Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế

Trường đại học ngoại thương Tiểu luận bộ môn Kinh tế chính trị đề tài: Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế Giáo viên hướng dẫn : Nguyễn Minh Hằng Sinh viên : Đỗ Hồng Chi Lớp : A9 - K37E Hà nội, 05 - 2001 lời nói đầu Vấn đề vai trò điều tiết và can thiệp của Nhà nước đối với nền kinh tế là một chủ đề đã được đề cập đến khá nhiều và cũng đã có rất nhiều ý kiến, quan điểm khác nhau. Tuy nhiên, không thể áp đặt một nguyên tắc chung nào đối với các quốc gia có điều kiện lịch sử, kinh

doc30 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1589 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tế - xã hội khác nhau. Trong thời gian vừa qua, ở Việt Nam, cải cách các chính sách kinh tế đã có ảnh hưởng tích cực tới tăng trưởng và cấu trúc lại nền kinh tế. Sự kết hợp chặt chẽ giữa các biện pháp ổn định hoá và tự do hoá nền kinh tế, giảm bớt sự can thiệp trực tiếp của Chính phủ trung ương với các hoạt động kinh tế, điều chỉnh cơ cấu theo hướng tăng tính hiệu quả của các hoạt động kinh tế dựa trên thước đo của thị trường, thực hiện chính sách mở cửa trong quan hệ kinh tế quốc tế đã tạo nên những chuyển biến rõ nét về tốc độ tăng trưởng kinh tế và ổn định môi trường kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên triển vọng phát triển kinh tế-xã hội trong những năm tới của Việt Nam có lẽ sẽ phụ thuộc rất nhiều vào sự tác động của Nhà nước đối với kinh tế thị trường. Vấn đề nổi bật là xác định vai trò hợp lý của Nhà nước trong nền kinh tế. Trong quá trình chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường, Việt Nam mong muốn tìm kiếm cho mình một mô hình kinh tế trong đó phát huy được những tác động tích cực và hạn chế được những khiếm khuyến của cả hai yếu tố thị trường và sự can thiệp của Nhà nước đối với nền kinh tế. Trong giới hạn về kiến thức, bài viết này chỉ dừng lại ở việc tham khảo ý kiến từ một số bài viết và công trình nghiên cứu xung quanh vấn đề “Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế” nói chung và thực tế Việt Nam nói riêng. Bài viết này được hoàn thành trước hết nhờ vào sự giúp đỡ tận tình của thầy giáo Nguyễn Minh Hằng. Em kính mong thầy cô, người đọc bài viết này, cho em những ý kiến nhận xét để em hoàn chỉnh thêm việc nghiên cứu và có được những suy luận đúng đắn và logic. Em xin chân thành cảm ơn ! Mục Lục Lời nói đầu 2 Mục lục 3 Chương I : Tính tất yếu khách quan vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế I. Lịch sử phát triển và chức năng của Nhà nước 4 II. Tính tất yếu khách quan vai trò quản lý của Nhà nước trong nền kinh tế Việt Nam 6 Chương II: Đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN I. Các đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường 9 1. Một số khái niệm 2. Ưu khuyết điểm của nền kinh tế hiện đại II. Đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta 11 1. Đặc điểm cơ chế thị trường ở nước ta 2. Những đặc trưng của kinh tế thị trường hướng tới Chương III: Mục tiêu và chức năng quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước I. Mục tiêu quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước 14 II. Chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước 15 III. Các công cụ vĩ mô của Nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường 18 IV. Vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước ở một số quốc gia trên thế giới 19 1. Một số điển hình 2. Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam Chương IV: Một số giải pháp cơ bản nhằm đổi mới và tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước ta hiện nay I. Thực trạng quản lý của Nhà nước ta hiện nay 22 1. Mặt tích cực 2. Mặt tiêu cực II. Các biện pháp cần làm trong thời kỳ chuyển đổi cơ chế kinh tế 24 Kết luận 29 Danh sách tài liệu tham khảo 30 Chương I : Tính Tất yếu khách quan vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế I. Lịch sử phát triển và chức năng của Nhà nước Nhà nước là công cụ của gia cấp thống trị sử dụng để duy trì trật tự xã hội, bảo vệ quyền lợi của giai cấp mình. Nhà nước ra đời khi xã hội bắt đầu có phân chia gia cấp, và lịch sử đã chứng minh chức năng kinh tế của Nhà nước được phôi thai ngay buổi khai sinh. Sau đó nó mới được nhận thức, trở thành lí luận và ứng dụng vào thực tiễn quản lý kinh tế-xã hội của từng quốc gia, từng thời kỳ phát triển. Trong thời đại chiếm hữu nô nệ, Nhà nước chủ nô, kiểu Nhà nước đầu tiên trong lịch sử, đã trực tiếp dùng quyền lực của mình can thiệp vào việc phân phối của cải được sản xuất ra. Sự can thiệp của Nhà nước ở đây thông qua công cụ bạo lực với các thủ đoạn bạo lực phi kinh tế của giai cấp chủ nô đối với những người nô lệ. Đó là sự can thiệp của xiềng xích, của sức mạnh quyền lực tước đoạt chứ không phải là của các chính sách và đường lối kinh tế. Trong thời đại phong kiến, Nhà nước phong kiến không chỉ can thiệp vào quá trình phân phối của cải mà còn đứng ra tập hợp các lực lượng nhân dân xây dựng kết cấu hạ tầng cho sản xuất Nhà nước, khuyến khích mở mang các vùng đất mới. Nhưng nhìn chung đây chỉ là các hoạt động tự phát. Sự quản lý của Nhà nước vẫn mang tính chất sử dụng bạo lực của tầng lớp trên đối với tầng lớp dưới, hoàn toàn không có sự bình đẳng, công bằng giữa các tầng lớp trong xã hội. Thời kỳ này vẫn chưa có tư tưởng lý luận cụ thể về vai trò hay chức năng quản lý của Nhà nước . Sự can thiệp của Nhà nước với những mức độ khác nhau là do sự ý thức sâu sắc về quyền sở hữu Nhà nước về ruộng đất và ra sức thực hiện các biện pháp để duy trì, củng cố quyền lực của Nhà nước, của giai cấp thống trị. Vào thế kỷ 15, Chủ nghĩa tư bản được hình thành, quá trình tích luỹ nguyên thuỷ Tư bản được thực hiện, nền kinh tế thị trường từng bước được hình thành. Để giúp cho kinh tế phát triển nhanh, giai cấp tư sản cần có “Bà đỡ“ tức là cần có sự hỗ trợ của Nhà nước. Chính trong thời kỳ này vai trò quản lý của Nhà nước ngày càng được xác lập và nâng cao. Cùng với đó là sự xuất hiện của các trào lưu tư tưởng khác nhau về vai trò và sự can thiệp của Nhà nước đối với sự phát triển kinh tế. Với các chính sách tiền tệ, chính sách ngoại thương hết sức nghiêm ngặt, các nước Tư bản đã tích luỹ được một lượng của cải và tiền tệ khổng lồ. Vì vậy đến đầu thế kỷ 18, giai cấp tư sản đã tập trung phát triển mạnh lĩnh vực sản xuất. Nhờ áp dụng các kỹ thuật và công nghệ mới, nền sản xuất ở các nước Tư bản phát triển rất nhanh với các ngành nghề mới và qui mô ngày càng mở rộng. Tự do cạnh tranh đã trở thành đòi hỏi cấp thiết trong đời sống kinh tế của các nước này. Chính vì thế, các nhà kinh tế học cổ điển đã ủng hộ tự do cạnh tranh, nổi bật nhất là Adam Smith (1723-1790)-một nhà kinh tế học nổi tiếng người Anh. Ông đã đưa ra thuyết “Bàn tay vô hình“ và nguyên lý “ Nhà nước không can thiệp “ vào hoạt động của nền kinh tế. Adam Smith cho rằng việc tổ chức nền kinh tế hàng hoá cần theo nguyên tắc tự do. Sự hoạt động của toàn bộ nền kinh tế là do các qui luật khách quan tự phát chi phối, sự vận động của thị trường là do quan hệ cung- cầu và sự biến đổi tự phát của giá cả hàng hoá trên thị trường quyết định, quan hệ giữa người với người là quan hệ lợi ích kinh tế. Trong khi trao đổi sản phẩm và lao động cho nhau, con người bị chi phối bởi lợi ích cá nhân, mỗi người chỉ biết tư lợi, chỉ thấy tư lợi và làm theo tư lợi. Song khi chạy theo tư lợi, thì có một “bàn tay vô hình“ buộc “người kinh tế“ đồng thời thực hiện một nhiệm vụ không nằm trong dự kiến là đáp ứng lợi ích Xã hội và đôi khi đáp ứng tốt hơn khi họ có ý định làm việc đó từ trước. Do đó, để cho nền kinh tế phát triển lành mạnh, Nhà nước không nên can thiệp vào kinh tế thị trường, vào hoạt động của các doanh nghiệp. Mặc dù coi trọng “bàn tay vô hình“ song Adam Smith cũng cho rằng đôi khi Nhà nước cũng có những nhiệm vụ kinh tế nhất định, đó là trong trường hợp các nhiệm vụ kinh tế vượt quá khả năng của một doanh nghiệp như làm đường, xây bến cảng, đào kênh, hệ thống thuỷ lợi... Đầu những năm 30 của thế kỷ XX, nền kinh tế Tư bản gặp khó khăn, thất nghiệp, khủng hoảng kinh tế, đặc biệt là cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới xảy ra năm 1929-1933 đối với toàn bộ hệ thống Tư bản. Thực tế đó đã chứng tỏ thuyết “Bàn tay vô hình“ của Adam Smith đã kém hiệu lực, không còn phù hợp, không thể đảm bảo những điều kiện ổn định cho kinh tế thị trường phát triển. Hơn nữa, trình độ xã hội hoá sản xuất phát triển ngày càng cao đòi hỏi Nhà nước phải can thiệp vào các quá trình kinh tế và cần phải có một học thuyết mới thích ứng gọi là “Chủ nghĩa tư bản được điều tiết “. Đại biểu của trường phái này là John Meynard Keynes (1884-1946) với lý thuyết Nhà nước điều tiết kinh tế thị trường. Quan điểm của ông xuất phát từ chỗ cho rằng sản xuất ngày càng tăng thì dẫn đến sự tăng của thu nhập và làm tăng tiêu dùng. Nhưng sức mua thì có hạn trong khi sản xuất là vô hạn, nó làm cho cầu tiêu dùng giảm xuống kéo theo giảm sút về giá cả hàng hoá và tỷ suất lợi nhuận theo đó giảm theo. Điều này không còn hấp dẫn sản xuất đặc biệt khi tỉ suất lợi nhuận thấp hơn lãi suất vay đầu tư. Tất yếu của nó là không đầu tư sản xuất kinh doanh, nền kinh tế trì trệ, khủng hoảng, thất nghiệp. John Meynard Keynes cũng cho rằng sự can thiệp của Nhà nước vào thị trường là thuc hiên các cuôc đầu tư lon, huy động nguồn tư bản nhàn rỗi để mở mang sản xuất, tạo việc làm... Sự can thiệp này cả ở tầm vĩ mô với việc sử dụng các công cụ tài chính, tiền tệ, đầu tư... và ở tầm vi mô khi Nhà nước trực tiếp phát triển các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh và dịch vụ công cộng. John Meynard Keynes và những người theo ông cho rằng, sự can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế sẽ khắc phục được khủng hoảng, thất nghiệp, tạo ổn định cho phát triển kinh tế xã hội. Song những chấn động lớn vẫn diễn ra và ngày càng trầm trọng. Điều này càng làm tăng làn sóng phê phán lý thuyết Keynes, và làm xuất hiện tư tưởng phối hợp giữa “bàn tay vô hình“ với “bàn tay hữu hình“. Đại biểu của trường phái này là Paul Samuesol. Trong cuốn “kinh tế học“ ông cho rằng điều hành một nền kinh tế không có cả chính phủ lẫn thị trường thì cũng như định vỗ tay bằng một bàn tay. “Bàn tay vô hình“ đôi khi cũng đưa nền kinh tế tới những sai lầm, đó chính là những khuyết tật của hệ thống thị trường. Những khuyết tật này có thể là do tác động bên ngoài như ô nhiễm môi trường mà doanh nghiệp phải trả giá hay do tình trạng độc quyền phá hoại cơ chế tự do cạnh tranh hoặc là những tệ nạn như khủng hoảng, thất nghiệp, và cuối cùng là một sự phân phối thu nhập bất bình đẳng do hệ thống thị trường mang lại. Cũng như “bàn tay vô hình“ , “Bàn tay hữu hình”, cũng có khuyết tật. Có nhiều vấn đề Nhà nước lựa chọn không đúng, không phù hợp. Những sai lầm đó gây nên tính không hiệu quả của sự can thiệp của chính phủ, họ đưa ra những quyết định sai không phản ánh sự vận động của thị trường. Do vậy phải kết hợp cả cơ chế thị trường và vai trò của chính phủ trong điều hành nền kinh tế hiện nay, hình thành nên một “nền kinh tế hỗn hợp”. Trong “nền kinh tế hỗn hợp” có cả cơ chế thị trường và Chính phủ. Cơ chế thị trường xác định giá cả và sản lượng trong nhiều lĩnh vực, chính phủ điều tiết thị trường bằng các chương trình thuế, chi tiêu, luật lệ. Cả hai bên thị trường và Chính phủ đều có tính tất yếu. Từ sau năm 1917, cùng với sự ra đời của Liên bang CHXHCN Xô Viết và sau đó là hệ thống XHCN từ sau năm 1945 là sự xuất hiện của nền kinh tế chỉ huy, vận động theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Nhà nước quản lý trực tiếp mọi hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế bằng kế hoạch và hàng loạt các chỉ tiêu pháp lệnh và chỉ tiêu gián tiếp. Kết quả thì các nước này vẫn phải chuyển sang cơ chế thị trường và phải đổi mới cách thức quản lý của Nhà nước sau một thời gian dài phát triển rồi suy thoái, khủng hoảng nặng nề. II. Tính tất yếu khách quan vai trò quản lý của Nhà nước trong nền kinh tế Việt Nam Sau kháng chiến thắng lợi, dựa vào kinh nghiệm của các nước XHCN, đất nước ta bắt đầu xây dựng mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung dựa trên sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất. Trong thời kỳ đầu thực hiện, nó đã tỏ ra phù hợp đặc biệt là lúc đất nước còn chiến tranh. Nhưng sau ngày giải phóng Miền nam, nó đã bắt đầu nảy sinh những mặt yếu kém, tích góp ngày càng nhiều những xu hướng tiêu cực, kìm hãm sự phát triển kinh tế-xã hội. Nền kinh tế ngày càng lâm vào tình trạng khủng hoảng, suy thoái, lạm phát tăng cao... Sai lầm cơ bản là ta đã thực hiện chế độ sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất trên một qui mô lớn trong điều kiện chưa cho phép, hình thức phân phối bình quân làm mất đi động lực phát triển của xã hội, Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng mệnh lệnh, can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh, bộ máy quản lý cồng kềnh, kém hiệu quả. Trước thực trạng đó buộc chúng ta phải đổi mới. Đại hội VI của Đảng đã đánh dấu một bước quan trọng với chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần và thực hiện chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế kế hạch toán kinh doanh XHCN. Và từ Đại hội VII, Đảng ta đã xác định rõ việc đổi mới cơ chế kinh tế ở nước ta là một tất yếu khách quan và trên thực tế đang diễn ra tức là chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá sang nền kinh thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Nhìn nhận dưới góc độ khoa học thì đây là một việc làm đúng đắn, phù hợp với thực tế của nước ta và phù hợp với các qui luật kinh tế với các xu thế của thời đại. Nếu không thay đổi cơ chế kinh tế thì không thể nào đủ sản phẩm để đáp ứng những nhu cầu thiết yếu chứ chưa nói đến tích luỹ. Chúng ta đặt mục tiêu là tiến lên CNXH vậy nhất thiết phải xây dựng được một nền kinh tế phát triển trong khi đặc trưng của kinh tế tự nhiên là cứng nhắc, kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế và bản thân nó cũng phát sinh rất nhiều tiêu cực. Mặc khác ở nước ta, từ trước ngày giải phóng, kinh tế thị trường đã hình thành cho dù nó phát triển chưa đồng bộ thiếu hẳn thị trường các yếu tố sản xuất như :thị trường lao động, thị trường đất đai, thị trường vốn và về cơ bản vẫn là thị trường tự do, mức độ can thiệp của Nhà nước còn rất thấp. Đây cũng là thời kỳ phát triển của xu thế hội nhập và hợp tác quốc tế. Sự phát triển của mỗi quốc gia không thể tách rời sự phát triển và hoà nhập quốc tế. Nếu chúng ta không có tiềm lực kinh tế thì rất khó khăn trong việc bảo vệ uy tín và duy trì sức mạnh của dân tộc trên trường quốc tế. Định hướng XHCN về mặt lý thuyết và thực tế, hoàn toàn không mâu thuẫn với kinh tế thị trường. Vì định hướng XHCN chính là thể hiện vai trò quản lý của Nhà nước theo khuynh hướng, định hướng đã xác định. Vấn đề đặt ra không phải là định hướng XHCN có mâu thuẫn hay không với kinh tế thị trường mà là ở chỗ bằng phương cách nào, cách thức nào để kinh tế thị trường của ta theo định hướng XHCN. Và muốn phát triển nền kinh tế thị trường của ta theo định hướng XHCN phải có những yếu tố nào để đảm bảo kinh tế thị trường là thành tựu chung của văn minh nhân loại, nó không phải là sản phẩm riêng có của CNTB, giữa CHXH và kinh tế thị trường không có mâu thuẫn cơ bản, kinh tế thị trường không phải là chế độ kinh tế-xã hội mà chỉ là một biện pháp phát triển lực lượng sản xuất, kinh tế kế hoạch không có nghĩa là CNXH, CNTB cũng có kế hoạch, kinh tế thị trường không có nghĩa là CNTB, CNXH cũng có thị trường. Sự khác nhau giữa CNTB và CHXH không phải ở chỗ kế hoạch hay thị trường, kế hoạch và thị trường chỉ là những phương pháp kinh tế. Nó không phải là tiêu thức để phân biệt CNTB và CNXH. Những vấn đề đặt ra trên đây đòi hỏi sự lãnh đạo của nhà nước khắc phụ và định hướng phát triển của nền kinh tế thông qua các công cụ quản lý và chính sách kinh tế vĩ mô. Thị trường vẫn hoạt động theo những quy luật khách quan của nó nhưng vai trò của Nhà nước cũng như việc quản lý có hiệu quả hay không sẽ làm cho đất nước ta phát triển, thực hiện thành công công cuộc CNH-HĐH đất nước. Thực tiễn hơn mười năm đổi mới đã khẳng định tính ưu việt của cơ chế thị trường cũng như sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên nó vẫn còn tồn tại những thiếu sót đòi hỏi chúng ta phải sớm sửa đổi và lúc này vai trò của Nhà nước thực sự được đề cao và trở nên quan trọng đối với sự phát triển kinh tế-xã hội. Chương II : Đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Các đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường 1. Một số khái niệm. 1.1. Thị trường là gì? Theo David Begg thị trường là sự biểu hiện thu gọn của quá trình mà thông qua đó các qui định của các giai đoạn về tiêu dùng và các mặt hàng nào, các qui định của các công ty về sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và các qui định của người công nhân về việc làm bao lâu cho ai đều được dung hoà bằng sự điều chỉnh của giá cả. Hiểu theo nghĩa hẹp, thị trường là tập hợp các sự thoả thuận thông qua đó người bán và người mua tiếp xúc với nhau để trao đổi hàng hoá và dịch vụ. Có nhiều dạng thị trường: - Người bán và người mua trực tiếp gặp nhau. - Người bán và người mua qua trung gian. Nhưng mọi thị trường đều thực hiện một chức năng kinh tế, chúng ấn định giá cả đảm bảo sao cho số lượng hàng của người muốn bán bằng số lượng hàng của người muốn mua. Không thể nghiên cứu giá cả tách rời số lượng, do đó giá cả chi phối xã hội trong viêc lựa chọn mua cái gì, mua như thế nào và mua cho ai. 1.2 Cơ chế kinh tế thị trường là gì? Theo Paul Samuelson, cơ chế thị trường là một hình thức tổ chức kinh tế trong đó cá nhân người tiêu dùng và các nhà kinh doanh tác động lẫn nhau qua thị trường để xác định 3 vấn đề trung tâm của tổ chức kinh tế là: Cái gì? Như thế nào? và cho ai? Cơ chế thị trường “Không phải là sự hỗn hợp mà là trật tự kinh tế”. “Một nền kinh tế thị trường là một cơ chế tinh vi để phối hợp một cách không tự giác nhân dân và doanh nghiệp thông qua hệ thống giá cả thị trường. Nó là một phương tiện giao tiếp để tập hợp trí thức và hành động của hàng triệu cá nhân khác nhau, không có bộ não trung tâm nó vẫn giải được những bài toán mà máy tính lớn nhất ngày nay không thể giải nổi”. 1.3. Kinh tế thị trường là gì? Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường. Cơ chế thị trường vận động có sự tham gia của nhiều yếu tố, khái quát chung nó biểu hiện trên bề mặt xã hội là cung và cầu nối với nhau bằng giá cả nhưng dưới chiều sâu của nó là qui luật giá trị. 2. Ưu khuyết điểm của nền kinh tế hiện đại. Kinh tế thị trường hiện đại phát triển vào khoảng những năm 50 của thế kỷ XX với đặc trưng chủ yếu là Nhà nước có thể can thiệp tích cực, mạnh mẽ vào kinh tế và mở rộng giao lưu kinh tế với nước ngoài trong khi các giai đoạn trước đó (khoảng cuối thế kỷ 17 đến đầu thế kỷ 20). Kinh tế thị trường tự do phát triển theo tinh thần tự do, Nhà nước không can thiệp vào kinh tế mà chỉ làm các chức năng truyền thống của Nhà nước pháp quyền như: Bảo vệ quyền sở hữu của các nhà kinh doanh (vai trò của người đứng gác trong kinh tế thị trường), bảo đảm an ninh chính trị, quốc phòng, an ninh, xử lý các tranh chấp trong kinh doanh và vi phạm pháp luật. Trong giai đoạn thị trường hiện đại, Nhà nước can thiệp sâu vào kinh tế, chủ yếu thông qua các chính sách tài chính-tiền tệ, kinh tế đối ngoại (thuế, lãi suất, điều tiết xuất nhập khẩu...). Và trên thế giới hiện nay không có Nhà nước nào không can thiệp vào kinh tế chỉ khác nhau ở biện pháp, mục tiêu và kết quả đạt được. Kinh tế thị trường hiện đại ở các nước đều có sự kết hợp giữa cơ chế thị trường (bàn tay vô hình ) và bàn tay hữu hình của Nhà nước. Sự can thiệp của Nhà nước vào kinh tế thị trường thể hiện trên một số mặt như sở hữu Nhà nước đối với một số ngành kinh tế quan trọng và cần thiết đối với nền kinh tế-xã hội; Nhà nước trực tiếp đầu tư vào các công tình công cộng kết cấu hạ tầng như cầu đường, bến cảng, hệ thống thoát nước...; có các qui định hoặc can thiệp về tiền lương, phúc lợi xã hội, thực hiện các chức năng kinh tế đối ngoại, giao lưu kinh tế với các nước, đề ra các chính sách kinh tế, các biện pháp đối với kinh tế như luật chống độc quyền, luật bảo vệ người tiêu dùng. 2.1 Ưu điểm. Cơ chế thị trường có khả năng tự điều tiết nền sản xuất và xã hội tức là tự vận động phân bố các nguồn tài nguyên vào sản xuất và khu vực làm cho nền kinh tế năng động huy động được mọi tiềm năng của nền kinh tế và của cải xã hội. Nhờ thị trường và tự do trao đổi nên có thể thoả mãn và đáp ứng mọi nhu cầu khác nhau cho tiêu dùng cá nhân và cho sản xuất. Do đó trong kinh tế thị trường, tỷ trọng của khu vực dịch vụ ngày càng gia tăng, phản ánh xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế đặc trưng của thời kỳ hậu công nghiệp hoá, được đánh dấu bằng sự gia tăng của khu vực dịch vụ (khu vực III) trên cơ sở một nền tảng khoa học công nghệ mới thay thế cho xu hướng gia tăng của công nghiệp chế biến (khu vực II) của thời kỳ công nghiệp hoá trước đây. Cơ chế thị trường tự động kích thích sự sản xuất, tăng trưởng kinh tế và chuyên môn hoá sản xuất về cả chiều rộng và chiều sâu. Tăng cường chuyên môn hoá sản xuất, kích thích hoạt động của các chủ thể kinh tế tự do, thúc đẩy sử dụng kỹ thuật mới vào sản xuất và phát triển kinh tế. 2.2 Khuyết điểm. Bên cạnh những mặt mạnh phản ánh xu thế chuyển đổi tất yếu nền kinh tế chung của thế giới trong thời gian qua, kinh tế thị trường cũng bộc lộ những khuyết tật, mặt trái của nó. Cụ thể là: Do mục đích của các doanh nghiệp là tối đa hoá lợi nhuận nên họ có thể lạm dụng tài nguyên của xã hội, khai thác bừa bãi dẫn đến cạn kiệt nguồn tài nguyên. Họ chỉ chạy theo những hàng hoá thu được lợi nhuận cao dẫn tới mất ổn định và phá vỡ cân đối trong nền sản xuất xã hội. Cơ chế thị trường có thể hoạt động không có hiệu quả kể cả trong cạnh tranh tự do lẫn trong cạnh tranh có sự chi phối của các tổ chức độc quyền do hiện tượng cạnh tranh không hoàn hảo. Cơ chế thị trường do có sự chọn lọc tự nhiên gây ra mất cân bằng và nhiều vấn đề xã hội, gây ra sự phân hoá giữa nghèo, nạn thất nghiệp, tệ nạn xã hội ngày càng gia tăng. Cơ chế thị trường có thể cho phép tổ chức xã hội đạt hiệu quả cao nhưng cũng có thể gây ra bất bình đẳng lớn vì không có lí do gì buộc cơ chế thị trường phải phân phối một cách hợp lý. II. Đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta 1. Đặc điểm cơ chế thị trường ở nước ta. Hiện nay có nhiều cách phân tích, lý giải, bình luận khác nhau khi nhìn vào sự vận động của nền kinh tế. ở đây trên cơ sở nhìn lại thực tiễn những năm đổi mới, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta có những đặc điểm sau đây. Từng bước thực hiện quá trình mang tính qui luật của bước chuyển từ nền kinh tế tập trung, quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có điều tiết vĩ mô của Nhà nước, với tự do hoá thương mại và tự do hoá giá cả là khâu trung tâm đột phá, từng bước tiến tới cơ chế thị trường đích thực. Cơ chế đó là phát huy vai trò điều tiết của thị trường, hình thành bước đầu một thị trường cạnh tranh làm cho hàng hoá lưu thông thông suốt, cung cầu được cân đối, thoát khỏi tình trạng khủng hoảng thiếu, giá cả ổn định dần, lạm phát được ngăn chặn. Cơ chế thị trường cũng đã góp phần giải phóng lực lượng sản xuất, phát huy tính tự chủ sáng tạo của hộ kinh tế và chủ doanh nghiệp bao gồm cả các doanh nghiệp Nhà nước. Với cơ chế tài chính đặc biệt là cơ chế giá và tỷ giá được hình thành thông qua thị trường đã tạo bước ngoặt trong cơ chế kinh tế . Cơ chế thị trường còn thiếu đồng bộ, mang nhiều yếu tố tự phát, rối loạn. Sản phẩm của một nền kinh tế chưa thoát khỏi khủng hoảng và cơ bản là sản xuất nhỏ, sự yếu kém của bộ máy quản lý Nhà nước, tình trạng quan liêu, thiếu hiểu biết, thậm chí trì trệ bảo thủ trước bước ngoặt chuyển đổi kinh tế. Cụ thể là cơ chế thị trường chưa tạo được môi trường ổn định và an toàn cho sản xuất kinh doanh đặc biệt những yếu kém trong thể chế tài chính tiền tệ, tín dụng đang là lực cản của quá trình chuyển đổi. Cơ chế thị trường thiếu đồng bộ, sự chuyển biến đã khá mạnh mẽ trên thị trường hàng hoá dịch vụ, trong khi đó lại lạc hậu trong thị trường nhân tố sản xuất. Tự do về sở hữu chưa đầy đủ do đó trên thị trường chưa thực hiện được tự do kinh doanh theo pháp luật đặc biệt đối với các doanh nghiệp Nhà nước khi mà quyền sở hữu và quyền sử dụng về vốn, tài sản, lao động chưa tách rời. Sự hình thành, vận động của nền kinh tế thị trường còn mang nhiều yếu tố tự phát, cơ chế vận hành thô sơ, cơ chế quản lý đổi mới thiếu đồng bộ. Cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước trong nền kinh tế định hướng XHCN là vấn đề hoàn toàn mới mẻ, chưa có tiền lệ trong lịch sử và không có mô hình vạch sẵn. Do vậy không thể ngay từ đầu hình dung toàn bộ các chi tiết của mô hình thị trường, cũng không thể vạch ngay được một lịch trình cứng nhắc của bước chuyển mà phải vừa thực hiện cơ chế thị trường, vừa tổng kết để tiếp tục hoàn thiện. Việc chuyển từng bước sang cơ chế thị trường cho phù hợp với hoàn cảnh lịch sử và các điều kiện chính trị, kinh tế-xã hội, không áp dụng các liệu pháp sốc vừa là đặc điểm, vừa là quan điểm quan trọng trong quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế. Chúng ta chủ trương chuyển sang cơ chế thị trường trên cơ sở ổn định chính trị, lấy ổn định chính trị làm tiền đề và điều kiện cho cải cách kinh tế, mặt khác cũng nhận thức rõ phải đổi mới mạnh mẽ trong lĩnh vực hành chính, trên cơ sở đổi mới quản lý của Nhà nước, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả trong quản lý của nó cho phù hợp với điều kiện kinh tế thị trường, mà tiếp tục ổn định chính trị, đưa cải cách tiến lên những bước phát triển mới. Ngay từ đầu chúng ta đã khẳng định định hướng XHCN là không thay đổi, tuy nhiên đã có những nhận thức mới về CNXH, khẳng định CNXH có thể sử dụng các công cụ phổ biến mà CNTB đã từng sử dụng như thị trường, các quan hệ hàng hoá-tiền tệ, qui luật giá trị cho mục tiêu của mình. Xuất phát từ thực tiễn thị trường nước ta đang trong bước hình thành phát triển, còn nhiều yếu tố mất ổn định, từ chỗ nền kinh tế về thực chất đã từ lâu là nền kinh tế nhiều thành phần, nên đã không chủ trương tư nhân hoá tràn lan mà trái lại, chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần và xây dựng kinh tế quốc doanh thành thực lực và làm chỗ dựa của Nhà nước ở các khâu và lĩnh vực then chất để ổn định và định hướng thị trường. Từ phân tích trên rút ra được rằng, để tiếp tục thực hiện phương châm ổn định để phát triển, Nhà nước ta phải đổi mới hơn nữa, nhận thức rõ vai trò của mình trong điều kiện mới, đặc biệt thay đổi chất lượng, tác phong của bộ máy, chuyển từ tác phong chỉ huy, mệnh lệnh sang tác phong hỗ trợ, tạo môi trường và điều kiện cho thị trường phát triển, đưa bộ máy thoát khỏi tình trạng cửa quyền, tham nhũng. Điều đó nói lên tầm quan trọng đặc biệt của Nhà nước XHCN trong hoạt động của thị trường nước ta. 2. Những đặc trưng của kinh tế thị trường hướng tới. Thể chế của những chủ thể tự chủ, tự do kinh doanh theo pháp luật, các thành phần kinh tế vừa cạnh tranh vừa liên kết hợp tác và phát triển đạt được trình độ xã hội hoá cao. Giá tự do tức giá thị trường, tự do hoá thương mại (ban đầu ở trong nước, dần dần mở rộng ra thị trường ngoài nước) và cạnh tranh tạo mọi khả năng cho thị trường phát huy vai trò tự điều chỉnh sản xuất kinh doanh và cung cầu hàng hoá. Trong điều hành các hoạt động kinh tế (cơ chế quản lý) cần hạn chế tối đa những mệnh lệnh hành chính để cho các hoạt động thị trường được diễn ra chủ yếu trên sự hướng dẫn của các qui luật khách quan, đảm bảo nguyên tắc vận hành chủ yếu của nền kinh tế là nguyên tắc thị trường. Tuy nhiên không xem các quan hệ thị trường hoạt động theo các qui luật khách quan một cách độc lập hoàn toàn, biệt lập với kế hoạch định hướng và các chính sách kinh tế của Nhà nước. Mọi yếu tố sản xuất phải đi vào thị trường. Đây là đặc trưng phổ biến của kinh tế thị trường; đối cới nước ta đây còn là điều kiện cơ bản để nền kinh tế thị trường vận hành bình thường. Đặc trưng xã hội cũng như vai trò xã hội to lớn của Nhà nước XHCN trở thành đặc trưng nổi bật của thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN-mô hình kinh tế trong đó con người là nhân vật trung tâm. Chương III : Mục tiêu và chức năng quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước I. Mục tiêu quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước 1. Tất cả các Nhà nước trên thế giới đều có một mục tiêu là đảm bảo được sự lành mạnh của nền kinh tế-xã hội. Cụ thể là: Mục tiêu sản lượng: Đạt được mức sản lượng thực tế cao, tương ứng với mức sản lượng tiềm năng, giữ vững tốc độ tăng trưởng sản lượng cao và vững chắc. Mục tiêu việc làm: Tạo được việc làm tốt, hạ thấp tỉ thấp nghiệp (duy trì ở mức tự nhiên). Mục tiêu ổn định giá cả: hạ thấp và kiểm soát được lạm phát trong điều kiện tự do đặc biệt là trong hoàn cảnh hệ thống tài chính tiền tệ trên thế giới liên tục xảy ra khủng hoảng và bất ổn định. Mục tiêu đối ngoại: ổn định tỷ giá hối đoái, cân bằng cán cân thanh toán. Mở rộng hợp tác trên phạm vi thế giới theo xu hướng quốc tế hoá sản xuất. Đây là mục tiêu mà các chính phủ hết sức quan tâm nhưng đồng thời rất thận trọng, một mặt mở rộng quan hệ thương mại quốc tế mặt khác vẫn giữ vững ổn định chính trị, chủ quyền và độc lập, tránh phụ thuộc về kinh tế dẫn tới phụ thuộc về chính trị, đồng thời tạo vị thế quốc gia trên thị trường quốc tế. Phân phối công bằng: Đây được coi là mục tiêu quan trọng nhất trong các mục tiêu kinh tế bởi có giải quyết được nó mới có thể ổn định được xã hội. Phân phối công bằng sẽ tránh được sự phân biệt giàu nghèo, sự chênh lệch quá lớn trong xã hội đồng thời cũng tạo vị trí vững chắc cho giai cấp cầm quyền. Các mục tiêu trên thể hiện một trạng thái lý tưởng của nền kinh tế trong đó các mục tiêu có tác động tương hỗ, bổ sung cho nhau vì mục tiêu chung của quốc gia. 2. Cụ thể đối với Việt Nam, Nhà nước có các mục tiêu cơ bản sau: Đạt được trạng thái kinh tế tăng trưởng cao và lâu dài, cụ thể là trên dưới 10%, nâng cao thu nhập bình quân đầu người lên gấp đôi (400 USD) vào năm 2000. Giải quyết công ăn việc làm ở mức tốt nhất, không ngừng mở rộng các loại hình sản xuất, có nhiều biện pháp thu hút đầu tư, các chính sách giáo dục đào tạo để có được đội ngũ lao động có chuyên môn và tay nghề cao. Tiếp tục đẩy lùi kiểm soát lạm phát, giữ vững tỷ lệ lạm phát ở mức một con số (dưới 10%). Bắt đầu có tích luỹ nội bộ nền kinh tế. ổn định và từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Bảo đảm mức tiền lương tối thiểu đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người lao động, ngăn chặn thu nhập, chi phí bất công. Đảm bảo phân phối thu nhập cân bằng (đặc biệt giữa các ngành nghề và loại hình lao động khác nhau) Duy trì tỷ giá hối đoái ổn định, giảm chênh lệch cán cân thanh toán quốc tế, đảm bảo giá cả phản ánh đúng tín hiệu thị trường. Khuyến khích tạo cho đầu tư nước ngoài ở Việt Nam. II. Chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước. Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Vai trò đó được thể hiện qua các chức năng kinh tế của nó. Cụ thể như sau: Định hướng sự phát triển của xã hội theo các đặc trưng và các yêu cầu đã định cho các chặng đường phát triển. ở nước ta đó là việc nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng CNXH và bảo vệ tổ quốc đẩy mạnh công nghiệp hoá-hiện đạ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35081.doc
Tài liệu liên quan