Vai trò của nhà nước pháp quyền trong việc xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay

Lời mở đầu Trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay, vai trò của nhà nước pháp quyền càng ý nghĩa quan trọng trong việc đẩy nhanh phát triển kinh tế, đi kèm theo là những tiến bộ của xã hội sẽ đạt được, đó là một nền dân chủ thực sự cho người dân trong xã hội. Việc thực hiện vai trò của mình trong tình hình nền kinh tế toàn cầu hoá hiện nay có ý nghĩa vô cùng quan trọng để nhà nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam có thể tồn tại, phải không ngừng nầng cao đời sống của người dân, có quan hệ với nh

doc20 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1878 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Vai trò của nhà nước pháp quyền trong việc xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iều nước về mọi mặt nhưng vẫn đảm bảo giữ vững đường lối chính trị định hướng Xã hội chủ nghĩa. Bốn nguy cơ thất bại của cách mạng Việt Nam thì vai trò của nhà nước thể hiện rất rõ trong cả bốn nguy cơ, nhà nước trực tiếp cụ thể hoá con đường của Đảng thành thực tiễn áp dụng bằng những chính sách, kế hoạch của mình. Trong bất kì thời đại nào trước đây, thì vấn đề nhà nước luôn là vấn đề đặc biệt quan trọng bởi mỗi một quyết định của nó mà không phù hợp với tình hình khách quan thì có thể dẫn tới sự khủng hoảng thực sự về kinh tế, chính trị, văn hoá… Do đó, vấn đề nhà nước được Mác và Enghen nghiên cứu rất kĩ lưỡng, sau này đó là sự vận dụng và kế tiếp của Lê Nin trong sự nghiệp cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại và tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh áp dụng trong tình hình cách mạng Việt Nam. Nội dung của bài tiểu luận sẽ bàn đến các vấn đề sau đây: Chương I, Lý luận về nhà nước pháp quyền. Chương này sẽ nêu các quan điểm trước Mác về nhà nước pháp quyền và quan điểm của triết học Mác-NêLin. Chương II, Tư tưởng HCM về vấn đề nhà nước pháp quyền. Nêu ra tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề nhà nước pháp quyền, đặc biệt là những quan điểm rất tiến bộ của người trong tình hình đất nước có vô vàn khó khăn và lần đầu tiên người dân Việt Nam được thực hiện quyền làm chủ đất nước của mình thông qua hình thức bầu cử năm 1946. Chương III. Vai trò của nhà nước pháp quyền trong việc xây dựng CNXH ở nước ta hiện nay. Đây là nội dung quan trọng trong bài nhằm nêu ra vai trò vô cùng quan trọng của nhà nước pháp quyền trong tình hình nền kinh tế thị trường định hướng Xã Hỗi Chủ Nghĩa. Vai trò của nhà nước cần thể hiện sao cho vừa đảm bảo phát huy mọi năng lực kinh tế của người dân và đảm bảo hội nhập sâu rộng trên các lĩnh vực kinh tế, văn hoá. Trên cơ sở những phân tích kèm theo sẽ là những giải pháp để hoàn thiện hơn nữa vai trò của nhà nước pháp quyền hiện nay ở Việt Nam. Hoàn thành bài tiểu luận này đã có sự hợp tác rất lớn của các bạn trong nhóm làm đề cương chi tiết và sự hướng dẫn tận tình của cô giáo Nguyễn thị Bích Thuỷ. Mục lục Mục lục Chương I, Lý luận về nhà nước pháp quyền. I.1.Các quan niệm trước Mác về nhà nước pháp quyền I.2. Lý luận của CN Mác-LêNin về nhà nước pháp quyền. I.2.1 Nguồn gốc, bản chất, đặc trưng,chức năng của nhà nước I.2.2, Nhà nước chuyên chính vô sản A, Khái niệm kiểu và hình thức nhà nước. B, Các kiểu và hình thức nhà nước trong lịch sử. C-Nhà nước chuyên chính vô sản là nhà nước kiểu mới. ChươngII, Tư tưởng HCM về vấn đề nhà nước pháp quyền. II.1, Nhà nước của dân, do dân và vì dân. II.2, Hiến pháp được thể chế hoá sao cho: Chương III. Vai trò của nhà nước pháp quyền trong việc xây dựng CNXH ở nước ta hiện nay III.1 Vai trò của nhà nước. A, Vai trò hiện nay của nhà nước ta B, Vai trò của nhà nước pháp quyền trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN III.2 Một số vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân: Kết luận Tài liệu tham khảo Trang Chương I, Lý luận về nhà nước pháp quyền. I.1. Các quan niệm trước Mác về nhà nước pháp quyền: Thời cổ đại và trung đại Xuất phát tư tưởng ban đầu đó là tồn tại quan niệm ấy trĩ: sức mạnh đẻ ra pháp luật, lẽ phải bao giờ cũng thuộc về kẻ mạnh. Đây vốn là quan điểm sinh ra từ thời cộng sản nguyên thuỷ khi mà con người vốn phải sử dụng tới sức mạnh của chính bản thân mình để săn bắt và hái lượm. Tư tưởng về nhà nước pháp quyền ra đời nhằm chống lại sự chuyên quyền độc đoán đó, vô chính phủ, vô pháp luật đó, tức là gắn liền với việc xác lập và phát triển nền dân chủ. Giai đoạn nhà nước chủ nô dần hình thành, nhà nước được xây dựng, giai cấp chủ nô lắm quyền thống trị xã hội và những tư tưởng về nhà nước pháp quyền dần hình thành và manh nha theo những chính sách cai trị của các chiều đại và đế chế khi đó. Nhà triết học nổi tiếng Platon (427-347 TCN) khẳng định: “Tôi nhìn thấy sự sụp đổ nhanh chóng cả Nhà Nước ở nơi mà pháp luật không có hiệu lực và nắm dưới quyền của một ai đó”. Aristot( 384-322 TCN) khẳng định : pháp luật cần thống trị tất cả. Các nhà triết học cổ đại không chỉ tới sự tối cao của pháp luật mà còn chú ý tới sự tổ chức hợp lý của quyền lực nhà nước. Điều này thể hiện điểm quan trọng đó là vấn đề về nhà nước pháp quyền có ý nghĩa vô cùng quan trọng ngay trong giai đoạn đầu của loài người. Thời cận đại Các nhà triết học thời cận đại tiếp tục kế tục các quan điểm của các nhà triết học thời cổ và trung đại. Tư tưởng về nhà nước pháp quyền được nâng nên một tầm cao hơn. Không chỉ tư tưởng thuần tuý mà những quan điểm về việc xây dựng nhà nước pháp quyền một cách khoa học đã hình thành và ngày càng trở nên hoàn thiện với sự xuất hiện hình thái nhà nước tư sản kiểu mới. Những nhà triết học tiêu biểu bao gồm: Kantơ (1724-1804) : Nhà nước là tập hợp của nhiều người cùng phục tùng các đạo luật pháp quyền. Mục đích của nhà nước là đảm bảo sự thắng lợi của pháp luật và bản thân Nhà nước cũng phải phục tùng những yêu cầu của pháp luật đó. Ông ủng hộ nguyên tắc phân quyền. Hêghen (đầu thế kỉ XIX) : cũng tán thành nguyên tắc phân quyền, coi đó là sự bảo đảm của tự do công cộng. Chủ nghĩa Nhà nước của Hêghen là duy tâm: Nhà nước là sự du ngoạn của trời trên trái đất. Các nhà tư tưởng đã nêu ra những ý niệm cụ thể hơn về mối quan hệ giữa nhà nước với pháp luật. Trong mối quan hệ đó hoặc là nhà nước đứng trên pháp luật hoặc là nhà nước hoạt động tuyệt đối tuân theo pháp luật, đứng dưới pháp luật. Kết luận: pháp luật tự nhiên, thứ pháp luật chung cho mọi nhà nước, cao nhất, vĩnh hằng nhất, bất biến không thay đổi đang dần hình thành và trở thành quan niệm gắn bó chặt chẽ với triết học pháp quyền- môn khoa học nghiên cứu và phản ánh chân lý của pháp luật, bản chất của pháp luật. I.2. Lý luận của CN Mác-LêNin về nhà nước pháp quyền. I.2.1 Nguồn gốc, bản chất, đặc trưng,chức năng của nhà nước A, Nguồn gốc của nhà nước. Khi xét tới vấn đề nhà nước thì triết học Mác-LêNin dựa trên quan điểm lịch sự cụ thể đó là: xét sự phát triển từ xã hội cộng sản nguyên thuỷ đến xã hội chiếm hữu nô lệ. Đây là giai đoạn đánh dấu sự ra đời của nhà nước, hình thái nhà nước pháp qưyền đầu tiên của nhân loại. Mác và LêNin Sự mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất phát triển với quan hệ sản xuất lạc hậu từ đó dẫn đến sự ra đời của quan hệ sản xuất mới phù hợp hơn. Quan hệ sản xuất (QHSX) mới ra đời dẫn đến sự xuất hiện của giai cấp và dẫn đến sự ra đời của nhà nước. Nguồn gốc sâu xa của nhà nước: Sự ra đời của QHSX chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Sự phân công lao động xuất hiện giữa nghề trồng chọt và nghề chăn nuôi, đánh dấu sự phát triển vượt bậc của lực lượng sản xuất, xã hội làm ra của cải với khối lượng lớn và thừa cho nhu cầu khi đó của xã hội. Đây là nguyên nhân quan trọng nhất cho sự ra đời của nhà nước, khi mà xã hội cộng sản nguyên thuỷ xuất hiện sự dư thừa về sản phẩm lao động, những người được coi là tù trưởng hay lãnh đạo một bộ tộc khi đó tìm mọi cách để sở hữa những sản phẩm thừa đó, cùng với những sản phẩm thừa do lao động là những công cụ lao động tốt và hiệu quả sẽ được chia cho những người ‘có chức có quyền’ khi đó. Còn những công cụ lao động không tốt và không hiệu quả cùng phần sản phẩm lao động thặng dư ít sẽ được chia cho những người còn lại trong bộ lạc, sự khác biệt cơ bản này đánh dấu sự chuyển mình của nhân loại. QHSX chiếm hữa tư nhân về tư liệu sản xuất dần được xác lập, nó phù hợp với sự tiến bộ của nhân loại, phủ định quan hệ sản xuất Nguồn gốc trực tiếp của nhà nước đó là về mặt xã hội: giai cấp đối kháng xuất hiện , dẫn đến đấu tranh. Khi đó thì vấn đề trở thành có hai hướng : Hai giai cấp đấu tranh triền miên, xã hội mất ổn định, không phát triển được. Hai giai cấp đấu tranh quyêt liệt, cả hai cùng bị triệt tiêu, dẫn đến xã hội diệt vong. Nhà nước xuất hiện đứng ra điều hoà mâu thuẫn trên. Tuy nhiên chỉ có giai cấp nắm quyền về kinh tế mới có thể tổ chức ra nhà nước, và họ biến Nhà Nước thành công cụ của riêng mình, đàn áp trở lại giai cấp bị trị và mâu thuẫn không được điều hoà và đẩy đến đỉnh cao. B, Bản chất của nhà nước. Nhà nước chỉ là của một giai cấp giai cấp nắm quyền về kinh tế. Không có nhà nước của các giai cấp trong cùng một xã hội. Mỗi một giai đoạn tương ứng với mỗi hình thái kinh tế xã hội có một giai cấp nắm quyền về kinh tế. Không có nhà nước chung cho mọi thời đại, mọi hình thái kinh tế xã hội chung. Nhà nước là kiểu tổ chức xã hội có giai cấp. Nhà nước được tổ chức trên cơ sở của giai cấp nắm quyền về kinh tế, nó là kiến trúc thượng tầng được xây dựng trên cơ sở hạ tầng. Lực lượng sản xuất tiến bộ sẽ quyết định quan hệ sản xuất và hình thành cho nó một cơ sở hạ tầng, khi đó giai câp nắm quyền về kinh tế sẽ xây dựng cho mình kiến trúc thượng tầng bao gồm: nhà nước, pháp luật và các thể chế, văn hoá, nghệ thuật, chính trị… Nhà nước thực hiện sự chưyên chính về giai cấp, của giai cấp thống trị với các giai cấp khác trong xã hội. Không có nhà nước của mọi giai cấp, nhà nước ra đời là công cụ của giai cấp này để quay trở lại đàn áp giai cấp khác. Và tất nhiên khi mà giai cấp trong xã hội không có thì sẽ không có nhà nước. C, Đặc trưng của nhà nước Nhà Nước quản lí dân cư trên một vùng lãnh thổ nhất định. Một bộ máy quyền lực chuyên nghiệp mang tính cưỡng chế với mọi thành viên trong xã hội. Hình thành hệ thống thuế khoá để duy trì và tăng cường bộ máy cai trị. D, Chức năng cơ bản của nhà nước Thống trị về mặt chính trị của giai cấp và chức năng xã hội của nhà nước. Chức năng xã hội của nhà nước về mặt bản chất là để điều hoà mâu thuẫn về xung đột giai cấp, tuy nhiên khi nó ra đời nó lại càng làm cho xung đột bị đẩy lên cao, tuy nhiên không phải mọi vấn đề về mặt xã hội của nhà nước đề chỉ phục vụ cho giai cấp nắm quyền. Có những vấn đề nhà nước phục vụ cho toàn xã hội, ví dụ điển hình nhất là nhà nước tư sản có những chính sách cải thiện cho người nghèo, tổng thống Mỹ BinClintơn đã đánh thuế luỹ tiến với thu nhập của người giầu và phần thu lại đó đã được chính phủ xây dựng các công trình phúc lợi xã hội phục vụ cho người nghèo. Chức năng đối nội và đối ngoại. Đây là chức năng quan trọng của nhà nước: đối nội bao gồm các hoạt động về bên trong quốc gia, những chính sách phát triển kinh tế, xã hội… Chức năng đối ngoại bao gồm những hoạt động của nhà nước trong quan hệ với các nước khác, chính sách ngoài giao, những vấn đề quốc tế cần có sự liên kết toàn cầu hay khu vực. I.2.2 Nhà nước chuyên chính vô sản A, Khái niệm kiểu và hình thức nhà nước. Kiểu nhà nước là khái niệm dùng để chỉ bộ máy thống trị thuộc về giai cấp nào,tồn tại trên cơ sở chế độ kinh tế nào,tương ứng với hình thái kinh tế xã hội nào. Hình thức nhà nước là khái niệm dùng chỉ cách thức tổ chức và phương thức thực hiện quyền lực nhà nước. B, Các kiểu và hình thức nhà nước trong lịch sử. Tương ứng với ba chế độ xã hội có đối kháng giai cấp trong lịch sử là hình thái kinh tế xã hội chiếm hữu nô lệ, hình thái kinh tế xã hội phong kiến và hình thái kinh tế xã hội tư bản chủ nghĩa là ba kiểu nhà nước: nhà nước chiếm hữu nô lệ, nhà nước phong kiến và nhà nước tư sản.Tuỳ theo tình hình kinh tế xã hội cụ thể của mỗi quốc gia mà mỗi kiểu nhà nước được tổ chức theo những hình thức nhất định. Nhà nước chiếm hữu nô lệ:chỉ khác nhau về các thức tổ chức bộ máy nhà nước,nhưng nói chung chúng đều là nhà nước của giai cấp chủ nô, nhằm thực hiện chuyên chính với nô lệ. Nhà nước phong kiến: là nhà nước của giai cấp địa chủ phong kiến,cũng được tổ chức dưới,cũng được tổ chức dưới nhiều hình thức khác nhau.Nhưng dù tồn tại dưới bắt cứ hình thức nhà nước nào thì nhà nươc phong kiến cũng chỉ là chính quyền của giai cấp địa chủ, quý tộc. Nhà nước tư sản: là nhà nước của giai cấp tư sản,thích ứng với hình thái kinh tế xã hội tư bản chủ nghĩa.Cũng được tổ chức dưới nhiều hình thức, nhưng nói chung chỉ có 2 hình thức cơ bản là hình thức cộng hoà và hinh thức quân chủ lập hiến. Hình thức của nhà nước tư sản rất phong phú, nhưng không làm thay đổi bản chất: là công cụ của giai cấp tư sản dùng áp bức bóc lột giai cấp vô sản, quần chúng lao động. Và tất nhiên nó đòi hỏi phải thay bị thay thế bởi một nhà nước không còn áp bức, bóc lột. C-Nhà nước chuyên chính vô sản là nhà nước kiểu mới. Là nhà nước của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Chuyên chính vô sản đống vai trò là thiết chế cần thiết để đảm bảo sự lãnh đạo của giai cấp công nhân đối với nhân dân đưa xã hội theo con đường XHCN. Trong lịch sử, chưa từng có một giai cấp bị áp bức bốc lột nào đạt được địa vị thống trị và có thể đạt được địa vị thống trị mà không phải trải qua chuyên chính. Nhà nước vô sản là chính quyền của nhân dân,do nhân dân, vì nhân dân,do đó,chế độ dân chủ vô sản là chế độ dân chủ theo nghĩa đầy đủ nhất của từ đó. Đó là nền dân chủ bao quát toàn diện mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, nó lấy dân chủ trên lĩnh vực kinh tế làm cơ sở. CNXH không thể tồn tại và phát triển nếu thiếu dân chủ, thiếu sự thực hiện một cách đầy đủ và mở rộng không ngừng dân chủ, phát triển dân chủ đến cùng, tìm ra những hình thức của sự phát triển ấy, đem thí nghiệm những hình thức ấy trong thực tiễn. Chủ nghĩa Mác- Lê Nin chỉ ra nhà nước vô sản là nhà nước đặc biệt, nhà nước không còn nguyên nghĩa, là nhà nước nửa nhà nước. Đó là nhà nước tự tiêu vong, trong giai đoạn đầu của nó, nhà nước trong thời kì chủ nghĩa xã hội thì vai trò chuyên chế với giai cấp mất đi và chỉ còn vai trò quản lý xã hội, trong giai đoạn phát triển cao hơn sau đó là xã hội cộng sản thì vai trò quản lý cũng mất đi, xã hội mang tính chất từ quản cao độ. ChươngII, Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề nhà nước pháp quyền. II.1, Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Trải qua những năm tháng bôn ba tìm đường cứu nước, tiếp thu những quan điểm và tư tưởng tiến bộ của Mac-LêNin, chủ tịch Hồ Chí Minh (HCM) đã xây dựng tư tưởng về nhà nước pháp quyền phù hợp với tình hình của đất nước và nhân loại. Trong đó nổi bật nên là quan điểm nhà nước của dân, do dân và vì dân. Hồ Chí Minh Nhà nước của dân: Nhân dân ta đã giành lại đất nước từ tay bọn thực dân, phong kiến và đế quốc nên nhà nước chỉ có thể là nhà nước của dân. Nhân dân ta đã giành lại chính quyền, giành lại tự do từ đế quốc phong kiến và thực dân bằng chính xương máu của mình, nên nhà nước mà chúng ta xây dựng nên phải là nhà nước của dân ta, không phải là nhà nước của một số ít cá nhân hay tập thể nào khác. Nhà nước do dân: Dân tham gia vào công việc nhà nước. Dân tham gia vào mọi công việc của nhà nước, thông qua đại biểu quốc hội mình bầu ra. Dân tự làm mọi việc, thông qua các mối quan hệ và các đoàn thể chứ không phải nhà nước bao cấp cho dân Nhà nước vì dân: Nhà nước phục vụ lợi ích của dân, đảm bảo quyền dân chủ rộng dãi và có hiệu quả trong đời sống xã hội. Nhà nước sống trong dân, tạo sự công bằng cho dân, đặt lợi ích quần chúng nhân dân gắn chặt với lợi ích của toàn dân. Có trách nhiệm trước dân II.2, Hiến pháp được thể chế hoá sao cho: Phù hợp sự vận động của đời sống nhân dân Khách quan, phản ánh đúng ý chí bằng việc trưng cầu ý dân nhằm thực hiện dân chủ và để trí tuệ của dân được phát huy. Đặc biệt: ‘đức trị kết hợp với pháp trị’ , đây là yếu tố độc đáo, sáng tạo trong vấn đề xây dựng và thể chế hiến pháp, pháp luật. “Không sử phạt là không đúng song chút gì cũng trừng phạt là không đúng”, thể hiện mối quan hệ biện chứng giữu chúng. Đây cũng là cơ sở đảm bảo xây dựng và củng cố, hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân. Tóm lại tính nhất quán trong tư tưởng HCM thể hiện trên yếu tố: Mục đích nhà nước Nguyên tắc tổ chức nhà nước Phương thức hoạt động của nhà nước “Kể cả cán bộ và cơ quan nhà nước không những phải làm tốt công tác tuyên truyền, phổ biến rộng dãi hiến pháp , pháp luật trong nhân dân mà còn phải đặc biệt gương mẫu trong việc thi hành hiến pháp hiến pháp, pháp luật và các luật lệ”. Tư tưởng sáng suốt và quan trọng nó nhấn mạnh : Không ai có thể đứng trên pháp luật, tôn trọng và thể hiện nghiêm túc yêu cầu mang tính nguyên tắc sẽ ngăn chặn được việc lạm dụng, tha hoá quyền lực nhà nước hoặc khuynh hướng cho rằng thứ quyền lực nhà nước là thứ quyền năng vô hạn, tuyệt đối và tách rồi khỏi nhân dân. Kết luận: Trong thời đại ngày nay thì tư tưỏng của người sẽ là cơ sở quan trọng trong việc xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống hiến pháp của nhà nước. Giải quyết vân đề thời sự nóng hổi hiện nay đó là ‘quốc nạn tham nhũng’, tham nhũng chỉ có thể được giải quyết tận gốc nếu ta không cho nó co môi trường phát triẻn, bằng cách xây dựng hệ thống hiến pháp rõ dàng và thực hiện một cách nghiêm túc của các cơ quan, đi liền với đó là những công cụ giám sát và đánh giá một cách hiệu quả. Chương III. Vai trò của nhà nước pháp quyền trong việc xây dựng CNXH ở nước ta hiện nay Khái niệm : Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước kiểu mới, được xây dựng trên nền tảng của chủ nghĩa Mac-LêNin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là một nhà nước đoàn kết toàn dân, dựa trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản. Đó là một nhà nước khác về chất so với nhà nước tư sản, và các kiểu nhà nước trước đây chứa đựng thuộc tính áp bức bất bình đẳng, và bất công. Quan niệm về nhà nước pháp quyền có nhiều cách khác nhau, mỗi cách được nhìn nhận từ một góc cạnh khác nhau. Do đó không thể định nghĩa một cách ngắn gọn về nhà nước pháp quyền mà phải nhìn nhận nó ở những khía cạnh khác nhau. Về mặt nhận thức có thể thấy nhà nước pháp quyền bao gồm những đặc trưng như sau: Thứ nhât, phương thức tổ chức, xây dựng và vận hành bộ máy phải do pháp luật quy định. Nhà nước pháp quyền trước hết là nhà nước hiến pháp, hợp pháp, nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật trong đó các đạo luật chiếm ưu thế trong hệ thống luật pháp. Pháp luật nhà nước là pháp luật chứa đựng tính nhân văn nhân đạo, pháp luật vì con người, vì số đông trong xã hội, pháp luật phải thể hiện được ý chí của cộng đồng dân tộc, quốc gia không phải ý chí của một nhóm người, một cá nhân hay một tập đoàn nào đó. Thứ hai, nhà nước và công dân phải thừa nhận tính tối cao của pháp luật. Trong mối quan hệ giữa nhà nước và pháp luật thì “tính trội” thuộc về pháp luật, ở khía cạnh này pháp luật như là công cụ, phương tiện để hạn chế quyền lực của nhà nước, hạn chế công quyền. Thứ ba, quyền lực nhà nước bao gồm: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nhà nước pháp quyền Việt Nam được xây dựng trên cơ sở quan điểm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Thứ tư, có hệ thống pháp luật rõ dàng, rành mạch, thể hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân để điều chỉnh những quan hệ pháp luật phát sinh trong xã hội. Nhà nước pháp quyền là nhà nước mà trong đó thiết lập mối quan hệ trách nhiệm qua lại giữa công dân với nhà nước và giữa nhà nước với công dân. Công dân có trách nhiệm với nhà nước và nhà nước có trách nhiệm với công dân. Ngoài những đặt trưng mang tính phổ biến đó, Nhà nước pháp quyền Việt Nam lại có một số đặc điểm mang tính riêng biệt của mình thể hiện định hướng chính trị của nhà nước, tính chất, bản chất của nhà nước mà Việt Nam cần xây dựng đó là: Nhà nước pháp quyền Việt Nam theo định hướng xã hội chủ nghĩa; Nhà nước pháp quyền Việt Nam phải là nhà nước mà tất của quyền lực thuộc về nhân dân; Nhà nước pháp quyền Việt Nam phải là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Nhà nước pháp quyền Việt Nam đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng Sản Việt Nam- Đảng của giai cấp công nhân Việt Nam và của cả dân tộc Việt Nam. Đây là vấn đề mang tính nguyên tắc có tính chất chính trị- xã hội định hướng cho việc xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam trên thực tế. III.1 Vai trò của nhà nước. A, Vai trò hiện nay của nhà nước ta Trên từng khía cạnh khác nhau mà vai trò của nhà nước pháp quyền có sự khác biệt. Trên khía cạnh kinh tế thì vai trò của nhà nước pháp quyền cần: tạo khung pháp lý với môi trường đầu tư hấp dẫn. Đẩy mạnh hoạt động hệ thống toà án thương mại, đầu tư; tăng cường cơ chế cho sự hành nghề của các luật sư để đối phó với các vụ án kinh tế… Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết Trên khía cạnh lập pháp, hành pháp và tư pháp cần thiết phải đẩy mạnh và đáp ứng yêu cầu của người dân và các mối quan hệ xã hội phát sinh trong cộng đồng dân cư… Trong những năm trở lại đây để xây dựng và từng bước hoàn thiện nhà nước pháp quyền, Nhà nước Việt Nam đã thực hiện nhiều hoạt động: Hoàn thiện, sửa đổi luật cũng như các văn bản dưới luật, tăng cường các định chế kiểm tra, thanh tra, giám sát việc thực hiện luật; Đổi mới bộ máy nhà nước từ việc tổ chức tới hoạt động thực tế của cơ quan quyền lực nhà nước, cơ quan hành chính, cơ quan tư pháp; Chuyển từ cơ chế tập trung sang cơ chế thì trường nhằm giải phóng mọi năng lực sản xuất cho xã hội, phát huy tính năng động sáng tạo, dân chủ của người dân trong lĩnh vực kinh tế. Đây là tiền đề, điều kiện có tính căn bản, nền tảng để xây dựng nhà nước pháp quyền. Phát huy không ngừng vai trò làm chủ của nhân dân Bảo vệ và nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi ích Tổ quốc và của nhân dân Cụ thể hoá quan điểm tư tưởng, đường lối của Đảng thành chính sách cụ thể. Hoàn thiện hơn nữa cơ cấu tổ, bộ máy của nhà nước Nhằm thực hiện mục tiêu xây dựng đất nước giàu mạnh, thực hiện công bằng xã hội, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện B, Vai trò của nhà nước pháp quyền trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Đây là vai trò quan trọng trong giai đoạn hiện nay nhằm đẩy mạnh quá trình CNH- HĐH của nước ta, nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Bao gồm: Vai trò của nhà nước phải biết kết hợp với thị trường, phải coi trọng cơ chế thị trường, có những kiểm soát mang tầm vĩ mô để định hướng nền kinh tế mà vẫn đảm bảo sự hoạt động của thị trường theo những quy luật riêng của nó. Nâng cao vai trò chủ đạo của nền kinh tế nhà nước III.2 Một số vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân: Đảm bảo mọi lợi ích và quyền hành đều thuộc về nhân dân. Điều đầu tiên và quan trọng nhất đó là cần thiết phải nâng cao đời sống của người dân, cải thiện nền kinh tế. Điều này đòi hỏi không thể làm bằng mọi giá mà cần có sự kết hợp với các yếu tố khác là trên cơ sở bảo tồn và phát huy những giá trị văn hoá đạt được, những yếu tổ tinh thần đòi hỏi sự nghiệp giáo dục toàn dân và những yếu tố tác động trực tiếp ngoài kinh tế. Trên cơ sở phát huy tư tưởng Hồ Chí Minh và thực tiễn ngày nay thì đây là một nhiệm vụ rất lớn lao và bao hàm gần như tất cả vấn đề về nhà nước pháp quyền. Giải quyết mối quan hệ công dân- Nhà nước là mối quan hệ chính trị cơ bản để xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân. Cơ sở để giải quyết mối quan hệ công dân và nhà nước trong nhà nước pháp quyền XHCN đó là vấn đề quyền và nghĩa vụ của tất cả mọi người được pháp luật bảo vệ. Trong đó nhà nước pháp quyền có nghĩa vụ tôn trọng giá trị cao nhất là con người, nhà nước đề ra pháp luật đồng thời phải tuân thủ theo đúng pháp luật để đảm bảo cho công dân được chống lại chính sự tự do tuỳ tiện của nhà nước. Muốn giải quyết tốt mối quan hệ này thì điểm xuất phát đó là phải đặt mục tiêu hàng đầu của mình là phục vụ lợi ích chính đáng của nhân dân. Đồng thời với điều đó là phải xây dựng một cơ chế có sự kiểm soát, đánh giá của người dân. Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN của dân, do dân và vì dân phải dựa trên truyền thống, đặc điểm dân tộc, nhất là truyền thống chính trị của đất nước. Lịch sử dựng nước và giữ nước là điển hình nhất về yếu tố truyền thống, trong mỗi giai đoạn cam go của vận mệnh nước nhà thì các nhà nước Việt Nam trước đây đề tập hợp rộng dãi toàn dân lại và thể hiện vai trò, vị trí lãnh đạo của mình. Xây dựng nhà nước pháp quyền ngày nay đòi hỏi không quay lưng lại với những giá trị văn hoá lịch sử của ông cha ta, lấy truyền thống và văn hoá trở thành động lực để phát triển trong thời đại nền kinh tế toàn cầu. Xây dựng quyền lực nhà nước của các công dân trên nền tảng một hệ thống pháp luật ngày càng hoàn thiện. Pháp luật là cơ sở để duy trì quyền lực của nhà nước, bản thân nhà nước vừa là công cụ quyền lực của giai cấp vừa là hình thức tổ chức quyền lực công khai đối với xã hội, với mọi công dân thống qua pháp luật Nhà nước pháp quyền XHCN phải được tổ chức và vận hành theo nguyên tắc tập trung dân chủ dước sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Tập trung dân chủ là một nguyên tắc căn bản, là một yêu cầu tự nhiên và tất yếu với việc xây dựng nhà nước pháp quyền và nền dân chủ XHCN với tư cách là một chế độ chính trị. Vì nều không có dân chủ thông qua bàn bạc, tranh luận, thống nhất một phương án hợp lý nhất thì không thể có sự thống nhất thực sự. Nhưng nếu không có tập trung để chuyển sự thống nhất đó thành hành động, một kết quả được ‘vật chất hoá’ mà con người có thể kiểm nghiệm, cảm nhận được trực tiếp như cơm ăn, nước uốnh hàng ngày. Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam phải phù hợp với những giá trị phổ biến tiến bộ của nhân loại. Kế thừa những tư tưởng tiến bộ bao gồm những yếu tố mà nhân loại đã và đang đạt được và hướng tới. Nhà nước của dân, do dân và vì dân là phù hợp với chế độ sở hữu mới của định hướng XHCN. Nhà nước pháp quyền XHCN phải xây dựng trên nền tảng phù hợp với tính chất xã hội hoá, phát huy cao độ sáng kiến của dân, tạo điều kiện cho mỗi cá nhân phát triển toàn diện trong mỗi hoạt động của mình. Nhấn mạnh tới việc phù hợp với những giá trị phổ biến tiến bộ của nhân loại chúng ta không thể coi nhẹ cái riêng, nét truyền thống độc đáo và những tinh hoa văn hoá của dân tộc mình. Kết luận Nhà nước cần hoàn thiện hơn nữa vai trò của mình trong tình hình mới để đáp ứng nhu cầu thực tiễn của cách mạng, đảm bảo phát triển kinh tế và đối phó với âm mưu thủ đoạn của thế lực thù địch. Không ngừng phát huy tính dân chủ tập thể, phát huy hơn nữa quyền và trách nhiệm của công dân trong vấn đề xây dựng và củng cố nhà nước pháp quyền, nhà nước của dân, do dân và vì dân mà thế hệ ông cha đã phải hi sinh rất nhiều xương máu và nước mắt mới có được. Đối với sinh viên cần tích cực tìm hiểu những quan điểm của Đảng và chính sách của nhà nước về các vấn đề kinh tế chính trị, xã hội đang diễn ra. Sinh viên là thế hệ làm chủ tương lai của đất nước, cần thiết phải biết vị trí và vai trò của mình trong mỗi giai đoạn phát triển của đất nước, sẽ là những người trực tiếp xây dựng và củng cổ hệ thống chính trị sau này. Do đó, với tinh thần yêu nước, đồng bào dân tộc phải trang bị cho mình một hệ tư tưởng tiến bộ và cách mạng, đó là tư tưởng Hồ Chí Minh và triết học Mác-NêLin vũ khí lý luận của giai cấp công nhân trong thời đại mới. Không ngừng cố gắng thi đua học tập tốt theo gương của Hồ Chủ Tịch vĩ đại Tài liệu tham khảo Giáo trình triết học Mac-LêNin Giáo trình triết học của học viện chính trị Quốc gia Văn kiện đại hội Đảng lần XI và X Tạp chí triết học, lý luận, kinh tế Tạp chí Cộng Sản: Báo điện tử Đảng Cộng Sản Việt Nam: ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docT0161.doc
Tài liệu liên quan