Phần I : Mở đầu
Ngân sách nhà nước (NSNN) đóng một vai trò vô cùng quan trọng không chỉ đối với sự phát triển kinh tế nước ta mà còn đối với bất kỳ quốc gia nào trên thế giới. các cường quốc kinh tế trên thế giới đều có một chính sách thu ổn định, đồng thời chi tiêu ngân sách hợp lý. Điều này thể hiện tầm quản lý vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước.
Đối với Việt Nam, hiện nay nguồn thu NSNN còn rất nhiều hạn chế và tình trạng thường xuyên của NSNN là thâm hụt, chi luôn vượt quá thu khá nhiều.
V
21 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 3177 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Vai trò của Ngân sách nhà nước đối với sự phát triển kinh tế ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ậy vai trò của NSNN đối với sự phát triển kinh tế của đất nước như thế nào ? Điều này đã khiến em chọn nghiên cứu đề tài “Vai trò của NSNN đối với sự phát triển kinh tế ở Việt Nam “.
Phần II : Nội Dung
1.Khái niệm về NSNN
Trong hệ thống tài chính thống nhất, NSNN là khâu tài chính tập trung giữ vị trí chủ đạo. NSNN cũng là khâu tài chính được hình thành sớm nhất, nó ra đời, tồn tại và phát triển gắn liền với sự ra đời của hệ thống quản lý nhà nước và sự phát triển của kinh tế hàng hoá, tiền tệ. Song quan niệm về NSNN thì lại chưa được thống nhất.
Theo quan niệm của những nhà nghiên cứu kinh tế cổ điển, NSNN là một văn kiện tài chính, mô tả các khoản thu và chi cuả chính phủ, được thiết lập hàng năm.
Các nhà kinh tế học hiện đại cũng đưa ra nhiều định nghĩa. Các nhà kinh tế Nga cho rằng: NSNN là bảng liệt kê các khoản thu, chi bằng tiền trong một giai đoạn nhất định của Nhà nước.
Luật NSNN đã được nước CHXHCN Việt Nam khoá IX, kỳ họp thứ 9 thông qua tháng 3 năm 1996 ghi: NSNN là toàn bộ các khoản thu chi của nhà nước trong dự toán đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng nhiệm vụ của Nhà nư ớc.
2.Thu nhập của NSNN
Xét về mặt nội dung kinh tế, thu NSNN chứa đựng các quan hệ phân phối nảy sinh trong quá trình Nhà nước dùng nguồn lực chính trị để tập trung một bộ phận tổng sản phẩm quốc dân để hình thành quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước.
Trong bất cứ xã hội nào, cơ cấu các khoản thu ngân sách đều gắn liền với chức năng, nhiệm vụ và quyền lực chính trị của Nhà nước. Một đặc trưng khác thu NSNN luôn gắn chặt với quá trình kinh tế và các phạm trù chính trị.
Thu NSNN gồm:
1. Thuế do các tổ chức, cá nhân nộp theo quy định của pháp luật.
2. Phần nộp ngân sách Nhà nước theo quy định của pháp luật từ các khoản phí, lệ phí.
3. Các khoản thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước theo quy định của pháp luật.
4. Phần nộp ngân sách theo quy định của pháp luật từ các hoạt động sự nghiệp.
5. Tiền sử dụng đất, thu từ hoa lợi công sản và đất công ích.
6. Tiền cho thuê đất, thuê mặt nước.
7. Huy động từ các tổ chức, cá nhân, theo quy định của pháp luật.
8. Các khoản đóng góp tự nguyện của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước.
9. Thu từ huy động vốn đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng theo quy định tại khoản 3 Điều 8 của Luật NSNN.
10. Phần nộp NSNN theo quy định của pháp luật từ tiền bán hoặc cho thuê tài sản thuộc sở hữu Nhà nước.
11. Các khoản viện trợ không hoàn lại của Chính phủ các nước, các tổ chức, cá nhân ở ngoài nước cho Chính phủ Việt Nam, các tổ chức Nhà nước thuộc địa phương.
12. Thu từ quỹ dự trữ tài chính.
13. Thu kết dư ngân sách năm trước.
14. Các khoản thu khác theo quy định của pháp luật.
3.Chi tiêu của NSNN
Chi của NSNN là quá trình phân phối, sử dụng quỹ NSNN theo những nguyên tắc nhất định cho việc thực hiện các nhiệm vụ của Nhà nước.
Thực chất chi NSNN chính là việc cung cấp các phương tiện tài chính cho các nhiệm vụ của Nhà nước. Song việc cung cấp này cũng có những đặc thù riêng.
Thứ nhất, chi NSNN luôn gắn chặt với những nhiệm vụ kinh tế chính trị xã hội mà chính phủ của mỗi quốc gia phải đảm nhiệm. Mức độ, phạm vi chi tiêu của NSNN phụ thuộc vào tính chất, nhiệm vụ của chính phủ trong mỗi thời kỳ.
Thứ hai, tính hiệu quả của việc chi tiêu NSNN được thể hiện ở tầm vĩ mô và mang tính toàn diện cả về hiệu quả kinh tế trực tiếp, hiệu quả về mặt xã hội và chính trị, ngoại giao. Chính vì vậy, trong công tác quản lý tài chính, một yêu cầu đặt ra là, khi xem xét, đánh giá về các khoản chi NSNN, cần phải sử dụng tổng hợp các chỉ tiêu định tính và các chỉ tiêu định lượng, đồng thời phải có quan điểm toàn diện và đánh giá tác động , ảnh hưởng của các khoản chi đó ở tầm vĩ mô.
Thứ ba, xét về mặt tính chất, phần lớn các khoản chi NSNN đều là các khoản cấp phát không hoàn trả trực tiếp và mang tính bao cấp. Chính vì vậy các nhà Quản lý Tài chính cần phải có sự phân tích, tính toán cẩn thận trên nhiều khía cạnh trước khi đưa ra các quyết định chi tiêu để tránh được nhưng lãng phí không cần thiết và nâng cao hiệu quả NSNN.
Trong các nền kinh tế thị trường và nước ta hiện nay, cách phân loại nội dung chi tiêu NSNN theo tính chất kinh tế của các khoản chi được sử dụng phổ biến. Đây cũng là cách phân loại quan trọng nhất, nó trình bày nội dung chi tiêu của chính phủ để qua đó người ta nhận rõ và phân tích – đánh giá những chính sách , chương trình của chính phủ thông qua các kinh phí để thực hiện các chương trình, chính sách đó.
Theo tính chất kinh tế, chi NSNN được chia ra các nội dung sau đây:
1. Chi thường xuyên
2. Chi cho đầu tư phát triển 3. Trả nợ gốc tiền do Chính phủ vay. 4. Bổ sung quỹ dự trữ tài chính. 5. Bổ sung cho ngân sách cấp tỉnh.
4. Hệ thống phân cấp NSNN
4.1. Hệ thống tổ chức
Nhìn chung ở các nước trên thế giới, hệ thống ngân sách Nhà nước đều được tổ chức phù hợp với hệ thống hành chính theo luật cơ bản quy định. Có hai loại mô hình tổ chức hành chính là mô hình Nhà nước liên bang và mô hình Nhà nước thống nhất.
+ Mô hình liên bang (Mỹ, Đức...):
Theo mô hình này, hệ thống NSNN được tổ chức thành 3 cấp: Ngân sách liên bang, ngân sách bang và ngân sách địa phương.
+ Mô hình Nhà nước thống nhất:
Theo mô hình này ngân sách Nhà nước gồm ngân sách Trung ương và ngân sách của các cấp chính quyền địa phương. Ở Việt Nam, theo Hiến pháp 1992, quy định có 4 cấp hành chính là Trung ương, tỉnh, huyện, xã. Việc phân cấp này, trước hết đã tạo ra hiệu lực quản lý hơn, hiệu lực và đáp ứng tốt hơn nhu cầu của địa phương, thứ hai là tạo ra tinh thần cạnh tranh trong việc cung cấp dịch vụ cho người dân.
Ngân sách Nhà nước ta là một thể thống nhất bao gồm toàn bộ các khoản thu và chi của Nhà nước trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước. Sự thống nhất này có khác với các nước ở chỗ: Dự toán ngân sách và quyết toán ngân sách hàng năm trình Quốc hội là bao gồm các khoản thu chi của Ngân sách Trung ương và Ngân sách địa phương.
4.2.Ý nghĩa của phân cấp:
Phân cấp ngân sách, thực chất là giải quyết tất cả mối quan hệ giữa chính quyền Nhà nước Trung ương với các cấp chính quyền địa phương và liên quan tới hoạt động của NSNN. Phân cấp NSNN giải quyết mối quan hệ này cần làm rõ: Mỗi cấp cơ quan Nhà nước có quyền ban hành những loại chế độ, chính sách, định mức nào liên quan đến hoạt động NSNN, thứ hai là giải quyết các quan hệ trong việc phân chia nhiệm vụ chi và nguồn thu cũng như trong cân đối ngân sách của các cấp cơ quan Nhà nước. Đây chính là nội dung quan trọng nhất của hệ thống phân cấp NSNN.
5. Vai trò của NSNN
Đối với Nhà nước
NSNN là nguồn tài chính để duy trì sự tồn tại của bộ máy nhà nước, giúp cho nhà nước thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Trong cơ chế thị trường, NSNN được nhà nước sử dụng làm công cụ quan trọng để điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế xã hội. Đây là vai trò tất yếu và quan trọng của NSNN ở mọi thời đại và mọi mô hình kinh tế.
Đối với sự ổn định của nền kinh tế
Quan trọng là kiềm chế lạm phát, ổn định công ăn việc làm và đảm bảo công bằng xã hội. Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, giá cả chủ yếu phụ thuộc vào quan hệ cung cầu. Vì vậy để ổn định giá cả, chính phủ có thể tác động vào cung hoặc cầu hàng hoá trên thị trường thông qua chính sách thuế và chính sách chi tiêu của NSNN. Chính phủ sử dụng NSNN nhằm khống chế lạm phát một cách có hiệu quả thông qua việc thực hiện chính sách thắt chặt Ngân sách, tức là cắt giảm các khoản chi, chống tình trạng bao cấp, lãng phí trong chi tiêu, giảm thuế đầu tư.....Bên cạnh đó chính phủ có thể phát hành công cụ nợ, vay nhân dân để bù đắp thiếu hụt NSNN, góp phần to lớn vào việc làm giảm tốc độ lạm phát trong nền kinh tế mở.
Điều chỉnh cơ cấu kinh tế
Nhờ NSNN nhà nước có thể điều chỉnh được cơ cấu kinh tế bằng cách dùng vốn của mình để tăng cường đầu tư, chi tiêu vào các ngành, lĩnh vực cần thúc đẩy phát triển. Ví dụ hiện nay chúng ta đang dần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, đó là tăng tỷ trọng của công nghiệp và dịch vụ trong đóng góp vào GDP và giảm tỷ trọng của nông nghiệp.
Tăng trưởng kinh tế
Trước đây, trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, cùng với việc nhà nước can thiệp trực tiếp vào hoạt động sản xuất kinh doanh, vai trò của NSNN trong việc điều hành các hoạt động hết sức thụ động. NSNN chỉ là một cái túi đựng sổ thu, rồi thực hiện bao cấp tràn lan như: cấp vốn cố định, cấp bù lỗ, bù giá.....Chuyển sang cơ chế thị trường , Nhà nước định hướng đổi mới cơ cấu kinh tế, kích thích phát triển sản xuất và chống độc quyền, thực hiện thông qua chính sách thuế và chính sách chi tiêu của Ngân sách chính phủ, vừa kích thích vừa gây sức ép, nhằm kích thích tăng trưỏng kinh tế.
Tạo sự phát triển về mặt xã hội
Tập trung vào các lĩnh vực như văn hoá giáo dục, y tế, phúc lợi xã hội. Trong việc giải quyết các vấn đề xã hội, Nhà nước đã trợ giúp trực tiếp cho những người có thu nhập thấp hoặc có hoàn cảnh đặc biệt như chi trợ cấp xã hội, trợ giá cho các mặt hàng thiết yếu, chi thực hiện chính sách dân số, chính sách việc làm, chống mù chữ, chống thiên tai dịch bệnh... Bên cạnh các khoản chi này, thuế cũng được sử dụng để thực hiện vai trò tái phân phối thu nhập, đảm bảo công bằng xã hội. Trong điều kiện kinh tế nước ta với nguồn thu còn hạn hẹp mà nhu cầu chi tiêu lại quá lớn. Vì vậy việc chi tiêu NSNN đòi hỏi phải tiết kiệm, sử dụng có hiệu qủa, chi đúng đối tượng cho các vấn đề xã hội là việc đáng quan tâm.
6. Hoạt động của NSNN ở Việt Nam
6.1 Thực trạng hoạt động NSNN và tác động tới nền kinh tế Việt Nam
Trên nền tảng nhận thức trong giai đoạn cuối những năm 70, đầu những năm 80 của thế kỷ XX “ nền kinh tế - xã hội nước ta đã lâm vảo khủng hoảng trầm trọng” và “chúng ta chưa có chính sách cơ bản về tài chính đúng đắn về giá cả, tiền tệ - tín dụng, tiền lương… chưa tập trung những nguồn thu quan trọng vào ngân sách và phân phối đúng các nguồn vốn vật tư, hàng hoá có trong tay. Các khoản chi của ngân sách mang nặng tính bao cấp và trong một thời gian dài vượt quá nguồn thu.Việc sử dụng các nguồn vốn vay và viện trợ kém hiệu quả. Chúng ta đã tiêu dùng cả một phần quan trọng nguồn vốn từ bên ngoài và quỹ khấu hao cơ bản. Tất cả những cái đó gây ra thâm hụt ngân sách, là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến lạm phát trầm trọng. Việc giải quyết vấn đề giá, lương, tiền đã phạm sai lầm.
Giai đoạn 1976-1985 tăng trưởng kinh tế chỉ đạt 3,7%/năm, ngân sách ở tình trạng thâm hụt nặng nề và phụ thuộc vào bên ngoài. Tỷ trọng thu nội địa trong tổng thu NSNN chỉ chiếm 60-80%, còn lại là vay nợ và viện trợ. Chi ngân sách mang tính bao cấp, kế hoạch hoá tập trung, phân phối theo kiểu cào bằng nên làm mất động lực phát triển sản xuất kinh doanh, gây lãng phí và hiệu quả thấp. Đặc trưng của thời kì này là NSNN đóng vai trò nhà phân phối theo kế hoạch, đồng thời là quỹ chung cho khu vực kinh tế Nhà nước: mọi khoản thu đều nộp vào ngân sách kể cả phần lớn lợi nhuận nếu có của doanh nghiệp, nếu thua lỗ sẽ được bù đắp từ ngân sách bằng các biện pháp trực tiếp và gián tiếp Chi ngân sách tập trung cho khu vực DNNN và xây dựng các cơ sở công nghiệp nặng. Kết quả là phải phát hành tiền để bù đắp thâm hụt ngân sách, đẩy lạm phát lên cao đi đôi với hiệu quả sản xuất thấp làm cho nền kinh tế bắt đầu lún sâu vào khủng hoảng. Bên cạnh đó, suốt những năm 80, hệ thống ngân hàng vừa hoạt động như một ngân sách thứ hai (cung ứng tín dụng cho DNNN theo kế hoạch, chỉ tiêu), giữ vai trò thụ động và thiếu hoàn toàn khả năng kiểm soát, điều chỉnh tiền tệ, vĩ mô, vừa như một cỗ máy in tiền để bù đắp thâm hụt NSNN. Bình quân giai đoạn 1986-1990, 63% bội chi ngân sách được bù đắp bằng cách phát hành tiền.
Bảng 1: Thời kì đưa nền kinh tế thoát khỏi khủng hoảng (1986-1991)
Chỉ tiêu
1986
1987
1988
1989
1990
1991
Tốc độ tăng GDP (%)
6.5
3.4
4.6
2.7
5.1
6.0
CPI (%)
674.1
273.0
123.0
34.7
67.1
67.5
Thu NSNN (% GDP)
14.0
13.2
11.3
13.9
14.7
13.8
Chi NSNN (% GDP)
20.2
17.9
18.3
21.4
20.5
15.9
Thâm hụt (% GDP)
-6.2
-4.7
-7.0
-7.5
-5.8
-2.1
Nguồn : Viện nghiên cứu Tài Chính , 2000
Từ năm 1989, Chính phủ Việt Nam cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất việc phát hành tiền bù đắp thâm hụt ngân sách; nhận thức rõ không thể tiếp tục để thâm hụt ngân sách nặng nề cùng với việc định hướng lại căn bản chính sách chi tiêu NSNN, bắt tay cải cách triệt để hệ thống ngân sách.
Chúng ta đã từng bước đổi mới cơ chế tài chính đối với khu vực DNNN, hạn chế cơ chế ngân sách "mềm", thực hiện chuyển dần quyền tự chủ kinh doanh, tự hạch toán cho các doanh nghiệp này…Tuy nhiên, kết quả đạt được trong giai đoạn này rất hạn chế (tỷ lệ thâm hụt ngân sách so với GDP không giảm mà còn tăng lên, so với tổng chi ngân sách tăng từ 30,8% năm 1986 lên 46% năm 1989). Nguyên nhân chủ yếu là do kinh tế tăng trưởng chậm ảnh hưởng tới nguồn thu và cơ chế bao cấp còn rất nặng nề. Mục tiêu hàng đầu của giai đoạn 1986 - 1991 là kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đưa Việt Nam vượt qua khủng hoảng.
Các chính sách kinh tế tài chính - tiền tệ trong những năm 1989-1990 đã cải thiện được một bước quan trọng tình hình kinh tế vĩ mô, nhưng chưa vững chắc, nguy cơ mất ổn định trở lại còn rất lớn, đặc biệt khi các nước XHCN Đông Âu sụp đổ, nguồn tài trợ từ bên ngoài bị cắt giảm hoàn toàn. Vì vậy vấn đề ổn định được tiếp tục đặt ra một cách gay gắt. Mục tiêu lớn của chính sách tài khoá thời kì này tiếp tục lành mạnh hoá hệ thống NSNN, giảm và duy trì thâm hụt ngân sách ở mức hợp lý, từng bước tăng cường tiềm lực tài chính quốc gia, nâng cao căn bản hiệu quả quản lý, điều chỉnh ở tầm vĩ mô, tăng cường huy động các nguồn vốn cho đầu tư phát triển. Để đảm bảo cân đối ngân sách, Việt Nam đã tiếp tục cải cách cơ cấu chi, tăng thu. Chi NSNN đã tách được (tuy chưa hoàn toàn) tài chính nhà nước với tài chính doanh nghiệp, thực hiện cơ chế ngân sách “cứng” với đặc trưng là doanh nghiệp tự hạch toán kinh doanh, tự chịu cơ chế lỗ lãi trong các hoạt động sản xuất kinh doanh. Chính phủ giảm dần, tiến tới xoá bỏ bao cấp đối với các doanh nghiệp nên đã giảm đáng kể các khoản chi thường xuyên từ NSNN và cấp bù lỗ cho các doanh nghiệp (tuy nhiên tỷ lệ chi đầu tư XDCB từ NSNN vẫn tăng chậm so với yêu cầu). Bên cạnh đó, các DNNN được sắp xếp, tổ chức lại nên đã giảm tuyệt đối về số lượng (từ 12.500 năm 1990 xuống còn khoảng 6000 cuối năm 1995).
Bảng 2: Thời kì nền kinh tế tăng trưởng cao (1992-1997)
Chỉ tiêu
1992
1993
1994
1995
1996
1997
Tốc độ tăng GDP (%)
8.6
8.1
8.8
9.5
9.34
8.2
CPI (%)
17.5
5.2
14.4
12.7
4.5
3.6
Thu NSNN (% GDP)
19.0
23.6
23.2
23.3
22.9
20.5
Chi NSNN (% GDP)
22.0
30.1
27.9
27.4
25.9
24.5
Thâm hụt (% GDP)
-3.0
-6.5
-4.7
4.1
-3.0
-4.0
Nguồn : Viện nghiên cứu tài chính, 2000
Thu NSNN đã có bước tiến đáng kể , góp phần tích cực giảm thâm hụt ngân sách (tỷ lệ thu NSNN tăng từ 13,1% GDP năm 1991 lên 22,7% năm 1995, trong đó chủ yếu là thu từ thuế và phí từ 12,8% GDP năm 1991 lên 22,1% năm 1995). Cải cách thuế bước 1 (bắt đầu từ năm 1990) đã phát huy hiệu quả, đảm bảo nguồn thu cho NSNN, đáp ứng được các yêu cầu chi ngân sách, mặt khác, hệ thống thuế bước đầu được hợp lý hoá, trở nên đơn giản và khoa học hơn nên đã phần nào tạo cơ sở bình đẳng cho các doanh nghiệp phát triển, trong một chừng mực nhất định có tác dụng khuyến khích sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Tuy nhiên, thời kì này thâm hụt ngân sách vẫn còn lớn, nhưng tính chất của nó đã thay đổi cơ bản (thâm hụt do nhu cầu đầu tư phát triển, không phải do chi tiêu thường xuyên như trước đây). Sau 10 năm đổi mới, ĐH Đảng lần thứ VIII năm 1996 đã nhận định: "Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhưng một số mặt còn chưa vững chắc”, trong đó có lĩnh vực tài chính - tiền tệ (chưa ổn định và thiếu lành mạnh, NSNN thường xuyên căng thẳng và bội chi lớn). Hệ thống thuế phức tạp, chồng chéo, chưa hợp lý, vừa ít khuyến khích sản xuất, vừa có nhiều kẽ hở dễ bị lợi dụng. Phân cấp ngân sách chưa hợp lý, vừa phân tán lại vừa tập trung quá mức, thiếu ổn định, phát sinh nhiều tiêu cực, hạn chế tính năng động, sáng tạo. Tài sản quốc gia, tài chính công và tài chính DNNN chưa được quản lý chặt chẽ, còn sơ hở để xảy ra nhiều thất thoát, lãng phí. Đầu tư của NSNN còn dàn trải, bị lãng phí, thất thoát, hiệu quả thấp. Chính vì vậy, chính sách tài chính nhằm mục tiêu thúc đẩy sản xuất phát triển, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, tăng tích luỹ để tạo vốn cho đầu tư phát triển, đáp ứng các nhu cầu chi thường xuyên thực sự cần thiết, cấp bách, bảo đảm quản lý thống nhất nền tài chính quốc gia, góp phần khống chế và kiểm soát lạm phát.
Nhìn vào tổng thể, tuy không đạt được mục tiêu kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 1996-2000 là "tăng nhanh khả năng và tiềm lực tài chính của đất nước, lành mạnh hoá nền tài chính của quốc gia và kiềm chế bội chi ngân sách không quá 4.5% GDP", song chính sách tài khoá của Việt Nam những năm 1986-2002 đã được điều chỉnh khá uyển chuyển và linh hoạt phù hợp với những biến động kinh tế vĩ mô đồng thời có tác dụng tích cực đối với tăng trưởng kinh tế nên chúng ta có thể rút ra một số nhận định sau:
Một là trong thời kỳ kế hoạch hoá tập trung, thu chi NSNN đều chiếm tỷ trọng nhỏ trong GDP, một phần do thất thu vì hệ thống thuế không hoàn chỉnh và quy trình hành thu quá sơ khai, phần khác quan trọng hơn là do tăng trưởng kinh tế thấp đã hạn ché nguồn thu trong khi nhu cầu đầu tư hầu như hoàn toàn phải trông cậy vào ngoại lực.
Hai là thu NSNN tăng mạnh trong giai đoạn 1992-1997 có thể được giải thích là kết quả của phát triển kinh tế trong khi chi ngân sách nhà nước tăng chậm hơn, cho thấy chính sách tài khoá có xu hướng thắt chặt, bội chi giảm, và không phát hành tiền để bù đắp bội chi là những đảm bảo chắc chắn kiềm chế tỷ lệ lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, chính sách tài khoá thắt chặt giai đoạn này phải chịu một phần trách nhiệm gây ra trì trệ kinh tế ở giai đoạn tiếp theo. Một mặt kinh tế Việt Nam tuy tăng trưỏng với tốc độ khá cao song không bền vững, dựa chủ yếu vào giải phóng một phần sức sản xuất nhỏ (nông nghiệp và tiểu thương) và năng lực đầu tư hình thành trong thời kỳ bao cấp với giá thành và chi phí không tương thích với thị trường. . Mặt khác chi NSNN tăng chậm không đảm bảo được nhu cầu đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế thích hợp với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, tạo ra mất cân đối giữa hạ tầng cơ sở và năng lực sản xuất (hàng hoá ứ đọng). Ngoài ra, việc cắt giảm chi NSNN cho doanh nghiệp nhà nước cũng như sự thiếu nhất quán trong việc tách bạch tài chính doanh nghiệp nhà nước với tài chính nhà nước đã đẩy khu vực chủ đạo này vào tình thế phải “bơi lội” trong khi chưa được dạy bơi, và do vậy muốn tồn tại các doanh nghiệp nhà nước đành phải bấu víu vào chiếc “phao cứu sinh” là sự bảo hộ và trợ giúp của Nhà nước mặc dù bản thân chiếc “phao” đó cũng không có gì là chắc chắn.
Ba là đứng trước tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm sút nghiêm trọng trong những năm 1998-2002, Việt Nam đã nhanh chóng giảm tỷ lệ thu NSNN thông qua cắt giảm thuế, thực hiện đồng loạt các biện pháp kích cầu, đặc biệt là kích cầu đầu tư. Tuy vậy, chính sách tài khoá nới lỏng này thực chất là kích thích tổng cung chứ không phải kích cầu vì chi ngân sách cũng giảm tương đối và vốn đầu tư chủ yếu nhằm giải quyết khối lượng hàng hoá vật tư ứ đọng có chất lượng thấp với giá thành cao. Bên cạnh đó là tình trạng tham nhũng và hiệu quả đầu tư thấp đã hạn chế tác dụng kích cầu đầu tư của chính phủ.
Bảng 3: Giai đoạn tốc độ tăng trưởng giảm và có biểu hiện trì trệ
Chỉ tiêu
1998
1999
2000
2001
2002
Tốc độ tăng GDP (%)
5.8
4.8
6.7
6.9
7.0
CPI (%)
9.2
0.1
0.6
0.8
4.0
Thu NSNN (% GDP)
18.8
17.2
17.5
21.4
22.1
Chi NSNN (% GDP)
22.7
22.2
22.4
26.7
27.4
Thâm hụt (% GDP)
-3.9
-5.0
-4.9
-5.3
-5.3
Nguồn : Viện nghiên cứu Tài chính, 2004
Trải qua giai đoạn tăng trưởng thấp và có biểu hiện trì trệ do nhiều nguyên nhân khác nhau, cả chủ quan và khách quan như những yếu kém vốn có của nền kinh tế, những thiên tai lớn liên tiếp, cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế ở một số nước Châu Á…, chúng ta bước vào giai đoạn thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010 với mục tiêu bao trùm là “đưa đất nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại thông qua “ phát triển kinh tế, CNH- HĐH là nhiệm vụ trung tâm”, với tư tưởng chiến lược “ phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường”.
Bảng 4: Giai đoạn phục hồi tốc độ tăng trưởng (2003-2005)
Chỉ tiêu
2003
2004
Ước 2005
Tốc độ tăng GDP (%)
7.3
7.69
8.4
CPI (%)
2.7
9.5
8.4
Thu NSNN (% GDP)
22.5
23.5
25.1
Chi NSNN (% GDP)
28.1
29.0
30.8
Thâm hụt (% GDP)
-5.6
-5.5
-4.9
Nguồn: Viện nghiên cứu Tài chính 2005
Trong giai đoạn phục hồi tăng trưởng, chúng ta chủ trương “tăng tỷ lệ chi ngân sách theo tốc độ tăng trưởng kinh tế và hiệu quả quản lý kinh tế, tài chính. Tăng chi ngân sách cho các mục tiêu xã hội trọng điểm… Đầu tư vốn phát triển từ NSNN căn cứ vào hiệu quả kinh tế - xã hội. Chuyển cơ chế phân bổ nguồn vốn vay nhà nước mang tính hành chính sang cho vay theo cơ chế thị trường… tiếp tục cải cách hệ thống thuế… đơn giản hoá các sắc thuế; từng bước áp dụng hệ thống thuế thống nhất, không phân biệt đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài”. Bên cạnh “việc tạo lập môi trường hành chính lành mạnh, thông thoáng nhằm giải phóng và phát triển các nguồn lực tài chính và tiềm năng sản xuất của các doanh nghiệp, các tầng lớp dân cư; bồi dưỡng và mở rộng nguồn thu ngân sách… tiếp tục cơ cấu lại NSNN, tăng dần tỷ lệ tích luỹ cho đầu tư phát triển… sử dụng NSNN phải chủ động và có hiệu quả, tăng cường kiểm soát các khoản chi, kiên quyết chống lãng phí, thất thoát. Nâng cao hiệu quả đầu tư bằng vốn NSNN…thực hiện chế độ tự chủ và tự chịu trách nhiệm về tài chính của doanh nghiệp, tách biệt tài chính nhà nước và tài chính doanh nghiệp”, ĐH Đảng IX cũng chỉ rõ “cân đối ngân sách một cách tích cực, tăng dự trữ, giữ bội chi ở mức hợp lý, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô”.
Năm 2005, tốc độ tăng trưởng kinh tế buộc phải đạt 8.5% mới đạt mục tiêu kế hoạch 5 năm 2001-2005 là đạt nhịp độ tăng GDP 7.5%/năm. Đó không phải là nhiệm vụ đơn giản. Nhận định chung về kinh tế tài chính năm 2004 là cả giai đoạn 2001-2004, chính phủ cho rằng: “Kết quả đạt được trong 4 năm qua về một số chỉ tiêu chủ yếu còn thấp so với kế hoạch 5 năm, để lại gánh nặng cho năm 2005, nhất là về nhịp độ tăng trưởng chung của nền kinh tế, của khu vực dịch vụ và của kim ngạch xuất khẩu. Nền kinh tế chậm chuyển biến về chất lượng tăng trưởng, về hiệu quả và sức cạnh tranh. Hệ thống thị trường chưa phát triển đồng bộ, chưa vận hành thông suốt và có trật tự, các nguyên tắc của kinh tế thị trường chưa được quán triệt đầy đủ. Hệ thống tài chính được yêu cầu phát triển của nền kinh tế và có mặt thiếu lành mạnh.
Để thực hiện được nhiệm vụ nặng nề của năm 2005, Quốc hội và Chính phủ đã đề ra 10 nhiệm vụ và giải pháp chính tập trung nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế, gắn chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển mạnh các ngành dịch vụ, chống thất thoát lãng phí tham nhũng, đẩy mạnh thực hiện cổ phần hoá. ̣Tuy nhiên, chất lượng tăng trưởng khó có thể thay đổi trong thời gian ngắn. Trọng tâm của năm 2005 nên tiếp tục tận dụng các nhân tố tăng trưởng theo chiều rộng, trong đó đặc biệt chú trọng sử dụng công cụ tài khoá, để đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế đến mức cao nhất có thể, tạo điều kiện hoàn thành kế hoạch 5 năm 2001-2005, làm tiền đề về "lượng"cho sự thay đổi về "chất" trong kế hoạch 5 năm tiếp theo 2006-2010.
6.2 Những tồn tại của hoạt động NSNN
Trong thời kỳ vừa qua của hoạt động NSNN có thể nhận thấy còn những tồn tại điển hình như sau:
Đối với thu NSNN: những nguồn thu không thật chắc chắn từ dầu thô, nhà đất, xổ số còn chiếm tỷ lệ lớn trong tổng số thu NSNN, thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh và xuất nhập khẩu còn thấp. Điều này tiếp tục phản ánh tính thiếu ổn định, chưa bền vững của NSNN và hiệu quả sản xuất kinh doanh của nền kinh tế còn thấp. Tình trạng thất thu lớn và chưa công bằng vẫn xảy ra nguyên nhân là do pháp lệnh thuế vẫn chưa được hoàn chỉnh và còn nhiều bất cập, ví dụ như luật thuế thu nhập cá nhân chưa được thực hiện hiệu quả. Tiêu cực vẫn xuất hiện, tình trạng móc ngoặc trốn thuế khá nghiêm trọng biểu hiện qua một số vụ án lớn gây hậu quả nghiêm trọng.
Đối với chi NSNN: chi đầu tư phát triển thì tình trạng dàn trải, hiệu quả thấp, lãng phí vẫn chưa được ngăn chặn có hiệu quả, vẫn còn tình trạng bố trí vốn manh mún. Đặc biệt nợ XDCB vẫn chưa được giải quyết dứt điểm như Nghị quyết của Quốc hội, nợ mới tiếp tục phát sinh, chưa chấn chỉnh đựơc công tác quy hoạch, kế hoạch đầu tư...Nhìn chung chi NS ở một số đơn vị, địa phương hiệu quả còn thấp, chưa chấp hành nghiêm quy định pháp luật về thực hành tiết kiệm và chống tham nhũng, chống lãng phí. Công tác xã hội hoá một số khoản chi NSNN còn tiến hành chậm, đặc biệt chưa phân định rõ các lĩnh vực và hoạt động thiết yếu mà NSNN phải đài thọ, các hoạt động khác cần huy động sức mạnh của toàn dân để giảm gánh nặng cho NSNN. Thậm chí một số nơi còn lạm dụng chủ trương xã hội hoá để lạm thu, phụ thu, tạo ra quá nhiều quỹ, các khoản đóng góp với nhân dân.
6.3 Các giải pháp khắc phục
Để nâng cao hiệu quả của hoạt động NSNN qua đó góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Việt Nam chúng ta cần chỉ đạo thực hiện tốt 2 nhóm giải pháp sau:
Một là các giải pháp phát huy nguồn lực( Thu NS)
Thu hút rộng rãi các nguồn vốn trong xã hội thông qua việc đẩy mạnh xã hội hoá các hoạt động sự nghiệp( giáo dục đào tạo, y tế, văn hoá thể thao...) và các hoạt động cung cấp dịch vụ công, áp dụng rộng rãi hình thức công ty cổ phần trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội.
Đẩy mạnh việc sắp xếp và cổ phần hoá các DNNN, các ngân hàng thương mại quốc doanh, phát triển thị trường chứng khoán để huy động vốn trung và dài hạn, có biện pháp thiết thực thúc đẩy quá trình chứng khoán vốn và tài sản nhằm huy động tối đa nguồn lực cho đầu tư phát triển.
Tăng cường cải cách hành chính thuế, hải quan, củng cố và kiện toàn bộ máy, đẩy mạnh việc thực hiện cơ chế tự khai-tự nộp thuế đi đôi với tăng cường kiểm tra giám sát ngăn chặn và xử lý nghiêm các vi phạm về buôn bán hoá đơn, chứng từ để lừa đảo, doanh nghiệp ma, trốn thuế. Tăng cường chống thất thu ngân sách, chống nợ đọng thuế, gian lận thương mại.
Tập trung chỉ đạo công tác quản lý đất đai theo Luật Đất đai, đẩy nhanh tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, khơi thông thị trường bất động sản, tạo nguồn thu cho NSNN. Tăng cường kiểm tra, giám sát việc quản lý sử dụng tài sản công, chống vụ lợi cá nhân.
Hai là các giải pháp phân phối và sử dụng nguồn lực( Chi NS)
Phân bổ và sử dụng nguồn tài chính phù hợp với yêu cầu chiến lược phát triển kinh tế xã hội, ưu tiên cho các nhiệm vụ chiến lược, vùng sâu, xa, vùng kinh tế động lực, tạo sự liên kết giữa các vùng nhằm xoá đói giảm nghèo và phát triển bền vững.
Nâng cao chất lượng thẩm định dự toán và cấp phát thanh toán trực tiếp qua Kho bạc nhà nước theo quy định của Luật NSNN.
Đẩy mạnh việc thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Mở rộng quyền tự chủ cho các đơn vị sự nghiệp.
Ưu tiên phân bổ ngân sách cho các lĩnh vực xã hội( giáo dục, y tế, văn hoá, khoa học công nghệ, bảo vệ môi trường...)
Tăng cường dự phòng ngân sách nhằm chủ động đáp ứng các nhu cầu thiên tai bất khả kháng và các nhiệm vụ cấp bách phát sinh đột xuất.
Phần III : Kết luận
NSNN có một vai trò to lớn và quan trọng với sự phát triển kinh tế của Việt Nam. Nổi bật lên là vai trò ổn định kinh tế vĩ mô. Qua các giai đoạn có thể thấy hiệu quả của hoạt động NSNN và tăng trưởng kinh tế có mối liên hệ với nhau rất mật thiết. Vì vậy cần khắc phục những tồn tại, thực hiện tốt các giải pháp để lành mạnh hoá hệ thống NSNN, giảm và duy trì thâm hụt ở mức hợp lí tiến tới xoá bỏ hiện tựong này, từng bước tăng cường tiềm lực tài chính quốc gia, nâng cao căn bản hiệu quả quản lí, điều chỉnh ở tầm vĩ mô, tăng cường huy động vốn cho đầu tư phát triển. Có như vậy mới góp phần thực hiện thành công nhiệm vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đưa nền kinh tế Việt Nam cất cánh tiến lên sánh ngang với các cường quốc trong khu vực và thế giới.
Mục lục
Trang
Mở đầu......................................................................................................1
Nội dung....................................................................................................2
1. Khái niệm về NSNN.............................................................................2
2. Thu nhập của NSNN............................................................................2
3. Chi tiêu của NSNN...............................................................................3
4. Hệ thống phân cấp NSNN...................................................................5
4.1 Hệ thống tổ chức................................................................................5
4.2 Ý nghĩa................................................................................................6
5. Vai trò của NSNN................................................................................6
6. Hoạt động của NSNN ở Việt Nam......................................................7
6.1 Thực trạng và tác động tới nền kinh tế VN.....................................7
6.2 Những tồn tại.....................................................................................15
6.3 Giải pháp khắc phục.........................................................................16
Kết luận....................................................................................................19
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình lý thuyết tài chính tiền tệ
2. Thời báo kinh tế V._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- C0292.doc