LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Kết quả nêu trong luận án là trung thực.
Các tài liệu tham khảo có nguồn trích dẫn rõ ràng.
Tác giả luận án
Trần Khánh Hưng
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ TỪ VIẾT TẮT iii
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU iv
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ v
LỜI MỞ ĐẦU 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ
QUỐC TẾ
6
1.1. Những vấn đề về công nghiệp hóa, hiện
223 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1993 | Lượt tải: 5
Tóm tắt tài liệu Vai trò của Nhà nước đối với công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Đài Loan trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế (thời kỳ 1961-2003) - Bài học kinh nghiệm và khả năng vận dụng vào Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đại hóa trong hội nhập kinh tế
quốc tế
6
1.2. Vai trò của nhà nước đối với công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong hội nhập
kinh tế quốc tế
23
Chương 2: VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI CÔNG NGHIỆP HÓA,
HIỆN ĐẠI HÓA TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ Ở ĐÀI LOAN
(THỜI KỲ 1961 – 2003) VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
60
2.1. Khái quát về tình hình kinh tế - xã hội Đài Loan giai đoạn 1949 - 1960 60
2.2. Vai trò của nhà nước đối với công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong hội nhập
kinh tế quốc tế ở Đài Loan (thời kỳ 1961 - 2003)
68
2.3. Một số bài học kinh nghiệm của Đài Loan về vai trò của nhà nước đối với
công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong hội nhập kinh tế quốc tế
114
Chương 3: KHẢ NĂNG VẬN DỤNG MỘT SỐ KINH NGHIỆM VỀ VAI
TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ
TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ Ở ĐÀI LOAN VÀO NƯỚC TA
HIỆN NAY
128
3.1. Khái quát về vai trò của nhà nước đối với công nghiệp hoá, hiện đại hoá
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta từ 1986 đến nay
128
3.2. Một số điểm tương đồng và khác biệt giữa Việt Nam và Đài Loan khi thực
hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong hội nhập kinh tế quốc tế
162
3.3. Khả năng vận dụng một số kinh nghiệm về vai trò của nhà nước đối với
công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong hội nhập kinh tế quốc tế của Đài Loan vào
nước ta hiện nay
170
KẾT LUẬN 198
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ 201
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 202
PHỤ LỤC 211
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ TỪ VIẾT TẮT
Viết tắt Tiếng Việt Tiếng Anh
ADB Ngân hàng phát triển châu Á Asian Development Bank
AFTA Khu vực mậu dịch tự do ASEAN Asean Free Trade Area
APEC Diễn đàn hợp tác kinh tê châu Á -
Thái Bình Dương
Asia-Pacific Economic
Cooperation
ASEAN Hiệp hội các nước Đông Nam Á Association of South East Asian
Nations
ASEM Hội nghị thượng đỉnh Á - Âu Asean European Meeting
CEPT Chương trình ưu đãi thuế quan có
hiệu lực chung
Common Effective Preferential
Tariff
CNH, HĐH Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
DNVVN
EU
Doanh nghiệp vừa và nhỏ
Liên minh châu Âu
Europe Union
FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài Foreign Direct Investment
FTA Hiệp định thương mại tự do Free Trade Agreement
GATT Hiệp định chung về thương mại
và thuế quan
General Agreement on Trade
and Tariff
GDP Tổng sản phẩm quốc nội Gross Domestic Product
ICOR Tỷ lệ gia tăng vốn trên sản lượng Incremental Capital-Output
Ratio
IMF Quỹ tiền tệ quốc tế International Moneytary Fund
NAFTA Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ North American Free Trade
Area
NIEs Các nền kinh tế công nghiệp mới New Industrialization
Economies
NT$ Đài tệ (tiền Đài Loan) New Taiwan Dollar
ODA Nguồn vốn hỗ trợ phát triển
chính thức
Official Development
Assisstance
OECD Tổ chức hợp tác và phát triển
kinh tế
Organization for Economic Co-
operation and Development
R&D Nghiên cứu và phát triển Research and Development
TBCN Tư bản chủ nghĩa
TFP Năng suất nhân tố tổng hợp Total Factor Productivities
TNCs Các công ty xuyên quốc gia Transnational Corporations
TW Trung ương
UNIDO Tổ chức phát triển công nghiệp
của Liên hợp quốc
United Nation for Industrial
Development Organization
USD Đồng Đô la Mỹ United States Dollar
WB Ngân hàng thế giới World Bank
WEF Diễn đàn kinh tế thế giới World Economic Forum
WTO Tổ chức thương mại thế giới World Trade Organisation
XHCN Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Tr
Bảng 1.1: Sự khác biệt cơ bản giữa hai loại hình chiến lược công nghiệp hoá 46
Bảng 2.1: Chi tiêu cho R&D của Đài Loan 99
Bảng 2.2: Chỉ số phát triển khoa học công nghệ Đài Loan (1997 - 2002) 101
Bảng 2.3: Nguồn tăng trưởng của Đài Loan giai đoạn (1995 - 2003) 108
Bảng 3.1: Cơ cấu tổng vốn đầu tư thực hiện giai đoạn (1991 - 2006) 140
Bảng 3.2: Tốc độ tăng trưởng kinh tế qua các giai đoạn 141
Bảng 3.3: Cơ cấu ngành trong GDP (%) 142
Bảng 3.4: Xuất khẩu và GDP 142
Bảng 3.5: Cơ cấu hàng xuất khẩu theo mức độ chế biến 143
Bảng 3.6: Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam và Đài Loan 163
Bảng 3.7: Cơ cấu ngành kinh tế của Việt Nam và Đài Loan 164
Bảng 3.8: Chuyển dịch cơ cấu lao động ở Việt Nam và Đài Loan 164
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ
Hình 2.1: Tốc độ tăng trưởng kinh tế Đài Loan giai đoạn 1960-1982 85
Hình 2.2: Cơ cấu ngành kinh tế của Đài Loan năm 1983 86
Hình 2.3: Kim ngạch xuất khẩu của Đài Loan giai đoạn 1960 -1982 87
Hình 2.4: Đầu tư ra nước ngoài của Đài Loan (1995 - 2006) 97
Hình 2.5: Tăng trưởng kinh tế của Đài Loan giai đoạn (1995 - 2006) 107
Hình 2.6: Cơ cấu ngành kinh tế của Đài Loan năm 2003 109
Hình 2.7: Kim ngạch xuất khẩu của Đài Loan giai đoạn (1995 - 2003) 109
Hình 2.8: Cơ cấu hàng xuất khẩu của Đài Loan 110
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận án
Mấy thập kỷ qua, làn sóng công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đã
và đang diễn ra ở nhiều nước đang phát triển. Ngày nay, khi toàn cầu hoá nền
kinh tế thế giới diễn ra sâu rộng do tác động của cách mạng khoa học - công
nghệ thời đại thì CNH, HĐH chỉ có thể thành công và được rút ngắn khi có chiến
lược đúng đắn, gắn với các chính sách, giải pháp điều hành phù hợp với những
biến động của tình hình kinh tế trong nước và quốc tế. Thực tế, một số quốc gia
và lãnh thổ đã sớm thành công trong công nghiệp hoá và gia nhập hàng ngũ
NIEs, trong đó có Đài Loan. Sự thành công của Đài Loan có nguyên nhân rất
quan trọng là sự định hướng và điều tiết của nhà nước. Điều đó đã để lại những
bài học kinh nghiệm về vai trò của nhà nước đối với CNH, HĐH trong hội nhập
kinh tế quốc tế.
Ở nước ta, sự nghiệp CNH, HĐH theo đường lối đổi mới của Đảng ta đạt
được những thành tựu quan trọng. Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng về kinh tế -
xã hội và bước sang giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH nhằm mục tiêu đưa nước ta
cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Tuy
nhiên, trong xu thế toàn cầu hoá kinh tế đang diễn ra ngày một mạnh mẽ thì yêu
cầu tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững ở nước ta đang đứng trước những
thời cơ và thách thức to lớn đối với CNH, HĐH trong điều kiện phát triển kinh tế
thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Điều đó càng khẳng định vai trò cần thiết
của nhà nước trong định hướng, điều hành CNH, HĐH ở nước ta.
Đó là lý do nghiên cứu sinh chọn đề tài nghiên cứu: “Vai trò của nhà
nước đối với công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Đài Loan trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế (thời kỳ 1961 - 2003) - Bài học kinh nghiệm và khả năng vận
dụng vào Việt Nam”.
2
2. Tổng quan các công trình đã nghiên cứu có liên quan đến luận án
Về vai trò của nhà nước đối với quá trình CNH, HĐH trong hội nhập kinh
tế quốc tế đã được nhiều nhà nghiên cứu đi sâu phân tích. Nghiên cứu về Đài
Loan ở nước ngoài, có thể nêu ra các công trình như: Chính sách và thể chế
trong quá trình tăng trưởng nhanh của Dahlman & Ousa (1997) [91]; Vai trò
của nhà nước trong phát triển kinh tế Đài Loan của Jocl (1994) [89]; Sự can
thiệp của nhà nước trong phát triển hướng ngoại: Lý thuyết tân cổ điển và thực
tiễn Đài Loan của Wade (1988) [96]; Điều tiết thị trường: Lý thuyết kinh tế và
vai trò của chính phủ ở các nền kinh tế công nghiệp hoá mới Đông Á của Wade
(1990) [97]; Một số nghiên cứu được tập hợp trong công trình Suy ngẫm lại sự
thần kỳ Đông Á của Ngân hàng thế giới (2002) [57] có đề cập đến vấn đề kinh
nghiệm về vai trò của nhà nước đối với công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở một số
nước Đông Á. Gần đây, công trình Nghịch lý của chiến lược đuổi kịp – Tư duy
lại mô hình phát triển kinh tế dựa vào nhà nước của Li Tan (2008) [71] đã tập
trung nghiên cứu mô hình phát triển kinh tế dựa vào nhà nước để luận giải về vai
trò quan trọng của nhà nước đối với công nghiệp hoá ở một số nước như Liên Xô
và các nền kinh tế mới nổi ở khu vực Đông Á, trong đó có Đài Loan…
Ở trong nước, một số nghiên cứu có đề cập đến vai trò của nhà nước với
tư cách là một nhân tố tác động đến tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở
một số nước và vùng lãnh thổ ở Đông Á như: Kinh tế Đài Loan - Tình hình và
chính sách của Phạm Thái Quốc (1997) [66]; Công nghiệp hoá ở NIEs Đông Á
và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam của Lê Bàn Thạch & Trần Thị Tri
(2000) [72]. Đặc biệt, nhiều công trình nghiên cứu của Viện Khoa học xã hội
Việt Nam như: Nhà nước trong kinh tế thị trường các nước đang phát triển châu
Á của Đỗ Đức Định (1991) [31]; Công nghiệp hoá, hiện đại hoá: Những bài học
thành công của Đông Á do Nguyễn Thị Luyến chủ biên (1998) [50]; Công
nghiệp hoá, hiện đại hoá: Phát huy lợi thế so sánh - Kinh nghiệm của các nền kinh
3
tế đang phát triển ở châu Á của Đỗ Đức Định (1999) [32]; Lựa chọn sản phẩm và
thị trường trong ngoại thương thời kỳ công nghiệp hoá của các nền kinh tế Đông
Á do Nguyễn Trần Quế chủ biên (2000) [65]; Một số vấn đề về công nghiệp hoá,
hiện đại hoá ở Việt Nam của Đỗ Hoài Nam (2004) [56]; Kinh tế học phát triển
về công nghiệp hoá và cải cách nền kinh tế của Đỗ Đức Định (2004) [34]… đã
đề cập và nghiên cứu về các chính sách của nhà nước nhằm thúc đẩy CNH, HĐH
trong hội nhập kinh tế quốc tế ở một số nước Đông Á, trong có có Đài Loan và
rút ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có công trình nghiên cứu toàn diện, có tính
hệ thống về vai trò của nhà nước Đài Loan đối với CNH, HĐH trong hội nhập
kinh tế quốc tế theo giác độ lịch sử kinh tế.
3. Mục tiêu của đề tài luận án
- Làm rõ vai trò của nhà nước đối với CNH, HĐH ở Đài Loan trong quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế.
- Rút ra một số bài học kinh nghiệm về vai trò của nhà nước đối với CNH,
HĐH trong hội nhập kinh tế quốc tế ở Đài Loan có ý nghĩa thực tiễn với nước ta
hiện nay.
4. Những đóng góp mới của luận án
- Làm rõ hơn cơ sở lý luận về vai trò của nhà nước đối với CNH, HĐH
trong hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt với những nước có nền kinh tế ở điểm
xuất phát thấp đang thực hiện CNH, HĐH nhằm đẩy nhanh tiến trình phát triển.
- Tập trung nghiên cứu làm rõ thực trạng về vai trò nhà nước đối với
CNH, HĐH ở Đài Loan trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế (thời kỳ 1961 -
2003) để rút ra một số bài học kinh nghiệm về vai trò của nhà nước trong CNH,
HĐH.
- Luận giải khả năng vận dụng một số kinh nghiệm về vai trò của nhà
nước đối với CNH, HĐH trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Đài Loan
4
với nước ta hiện nay. Đồng thời, đề xuất một số kiến nghị để tăng thêm tính khả
thi trong vận dụng các kinh nghiệm đó.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
- Đối tượng nghiên cứu của luận án là vai trò của nhà nước đối với CNH,
HĐH trong hội nhập kinh tế quốc tế ở Đài Loan.
- Phạm vi nghiên cứu: Vai trò của nhà nước với CNH, HĐH trong hội
nhập kinh tế quốc tế bao hàm nhiều vấn đề nhưng luận án chỉ tập trung nghiên
cứu về việc lựa chọn chiến lược CNH, HĐH và các chính sách, giải pháp của
nhà nước tác động vào tiến trình CNH, HĐH.
Thời gian nghiên cứu từ năm 1961 đến năm 2003. Luận án lựa chọn thời
gian nghiên cứu như vậy vì từ đầu những năm 1960, Đài Loan đã chuyển sang
thực hiện chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu và từng bước hội nhập
vào đời sống kinh tế quốc tế. Đến năm 2003, Đài Loan chính thức là thành viên
của WTO được khoảng 2 năm (Đài Loan trở thành thành viên chính thức của
WTO từ 01/01/2002). Mục đích của luận án là làm rõ những điều chỉnh trong
chính sách, giải pháp của nhà nước Đài Loan cho phù hợp với những quy định
của WTO và tác động của nó đến tình hình kinh tế - xã hội. Điều này tương đồng
với Việt Nam khi Việt Nam mới trở thành thành viên của WTO từ 01/01/2007.
Tuy nhiên, về vai trò của nhà nước Đài Loan từ sau năm 2003 đến nay cũng
được luận án nghiên cứu để làm rõ vai trò tích cực của nhà nước đối với sự phát
triển của nền kinh tế tri thức trong hội nhập.
6. Phương pháp nghiên cứu
Trong nghiên cứu, luận án sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử. Luận án đã kết hợp sử dụng các phương pháp
lịch sử, phương pháp lôgic, phương pháp đối chứng so sánh và phương pháp
phân tích kinh tế để làm rõ nội dung nghiên cứu. Đồng thời trong nghiên cứu, tác
5
giả đã kế thừa có chọn lọc những kết quả nghiên cứu của một số học giả trong
nước và quốc tế, chủ yếu là kết quả phân tích kinh tế lượng.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận án
được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về vai trò của nhà nước đối với công nghiệp
hoá, hiện đại hoá trong hội nhập kinh tế quốc tế.
Chương 2: Vai trò của nhà nước đối với công nghiệp hoá, hiện đại hoá
trong hội nhập kinh tế quốc tế ở Đài Loan (thời kỳ 1961 - 2003) và bài học kinh
nghiệm.
Chương 3: Khả năng vận dụng một số kinh nghiệm về vai trò của nhà
nước đối với công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong hội nhập kinh tế quốc tế ở Đài
Loan vào nước ta hiện nay.
6
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI CÔNG NGHIỆP
HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ TRONG
HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
1.1.1. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
1.1.1.1. Khái niệm công nghiệp hoá
Trong lịch sử xã hội loài người, công nghiệp hoá là con đường tất yếu để
phần lớn các quốc gia trên thế giới phát triển và tiến tới hiện đại, văn minh. Thực
tiễn ở nhiều nước cho thấy, công nghiệp hoá diễn ra rất phong phú, đa dạng về
mô hình bởi nó là quá trình phức tạp và bao hàm phạm vi rộng lớn. Do thời điểm
xuất phát và phương thức tiến hành khác nhau nên bản thân khái niệm công
nghiệp hoá cũng được quan niệm theo những cách tiếp cận khác nhau. Theo tổng
kết của UNIDO thì có đến 128 cách định nghĩa khác nhau về công nghiệp hoá.
Thực tế, công nghiệp hoá là một khái niệm mang tính chất lịch sử. Tuỳ
theo góc độ nhìn nhận mà người ta nhấn mạnh mặt này hay mặt khác của công
nghiệp hoá để đưa ra những quan niệm khác nhau. Những quan niệm đó có thể
quy về một số dạng cơ bản sau:
- Cuối thế kỷ XVIII, cuộc cách mạng công nghiệp bắt đầu ở nước Anh và
sau đó lan sang các nước tư bản khác thì công nghiệp hoá được hiểu là đưa đặc
tính công nghiệp cho một hoạt động; trang bị (cho một vùng, một nước) các nhà
máy, các loại công nghiệp... [40, tr. 48]. Do vậy, các nước này chủ yếu tập trung
vào phát triển các ngành công nghiệp và sự chuyển biến về kinh tế - xã hội khác
chỉ là hệ quả của phát triển công nghiệp. Quan niệm này có nhiều mặt không hợp
lý: nó không cho thấy mục tiêu cần đạt của quá trình công nghiệp hoá; nó gần
7
như đồng nhất quá trình công nghiệp hoá với phát triển công nghiệp; và nó
không thể hiện được tính lịch sử của quá trình công nghiệp hoá.
- Khi nền công nghiệp chuyển biến nhanh chóng từ kỹ thuật cơ khí giản
đơn với máy hơi nước làm động lực sang cơ khí phức tạp với động cơ đốt trong,
điện năng làm động lực thì quan niệm công nghiệp hoá đã được mở rộng, không
chỉ đơn thuần là phát triển nền công nghiệp thành lĩnh vực đóng vai trò chủ đạo
trong nền kinh tế, mà còn là biến tất cả các hoạt động sản xuất khác thành loại
hình hoạt động công nghiệp.
- Từ 1926, Liên Xô bắt đầu thực hiện công nghiệp hoá theo mô hình kinh
tế kế hoạch hoá tập trung. Mặc dù trước đó chủ nghĩa tư bản đã phát triển ở mức
độ nhất định nhưng nếu so với phương Tây lúc đó thì Liên Xô vẫn thiếu một hệ
thống công nghiệp nặng hoàn chỉnh và kinh tế tiểu nông vẫn còn tồn tại khá phổ
biến. Bên cạnh đó, Liên Xô còn bị phương Tây bao vây phong toả về kinh tế.
Trong bối cảnh ấy, mục tiêu của công nghiệp hoá là tập trung cao độ cho phát
triển công nghiệp nặng. Điều này bao hàm cả ý nghĩa kinh tế và quốc phòng. Do
vậy, công nghiệp hoá được quan niệm là “Quá trình xây dựng nền đại công
nghiệp cơ khí có khả năng cải tạo cả nông nghiệp. Đó là sự phát triển công
nghiệp nặng với ngành trung tâm là chế tạo máy…” [40, tr. 49]. Quan niệm này
phù hợp với điều kiện của Liên Xô thời kỳ đó. Trong quá trình thực hiện, mặc dù
có sự chú trọng nhất định đến công nghiệp nhẹ và nông nghiệp nhưng bao giờ
công nghiệp nặng cũng được coi như một tiền đề có ý nghĩa quyết định đến sự
toàn thắng của công nghiệp hoá cũng như sự sống còn của đất nước.
- Năm 1963, UNIDO đưa ra khái niệm: "Công nghiệp hoá là một quá trình
phát triển kinh tế, trong quá trình này một bộ phận ngày càng tăng các nguồn của
cải quốc dân được động viên để phát triển cơ cấu kinh tế nhiều ngành ở trong
nước với kỹ thuật hiện đại. Đặc điểm của cơ cấu kinh tế này là có một bộ phận
chế biến luôn thay đổi để sản xuất ra những tư liệu sản xuất và hàng tiêu dùng,
có khả năng đảm bảo cho toàn bộ nền kinh tế phát triển với nhịp độ cao, đảm bảo
8
đạt tới sự tiến bộ về kinh tế - xã hội". Quan niệm này chứa đựng sự dung hoà các
ý kiến cho rằng quá trình công nghiệp hoá bao trùm toàn bộ quá trình phát triển
kinh tế - xã hội nhằm đạt tới không chỉ sự phát triển kinh tế mà còn cả sự tiến bộ
về mặt xã hội [40, tr. 51].
Nhìn chung, mỗi cách quan niệm về công nghiệp hoá trên đây đều có
nhân tố hợp lý, nó tuỳ thuộc vào hoàn cảnh cụ thể và gắn với những yêu cầu đặt
ra trong phát triển. Tuy nhiên, những quan niệm này mới chỉ đề cập đến khía
cạnh vật chất - kỹ thuật mà chưa đề cập đến một vấn đề cũng rất quan trọng là
khía cạnh cơ chế, thể chế. Bởi ngoài mục tiêu, những nội dung chủ yếu thì
phương thức thực hiện hay cách thức, cơ chế phân bổ sử dụng các nguồn lực
cũng là một vấn đề hết sức quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến sự thành bại
trong công nghiệp hoá.
Từ thực tế ấy, tác giả của luận án cho rằng: Công nghiệp hoá là quá trình
chuyển biến một nền kinh tế nông nghiệp mang tính tự cấp, tự túc khép kín với
lao động thủ công là chủ yếu sang một nền kinh tế công nghiệp, vận hành theo
cơ chế thị trường dựa trên sự phân công lao động xã hội phát triển ở trình độ
cao, với lao động bằng máy móc, kỹ thuật và công nghệ hiện đại trong tất cả các
lĩnh vực kinh tế nhằm tăng năng suất lao động xã hội và thúc đẩy sự phát triển
kinh tế - xã hội.
Với quan niệm như vậy, công nghiệp hoá là quá trình cải biến toàn diện
nền kinh tế. Ở khía cạnh vật chất - kỹ thuật, công nghiệp hoá là quá trình chuyển
biến căn bản trình độ kỹ thuật của nền kinh tế, từ tình trạng lạc hậu, dựa vào
phương pháp thủ công là chủ yếu sang nền kinh tế sản xuất dựa vào tiến bộ khoa
học - công nghệ mới nhất đem lại năng suất, chất lượng và hiệu suất cao. Còn ở
khía cạnh cơ chế, thể chế thì công nghiệp hoá là quá trình cải biến thể chế và cấu
trúc của nền kinh tế theo hướng hiệu quả hơn, từ nền kinh tế hiện vật - tự cấp, tự
túc, khép kín sang nền kinh tế dựa trên nguyên tắc thị trường. Cả lý thuyết và
thực tiễn đều đã chứng minh, cơ chế thị trường thường là một phương thức tốt để
9
tổ chức hoạt động kinh tế, nó cho phép phân bổ các nguồn lực xã hội một cách
hiệu quả. Phát triển kinh tế thị trường không chỉ là điều kiện tiền đề mà là điều
kiện không thể thiếu cho cả quá trình công nghiệp hoá không chỉ ở các nước phát
triển đi trước mà cả ở các nước đang phát triển ngày nay.
Đến nay, các nhà nghiên cứu vẫn chưa thống nhất với nhau trong việc xác
định hệ thống các tiêu chí đánh giá về công nghiệp hoá bởi các quan điểm được
đưa ra bao quát một diện rộng nhưng lại thiếu sự phân loại và xác định rõ chuẩn
mực với từng lĩnh vực, từng yếu tố. Mặc dù vậy, tác giả luận án cho rằng, có thể
dựa vào 3 nhóm tiêu chí chủ yếu là tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh
tế và phát triển bền vững để đánh giá về trình độ công nghiệp hoá. Đây là những
yếu tố cơ bản phản ánh tính chất và nội dung của quá trình công nghiệp hoá,
chúng vừa phản ánh ở tầm khái quát, vừa phản ánh ở giác độ cụ thể, đo lường
được cả những thay đổi về lượng và những biến đổi về chất.
Những tiêu chí của từng nhóm này bao gồm: i) Nhóm tiêu chí về tăng
trưởng: tăng trưởng GDP (%), tăng trưởng GDP theo đầu người (%), GDP bình
quân đầu người; ii) Nhóm tiêu chí về chuyển dịch cơ cấu: cơ cấu ngành kinh tế,
cơ cấu công nghiệp (hàng chế tạo và hàng phi chế tạo), cơ cấu xuất khẩu (hàng
chế tạo và hàng phi chế tạo), cơ cấu lao động và dân cư, cơ cấu vùng (mức độ đô
thị hoá)…; iii) Nhóm tiêu chí về phát triển bền vững: công bằng xã hội, xoá đói
giảm nghèo, tỷ lệ việc làm hay thất nghiệp, giáo dục, chất lượng sống, môi
trường chính trị - xã hội - kinh tế, năng lực thể chế, môi trường tự nhiên (mức độ
huỷ hoại, phục hồi). Ngoài ra có thể có các tiêu chí tham khảo khác: Chỉ số TFP;
Chỉ số phát triển người (HDI); Vị trí trong bảng xếp hạng năng lực cạnh tranh.
1.1.1.2. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Hiện đại hoá được hiểu là toàn bộ các quá trình, các dạng cải biến, các
bước quá độ từ các trình độ kinh tế - kỹ thuật khác nhau đang tồn tại lên trình độ
mới cao hơn dựa trên những thành tựu của khoa học - công nghệ. Ngày nay, hiện
10
đại hoá được thừa nhận rộng rãi và được hiểu theo nghĩa rộng không chỉ đơn
thuần là hiện đại hoá công nghiệp mà còn là hiện đại hoá nền kinh tế. Do vậy,
khi xét về bản chất, khái niệm hiện đại hoá thường được các nhà lý luận cho là
hình thức đặc biệt của sự phát triển xã hội.
Thực tế cho thấy, công nghiệp hoá luôn gắn chặt với hiện đại hoá và chính
hiện đại hoá là tiền đề quyết định sự thành công của công nghiệp hoá. Các nhà
kinh tế học hiện đại thường dùng phạm trù công nghiệp hoá như một tiêu chuẩn
phân định xã hội truyền thống và xã hội hiện đại cũng như để phân định các thời
kỳ, các dạng hiện đại hoá đã và đang diễn ra trong lịch sử xã hội loài người.
Thế kỷ XX đã chứng minh, cuộc cách mạng khoa học – công nghệ đã đưa
đến những bước nhảy kỳ diệu trong sự phát triển của lực lượng sản xuất và đưa
xã hội loài người lên trình độ phát triển mới. Khoa học đã trở thành lực lượng
sản xuất trực tiếp, nó thấm sâu vào từng yếu tố của lực lượng sản xuất và thường
xuyên tạo ra những biến đổi về chất trong phát triển. Chính sự phát triển của
khoa học và công nghệ đã đánh dấu và mở ra những bước ngoặt mới trong công
nghiệp hoá. Cách mạng khoa học – công nghệ là hình thức phổ biến trong sự
phát triển của lực lượng sản xuất và đời sống xã hội. Do đó, khoa học – công
nghệ là một trong những phương tiện quan trọng nhất để giải quyết các vấn đề
xã hội, là con đường hiện đại hoá của các quốc gia trên thế giới.
Kinh nghiệm phát triển của các nền kinh tế cho thấy, bản thân công
nghiệp hoá đã bao hàm yêu cầu đạt tới trình độ phát triển kinh tế hiện đại nhất
hiện có vào thời điểm tiến hành. Quá trình ấy thúc đẩy việc giải quyết nhanh
chóng những nhiệm vụ mà thực tiễn đặt ra, đồng thời đẩy nhanh sự ứng dụng
những thành tựu của nó vào sản xuất. Trình độ của các hoạt động sản xuất không
cố định theo một chuẩn mực kỹ thuật – công nghệ cứng mà nó luôn được nâng
cao, được hiện đại hoá theo sự tiến triển của thời đại. Như vậy, công nghiệp hoá
luôn phải đi đôi với hiện đại hoá.
11
Người Đài Loan quan niệm CNH, HĐH là quá trình chuyển biến từ một
xã hội trong đó nền kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp sang một xã hội hiện
đại, ở đó các ngành kinh tế, đặc biệt là ngành công nghiệp và dịch vụ liên tục
được nâng cấp về trình độ kỹ thuật – công nghệ theo sự tiến triển của thời đại,
mang lại giá trị gia tăng cao, cơ cấu kinh tế hiện đại, nhằm mục đích cao nhất là
đạt tới trình độ của một nền kinh tế phát triển.
Theo quan điểm của Đảng ta, “CNH, HĐH là quá trình chuyển đổi căn
bản toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã
hội từ sử dụng lao động thủ công là chính, sang sử dụng một cách phổ biến sức
lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa
trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học và công nghệ, tạo ra năng
suất lao động xã hội cao” [25, tr. 43].
1.1.2. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong hội nhập kinh tế quốc tế
1.1.2.1. Hội nhập kinh tế quốc tế
Ở hai thập kỷ cuối của thế kỷ XX, làn sóng toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ
và tác động đến mọi mặt của đời sống kinh tế – chính trị – xã hội trên toàn thế
giới. Trong đó, toàn cầu hoá kinh tế vừa là trung tâm, vừa là cơ sở và là động lực
thúc đẩy các lĩnh vực khác của xu thế toàn cầu hoá nói chung và cũng là xu thế
thể hiện rõ nhất. Điều này biểu hiện ở sự mở rộng mức độ và quy mô thương mại
thế giới; sự lưu chuyển của các dòng vốn và lao động trên phạm vi toàn cầu; sự
gia tăng các quá trình liên kết, hội nhập theo hướng tự do hoá làm xuất hiện hàng
loạt các thể chế kinh tế quốc tế và khu vực dưới nhiều cấp độ; sự kết nối các nền
kinh tế quốc gia và khu vực thành một mạng trên quy mô toàn cầu. Về mặt bản
chất, toàn cầu hóa kinh tế xuất hiện gắn liền với xu thế vận động, phát triển của
nền sản xuất xã hội, được thúc đẩy bởi lợi ích của phân công lao động quốc tế,
sự phát triển mạnh mẽ của khoa học – công nghệ và tính xã hội hoá ngày càng
cao của lực lượng sản xuất.
12
Thuật ngữ hội nhập kinh tế quốc tế đã xuất hiện trong vài thập kỷ gần đây.
Mặc dù cho đến nay quan niệm về hội nhập kinh tế quốc tế vẫn còn có những
điểm chưa thống nhất nhưng tựu chung lại, có thể cho rằng: Hội nhập kinh tế
quốc tế là quá trình các quốc gia thực hiện mô hình kinh tế mở, tự nguyện tham
gia vào các định chế kinh tế và tài chính quốc tế, thực hiện thuận lợi hoá và tự
do hoá thương mại, đầu tư và các hoạt động kinh tế đối ngoại khác; là sự gắn
kết nền kinh tế của mỗi quốc gia vào các tổ chức kinh tế khu vực và thế giới,
trong đó mối quan hệ giữa các thành viên có sự ràng buộc theo những quy định
chung của các tổ chức đó.
Xét về bản chất thì hội nhập kinh tế quốc tế là sự đan xen, gắn bó và lệ
thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế quốc gia và nền kinh tế thế giới. Đó cũng là
quá trình xoá bỏ từng bước và toàn bộ các rào cản về thương mại và đầu tư giữa
các quốc gia, góp phần khơi thông các luồng di chuyển nguồn lực trong và ngoài
nước, tạo điều kiện cho việc mở rộng thị trường, chuyển giao công nghệ.
Thực tế cho thấy, hội nhập kinh tế quốc tế xuất phát từ những cơ sở kinh
tế xã hội hiện thực của thế giới hiện đại, mang tính khách quan không phụ thuộc
vào ý chí của một quốc gia nào. Điều đó khẳng định hội nhập kinh tế quốc tế
như một tất yếu mang tính thời đại.
Hội nhập kinh tế quốc tế bao gồm một số nội dung chủ yếu như: tham gia
vào hệ thống phân công lao động quốc tế; tham gia và mở rộng thương mại quốc
tế; tham gia vào các hoạt động tài chính quốc tế v.v... Tham gia các hình thức
liên kết kinh tế là một biểu hiện của hội nhập kinh tế quốc tế. Đó là việc chính
phủ các quốc gia ký kết với nhau các hiệp định tạo nên khuôn khổ chung cho sự
phối hợp, điều chỉnh quan hệ kinh tế giữa các nước với các hình thức chủ yếu là:
Hiệp định thương mại song phương, Khu vực mậu dịch tự do, Liên minh thuế
quan, Thị trường chung, Liên minh tiền tệ... Tuy nhiên, mỗi hình thức trên đây
cũng có những điểm khác cơ bản và điều đó thể hiện cấp độ và mức độ hội nhập.
13
Hiện nay, toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế tế quốc tế đang diễn ra ngày
càng mạnh mẽ và có tác động nhiều mặt đến sự phát triển kinh tế của các nước
trên thế giới. Trong bối cảnh đó, các quốc gia dù giàu có hoặc phát triển đến đâu
cũng đều có xu hướng đẩy mạnh các quan hệ thương mại và đầu tư quốc tế.
Những quốc gia chậm trễ trong hội nhập kinh tế quốc tế thường phải trả giá bằng
chính sự tụt hậu của mình, ngược lại những nước vội vã hội nhập thiếu sự chuẩn
bị những điều kiện cần thiết, không phát huy được nội lực hoặc không chủ động
hội nhập cũng đã bị trả giá.
Hội nhập kinh tế quốc tế mang đến những cơ hội nhưng cũng đặt ra những
thách thức to lớn, ảnh hưởng đến tất cả các bộ phận trong nền kinh tế: cá nhân,
hộ gia đình, công ty, ngành, quốc gia và vùng lãnh thổ.
Những cơ hội do hội nhập kinh tế quốc tế mang lại là rất lớn: Các nước,
nhất là các nước đang phát triển, có thể tiếp nhận những nguồn lực vật chất,
những tri thức và kinh nghiệm trong hoạt động thực tiễn ở cả tầm vĩ mô và tầm
vi mô; Có điều kiện nắm bắt thông tin và tiếp nhận chuyển giao những thành
tựu, những đột phá về khoa học – công nghệ, về tổ chức và quản lý sản xuất kinh
doanh; Tạo khả năng mở rộng thị trường mới, mở rộng quan hệ với những đối
tác mới cho các nước khi những hàng rào hạn chế đối với các hoạt động thương
mại và đầu tư quốc tế được dỡ bỏ.
Bên cạnh đó, hội nhập kinh tế quốc tế cũng mang đến những thách thức to
lớn mà các nước phải đối mặt và tìm cách vượt qua nhất là sức ép buộc các quốc
gia, các doanh nghiệp phải nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường ngày
càng khắc nghiệt và nguy cơ gia tăng sự bất công, bất bình đẳng thu nhập trong
nội bộ từng nước và giữa các nước.
Đối với các nước đang phát triển, khi nền kinh tế còn yếu kém, sức cạnh
tranh còn thấp, trình độ quản lý còn nhiều hạn chế thì hội nhập vào nền kinh tế
toàn cầu là một tất yếu mang tính khách quan. Nó đưa đến những kỳ vọng về sự
14
gia tăng quy mô, nhịp độ tăng trưởng, nâng cấp các ngành kinh tế đồng thời có
cơ hội để giải quyết vấn đề đói nghèo và bất bình đẳng xã hội từ việc khai thác,
sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài. Do vậy, các nước đang phát triển
một mặt cần phải chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế để khai thác, tận
dụng những cơ hội đó nhưng mặt khác cũng phải hết sức chú trọng tới hình thức
và bước đi trong quá trình hội nhập nhằm đảm bảo các lợi ích của quốc gia cả về
kinh tế – chính trị và xã hội của mình.
Thời gian qua, hầu hết các nước đang phát triển đều thực hiện hội nhập
kinh tế quốc tế nhưng kết quả đạt được lại không hoàn toàn giống nhau. Vấn đề
đặt ra với các nước này là cần phải có phương thức và cách thức quản lý quá
trình hội nhập để đạt được mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội đề ra đó là đẩy
nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, rút ngắn khoảng cách tụt hậu so với các nước
đi trước, nâng cao chất lượng đời sống nhân dân và khẳng định vị thế của mình
trong nền kinh tế thế giớ._.i.
1.1.2.2. Mục tiêu của CNH, HĐH trong hội nhập kinh tế quốc tế
CNH, HĐH là một quá trình bao trùm tất cả các ngành, các lĩnh vực của
đời sống kinh tế – xã hội của mỗi nước với mục tiêu chung là thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế nhanh và bền vững, phát triển xã hội, cải thiện đời sống vật chất
và tinh thần của dân cư. Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, mục tiêu cụ
thể của CNH, HĐH là:
- Thứ nhất, trang bị và trang bị lại công nghệ cho tất cả các hoạt động
trong nền kinh tế nhằm tạo nên sự chuyển biến căn bản về lực lượng sản xuất
dựa trên việc tăng cường ứng dụng các thành tựu khoa học – công nghệ, các tri
thức mới trong sản xuất và tổ chức quản lý sản xuất, nâng cao trình độ của người
lao động để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả của các ngành sản xuất,
phát triển ngành nghề mới, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế.
15
- Thứ hai, chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế và cơ cấu nội tại mỗi ngành
kinh tế theo hướng hiện đại. Trong giai đoạn đầu CNH, HĐH, xu hướng là tỷ
trọng của ngành nông nghiệp sẽ giảm dần tuy giá trị tuyệt đối vẫn tăng. Công
nghiệp phát triển mạnh, dần vươn lên chiếm vị trí hàng đầu và đưa nền kinh tế
chuyển sang trạng thái của nền kinh tế công nghiệp. Cơ cấu công nghiệp cũng sẽ
dịch chuyển theo hướng tăng tỷ trọng của công nghiệp chế biến. Ở giai đoạn tiếp
nối, tỷ trọng của công nghiệp sẽ giảm dần nhưng trong cơ cấu nội tại của nó, tỷ
trọng các ngành dựa trên kỹ thuật, công nghệ cao sẽ tăng nhanh. Đồng thời, tỷ
trọng giá trị ngành dịch vụ trong cơ cấu kinh tế sẽ ngày càng gia tăng, các loại
hình dịch vụ trình độ cao như dịch vụ ngân hàng – tài chính, bảo hiểm, tư vấn,
khoa học và công nghệ, y tế, giáo dục – đào tạo... sẽ phát triển mạnh và chiếm
ưu thế trong cơ cấu ngành dịch vụ.
- Thứ ba, tạo ra những chuyển biến cơ bản về thể chế và xã hội. Việc thực
hiện CNH, HĐH sẽ đưa nền kinh tế ra khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu kém
phát triển, đồng thời tạo nên những biến đổi hết sức sâu sắc về mặt thể chế kinh
tế và xã hội. Nền kinh tế sản xuất hàng hoá nhỏ mang nặng tính chất tự cung, tự
cấp sẽ dần chuyển sang nền kinh tế thị trường phát triển; cấu trúc lao động xã hội
và dân số cũng có sự biến đổi theo hướng tăng tỷ trọng của lao động phi nông
nghiệp, lao động kỹ thuật, dân cư đô thị; hình thành tư duy và nếp sống công
nghiệp... Nói cách khác, sự biến đổi về mặt thể chế và xã hội trong quá trình
CNH, HĐH là quá trình chuyển dần từ nền văn minh nông nghiệp sang nền văn
minh công nghiệp và hướng đến nền văn minh trí tuệ.
- Thứ tư, mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế. Ngày nay, quá trình tự do hoá
thương mại và quốc tế hoá sản xuất đã tác động sâu sắc đến sự phát triển của hầu
hết các nước. Sự mở rộng của hoạt động thương mại quốc tế, các mối liên kết
kinh tế quốc tế được thúc đẩy và tăng cường đã tạo ra những cơ hội to lớn cho
tăng trưởng nhờ định hướng xuất khẩu và mở ra cơ hội cho các nước tham gia
vào quá trình phân công lao động quốc tế. Nền kinh tế mỗi quốc gia trở thành
16
một bộ phận của nền kinh tế thế giới, chịu ảnh hưởng của những biến động kinh
tế – chính trị – xã hội của thế giới và có tác động tương hỗ ở những mức độ khác
nhau với nền kinh tế của các quốc gia khác. Mỗi nền kinh tế, dù lớn hay nhỏ, đã
phát triển cao hay đang phát triển, nếu biết phát huy các lợi thế của mình sẽ trở
thành một bộ phận không thể thiếu được trong nền kinh tế thế giới. Như vậy, các
nước đang phát triển ngày nay cần phải biết gắn nền kinh tế trong nước với nền
kinh tế thế giới, phải hướng tới khai thác lợi thế so sánh của đất nước trong mối
liên kết kinh tế với các quốc gia thuộc mọi trình độ để phát triển. Việc mở rộng
các quan hệ kinh tế quốc tế vừa là nội dung, vừa là phương thức thực hiện CNH,
HĐH. Mở rộng thị trường trong và ngoài nước là một trong những điều kiện trọng
yếu để phát triển các ngành kinh tế. Mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế sẽ tạo điều
kiện khai thác các nguồn lực từ bên ngoài, giải quyết khó khăn về vốn đầu tư, về
công nghệ và kinh nghiệm quản lý để đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH,.
1.1.2.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến CNH, HĐH trong hội nhập kinh tế
quốc tế
Trong lịch sử kinh tế thế giới, một số nước như Liên Xô giai đoạn 1926 –
1937, Trung Quốc trước năm 1978, một số nước ASEAN và một số nước ở châu
Mỹ Latinh trong những năm 1950, 1960... đã tiến hành công nghiệp hoá theo mô
hình khép kín, tự cấp tự túc, không hội nhập với nền kinh tế thế giới. Thực chất
đó là mô hình công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu (công nghiệp hoá hướng nội).
Với mô hình này, sự thành công hay thất bại của quá trình công nghiệp hoá hoàn
toàn phụ thuộc vào các nguồn lực trong nước, phụ thuộc vào cơ chế, chính sách
huy động, phân bổ sử dụng các nguồn lực của nhà nước ở các nước này. Thực tế
chỉ có rất ít nước thành công với mô hình này và chỉ trong một thời gian nhất
định, còn lại đại đa số các nước đều không đạt được những mục tiêu đề ra, thậm
chí còn rơi vào tình trạng trì trệ, tụt hậu trong phát triển.
Tiến hành CNH, HĐH trong hội nhập kinh tế quốc tế về thực chất là tiến
hành cuộc đua tranh phát triển quốc tế. Quá trình này vừa chịu tác động của
17
những nhân tố nội tại của nền kinh tế vừa chịu tác động của những nhân tố bên
ngoài. Các nhân tố bên trong bao gồm các nguồn lực (vốn, công nghệ, nhân lực),
thể chế, cơ chế huy động và phân bổ sử dụng các nguồn lực, dung lượng thị
trường... Đặc biệt trong hội nhập kinh tế quốc tế, các nhân tố bên ngoài ngày
càng có ảnh hưởng to lớn đến quá trình CNH, HĐH. Đó là:
- Thứ nhất, cuộc cách mạng khoa học – công nghệ hiện đại thúc đẩy sự phát
triển của phân công lao động quốc tế
Từ những năm 1950, cuộc cách mạng khoa học – công nghệ thời đại diễn
ra mạnh mẽ tạo ra những bước nhảy vọt của lực lượng sản xuất. Nó không chỉ
đem lại sự phát triển của lực lượng sản xuất, hướng nền kinh tế một số nước phát
triển trên thế giới sang chiều sâu mà nó còn tác động mạnh mẽ đến phân công
lao động ở phạm vi quốc gia cũng như quốc tế và dẫn đến hình thành trật tự mới
về phân công lao động quốc tế. Đồng thời, chính phân công lao động quốc tế lại
tạo ra sự lệ thuộc giữa các quốc gia trong toàn bộ quá trình sản xuất sản phẩm và
cung cấp dịch vụ.
Sự hình thành mạng lưới sản xuất xuyên quốc gia được hỗ trợ bởi công
nghệ thông tin đã làm gia tăng sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế. Quan
niệm về phân công lao động quốc tế trong bối cảnh mới cũng được mở rộng:
không chỉ bổ sung cho nhau bằng cách mua bán các sản phẩm (dù đó là sản
phẩm hoàn chỉnh, nguyên liệu thô hay bán thành phẩm và các linh kiện rời) mà
là sự phân công lao động mang tính trực tiếp ở bất kỳ khâu nào của chu trình
hoạt động sản xuất kinh doanh: kể từ ý tưởng, nghiên cứu, chế thử, sản xuất
hàng loạt, maketing, tiêu thụ, dịch vụ sau bán hàng... Hoạt động kinh tế hiện nay
đã mang tính toàn cầu về mặt tổ chức. Đồng thời, xu hướng quốc tế hóa về sức
lao động cũng ngày càng thể hiện rõ. Quá trình tự do hóa trong di cư lao động và
xuất khẩu lao động dần hình thành thị trường lao động quốc tế. Nó trực tiếp ảnh
hưởng đến cơ cấu lao động của quốc gia xuất khẩu và nhập khẩu lao động và ảnh
18
hưởng trực tiếp đến việc thực hiện các mục tiêu kinh tế – xã hội trong phát triển
của từng quốc gia.
Thực tế cho thấy, sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin đã làm
cho không gian mất dần ý nghĩa. Tri thức, công nghệ, lao động, quản lý, hàng
hóa, tiền tệ... không bị bó hẹp trong biên giới một quốc gia. Việc tổ chức sản
xuất và khai thác thị trường trong phạm vi một nước đã nhanh chóng chuyển
sang mục tiêu sản xuất và khai thác thị trường trên phạm vi toàn thế giới. Xu thế
đó vừa là cơ sở, vừa là động lực thúc đẩy các quan hệ kinh tế quốc tế phát triển
và ngày càng trở nên đa dạng hơn. Việc trở thành bộ phận của phân công lao
động quốc tế và tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu sẽ đem lại những lợi ích to
lớn đối với các quốc gia. Điều đó cho thấy, các nước đi sau trong CNH, HĐH
cần phải xác định rõ mục tiêu, bước đi trong phát triển để tham gia có hiệu quả
vào hệ thống phân công lao động quốc tế, hội nhập và đứng vững trong nền kinh
tế toàn cầu hoá.
- Thứ hai, các công ty xuyên quốc gia ngày càng phát triển mạnh, đóng
vai trò then chốt và chi phối nền kinh tế thế giới
Từ nửa cuối thế kỷ XX, các công ty lớn của các nước tư bản đã mở đầu
làn sóng mở rộng hoạt động vượt ra ngoài biên giới quốc gia, thực hiện kinh
doanh xuyên quốc gia, lấy thị trường toàn cầu làm hướng hoạt động chính. Thời
gian gần đây xuất hiện xu hướng một số TNCs lớn sáp nhập với nhau hình thành
các tập đoàn kinh tế xuyên quốc gia khổng lồ. TNCs cỡ lớn đều có một hệ thống
kinh doanh lấy công ty mẹ làm trung tâm, mở rộng trên phạm vi rộng, hình thành
mạng lưới kinh tế toàn cầu, bao trùm hầu hết các khu vực, các quốc gia trên toàn
thế giới. Chính điều đó đã làm sâu sắc thêm sự phụ thuộc lẫn nhau và hội nhập
chức năng của nền kinh tế thế giới. Từ thực trạng này mà các nhà kinh tế đã đưa
ra thuật ngữ “chuỗi giá trị toàn cầu”. Nó được quan niệm là quá trình biến một
sản phẩm hay một dịch vụ phát triển từ ý tưởng, qua nghiên cứu thử nghiệm đến
sản xuất rồi đưa đến tay người tiêu dùng và cuối cùng là các hoạt động dịch vụ
19
do hàng loạt các hãng, các công ty khác nhau đảm trách, tạo thành một mạng
lưới sản xuất, lắp ráp, phân phối.... nằm ở các quốc gia khác nhau trên thế giới.
Điểm đáng chú ý là TNCs ngày nay đã có những biến đổi lớn về chất.
Việc tập trung nỗ lực nghiên cứu đổi mới hệ thống sản xuất nhằm làm giảm chi
phí đầu vào, tăng khối lượng sản xuất và khuyến khích tiêu dùng hàng loạt
không còn là hướng ưu tiên. Các công ty hiện đại ngày nay tập trung vào đổi mới
sản phẩm nhằm gia tăng tốc độ tiêu dùng. Để thu được lợi nhuận các công ty
nhất thiết phải có hệ thống sản xuất riêng của mình nhưng quy mô của các công
ty mẹ được giảm bớt và TNCs chỉ tập trung nắm giữ hệ thống tài chính và bản
quyền, những lĩnh vực đem lại khoảng 70% trên tổng số lợi nhuận cho công ty từ
toàn bộ chu trình hoạt động kinh doanh. Phần lớn hệ thống sản xuất, phân phối
của công ty được chuyển sang các nước kém phát triển hơn, nơi có chi phí sản
xuất thấp hơn và có thị trường tiêu thụ tại chỗ. Như vậy, sự hình thành và phát
triển mạng lưới sản xuất quốc tế đã đem lại cho hoạt động sản xuất và dịch vụ
trên phạm vi toàn cầu những phương thức liên kết mới với vai trò đầu tầu của
TNCs. Sự phát triển của phân công lao động quốc tế đã phát triển vượt qua giai
đoạn chuyên môn hoá giữa các ngành và chuyển dần sang quá trình chuyên môn
hoá sâu trong nội bộ ngành, chuyên môn hoá theo đối tượng, chi tiết.
Những xu thế trên có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình CNH, HĐH ở các
nước đang phát triển. Một mặt, nó cho phép các nước đi sau ngay từ đầu có thể
tham gia vào hệ thống phân công lao động quốc tế, đảm nhiệm những khâu riêng
biệt của một nhà máy toàn cầu cho dù chưa thể có một hệ thống công nghệ hoàn
chỉnh và hiện đại. Nói cách khác, các nước đang phát triển có thể tiếp nhận hệ
thống sản xuất và phân phối từ TNCs khi tham gia hội nhập kinh tế quốc tế. Mặt
khác, xu hướng sáp nhập và bành trướng vai trò của TNCs cũng đặt ra những
thách thức mới cho các nước đang phát triển. Những biến đổi cơ cấu kinh tế của
các nước này dường như khó tránh khỏi sự lệ thuộc vào chiến lược toàn cầu của
TNCs hay của các hãng đầu tầu. Sự liên kết với TNCs sẽ tạo điều kiện phát triển
20
một số ngành công nghiệp mới và từng bước nâng cao năng lực cạnh tranh của
các ngành đó. Tuy nhiên, các hoạt động đầu tư và việc chiếm lĩnh thị trường của
TNCs có thể làm xuất hiện những nguy cơ với những nước đang phát triển, đó là
có thể mất khả năng kiểm soát và điều tiết đối với một số ngành trong quá trình
hội nhập khi sức mạnh độc quyền và độc quyền nhóm được khai thác nhằm tăng
cường và củng cố sự kiểm soát của TNCs đối với các nguồn lực và lợi nhuận.
- Thứ ba, sự gia tăng ảnh hưởng của các tổ chức kinh tế, tài chính quốc tế
đối với các quốc gia trong hội nhập kinh tế quốc tế
Thực tế, các định chế quốc tế ra đời nhằm đáp ứng đòi hỏi của xu thế vận
động của nền kinh tế thế giới và chính sự tồn tại và hoạt động của chúng lại thúc
đẩy hơn nữa quá trình toàn cầu hóa. Thông qua các quy định của mình, các tổ
chức kinh tế, tài chính thế giới tham gia vào điều chỉnh quan hệ kinh tế, tài
chính, thương mại thế giới, điều chỉnh chính sách của các quốc gia theo chuẩn
mực quốc tế.
Ngày nay, quá trình tự do hoá thương mại ngày càng gia tăng trong khuôn
khổ của các hiệp định thương mại trên phạm vi toàn cầu (WTO), khu vực
(NAFTA, AFTA, v.v...) cũng như các hiệp định thương mại tự do song phương
và đa phương (FTAs). Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, các quốc gia có
chủ quyền không còn là chủ thể duy nhất có vai trò quyết định chính sách kinh tế
mà là sự tồn tại đồng thời của nhiều định chế khác như EU, APEC, WB, IMF,
WTO... Các tổ chức kinh tế, tài chính quốc tế có uy tín đang chi phối hoạt động
thực tiễn và có thể làm thay đổi các chính sách kinh tế của quốc gia thành viên
hoặc các quốc gia có nguyện vọng gia nhập. Thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế,
các quốc gia, các nền kinh tế sẽ phải tuân thủ những thỏa thuận chung. Một nước
hoặc một nền kinh tế sẽ không thể đơn phương tự áp đặt chính sách thuế quan
hay các biện pháp phi thuế quan để bảo hộ sản xuất trong nước mà phải tuân thủ
những thỏa thuận chung. Điển hình như những quy định mới của WTO về xuất
nhập khẩu (thuế quan, trợ cấp xuất khẩu, thương quyền, hạn chế xuất khẩu,
21
v.v...), về đầu tư nước ngoài (tỷ lệ nội địa hoá, tỷ trọng hàng xuất khẩu, v.v...),
về sở hữu trí tuệ, chính sách cạnh tranh và một số quy định khác có ảnh hưởng
rất lớn đến các nước trong việc lựa chọn chính sách phát triển cũng như ảnh
hưởng đến những hoạt động của các doanh nghiệp ở các quốc gia đó. Nói cách
khác, các quốc gia, các nền kinh tế thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế sẽ phải tự
điều chỉnh hệ thống luật pháp, chính sách cho phù hợp với chuẩn mực chung. Đó
là những thách thức to lớn với những nước tiến hành CNH, HĐH từ điểm xuất
phát thấp, chưa đủ sức cạnh tranh bình đẳng trong nền kinh tế toàn cầu, thậm chí
ngay ở thị trường nội địa mà không thể áp dụng những biện pháp hỗ trợ, bảo hộ
như nhiều nước đã thực hiện trước đó. Điều đó cũng đặt ra những yêu cầu về lựa
chọn lộ trình, bước đi của hội nhập kinh tế quốc tế và chính sách CNH, HĐH.
- Thứ tư, xu hướng đối thoại, hợp tác kinh tế giữa các quốc gia ngày càng
mở rộng và phát triển
Sau khi cuộc chiến tranh lạnh kết thúc, xu hướng đối thoại, hợp tác đã mở
ra một giai đoạn phát triển mới của nền kinh tế thế giới. Hầu hết các quốc gia
đều tập trung điều chỉnh chiến lược phát triển, trong đó ưu tiên mọi nguồn lực
cho hợp tác và phát triển kinh tế. “Đa dạng hoá và đa phương hóa” trong quan hệ
kinh tế quốc tế đã trở thành phương châm chủ đạo của hầu hết các quốc gia trên
thế giới, cả các nước phát triển và các nước đang phát triển. Liên kết và hợp tác
kinh tế đã không ngừng mở rộng và phát triển trên quy mô toàn cầu. Như vậy,
với các nền kinh tế đi sau trong CNH, HĐH, việc hội nhập sâu rộng vào nền
kinh tế toàn cầu sẽ có cơ hội tiếp cận những nguồn lực quan trọng từ bên ngoài
và tham gia được vào hệ thống phân công lao động quốc tế để thực hiện những
mục tiêu kinh tế – xã hội đề ra.
Nói tóm lại, toàn cầu hoá kinh tế cùng với sự phát triển của khoa học –
công nghệ hiện đại, đặc biệt là công nghệ thông tin đã làm cho không gian kinh
tế mở rộng, các định chế kinh tế quốc tế được áp dụng một cách phổ biến hơn
vừa tạo ra yêu cầu, vừa tạo khả năng tổ chức lại thị trường trên phạm vi toàn thế
22
giới. Các nước công nghiệp phát triển đang chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế sang
một trạng thái mới được đặc trưng bằng sự gia tăng vượt trội của khu vực dịch
vụ so với hai khu vực sản xuất vật chất. Bước chuyển đổi này đang có xu hướng
gia tăng, kéo theo sự chuyển đổi ở những nước chậm phát triển hơn và tạo ra làn
sóng chuyển đổi cơ cấu lan truyền trên phạm vi toàn thế giới, xác định tính chất
chuyển đổi sang xã hội “hậu công nghiệp” trên quy mô toàn cầu.
Trong bối cảnh mới, những dự định về phân bổ nguồn lực đầu tư không
còn hoàn toàn tuỳ thuộc vào ý muốn chủ quan của từng nước. Sự phát triển và
dịch chuyển cơ cấu kinh tế của một quốc gia sẽ chủ yếu phụ thuộc vào sức cạnh
tranh để có được chỗ đứng vững chắc trên thị trường và khả năng điều chỉnh linh
hoạt để có thể ứng phó, kịp thời thích nghi với những biến động trên thị trường
thế giới. Điều đó cho thấy, sự nghiệp CNH, HĐH ở các nước đang phát triển
ngày nay cần được xem xét theo cách tiếp cận chuỗi giá trị toàn cầu. Nghĩa là
muốn thực hiện được các mục tiêu đặt ra trong CNH, HĐH thì điều quan trọng
trước tiên là các nước này phải biết xác định vị trí của mình và làm thế nào để
trở thành một mắt xích của chuỗi giá trị toàn cầu. Nó vừa là yêu cầu bắt buộc
nhưng cũng là cơ hội cho các nền kinh tế đang phát triển. Tuy nhiên, vấn đề đặt
ra là làm thế nào để gia nhập, chen chân vào được mạng lưới thị trường vốn đã
và đang diễn ra sự cạnh tranh gay gắt. Bên cạnh đó, các nước đang phát triển và
các doanh nghiệp của nó cũng cần phải liên tục nâng cấp, cải thiện vị thế cạnh
tranh của mình trong chuỗi giá trị toàn cầu bằng cách chuyển đổi từ mắt khâu có
giá trị gia tăng thấp sang mắt khâu có giá trị gia tăng cao hơn hoặc bằng cách
nâng cao năng lực cạnh tranh ở chính ngay mắt khâu đang chịu trách nhiệm.
Kinh nghiệm thực tiễn cho thấy, với các nước đang phát triển ngày nay
tiến hành CNH, HĐH trong hội nhập kinh tế quốc tế thì việc xác định mục tiêu,
bước đi của CNH, HĐH cũng như lựa chọn những giải pháp thực hiện một mặt
phải căn cứ vào điều kiện cụ thể bên trong nhưng mặt khác cần hết sức chú ý đến
những yếu tố tác động từ bên ngoài. Vấn đề quan trọng là các nước này cần phải
23
tạo được cơ chế thích hợp nhằm tận dụng có hiệu quả những tác động tích cực
mà quá trình hội nhập kinh tế quốc tế mang lại, nhất là việc huy động những
nguồn lực về vốn, công nghệ... tiếp thu và học hỏi những kinh nghiệm quản lý;
thâm nhập và mở rộng thị trường thế giới để đẩy nhanh tiến trình CNH, HĐH.
Đồng thời, các nước này cũng cần có chính sách hội nhập với lộ trình, bước đi
thích hợp và các chính sách điều chỉnh kinh tế nhằm hạn chế được những tác
động tiêu cực của hội nhập kinh tế quốc tế đối với tiến trình CNH, HĐH.
1.2. VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI
HOÁ TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
Vai trò của nhà nước đối với sự phát triển kinh tế được thể hiện ngay
trong lôgic khách quan về sự ra đời của nhà nước. Phạm trù vai trò của nhà nước
thể hiện khái quát các chức năng của nhà nước trong mối liên hệ giữa nhà nước
và xã hội, thể hiện đặc trưng cho bản chất của nhà nước. Trong bất cứ chế độ xã
hội nào thì lĩnh vực kinh tế cũng là lĩnh vực đóng vai trò quan trọng nhất vì nó là
nền tảng cho mọi lĩnh vực hoạt động xã hội khác. Do vậy, trong mọi chức năng
của nhà nước đều bao hàm các nội dung kinh tế, mang cái cốt vật chất là các
quan hệ kinh tế.
Để thực hiện chức năng của mình đối với sự phát triển kinh tế, nhà nước
có thể sử dụng các công cụ như pháp luật, chính sách, kế hoạch, các công cụ tài
chính, tiền tệ, kinh tế nhà nước, bộ máy nhà nước v.v... Nhưng xét cho cùng,
hoạt động ban hành và thực thi chính sách thể hiện nội dung và phương thức
thực hiện chức năng của nhà nước, cũng chính là sự thể hiện vai trò của nhà
nước. Bởi chính sách của nhà nước là tổng thể các chủ trương, quan điểm chính
thức của nhà nước cũng như hoạt động tổ chức thực thi các chủ trương, quan
điểm đó. Kế hoạch, các công cụ tài chính, tiền tệ hay pháp luật cũng chính là các
dạng đặc biệt của chính sách. Thông qua các chính sách nhà nước tác động vào
nền kinh tế, có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm quá trình phát triển kinh tế.
24
1.2.1. Một số lý thuyết về vai trò của nhà nước đối với sự phát triển kinh tế
Trong lịch sử, đã có nhiều lý thuyết kinh tế bàn về vai trò của nhà nước
đối với sự phát triển kinh tế với những quan điểm chưa đồng nhất, thậm chí có
những khía cạnh là trái ngược nhau. Theo những cách tiếp cận khác nhau có thể
khái quát các trường phái lý thuyết đề cập đến vai trò của nhà nước như sau:
Thứ nhất, về các lý thuyết kinh tế học
Theo lý thuyết kinh tế chính thống, thị trường là phương thức hữu hiệu
nhất của xã hội loài người trong điều tiết các hoạt động kinh tế và do vậy, nó là
công cụ hữu hiệu nhất đối với các quốc gia kém phát triển để tiến lên hiện đại.
Tuy nhiên, trong thế kỷ XX, nhiều quốc gia phát triển đi sau lại sử dụng nhà
nước như một công cụ phát triển lại đạt được tốc độ tăng trưởng cao hơn và hiện
đại hoá nhanh hơn những nền kinh tế dựa chủ yếu vào thị trường. Việc xuất hiện
những trường phái lý thuyết mới ủng hộ sự can thiệp của nhà nước vào các hoạt
động kinh tế một mặt đã góp phần lý giải cho sự thành công trong phát triển kinh
tế của những nước đi sau nhưng mặt khác cũng đưa ra những gợi ý về mặt chính
sách cho những nước đi sau trong quá trình phát triển kinh tế và tiến lên hiện đại.
- Trường phái Keynes là một trong những trường phái lý thuyết tiêu biểu
đề cao vai trò can thiệp của nhà nước đối với sự phát triển kinh tế. Các nhà kinh
tế thuộc trường phái Keynes cho rằng, mặc dù thị trường thường là một phương
thức tốt để tổ chức các hoạt động kinh tế nhưng trong một số trường hợp thị
trường không thể phân bổ các nguồn lực của xã hội một cách hiệu quả và thị
trường có những hạn chế trong việc thực hiện các mục tiêu xã hội bên cạnh mục
tiêu hiệu quả kinh tế. Từ đó, họ đề cao vai trò can thiệp của nhà nước vào nền
kinh tế thị trường và đưa ra khuyến nghị nhà nước nên thực hiện các chức năng
chủ yếu sau: i) Xác lập những điều kiện cần thiết về thể chế và pháp lý cho việc
sản xuất và trao đổi hàng hoá, dịch vụ; ii) Hoạch định và tổ chức thực hiện các
chính sách kinh tế vĩ mô như chính sách tài khoá, chính sách tiền tệ, chính sách
25
thu nhập và chính sách tỷ giá hối đoái; iii) Cung cấp cơ sở hạ tầng vật chất và
cung ứng các dịch vụ công cộng như giáo dục và y tế; iv) Kiểm tra và giám sát
các hoạt động kinh tế; v) Nhà nước tham gia trực tiếp vào sản xuất hàng hoá và
dịch vụ [67, tr. 22-23].
Trong thực tế, lý thuyết của trường phái Keynes đã thống trị trong các lý
thuyết kinh tế và trở thành cơ sở khoa học chủ đạo cho việc thiết kế và điều hành
chính sách kinh tế vĩ mô ở các nước công nghiệp phát triển trong suốt thời gian
từ sau chiến tranh thế giới II đến những năm 1970. Mặc dù các quan điểm của
trường phái này bị phê phán kịch liệt do hậu quả từ những thất bại của các chính
sách của chính phủ nhưng trong thực tế ở nhiều nước, một số đề nghị của
Keynes như tăng chi tiêu ngân sách để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vẫn là một
trong những biện pháp được áp dụng cùng với các chính sách tiền tệ khác ở Nhật
Bản, Trung Quốc trong thời gian gần đây.
- Trường phái Tân cổ điển đã kế thừa lý thuyết “bàn tay vô hình” của
A.Smith và đưa ra cơ sở lý thuyết cho nền kinh tế thị trường tự do với tư cách là
hình thức hiệu quả nhất trong hoạt động của con người. Các tác giả thuộc trường
phái này đã dựa vào những bằng chứng thực tế để kịch liệt phê phán những đề
nghị của Keynes về sự can thiệp quá mức của nhà nước. Từ đó, họ đề nghị nhà
nước cần can thiệp càng ít càng tốt và chuyển giao hầu hết các chức năng cho thị
trường. Thực tế, lý thuyết của trường phái Tân cổ điển và các đề nghị của họ
nhìn chung được chấp nhận rộng rãi trong các nhà hoạch định chính sách ở các
nước OECD, WB, IMF và nhiều tổ chức viện trợ song phương.
Tuy nhiên, một số nhà nghiên cứu đã chỉ ra giới hạn nghiêm trọng của lý
thuyết Tân cổ điển là lý thuyết này giả định rằng chi phí giao dịch bằng không,
có nghĩa là không tồn tại chi phí giao dịch trên thị trường. Một giới hạn nữa của
lý thuyết này là bản chất tĩnh và tương đối tĩnh trong lập luận chính và tính “phi
thể chế” trong mô hình phát triển của lý thuyết này [71, tr. 23-24].
26
Trong thực tế, Lý thuyết về chi phí giao dịch (của Ronald Coase và
Douglass North) và Lý thuyết tiến hoá về phát triển kinh tế (hay còn gọi là lý
thuyết tân Schumpeter về phát triển kinh tế) – hai trường phái có tính chất nhất
quán với lý thuyết kinh tế học Tân cổ điển – đã giúp khắc phục phần lớn những
giới hạn của lý thuyết Tân cổ điển. Lý thuyết chi phí giao dịch khẳng định rằng
luôn tồn tại chi phí thực hiện các trao đổi hay trao đổi tự nguyện trên thị trường,
do đó tồn tại chi phí của việc sử dụng thị trường. Chi phí giao dịch bao gồm tất
cả các chi phí cho những hoạt động phát sinh trong quá trình mua bán, trao đổi
như xác định và bảo vệ quyền lợi của người bán và người mua, thu thập thông
tin về giá cả, về chất lượng của sản phẩm, dịch vụ được trao đổi, dự thảo và đàm
phán hợp đồng, đăng ký bảo hiểm, giám sát việc thực hiện hợp đồng, tiến hành
thanh tra để đánh giá chất lượng của sản phẩm, giải quyết các tranh chấp, quy
định hình phạt đối với các hành vi vi phạm hợp đồng v.v… Trên thực tế, các chi
phí giao dịch liên quan đến tất cả các lĩnh vực như kế toán, thương mại, tín dụng,
ngân hàng, thị trường vốn, bảo hiểm, lập pháp, toà án, công tác thực thi luật và
các hoạt động có liên quan khác trong chính phủ [71, tr. 58]. Lý thuyết chi phí
giao dịch đã cung cấp cách nhìn mới trong việc tìm hiểu mô hình phát triển kinh
tế dựa vào nhà nước: xu hướng một số nền kinh tế phát triển sau dựa vào nhà
nước trong phát triển kinh tế có thể được lý giải bằng cách kết hợp hai nhân tố:
chi phí sử dụng thị trường và lợi thế thông tin của các nền kinh tế phát triển sau.
Mô hình phát triển dựa vào nhà nước nổi lên trước hết là do việc sử dụng chính
phủ như là công cụ điều phối với giá rẻ hơn sử dụng thị trường. Ở các nước đang
phát triển đi sau, nhà nước trở thành công cụ mạnh trong điều tiết quá trình sản
xuất trong nước. Các nền kinh tế phát triển sau có thể nghiên cứu các mô hình
phát triển công nghiệp của các nền kinh tế đi trước để áp dụng vào quá trình sản
xuất ở nước mình – đó chính là lợi thế thông tin. Chính phủ của một nền kinh tế
đang phát triển đi sau có lợi thế hơn trong việc chuyển đổi thông tin kinh tế
thành những mục tiêu phát triển rõ ràng, trong điều tiết phân bổ nguồn vốn giữa
27
các thành phần kinh tế trong nước và tập trung những nguồn lực xã hội có hạn để
đầu tư vào những ngành công nghiệp có tốc độ tăng trưởng cao [71, tr. 290]. Lý
thuyết tiến hoá về phát triển kinh tế đã khắc phục được bản chất tĩnh của kinh tế
học Tân cổ điển. Giống như trường phái Tân cổ điển, trường phái này công nhận
sự thay đổi về công nghệ như là động lực chính tạo ra tăng trưởng kinh tế nhưng
đã nghiên cứu sâu hơn cơ chế của sự thay đổi về công nghệ bằng cách đặt những
đổi mới công nghệ và cơ chế phổ biến công nghệ ở vị trí trung tâm. Lý thuyết
này khái quát sự phát triển kinh tế của thế giới như một quá trình năng động, tiến
triển liên tục từ mô hình kinh tế – công nghệ cũ sang mô hình mới, được thúc
đẩy bởi cả quá trình đổi mới cơ bản – tạo ra động lực chính và đổi mới tiệm tiến
– giúp phát tán đổi mới cơ bản đến tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế. Trường
phái này còn phân tích sự tương tác giữa các thể chế và sự thay đổi công nghệ.
Thực tế, lý thuyết này có thể được sử dụng để luận giải việc các nước đang phát
triển đi sau có thể thu được lợi hay nâng cao được năng suất nhờ quá trình truyền
bá công nghệ bằng cách dựa vào nhà nước như một công cụ điều tiết [71, tr. 31].
Vai trò lãnh đạo của nhà nước còn cho phép các nền kinh tế đang phát triển đi
sau tận dụng tốt hơn quá trình truyền bá mô hình kinh tế – công nghệ từ những
nền kinh tế đi trước. Do việc ứng dụng trực tiếp công nghệ tiên tiến và áp dụng
các mô hình chuyên môn hoá có thể tạo ra “gia tăng năng động” về sản lượng
nên các nền kinh tế phát triển sau có thể tiến những bước dài hơn trong quá trình
hiện đại hoá so với các nền kinh tế khác không thực hiện được điều này vì thiếu
các thể chế nhà nước có thể thực hiện được chiến lược phát triển “từ trên xuống”
hoặc thiếu sự nhất trí tập thể trong việc sử dụng nhà nước như một công cụ phát
triển thực sự [71, tr. 290].
- Đại diện tiêu biểu của Trường phái chính hiện đại là nhà kinh tế học
Samuelson đã đưa ra mô hình kinh tế hỗn hợp và cho rằng cần có sự kết hợp giữa
nhà nước và thị trường trong điều tiết kinh tế. Theo ông, nhà nước có những
chức năng quan trọng sau: nâng cao hiệu quả của nền kinh tế; hoàn thiện quá
28
trình phân phối tổng hợp thu nhập quốc dân; sử dụng các công cụ chính sách
kinh tế vĩ mô để ổn định nền kinh tế; đề xuất và thực hiện các chính sách kinh tế
đối ngoại hay chính sách kinh tế quốc tế của một quốc gia. Để thực hiện các
chức năng đó, nhà nước có thể áp dụng các chính sách và biện pháp nhằm sửa
chữa các khuyết tật của thị trường như bảo đảm những cân đối chung trong nền
kinh tế; điều chỉnh hoặc tái phân bổ các nguồn lực khan hiếm; cân đối các khoản
thu, chi tài chính và ngân sách; tái phân phối các nguồn thu nhập trong xã hội để
thực hiện sự công bằng xã hội...
Nói một cách khái quát, trong kinh tế học, lập luận quan trọng nhất ủng hộ
việc nhà nước can thiệp vào nền kinh tế là “sự thất bại của thị trường”. Chính
phủ phải can thiệp vào một số lĩnh vực khi thị trường hoạt động không tốt. Lập
luận trên thường được sử dụng để lý giải việc nhà nước can thiệp vào các hoạt
động kinh tế ở các nước có nền kinh tế phát triển, ở đó nhà nước chỉ đóng vai trò
bổ sung cho thị trường. Đáng chú ý là lập luận về “sự thất bại của thị trường”
trong việc giải thích sự can thiệp của nhà nước buộc phải thừa nhận một sự thất
bại và bất lực hoàn toàn của thị trường, điều này lại đi ngược lại với nguyên tắc
coi thị trường là tối thượng. Thực tế cho thấy, không một nền kinh tế nào._.i nhu cầu phát triển cũng như
năng lực đáp ứng các cơ hội tạo ra, trình độ thực tế của hệ thống hạ tầng cơ sở ở
nước ta còn thấp, tụt hậu khá xa. Đó là một yếu tố kém hấp dẫn các nhà đầu tư.
Để cải thiện tình hình trên, trong thời gian tới Nhà nước cần:
- Quán triệt quan điểm phát triển cơ sở hạ tầng là yếu tố đóng vai trò tiền
đề cho CNH, HĐH nên việc xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng cần được tính toán
196
trước và phải có tác dụng hướng dẫn nhu cầu đầu tư. Nói cách khác, Nhà nước
cần phải thiết kế lộ trình phát triển cơ sở hạ tầng gắn với lộ trình CNH, HĐH,
đảm bảo tính cân đối tổng thể giữa phát triển cơ sở hạ tầng với sự phát triển của
các ngành kinh tế và yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
- Bên cạnh tiếp tục gia tăng nguồn vốn đầu tư từ ngân sách, Nhà nước cần
có chính sách, giải pháp thực sự có tác dụng khuyến khích khu vực kinh tế tư
nhân trong và ngoài nước đầu tư phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng với những
hình thức phù hợp và những điều kiện ưu đãi. Đặc biệt, cần coi trọng hiệu quả sử
dụng nguồn vốn ODA trong xây dựng và phát triển hệ thống hạ tầng cơ sở.
- Nhanh chóng khắc phục những vấn đề lớn:
+ Giải quyết tình trạng thiếu năng lượng bằng các giải pháp: Tăng đầu tư
cho các nguồn năng lượng ngoài thuỷ điện và cải thiện hệ thống phân phối;
Khuyến khích đầu tư của tư nhân trong và ngoài nước; Xây dựng một môi
trường điều tiết minh bạch và hiệu quả hơn để tạo động cơ và sự an tâm cho các
nhà đầu tư tư nhân.
+ Nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư công cho phát triển cơ sở hạ tầng.
Chính phủ cần có một cơ quan độc lập có nhiệm vụ đánh giá, thẩm định một
cách toàn diện và khách quan các dự án có quy mô lớn, có vai trò quan trọng và
những kết luận đánh giá, thẩm định cần được công bố công khai. Đồng thời,
trong triển khai cần đảm bảo chất lượng và đúng tiến độ.
+ Cần có chính sách khuyến khích tư nhân tham gia phát triển cơ sở hạ
tầng, đặc biệt là phát triển cơ sở hạ tầng ở các địa phương, những vùng nông
thôn, vùng sâu, vùng xa nhằm phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội hiện nay.
Do vậy, cần minh bạch hoá các quy định về đất đai: Xoá bỏ hoàn toàn cơ chế xin
- cho bằng cơ chế đấu thầu công khai quyền sử dụng đất; áp dụng chính sách
thuế bất động sản để nhằm ngăn chặn hành vi đầu cơ và khuyến khích chủ sở
hữu bất động sản sử dụng chúng vào mục đích sản xuất kinh doanh và sinh lời.
197
+ Nhà nước cần có chính sách đầu tư thoả đáng cho các thành phố lớn,
các trung tâm đô thị nhằm phát triển hạ tầng cơ sở, tạo sức hút đầu tư cũng như
ảnh hưởng lan toả đến các khu vực lân cận.
Tóm tắt chương 3
Trong chương 3, luận án đã khái quát về vai trò của nhà nước đối với
CNH, HĐH trong hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta. Từ những thành tựu và hạn
chế của CNH, HĐH ở Việt Nam, luận án đã phân tích những mặt được và những
mặt hạn chế về vai trò của Nhà nước. Chính điều đó đặt ra yêu cầu phải đổi mới
và nâng cao hiệu lực vai trò của Nhà nước đối với CNH, HĐH trong bối cảnh
mới với những khó khăn và thách thức mới khi Việt Nam ngày càng hội nhập
sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu hoá.
Từ những điểm tương đồng và khác biệt giữa Việt Nam và Đài Loan khi
tiến hành CNH, HĐH trong hội nhập kinh tế quốc tế, luận án đã luận giải khả
năng vận dụng một số kinh nghiệm về vai trò của nhà nước đối với CNH, HĐH
trong hội nhập kinh tế quốc tế của Đài Loan vào điều kiện nước ta hiện nay. Đó
là các bài học: i) Lựa chọn mô hình CNH, HĐH rút ngắn gắn với việc phát huy
lợi thế so sánh và phát triển kinh tế tri thức; ii) Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh
tế thị trường và thực hiện dân chủ hoá đời sống kinh tế - xã hội tạo động lực huy
động các nguồn lực đa dạng trong dân cư và nước ngoài cho CNH, HĐH; iii)
Chính sách đa dạng hoá trong huy động vốn cho CNH, HĐH; iv) Chú trọng phát
triển khoa học - công nghệ nhằm khuyến khích và đẩy nhanh ứng dụng tiến bộ
công nghệ và nâng cao trình độ công nghệ quốc gia; v) Đổi mới chính sách phát
triển nguồn nhân lực; và vi) Cần có chính sách và biện pháp mang tính đột phá
trong phát triển cơ sở hạ tầng. Đó là những kinh nghiệm mà Việt Nam hoàn toàn
có thể vận dụng để đẩy nhanh CNH, HĐH.
198
KẾT LUẬN
Thực tiễn CNH, HĐH trong hội nhập kinh tế quốc tế ở một số quốc gia và
lãnh thổ cho thấy, nhà nước có vai trò rất quan trọng, nhiều khi mang tính quyết
định sự thành công của CNH, HĐH mà Đài Loan là một điển hình.
Nghiên cứu đề tài: “Vai trò của nhà nước đối với công nghiệp hoá, hiện
đại hoá ở Đài Loan trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế (thời kỳ 1961 -
2003) - Bài học kinh nghiệm và khả năng vận dụng vào Việt Nam”, luận án có
những đóng góp sau:
- Thứ nhất, luận án đã làm rõ những vấn đề lý luận về vai trò của nhà
nước đối với CNH, HĐH trong hội nhập kinh tế quốc tế với việc định hướng
chiến lược và có các chính sách thực hiện những mục tiêu và bước đi trong
CNH, HĐH.
- Thứ hai, luận án đã phân tích làm rõ vai trò của nhà nước Đài Loan đối
với CNH, HĐH trong hội nhập kinh tế quốc tế và rút ra 7 bài học kinh nghiệm
về vai trò của nhà nước đối với CNH, HĐH trong hội nhập kinh tế quốc tế của
Đài Loan: i) Nhà nước cần chủ động nắm bắt thời cơ và lựa chọn thời điểm thích
hợp điều chỉnh chiến lược CNH, HĐH; ii) Nhà nước cần thực hiện vai trò gắn
kết quá trình CNH, HĐH với phát triển kinh tế thị trường; iii) Nhà nước cần có
chính sách đa dạng hóa các nguồn vốn, mở rộng các công cụ huy động vốn cho
CNH, HĐH; iv) Nhà nước phải thực sự coi khoa học - công nghệ là động lực cho
sự phát triển và có các chính sách khuyến khích phát triển khoa học - công nghệ,
đặc biệt là các ngành công nghệ cao; v) Nhà nước cần đặc biệt chú trọng chính
sách phát triển nguồn nhân lực nhằm đáp ứng nhu cầu công nghiệp hoá, nhất là
phát triển nguồn nhân lực trình độ cao để đẩy nhanh tiến trình hiện đại hoá; vi)
Nhà nước đóng vai trò quyết định trong phát triển hệ thống hạ tầng cơ sở; và vii)
Nhà nước cần có chính sách ngăn ngừa, hạn chế và giảm thiểu tác hại của tình
trạng ô nhiễm môi trường ngay từ giai đoạn đầu công nghiệp hoá.
199
- Thứ ba, luận án đã luận giải, làm rõ khả năng vận dụng một số kinh
nghiệm về vai trò của nhà nước Đài Loan đối với CNH, HĐH trong hội nhập
kinh tế quốc tế, đó là: Lựa chọn mô hình CNH, HĐH rút ngắn gắn với việc phát
huy lợi thế so sánh và phát triển kinh tế tri thức; Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh
tế thị trường và thực hiện dân chủ hoá đời sống kinh tế - xã hội tạo động lực huy
động các nguồn lực đa dạng trong dân cư và nước ngoài cho CNH, HĐH; Chính
sách đa dạng hoá trong huy động vốn cho CNH, HĐH; Chú trọng phát triển khoa
học - công nghệ nhằm khuyến khích và đẩy nhanh ứng dụng tiến bộ công nghệ
và nâng cao trình độ công nghệ quốc gia; Đổi mới chính sách phát triển nguồn
nhân lực; Cần có chính sách và biện pháp mang tính đột phá trong phát triển cơ
sở hạ tầng.
Luận án đề xuất một số kiến nghị để tăng thêm tính khả thi trong việc vận
dụng những kinh nghiệm về vai trò của nhà nước Đài Loan đối với CNH, HĐH
trong hội nhập kinh tế quốc tế với nước ta hiện nay:
Một là, cần xây dựng Nhà nước mạnh, hiện đại có đủ năng lực làm tốt vai
trò của mình trong CNH, HĐH:
- Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính sâu rộng hơn, triệt để hơn; đồng
thời phân định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng Bộ, ngành; giữa Nhà nước trung
ương và chính quyền địa phương trong cơ chế vận hành nền kinh tế.
- Tiếp tục đổi mới đội ngũ cán bộ, chú trọng xây dựng một đội ngũ các
chuyên gia kỹ trị, các nhà hoạch định chính sách thực sự tài năng.
- Gắn cải cách kinh tế với cải cách chính trị, thực hiện dân chủ hoá đời
sống chính trị - xã hội hướng tới hình thành đồng bộ thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hai là, tăng thêm tính hiệu quả trong công tác chỉ đạo điều hành của Nhà
nước đối với CNH, HĐH:
200
- Cần chú trọng tính khoa học và hiệu quả trong xây dựng chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội, trong quy hoạch ngành và vùng thúc đẩy chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hướng hội nhập kinh tế quốc tế và phát huy tốt lợi thế so sánh.
- Nhà nước cần nhanh chóng ổn định môi trường kinh tế vĩ mô để giảm
thiểu những nhân tố bất ổn định gây ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế, cần chú
trọng phát huy động lực của kinh tế thị trường đến phân bổ và sử dụng nguồn lực
trong CNH, HĐH; cần nhanh chóng khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải và thất
thoát, lãng phí trong đầu tư.
- Chú trọng CNH, HĐH với mục tiêu tăng trưởng bền vững. Nghĩa là phải
quan tâm nhiều hơn đến chất lượng của sự tăng trưởng. Nó được nhìn nhận trên
các giác độ kinh tế - kỹ thuật - xã hội - môi trường.
Tóm lại, trong xu thế cách mạng khoa học - công nghệ và toàn cầu hoá
đang diễn ra mạnh mẽ, khi làm tốt chức năng định hướng và điều hành, Nhà
nước sẽ trở thành nhân tố vô cùng quan trọng mang lại thành công trong CNH,
HĐH đất nước.
201
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
1. Trần Khánh Hưng (1999), “Một số giải pháp thúc đẩy công nghiệp hoá nông
nghiệp, nông thôn ở Hàn Quốc và Đài Loan”, Tạp chí Kinh tế và phát triển,
số 32, 9 - 10/ 1999, tr. 52-55.
2. Trần Khánh Hưng (2003), “Kinh nghiệm thực tế từ chính sách phát triển
nguồn nhân lực của Đài Loan trong quá trình công nghiệp hoá”, Tạp chí Kinh
tế và phát triển, số Chuyên đề Khoa Kinh tế học, 11/2003, tr. 52-53, 59.
3. Trần Khánh Hưng (2008), “Đài Loan: Chính sách kinh tế - tài chính sau
khủng hoảng kinh tế châu Á”, Tạp chí Tài chính doanh nghiệp, số 1+2/2008,
tr. 59.
4. Trần Khánh Hưng (2008), “Công nghiệp hoá theo mô hình rút ngắn ở Đài
Loan”, Tạp chí Kinh tế và phát triển, số Đặc san 03/2008, tr. 47-50, 58.
5. Trần Khánh Hưng (2008), “Kinh nghiệm phát triển công nghệ của Đài
Loan”, Tạp chí Tài chính doanh nghiệp, số 3/2008, tr. 34-35.
202
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Vũ Tuấn Anh (1994), Vai trò của nhà nước trong phát triển kinh tế, Nhà
xuất bản Khoa học xã hội.
2. Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương (2001), Tài liệu tham khảo phục vụ
nghiên cứu nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng, Nhà
xuất bản Chính trị quốc gia.
3. Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương (2001), Tài liệu nghiên cứu Văn kiện
Đại hội IX của Đảng, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia.
4. Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương - Bộ Nông nghiệp và phát triển nông
thôn (2002), Con đường CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn Việt Nam, Nhà
xuất bản Chính trị quốc gia.
5. Lê Xuân Bá (2006), “Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế”, Tạp chí Quản lý kinh tế số 12 tháng 1+2
năm 2007, tr 11.
6. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Viện chiến lược phát triển (1997), Công nghiệp hóa
và chiến lược tăng trưởng dựa trên xuất khẩu, Nhà xuất bản Chính trị quốc
gia.
7. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2008), Bối cảnh trong nước quốc tế và việc nghiên
cứu xây dựng chiến lược 2011-2020.
8. Bộ Khoa học và công nghệ (2006): Khoa học và công nghệ Việt Nam 2001 -
2005.
9. Bộ Ngoại giao (1999), Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế của Việt Nam, Nhà
xuất bản Chính trị quốc gia.
10. Bộ Ngoại giao (2002), Việt Nam hội nhập kinh tế trong xu hướng toàn cầu
hoá vấn đề và giải pháp, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia.
203
11. Bộ Thương mại (2004), Kiến thức cơ bản về hội nhập kinh tế quốc tế.
12. Chương trình Việt Nam - Đại học Havard (2008), Lựa chọn thành công bài
học từ Đông Á và Đông Nam Á cho tương lai Việt Nam.
13. Mai Ngọc Cường (1996), Lịch sử các học thuyết kinh tế, Nhà xuất bản Thống
kê.
14. Vũ Đình Cự (2000) (chủ biên), Khoa học và công nghệ hướng tới thế kỷ XXI.
Định hướng và chính sách, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia.
15. G. Crelott (1989), Cơ cấu và chiến lược phát triển kinh tế, Viện quản lý kinh
tế trung ương dịch.
16. Diễn đàn phát triển GRIPS (2003), Báo cáo tóm tắt Gắn tăng trưởng kinh tế
với giảm nghèo - Cơ sở hạ tầng quy mô lớn trong bối cảnh Chiến lược toàn
diện về tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam.
17. Nguyễn Trí Dĩnh (1991), Vai trò nhà nước ở các nước ASEAN, Nhà xuất bản
Thống kê.
18. Nguyễn Trí Dĩnh - Phạm Thị Quý (2006), Giáo trình Lịch sử kinh tế, Nhà
xuất bản Đại học Kinh tế quốc dân.
19. Lê Đăng Doanh (2002), Hình thành đồng bộ hệ thống chính sách kinh tế vĩ
mô thúc đẩy CNH, HĐH, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia.
20. Phạm Tất Dong (2001), Định hướng phát triển đội ngũ trí thức Việt Nam
trong CNH, HĐH, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia.
21. Phan Xuân Dũng - Hồ Thị Mỹ Duệ (2006), Đổi mới quản lý và hoạt động
các tổ chức khoa học và công nghệ theo cơ chế doanh nghiệp, Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia.
22. Trần Thái Dương (2004), Chức năng kinh tế của Nhà nước - Lý luận và thực
tiễn ở Việt Nam hiện nay, Nhà xuất bản Công an nhân dân.
204
23. Đảng cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VI, NXB Sự thật.
24. Đảng cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VII, Nhà xuất bản Sự thật.
25. Đảng cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị ban Chấp hành Trung
ương lần thứ 7 khoá VII, Nhà xuất bản Sự thật.
26. Đảng cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia.
27. Đảng cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia.
28. Đảng cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia.
29. Ngô Văn Điểm (2004), Toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế của
Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia.
30. Nguyễn Điền (1996), “Công nghiệp hoá nông nghiệp và nông thôn ở Đài
Loan”, Tạp chí Nghiên cứu Trung quốc, Số 4 (3), tr 65.
31. Đỗ Đức Định (1991), Nhà nước trong kinh tế thị trường các nước đang phát
triển châu Á, Nhà xuất bản Khoa học xã hội.
32. Đỗ Đức Định (1999), Công nghiệp hoá, hiện đại hoá: Phát huy lợi thế so sánh -
Kinh nghiệm của các nền kinh tế đang phát triển ở châu Á, Nhà xuất bản Chính
trị quốc gia.
33. Đỗ Đức Định (1999), Một số vấn đề về chiến lược công nghiệp hoá và lý
thuyết phát triển, Nhà xuất bản Thế giới.
34. Đỗ Đức Định (2004), Kinh tế học phát triển về công nghiệp hoá và cải cách
nền kinh tế, Nxb Chính trị quốc gia.
205
35. Phạm Minh Hạc (2001), Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực đi vào
CNH, HĐH, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia.
36. Lương Việt Hải (2001), Hiện đại hoá xã hội một số vấn đề lý luận và thực
tiễn, Nhà xuất bản Khoa học xã hội.
37. Dương Phú Hiệp - Vũ Văn Hà (2001), Toàn cầu hoá kinh tế, Nhà xuất bản
Khoa học xã hội.
38. Phạm Duy Hiển (2005), “Khoa học Việt Nam đang ở đâu”, Thời báo kinh tế
Sài Gòn, số 48 - 2005.
39. Đặng Hữu (2001), Phát triển kinh tế tri thức rút ngắn quá trình CNH, HĐH,
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia.
40. Phạm Khiêm Ích - Nguyễn Đình Phan (1994), Công nghiệp hoá và hiện đại
hoá ở Việt Nam và các nước trong khu vực, Nhà xuất bản Thống kê.
41. Nguỵ Kiệt - Hạ Diệu (1993), Bí quyết cất cánh của bốn con rồng nhỏ, Nhà
xuất bản Chính trị quốc gia.
42. Kỷ yếu hội thảo quốc gia (2003), Thương mại Việt Nam trong tiến trình hội
nhập kinh tế quốc tế, Nhà xuất bản Thống kê.
43. Trần Quang Lâm - An Như Hải (2006), Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ở
Việt Nam hiện nay, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia.
44. Phạm Văn Linh (2003), “Giải pháp phát triển kinh tế nhanh hơn trong năm
2003”, Tạp chí Cộng sản, số 1+2 tháng 1- 2003.
45. Đặng Thị Loan - Lê Du Phong - Hoàng Văn Hoa (2006), Kinh tế Việt Nam
20 năm đổi mới (1986-2006): Thành tựu và những vấn đề đặt ra, Nhà xuất
bản Đại học Kinh tế quốc dân.
46. Hoàng Thị Bích Loan (2002), Công ty xuyên quốc gia của các nền kinh tế
công nghiệp mới châu Á, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia.
206
47. Phạm Ngọc Long (1996), “Tương quan vốn đầu tư trong nước và nước
ngoài”, Tạp chí nghiên cứu kinh tế, số 6 - 1996.
48. Đặng Danh Lợi (2003), “Kinh tế tư nhân Việt Nam: Những thuận lợi khó
khăn trong quá trình phát triển”, Tạp chí Phát triển kinh tế, Số 04/2003.
49. Nguyễn Thị Luyến (1998) (chủ biên), CNH, HĐH: Những bài học thành
công của Đông Á, Viện kinh tế thế giới.
50. Nguyễn Thị Luyến (2005) (chủ biên), Nhà nước với phát triển kinh tế tri
thức trong bối cảnh toàn cầu hoá, Nhà xuất bản Khoa học xã hội.
51. Võ Đại Lược (1998), “Từ mô hình công nghiệp hoá cổ điển tới mô hình công
nghiệp hoá theo hướng hội nhập quốc tế”, Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế
giới, Số 4 (54) tháng 8/1998.
52. Võ Đại Lược (1999), Những xu hướng phát triển của thế giới và sự lựa chọn
mô hình công nghiệp hoá của nước ta, Nhà xuất bản Khoa học xã hội.
53. Bùi Xuân Lưu - Nguyễn Hữu Khải (2006), Giáo trình kinh tế ngoại thương,
Nhà xuất bản Lao động - xã hội.
54. Đinh Hiền Minh (2006), “Tăng trưởng kinh tế và cơ cấu kinh tế Việt Nam
trong năm 2006”, Tạp chí Quản lý kinh tế, số 12 tháng 1+2 năm 2007, tr 68.
55. Nguyễn Khắc Minh (2005), Ảnh hưởng của tiến bộ công nghệ đến tăng
trưởng kinh tế, Nhà xuất bản Khoa học và kỹ thuật.
56. Đỗ Hoài Nam (2004), Một số vấn đề về CNH, HĐH ở Việt Nam, Nhà xuất
bản Khoa học xã hội.
57. Ngân hàng thế giới (2002), Suy ngẫm lại sự thần kỳ Đông Á, Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia.
58. Lê Hữu Nghĩa (2000), “Vấn đề toàn cầu hoá kinh tế và sự chủ động hội nhập
của Việt Nam”, Tài liệu tập huấn hè 8-2000 tại Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh, tập II.
207
59. Lê Hữu Nghĩa (2006), “Bàn về vai trò thúc đẩy tăng trưởng và phát triển theo
hướng bền vững của các khu chế xuất, khu công nghiệp ở Việt Nam”, Tạp
chí Cộng sản, số 14 tháng 7-2006.
60. Hoàng Thị Thanh Nhàn (2003) (chủ biên), Điều chỉnh cơ cấu kinh tế ở Hàn
Quốc, Malaixia và Thái Lan, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia.
61. Trần Nhâm (1997), Có một Việt Nam như thế đổi mới và phát triển, Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia.
62. Lê Du Phong (2006) (chủ biên): Nguồn lực và động lực phát triển trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Nhà xuất bản Lý
luận chính trị.
63. Trì Điền Triết Phu - Hồ Hân (1997), Đài Loan nền kinh tế siêu tốc và bức
tranh cho thế kỷ sau, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia.
64. Lê Hồng Phục - Đỗ Đức Định (1988), Các mô hình công nghiệp hóa:
Xinhgapo, Nam Triều Tiên, Ấn Độ, Viện kinh tế thế giới.
65. Nguyễn Trần Quế (2000) (chủ biên), Lựa chọn sản phẩm và thị trường trong
ngoại thương thời kỳ công nghiệp hoá của các nền kinh tế Đông Á, Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia.
66. Phạm Thái Quốc (1997), Kinh tế Đài Loan tình hình và chính sách, Nhà xuất
bản Khoa học xã hội.
67. Lương Xuân Quỳ (2006) (chủ biên), Quản lý nhà nước trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Nhà xuất bản Lý luận chính
trị.
68. Nguyễn Huy Quý (1980), Kỳ tích kinh tế Đài Loan, Nhà xuất bản Sự thật.
69. Phạm Thị Quý (2002), Chuyển đổi mô hình kinh tế ở Việt Nam - Thực trạng
và kinh nghiệm, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia.
208
70. Đỗ Tiến Sâm (2007) (chủ biên), Báo cáo phát triển Trung Quốc – Tình hình
và triển vọng, Nhà xuất bản Thế giới.
71. Li Tan (2008), Nghịch lý của chiến lược đuổi kịp – Tư duy lại mô hình phát
triển kinh tế dựa vào nhà nước, Nhà xuất bản Trẻ.
72. Lê Bàn Thạch - Trần Thị Tri (2000), Công nghiệp hoá ở NIEs Đông Á và bài
học kinh nghiệm đối với Việt Nam, Nhà xuất bản Thế giới.
73. Bùi Tất Thắng (2006) (chủ biên), Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt
Nam, Nhà xuất bản Khoa học xã hội.
74. Trần Văn Thọ (1997), Công nghiệp hoá Việt Nam trong thời đại châu Á -
Thái Bình dương, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh.
75. Trần Văn Thọ - Nguyễn Ngọc Đức - Nguyễn Văn Chỉnh - Nguyễn Quán
(2000), Kinh tế Việt Nam 1955 - 2000 - Tính toán mới, phân tích mới, Nhà
xuất bản Thống kê.
76. Trần Văn Thọ (2005), Biến động kinh tế Đông Á và con đường công nghiệp
hoá Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia.
77. Võ Thanh Thu (2003), Quan hệ kinh tế quốc tế, Nhà xuất bản Thống kê.
78. Nguyễn Văn Thuỵ (1994), Một số vấn đề về chính sách phát triển khoa học
và công nghệ, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia.
79. Bùi Sĩ Tiếu (2007), “Phát triển khoa học, công nghệ, thúc đẩy quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế”, Tạp chí Cộng sản, số 774 tháng 4/2007.
80. Lê Văn Toàn - Trần Hoàng Kim - Phạm Huy Tú (1992), Kinh tế NICs Đông
Á kinh nghiệm đối với Việt Nam, Nhà xuất bản Thống kê.
81. Tổng cục Thống kê: Tổng quan về xuất nhập khẩu của Việt Nam trong 20
năm đổi mới.
82. Tần Ngôn Trước (2001), Thời đại kinh tế tri thức, Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia.
209
83. Nguyễn Anh Tuấn (2006), “Chuyển giao công nghệ qua đầu tư trực tiếp
nước ngoài ở Việt Nam những năm qua”, Tạp chí Cộng sản, số 18 tháng
9/2006.
84. Vũ Quốc Tuấn - Hoàng Thu Hà (2001), Phát triển DNVVN: Kinh nghiệm
nước ngoài và phát triển DNVVN ở Việt Nam, Nhà xuất bản Thống kê.
85. Viện Chiến lược phát triển - Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2002), Một số vấn đề lý
luận, phương pháp luận phương pháp xây dựng chiến lược và quy hoạch
phát triển kinh tế Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia.
86. Viện Konrad Adenauer (2005), Vai trò của DNVVN trong nền kinh tế Kinh
nghiệm trong nước và quốc tế, Nhà xuất bản Thế giới.
87. Viện Kinh tế thế giới (1989), Các nước công nghiệp mới, Nhà xuất bản Khoa
học xã hội.
88. Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (2003), Kinh tế Việt Nam 2002,
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia.
Tiếng Anh
89. Aberbach, Jocl D, (1994), The Role of the State in Taiwan's Development,
London: An East Gate Book, ISBN 1-56324-325-4.
90. Council for Economic Planning and Development, Republic of China,
Taiwan Statistical Data Book, 2004.
91. Dahlman, Carl, and Ousa Sananikone (1997), “Taiwan, China: Policies and
Institutions for Rapid Growth”, In Danny M. Leipziger, ed, Lessons from
East Asia, Ann Arbor: University of Michigan Press.
92. Haggard, Stephen (1999), “Governance and Growth: Lessons from the Asean
Economic Crisis”, Asia Pacific Economic Literature 13 (November): 30 - 42.
93. Krugman, Paul & Obstfeld, Maurice (2003), International Economics:
Theory and Policy, Elm Street Publishing Services, Inc.
210
94. Liu, David (2004), Taiwan Economic Miracle, Lessons for Developing
Countries, Conference on Taiwan & Vietnam Global E-logistical
management, 11 - 2004.
95. Nguyen Khac Minh - Giang Thanh Long: Technical Efficiency and
Productivity Growth in Vietnam, The Publishing House of Social Labour.
96. Wade, Robert (1988), “State Intervention in “Outward-looking”
Development: Neoclassical Theory and Taiwanese Practice”, In Gordon
White, ed., Development States in East Asia, New York: Macmillan Press.
97. Wade, Robert (1990), Governing the Market: Economic Theory and the Role
of Government in East Asian Industrialization, Priceton University Press, p
65.
98. World Bank (1993), The East Asian Miracle: Economic Growth and Public
Policy, New York: Oxford University Press.
Các Web sites:
www.vietnamnet.vn; www.vnexpress.net; www.thanhnien.com.vn;
www.mof.gov.vn; www.mot.gov.vn; www.tuoitre.com.vn; www.vir.com.vn;
www.nhandan.com.vn; www.vneconomy.vn; www.taiwanheadline.gov.tw;
www.chinhphu.gov.vn; www.laodong.com.vn;
211
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Cơ cấu chi tiêu chính phủ Đài Loan
Năm
Tổng
số
Hành
chính
Quốc
phòng
Giáo dục,
Khoa học
và văn hoá
Phát
triển
kinh tế
An
sinh xã
hội
Nghĩa
vụ
Khác
1960 100.0 11.7 49.4 13.6 14.0 6.9 0.1 4.3
1965 100.0 12.8 41.0 12.5 19.1 7.6 4.3 2.7
1970 100.0 13.4 37.3 16.9 18.6 10.0 1.6 2.1
1975 100.0 15.7 24.5 16.8 30.3 10.2 0.8 1.7
1980 100.0 9.4 30.3 15.5 32.0 11.2 0.5 1.0
1981 100.0 9.9 24.6 17.7 34.1 12.0 0.4 1.2
1982 100.0 10.3 24.6 17.9 30.3 14.7 0.5 1.7
1983 100.0 11.1 27.4 19.7 24.7 15.5 0.9 0.8
1984 100.0 10.6 24.4 19.5 27.4 16.2 1.1 0.9
1985 100.0 11.3 24.8 20.4 25.3 16.2 1.1 0.9
1986 100.0 11.4 24.9 20.9 25.1 16.1 0.9 0.8
1987 100.0 11.2 23.2 20.8 26.7 16.1 1.1 0.9
1988 100.0 11.0 22.1 20.3 26.5 18.2 1.1 0.8
1989 100.0 8.1 15.6 17.0 44.8 12.7 0.9 1.0
1990 100.0 11.5 19.2 20.7 27.5 18.6 1.5 1.0
1991 100.0 12.0 17.8 22.6 25.2 18.8 2.6 1.0
1992 100.0 12.7 15.3 20.8 29.6 18.8 2.2 0.7
1993 100.0 11.9 14.4 19.9 31.1 18.2 3.6 0.8
1994 100.0 11.8 17.6 20.9 25.6 19.2 4.1 0.6
1995 100.0 11.6 14.1 18.7 22.9 21.7 10.2 0.6
1996 100.0 13.2 15.5 20.3 17.9 26.9 5.8 0.5
1997 100.0 13.0 15.5 20.0 15.7 28.9 6.2 0.7
1998 100.0 12.9 15.7 20.7 16.8 27.4 5.8 0.8
1999 100.0 13.6 14.0 20.9 17.1 26.9 6.9 0.6
2000 100.0 14.9 11.4 20.9 15.1 28.7 8.6 0.4
2001 100.0 14.5 10.9 18.9 17.6 30.0 7.6 0.6
2002 100.0 15.2 10.5 20.4 18.9 26.4 8.0 0.6
2003 100.0 15.0 10.3 20.9 18.3 27.6 7.2 0.5
2004 100.0 14.9 11.1 20.6 19.0 27.4 6.2 0.6
2005 100.0 14.9 10.8 20.4 20.2 27.4 5.7 0.7
Nguồn: Council for Economic Planning and Development, Republic of
China, Taiwan Statistical Data Book, 2007.
212
Phụ lục 2: Chi tiêu cho R&D phân theo loại hình ở Đài Loan
Đơn vị tính: triệu NT$, %
Tổng số
Nghiên cứu cơ
bản
Nghiên cứu ứng
dụng
Phát triển thực
nghiệm Năm
Giá trị % Giá trị % Giá trị % Giá trị %
1992 94.828 100 10.999 11,6 34.744 36,6 49.085 51,8
1993 103.617 100 12.887 12,4 37.523 36,2 53.207 51,3
1994 114.682 100 15.714 13,7 40.809 35,6 58.159 50,7
1995 125.031 100 15.311 12,2 35.906 28,7 73.814 59,0
1996 137.955 100 15.223 11,0 41.463 30,1 81.269 58,9
1997 156.321 100 15.715 10,1 47.444 30,4 93.162 59,6
1998 176.455 100 17.886 10,1 55.001 31,2 103.569 58,7
1999 190.520 100 20.115 10,6 60.253 31,6 110.153 57,8
2000 197.613 100 20.462 10,4 59.288 30,0 117.880 59,6
2001 204.974 100 22.143 10,8 59.914 29,2 122.917 60,0
2002 224.428 100 24.725 11,0 60.399 26,9 139.305 62,1
Nguồn: Republic of China (1992-2004), Taiwan Statistical Data Book.
Taipei: Council for Economic Planning and Development, p. 125.
213
Phụ lục 3: Kim ngạch một số sản phẩm xuất khẩu chủ yếu của Đài Loan
Đơn vị tính: Triệu USD
Tổng kim ngạch
Các sản phẩm
điện tử
Các sản phẩm công nghệ
thông tin và viễn thông
1996 115.942 16.632 12.546
1997 122.081 18.024 14.442
1998 110.582 16.901 13.758
1999 121.591 21.833 15.142
2000 148.321 31.674 19.562
2001 122.866 23.601 15.668
2002 130.597 25.838 16.039
2003 144.180 31.158 14.057
Nguồn: Republic of China (1992-2004), Taiwan Statistical Data Book.
Taipei: Council for Economic Planning and Development, p. 8.
214
Phụ lục 4: Một số sản phẩm của Đài Loan đứng số 1 thế giới năm 2002*
Giá trị Sản lượng
Sản phẩm
Giá trị
(triệu
USD)
Thị phần của
Đài Loan trong
thị trường toàn
cầu (%)
Số lượng
sản phẩm
(1000
đơn vị)
Thị phần của
Đài Loan trong
thị trường toàn
cầu (%)
1. Máy tính xách tay
2. Mạng không dây
3. Môđem băng thông
rộng
4. Cáp Môđem
5. Mạch tích hợp Foundry
6. Vật liệu mạch
7. Bộ định tuyến**
8. Màn hình LCD
9. Ổ đĩa quang
10. Bo mạch chủ
11. Ổ ghi đĩa quang
12. Các giao diện mạng
13. Hub
14. ABS Copolymer
15. Sợi quang
13.922
619
610
300
7.256
2.788
629
5.646
3.146
5.636
1.145
204
145
994
350
56
30
45
34
73
32
8
59
40
72
83
25
39
11
31
18.196
13.482
10.400
5.766
…
9.066.000
8.514
18.254
79.409
86.551
5.762.000
24.225
31.697
1.078
470.000
61
80
65
53
…
48
51
60
45
65
85
67
62
23
37
Nguồn: Industrial Development Bureau, Ministry of Economics Affairs,
R.O.C., Taiwan Statistical Data Book 2004. (Ghi chú: *Chỉ xét theo giá trị sản
xuất; **Đứng thứ nhất xét theo số lượng sản phẩm sản xuất).
215
Phụ lục 5: Tỷ lệ sinh viên, học viên học nghề trong lứa tuổi đại học trong
tổng dân số ở một số nước châu Á, 1996 (%)
Sinh viên đại học Học nghề
Quốc gia và
vùng lãnh
thổ
Trong lứa
tuổi đại
học
Lĩnh vực
KH&CN /tổng
số sinh viên
Lĩnh vực kỹ
thuật /tổng dân
số
Lĩnh vực kỹ
thuật /tổng dân
số
Hồng Kông 20 0,50 0,25 0,79
Hàn Quốc 40 0,96 0,58 1,93
Nhật Bản 31 0,43 0,37 1,17
Malaixia 07 0,15 0,07 0,17
Đài Loan 37 0,92 0,68 2,12
Nguồn: Foreign Direct Investment and Productivity Growth in Malaysia,
UKM, 1997, p. 27.
216
Phụ lục 6: Tỷ trọng các ngành kinh tế trong GDP (%) của Đài Loan
Năm Nông nghiệp Công nghiệp Dịch vụ
1970
1980
1990
1995
2003
15,5
7,7
4,2
3,5
1,8
41,3
45,8
42,3
36,3
30,4
43,2
46,5
53,5
60,2
67,8
Nguồn: Lê Văn Toàn - Trần Hoàng Kim - Phạm Huy Tú, Kinh tế NICs
Đông Á kinh nghiệm đối với Việt Nam. NXB Thống kê, Hà nội 1992, tr. 21;
Republic of China (1992-2004), Taiwan Statistical Data Book. Taipei: Council
for Economic Planning and Development, p. 54.
217
Phụ lục 7: Tỷ trọng xuất khẩu của Việt Nam sang các châu lục (%)
1986-1990 1991-1995 1996-2000 2001-2005
Châu Á 30,4 73,1 61,9 50,9
Châu Âu 51,7 15,6 23,9 20,7
Châu Mỹ 1,0 2,6 5,9 18,9
Tổng số 100 100 100 100
Nguồn: Tổng cục Thống kê: Tổng quan về xuất nhập khẩu của Việt Nam
trong 20 năm đổi mới.
218
Phụ lục 8: Cơ cấu hàng nhập khẩu Việt Nam phân theo ngành hàng
giai đoạn (2004 - 2006)
Tỷ trọng (%) Tăng trưởng (%)
2004 2005 2006 2004 2005 2006
Tổng giá trị xuất khẩu 100 100 100 27,8 15,7 20,1
Các sản phẩm dầu 11,2 13,6 13,2 20,7 40,6 22,3
Hàng hoá cuối cùng
Máy móc và thiết bị 16,4 14,3 14,8 41,3 0,6 24,1
Máy tính và hàng điện tử 4,2 4,6 4,6 46,7 27,1 20,4
Nguyên liệu thô và trung gian
Dược phẩm 1,3 1,4 1,2 16,8 22,5 9,0
Sắt và thép - 7,9 6,5 24,2 13,9 -0,9
Vải 6,0 6,5 6,7 37,0 24,5 23,1
Nguyên liệu da và dệt may 7,0 6,2 4,4 1,4 1,3 -14,1
Nhựa 3,7 3,9 4,2 21,5 22,2 26,8
Ô tô (CKD/IKD) 2,0 2,5 1,6 45,6 40,5 -34,7
Hoá chất 2,1 2,3 2,3 25,6 26,7 18,6
Các sản phẩm hoá chất 2,2 2,3 2,3 20,7 19,2 19,0
Phân bón 2,6 2,7 1,5 31,6 -22,2 5,1
Giấy 0,8 1,0 1,1 19,3 46,1 30,5
Sợi 1,1 0,9 1,1 -5,2 0,2 60,3
Thuốc trừ sâu 0,7 0,7 0,7 2,0 15,9 22,8
Bông 0,6 0,5 0,5 8,8 -12,1 34,1
Nguồn: Tổng cục Thống kê và Tổng cục Hải quan
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA0633.pdf