nhau, không thể hạn chế hoặc loại trừ nhau. Vì thế, trong điều kiện hiện nay, nếu không mở rộng và phát huy các giá trị của nền dân chủ XHCN thì không thể vận hành nền kinh tế thị trường một cách tự do và an toàn, không thể tăng trưởng kinh tế vkà phát triển bền vững.
- Nguyên tắc phát triển kinh tế hài hoà về kinh tế và xã hội.
Nội dung của nguyên tắc này là phát triển kinh tế phải đi đôi phát triển xã hội. Kinh tế không phải là mục đích duy nhất của con người mà con người bao giờ cũng có hệ thống các nhu cầu đa dạng trên cơ sở thống nhất biện chứng giữa nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần. Tăng trưởng kinh tế là điều kiện tiên quyết để giải quyết các vấn đề xã hội, nhưng xã hội tốt đẹp lại là động lực cho tăng trưởng kinh tế. Nguyên tắc này đòi hỏi Nhà nước phải đảm bảo tính văn hoá trong tăng trưởng kinh tế, bởi lẽ không phải trong mọi trường hợp tự bản thân sự tăng trưởng kinh tế đều tác động tích cực đến đời sống xã hội, nghĩa là nó đem lại sự phồn vinh cho xã hội và hạn phúc cho con người, đặc biệt là trong xã hội thị trường hiện đại. Việc thực hiện chức năng kinh tế của Nhà nước không thể không được xem xét trong mối liên hệ biện chứng giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội một cách toàn diện theo quan điểm của Đảng là: "Xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu văn hoá vì xã hội công bằng, văn mình, con người phát triển toàn diện. Văn hoá là kết quả của kinh tế đồng thời là động lực của sự phát triển kinh tế. Các nhân tố văn hoá phải kết hợp chặt chẽ với đời sống và hoạt động xã hội trên mọi phương diện chính trị, kinh tế, xã hội, biện pháp, kỷ cương, biến thành nguồn lực nội sinh quan trọng nhất của phát triển.
- Nguyên tắc quản lý kinh tế - xã hội bằng pháp luật:
Nhà nước pháp quyền là Nhà nước tổ chức và hoạt động dựa trên nền tảng hệ thống pháp luật phản ánh những nhu cầu khách quan của đời sống kinh tế - xã hội, Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN là công cụ của nhân dân để thực hiện ý chí, nguyện vọng và quyền lực nhân dân. Nhà nước phải được tổ chức 1 cách khoa học phối hợp với các qui luật kinh tế khách quan hoạt động có hiệu quả, đảm bảo quyền lực nhân dân thông qua cơ chế phân công và phối hợp chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan trong bộ máy Nhà nước.
II- Tiếp tục tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường, đổi mới và nâng cao hiệu lực quản lý kinh tế của Nhà nước.
Thúc đẩy sự hình thành, phát triển và từng bước hoàn thiện các loại thị trường theo định hướng XHCN, đặc biệt quan tâm các thị trường quan trọng nhưng hiện chưa có hoặc còn sơ khai như: thị trường lao động, thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản, thị trường khoa học và công nghệ. Phát triển thị trường hàng hoá và dịch vụ, phát huy vai trò nòng cốt định hướng và điều tiết của kinh tế Nhà nước trên thị trường. Đáp ứng nhu cầu đang dạng và nâng cao sức mua của thị trường trong nước, cả ở thành thị và nông thôn, chú ý thị trường các vùng có nhiều khó khăn. Mở rộng thêm thị trường mới ở nước ngoài. Xác định thời hạn bảo hộ hợp lý và có hiệu quả đối với một số sản phẩm quan trọng, tích cực chuẩn bị để mở rộng hội nhập thị trường quốc tế. Hạn chế và kiểm soát độc quyền kinh doanh.
Mở rộng thị trường lao động trong nước có sự kiểm tra, giám sát của Nhà nước, bảo vệ lợi ích của người lao động và của người sử dụng lao động, đẩy mạnh xuất khẩu lao động có tổ chức và có hiệu quả. Hoàn thiện hệ thống pháp luật và chính sách tạo cơ hội bình đẳng về việc làm cho người lao động, tạo điều kiện thuận lợi và khuyến khích người lao động tự tìm việc làm, nâng cao trình độ, đào tạo lại, học nghề mới.
Khẩn trương tổ chức thị trường khoa học và công nghệ, thực hiện tốt bảo hộ sở hữu trí tuệ, đẩy mạnh phát triển các dịch vụ về thông tin, chuyển giao công nghệ.
Phát triển nhanh và bền vững thị trường vốn, nhất là thị trường vốn dài hạn và trung hạn. Tổ chức và vận hành thị trường chứng khoán, thị trường bảo hiểm an toàn, hiệu quả. Hình thành đồng bộ thị trường tiền tệ, tăng khả năng chuyển đổi của đồng tiền Việt Nam.
Hình thành và phát triển thị trường bất động sản, bao gồm cả quyền sử dụng đất theo qui định của pháp luật, từng bước mở thị trường bất động sản cho người Việt Nam ở nước ngoài và người nước ngoài tham gia đầu tư.
Trong 5 năm tới, hình thành tương đối đồng bộ cơ chế quản lý nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, khắc phục những yếu kém, tháo gỡ những vướng mắc.
Đổi mới sâu rộng cơ chế quản lý kinh tế, phát huy những yếu tố tích cực của cơ chế thị trường, triệt để xoá bỏ bao cấp trong kinh doanh, tăng cường vai trò quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà nước, đấu tranh có hiệu quả chống các hành vi tham nhũng, lãng phí, quan liêu, sách nhiễu gây phiền hà.
Nhà nước tạo môi trường pháp lý thuận lợi, bình đẳng cho các doanh nghiệp cạnh tranh và hợp tác để phát triển, bằng chiến lược, qui hoạch kế hoạch và chính sách kết hợp với sử dụng lực lượng vật chất của Nhà nước để định hưonứg phát triển kinh tế - xã hội, khai thao hợp lý các quyền lực của đất nước, bảo đảm cân đối vĩ mô nền kinh tế, điều tiết thu nhập, kiểm tra, kiểm soát, thanh tra mọi hoạt động kinh doanh theo qui định của pháp luật, chống buôn lậu, làm hàng giả, gian lận thương mại.
Tiếp tục đổi mới cá công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế:
Đổi mới hơn nữa công tác kế hoạch hoá, nâng cao chất lượng công tác xây dựng các chiến lược, qui hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường thông tin kinh tế kinh tế - xã hội trong nước và quốc tế công tác kế toán, thống kê, ứng dụng rộng rãi các thành tựu khoa học và công nghệ trong dự báo, kiểm tra tình hình thực hiện ở cả cấp vĩ mô và doanh nghiệp.
Bảo đảm tính minh bạch, công bằng trong chi ngân sách Nhà nước.
Phân cấp mạnh đi đôi với tăng cường trách nhiệm của chính quyền địa phương trong việc thu và chi ngân sách địa phương. Tăng tỷ lệ chi ngân sách theo tốcđộ tăng trưởng kinh tế và hiệu quả quản lý kinh tế, tài chính. Tăng chi ngân sách cho các mục tiêu xã hội trọng điểm. Nâng cao hiệu quả các chương trình quốc gia, tập trung vốn coh các chương trình trọng điểm, thực hiện có kết quả chương trình giúp đỡ các xã đặc biệt khó khăn.
Nhà nước đầu tư vốn phát triển từ ngân sách Nhà nước căn cứ vào hiệu quả kinh tế - xã hội. Chuyển cơ chế phân bổ nguồn vốn vay Nhà nước mang tính hành chính sang cho vay theo cơ chế thị trường, xoá bỏ bao cấp thông tin tín dụng đầu tư, đồng thời phát triển các quĩ hỗ trợ phát triển. Hoàn thiện phương thức quản lý đầu tư xây dựng cơ bản, cải cách các thủ tục, phân công, phân cấp rõ ràng, rành mạch trong thực hiện các dự án đầu tư.
Tiếp tục cải cách hệ thống thuế phù hợp với tình hình đất nước và các cam kết quốc tế, đơn giản hoá các sắc thuế, từng bước áp dụng hệ thống thuế thống nhất, không phân biệt đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Nuôi dưỡng nguồn thu và thu đúng, thu đủ theo qui định của pháp luật. Hiện đại hoá công tác quản lý thuế của Nhà nước.
Xây dựng hệ thống ngân hàng thương mại Nhà nước thành những doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ tự chủ, tự chịu trách nhiệm, có uy tín, đủ sức cạnh tranh trên thị trường. Xoá bỏ sự can thiệp hành chính của các cơ quan Nhà nước đối với hợp đồng cho vay của các ngân hàng thương mại Nhà nước. Nâng cao năng lực giám sát của ngân hàng Nhà nước và công tác kiểm tra nội bộ của các ngân hàng thương mại. Thực hiện chính sách tỷ giá linh hoạt theo cung cầu ngoại tệ, từng bước thực hiện tự do hoá tỷ giá hối đoái trong sự quản lý vĩ mô của Nhà nước. Tách tín dụng ưu đãi của Nhà nước khỏi tín dụng thương mại, thành lập các ngân hàng chính sách.
Kết luận
"Tiếp tục đẩy mạnh công việc đổi mới, khơi dậy và phát huy tối đa nội lực… Nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế… Nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế… Nâng cao ý chí tự lực tự cường giữ vững bản sắc dân tộc trong tiến trình hội nhập quốc tế". Đó là quan điểm của Đảng được khẳng định trong nghị quyết hội nghị lần thứ 4 (khoá VIII) của Ban chấp hành Trung ương Đảng, thể hiện sự nỗ lực cố gắng của Đảng và Nhà nước và khẳng định hội nhập kinh tế quốc tế là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân, của tất cả các ngành, các cấp, các địa phương của toàn xã hội.
Chúng ta hy vọng rằng bằng sự nỗ lực của các doanh nghiệp, của Nhà nước, của các thành phần kinh tế, của toàn Đảng toàn dân, bằng trí tuệ Việt Nam chúng ta nhất định sẽ thành công trên con đường hội nhập.
Tài liệu tham khảo
1. Tạp chí Cộng sản (số 2/2001)
2. Giáo trình Kinh tế chính trị Mác- Lênin
3. Báo cáo chính trị của BCHTW tại Đại hội IX
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35111.doc