TRƯỜNG ĐH KINH TẾ TP.HCM
KHOA LUẬT KINH TẾ
c&d
Bài tiểu luận môn Luật Kinh Tế
Tên đề tài:
Vai trò của Luật trong sự phát triển của thị trường
CHỨNG KHOÁN
GVHD : Dương Mỹ An
SVTH : Hồ Hoàng Yến (106204349)
Huỳnh Duy Tân (106209033)
Lớp : CK2 - Khóa 32
TP.HCM, tháng 6 năm 2008
z Nhận xét của giáo viên:
…………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
25 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1518 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Vai trò của luật trong sự phát triển của Thị trường chứng khoán, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
Trang
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ VAI TRÒ CỦA LUẬT ĐỐI
VỚI THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN 1
I. Sự ra đời của Luật Chứng khoán 1
1) Nguyên nhân 1
2) Sự ra đời 1
II. Vai trò của Luật đối với thị trường Chứng khoán 3
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CỦA LUẬT CHỨNG KHOÁN
VIỆT NAM 4
I. Yêu cầu của nền kinh tế đối với Luật Chứng khoán 5
II. Những tác động của Luật Chứng khoán đến thị trường sau một
năm thực hiện 5
III. Một số thuận lợi và khó khăn trong việc áp dụng Luật Chứng khoán 7
IV. Sự điều tiết của Chính phủ đối với thị trường Chứng khoán 9
1) Các tiêu chí cơ bản nhằm đánh giá tính hiệu quả của Luật Chứng khoán 9
2) Quan điểm chỉ đạo trong việc xây dựng Luật Chứng khoán 16
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO
VAI TRÒ HIỆU QUẢ CỦA LUẬT ĐỐI VỚI THỊ TRƯỜNG
CHỨNG KHOÁN 17
I. Một số thiếu sót 17
II. Dự thảo Luật 18
? CHƯƠNG I:
LÝ LUẬN CHUNG VỀ VAI TRÒ CỦA LUẬT ĐỐI VỚI THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
Sự ra đời của Luật Chứng Khoán:
Nguyên nhân:
Báo cáo của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước cho biết, thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay đã có hơn 28.000 tài khoản chứng khoán, tăng hơn 8 lần so với năm đầu mở cửa thị trường, trong đó có 246 nhà đầu tư có tổ chức và 251 nhà đầu tư nước ngoài. Bên cạnh những yếu tố tích cực, hoạt động thị trường chứng khoán cũng chứa đựng nhiều rủi ro. Nguyên nhân chính là do các văn bản pháp luật hiện hành mới chỉ dừng lại ở Nghị định, chưa điều chỉnh được toàn diện hoạt động của thị trường chứng khoán. Vì vậy, nhất thiết phải có một văn bản pháp lý cao hơn để tạo cơ sở pháp lý cho thị trường chứng khoán phát triển.
Sự ra đời:
Theo Chủ nhiệm Uỷ ban Kinh tế và Ngân sách của Quốc hội Nguyễn Đức Kiên, mục đích ban hành Luật Chứng khoán để tạo kênh huy động vốn trung và dài hạn quan trọng cho nền kinh tế, cùng với việc tạo khung pháp lý đầy đủ về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, cũng phải bảo đảm sự đồng bộ, phù hợp với các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan, đặc biệt là Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Các tổ chức tín dụng, Luật Kinh doanh bảo hiểm... Mặt khác, xây dựng Luật Chứng khoán sẽ tạo cơ sở cho thị trường chứng khoán phát triển nhanh và ổn định, tạo tâm lý yên tâm cho các tổ chức, cá nhân khi tham gia kinh doanh, đầu tư vào thị trường chứng khoán và bảo đảm lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư; giúp công chúng dễ dàng hiểu biết về chứng khoán, thị trường chứng khoán và có cơ sở pháp lý để công chúng tham gia thị trường khi có điều kiện. Đồng thời, giúp việc phân định rõ vai trò của từng thị trường vốn trung hạn, dài hạn và ngắn hạn trong cơ cấu thị trường tài chính; bảo đảm và phát huy quyền tự chủ của doanh nghiệp huy động vốn trên thị trường chứng khoán, giảm gánh nặng trong việc dùng vốn ngắn hạn cho vay dài hạn của hệ thống ngân hàng hiện nay và góp phần tăng cường tính công khai, minh bạch trong cộng đồng các doanh nghiệp và cả nền kinh tế. Đáp ứng yêu cầu của các cam kết quốc tế trong quá trình hội nhập, đặc biệt là các cam kết về hệ thống pháp luật phục vụ quá trình đàm phán gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).
Uỷ ban Kinh tế và ngân sách cho rằng, hoạt động chứng khoán là hoạt động kinh doanh có điều kiện; do vậy trên cơ sở Luật Doanh nghiệp, Luật Chứng khoán phải quy định cụ thể các điều kiện để được cấp phép hoạt động. Các điều kiện cơ bản phải có gồm: cơ sở vật chất, kỹ thuật bảo đảm nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán; có vốn pháp định; người hoạt động kinh doanh chứng khoán phải có chứng chỉ hành nghề. Về thủ tục thành lập mới, nội dung giấy phép, nội dung điều lệ... cần dẫn chiếu Luật Doanh nghiệp, Luật Chứng khoán chỉ nên quy định những đặc thù riêng của hoạt động chứng khoán. Các cụm từ sử dụng trong dự thảo Luật Chứng khoán như: đăng ký, chấp thuận, xin phép thành lập... cần thể hiện rõ ràng dưới hình thức là văn bản và đều phải có thời hạn, quy định rõ thời hạn tối đa phải trả lời. Trường hợp kéo dài thì cần quy định không quá một thời gian nhất định. Cần rà soát lại các quy định này theo nguyên tắc; phải cải cách hành chính mạnh mẽ nhưng đối với lĩnh vực mới, hoạt động kinh doanh có điều kiện như lĩnh vực chứng khoán thì phải bảo đảm các yêu cầu kiểm soát của Nhà nước.
Để thị trường chứng khoán hoạt động nề nếp, quy cũ... nhất thiết phải xác định cụ thể địa vị pháp lý của Uỷ ban Chứng khoán ngay trong Luật. Việc xác định rõ mô hình tổ chức của Uỷ ban Chứng khoán là rất quan trọng, chi phối nhiều quy định trong Luật. Có thể tóm gọn 3 loại mô hình cơ quan quản lý về chứng khoán. Thứ nhất, Uỷ ban Chứng khoán là cơ quan của Chính phủ hay tổ chức dưới dạng Hội đồng trực tiếp báo cáo lên Thủ tướng, hoàn toàn độc lập trong chỉ đạo, điều hành hoạt động chứng khoán và thị trường chứng khoán, có quyền thanh tra, giám sát thị trường, điều tra và xử lý các vi phạm. Thứ hai, Uỷ ban Chứng khoán được tổ chức như một Hội đồng, có một số thành viên gồm Bộ trưởng Bộ Tài chính, Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, Thứ trưởng Bộ Thương mại và một số chuyên gia kinh tế, tài chính... Giúp việc cho Hội đồng này là một Văn phòng Uỷ ban Chứng khoán. Thứ ba, Uỷ ban Chứng khoán trực thuộc Bộ Tài chính hoặc một Bộ nào đó. Nhìn từ thực tiễn, mô hình tổ chức, hoạt động của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước ở Việt Nam chia làm 2 giai đoạn: từ 1997 đến tháng 3/2004, Uỷ ban chứng khoán nhà nước là cơ quan thuộc Chính phủ; từ tháng 3/2004 đến nay, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước vào Bộ Tài chính. Được sự hỗ trợ trực tiếp, thường xuyên của Bộ Tài chính, cùng với việc kết hợp thực hiện chính sách cổ phần hoá, kế toán, kiểm toán, chính sách thuế... nên từ năm 2005 trở lại đây, thị trường chứng khoán có xu hướng phát triển mạnh hơn, tạo sự tin tưởng cho các nhà đầu tư. Mặc dù trực thuộc Bộ Tài chính, những chức năng, nhiệm vụ của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước đã được quy định tương đối rõ ràng, nhằm bảo đảm tính độc lập cần thiết trong việc thực thi công tác quản lý. Theo Uỷ ban Kinh tế và Ngân sách, trước mắt, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước vẫn là cơ quan trong Bộ Tài chính, nhưng trong Luật cần giao cho Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước một số chức năng và thẩm quyền, bảo đảm tính độc lập cần thiết và thực quyền của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước trong việc xử lý các vấn đề nghiệp vụ chứng khoán. Về lâu dài, khi thị trường chứng khoán đã phát triển ổn định sẽ sắp xếp lại cho phù hợp với yêu cầu của kinh tế thị trường.
Tuy nhiên, trong hoạt động chứng khoán và thị trường chứng khoán cũng cần loại bỏ các thủ tục hành chính, các loại giấy phép không cần thiết, nhưng cũng phải bảo đảm yêu cầu quản lý của nhà nước để thị trường này phát triển an toàn, ổn định. Các nội dung liên quan đến việc cấp các loại Giấy phép cần phải được quy định rõ ràng, chi tiết, đặc biệt là quy định cụ thể về điều kiện, thủ tục, thời hạn cấp giấy phép. Nói tóm lại, hoạt động chứng khoán là lĩnh vực kinh doanh có điều kiện, còn mới, nhiều rủi ro. Vì vậy, áp dụng Luật Chứng khoán ở Việt Nam làm sao phải phù hợp với điều kiện cũng như đặc thù thể chế của Việt Nam, cần chọn bước đi cởi mở, nhưng thận trọng.
Vai trò của Luật đối với thị trường Chứng khoán:
Luật Chứng khoán ra đời góp phần hoàn chỉnh thể chế về kinh tế thị trường ở nước ta, quán triệt tinh thần đổi mới của Đảng và Nhà nước thể hiện trong Nghị quyết Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IX và lần thứ X.
2. Luật Chứng khoán ra đời khắc phục những khiếm khuyết, bất cập trong khuôn khổ pháp luật chứng khoán và thị trường chứng khoán (Nghị định 144), đồng bộ hoá với Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư mà Quốc hội đã thông qua. Điều này hết sức quan trọng vì tạo ra môi trường pháp luật ổn định cho các nhà đầu tư.
3. Luật Chứng khoán ra đời tạo điều kiện hình thành khuôn khổ pháp luật trong việc quản lý, giám sát thị trường, đảm bảo nguyên tắc hoạt động thị trường: công khai, công bằng, minh bạch và bảo vệ lợi ích hợp pháp của các nhà đầu tư.
4. Luật Chứng khoán ra đời tạo điều kiện cho thị trường chứng khoán phát triển nhanh và bền vững; tăng cường khả năng huy động vốn của Chính phủ, các doanh nghiệp trên thị trường chứng khoán cho đầu tư phát triển; tạo cơ hội đầu tư cho công chúng nhằm tăng nhanh luồng luân chuẩn vốn đầu tư. Thị trường chứng khoán phát triển sẽ làm cho các doanh nghiệp minh bạch. Điều này góp phần làm cho nền kinh tế của chúng ta minh bạch. 5. Luật Chứng khoán tạo điều kiện thị trường chứng khoán Việt Nam hội nhập với thị trường chứng khoán khu vực và quốc tế. Thông qua hoạt động đầu tư gián tiếp có khả năng khơi thông nguồn vốn nước ngoài vào Việt Nam, đồng thời tạo cơ hội để các nhà đầu tư Việt Nam đầu tư ra nước ngoài.
? CHƯƠNG II:
THỰC TRẠNG CỦA LUẬT CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
Được Quốc hội ban hành ngày 29/6/2006 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2007, Luật Chứng khoán đã tạo lập được khuôn khổ pháp lý cao cho hoạt động của TTCK; tăng cường vai trò quản lý nhà nước đối với TTCK; tạo cơ sở pháp luật để bảo đảm các doanh nghiệp tham gia trên thị trường phải hoạt động công khai, minh bạch, từ đó góp phần làm minh bạch hoá nền kinh tế; đồng thời tạo lập các quy định phù hợp với luật pháp, thông lệ quốc tế nhằm tạo điều kiện cho TTCK Việt Nam có khả năng hội nhập với các thị trường vốn quốc tế và khu vực.
Yêu cầu của nền kinh tế đối với Luật Chứng khoán:
Kinh tế phát triển cao, nhu cầu huy động vốn cho đầu tư phát triển lớn, đòi hỏi thị trường chứng khoán (TTCK) phải trở thành kênh huy động vốn quan trọng cho nền kinh tế. Để đạt được mục tiêu phát triển quy mô TTCK từ 10 đến 15% GDP vào năm 2010, đồng thời tạo ra khuôn khổ pháp luật nhằm quản lý thị trường hoạt động có hiệu quả và lành mạnh, đáp ứng với điều kiện hội nhập, một yêu cầu đặt ra là cần phải hoàn chỉnh thể chế về chứng khoán và TTCK. Trong đó quan trọng nhất là ban hành Luật Chứng khoán.
Sau 5 năm, kể từ khi Trung tâm giao dịch chứng khoán TP.HCM chính thức khai trương, TTCK đã đạt được những kết quả bước đầu. Đến cuối năm 2005, tổng giá trị chứng khoán niêm yết và đăng ký giao dịch đạt 41.800 tỉ đồng. TTCK đã thu hút được sự tham gia của công chúng đầu tư trong và ngoài nước với số lượng trên 29.000 tài khoản.
Đến thời điểm này, TTCK đã trở nên khá sôi động, thu hút nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước. Từ thực tế đó, việc ban hành Luật Chứng khoán trở nên cần thiết vì sẽ tạo lập được khuôn khổ pháp lý cao cho hoạt dộng của TTCK, loại bỏ những mâu thuẫn, xung đột với các văn bản pháp luật khác có liên quan. Hơn nữa, việc ban hành Luật Chứng khoán cũng tăng cường vai trò quản lý Nhà nước đối với TTCK, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư và các tổ chức tham gia thị trường, tạo cơ sở pháp luật để giám sát, cưỡng chế thực thi, bảo đảm các DN tham gia trên thị trường phải hoạt động công khai, minh bạch, từ đó góp phần làm minh bạch hoá nền kinh tế. Mặt khác việc xây dựng Luật Chứng khoán và các văn bản hướng dẫn phù hợp với luật pháp, thông lệ quốc tế nhằm tạo điều kiện cho TTCK Việt Nam có khả năng hội nhập với các thị trường vốn quốc tế và khu vực, đặc biệt là đáp ứng đươc lộ trình thực hiện các cam kết trong Hiệp định thương mại Việt -Mỹ và gia nhập WTO.
Những tác động của Luật Chứng khoán đến thị trường sau một năm thực hiện:
Qua một năm thi hành, Luật Chứng khoán và các văn bản hướng dẫn là nhân tố quan trọng góp phần đạt được những kết quả của TTCK Việt Nam thời gian qua:
- Thứ nhất: Luật Chứng khoán đã tạo cơ sở pháp lý cho việc chuyển đổi Trung tâm GDCK Hồ Chí Minh thành công ty TNHH Nhà nước một thành viên làm tăng tính chủ động trong hoạt động của Sở GDCK.
- Thứ hai: Luật Chứng khoán và các văn bản hướng dẫn đã thúc đẩy các công ty niêm yết, nâng điều kiện niêm yết phù hợp với quy mô vốn và chất lượng của các công ty niêm yết (CTNY) tương xứng với các TTCK khu vực trong xu thế hội nhập. Cuối năm 2007, số lượng CTNY trên toàn thị trường là 250 CTNY (tăng 135,8% so với cuối năm 2006). Đồng thời, Luật Chứng khoán và các văn bản hướng dẫn là cơ sở pháp lý trong việc xây dựng hệ thống các tổ chức trung gian hoạt động trên TTCK bao gồm các công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ, quỹ đầu tư chứng khoán, ngân hàng giám sát.... tạo thuận lợi cho các hoạt động kinh doanh, giao dịch chứng khoán. Trong năm 2007 đã có 103 CTCK và CTQLQ được cấp phép (tăng 41% so với cuối năm 2006).
- Thứ ba: Luật chứng khoán và các văn bản hướng dẫn thi hành đã tạo cơ sở pháp lý để quản lý các công ty đại chúng và hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng. Tính đến hết năm 2007, đã có 849 công ty đăng ký là công ty đại chúng theo quy định của Luật Chứng khoán.
- Thứ tư: Luật Chứng khoán và các văn bản hướng dẫn mở rộng hơn các quy định về bảo vệ lợi ích của nhà đầu tư, đặc biệt được áp dụng chung cho các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài tham gia đầu tư và hoạt động trên TTCK Việt Nam, không phân biệt đối xử giữa nhà đầu tư trong nước và nước ngoài (trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên có quy định khác với quy định của Luật này thì áp dụng điều ước quốc tế đó). Do vậy, thị trường đã thu hút được đông đảo các nhà đầu tư tham gia đặc biệt là nhà đầu tư có tổ chức và nhà đầu tư nước ngoài. Tổng số tài khoản năm 2007 là 311.713 tài khoản (trong đó tài khoản của nhà đầu tư nước ngoài là 8.149 tài khoản, chiếm 2,6%).
III. Một số thuận lợi và khó khăn trong việc áp dụng Luật Chứng khoán:
- Thứ nhất, một cuộc chạy đua thành lập mới các công ty chứng khoán đã diễn ra ngay sát thời điểm Luật có hiệu lực. Nguyên do là khi Luật đi vào cuộc sống, các điều kiện về thành lập mới công ty chứng khoán sẽ được nâng cao, mang tính chọn lọc hơn.
Cụ thể, các quy định về mức vốn tối thiểu đối với các nghiệp vụ kinh doanh của công ty chứng khoán sẽ được nâng lên, như: để thực hiện nghiệp vụ môi giới chứng khoán, vốn điều lệ tối tthiểu dự kiến sẽ nâng từ 2 tỷ lên 10 tỷ đồng; với nghiệp vụ tự doanh là từ 12 lên 70 tỷ đồng; bảo lãnh phát hành từ 22 lên 120 tỷ đồng; đặc biệt là để thực hiện đầy đủ các nghiệp vụ thì mức vốn tối thiểu dự kiến sẽ là 200 tỷ đồng thay vì quy định 43 tỷ đồng trước đó.
Những quy định dự kiến trên là một áp lực lớn đối với các đề án thành lập công ty chứng khoán mới sau thời điểm 1/1/2007. Ngay với bản thân phần lớn các công ty đã có thâm niên trên thị trường, đó cũng là một khó khăn khi mà quy mô vốn hiện vẫn phổ biến dưới mức 200 tỷ đồng.
Và để tránh thời điểm Luật có hiệu lực, một loạt công ty chứng khoán mới đã được thành lập vào cuối năm 2006. Hiện trên thị trường đã có gần 50 công ty hoạt động, thay cho chưa đầy 15 công ty vào thời điểm đầu năm. Con số này cũng liên tục thay đổi khi mà số giấy phép Ủy ban Chứng khoán liên tục cấp trong những ngày cuối năm vừa qua (riêng trong hai ngày 28 và 29/12/2006, có ít nhất 10 giấy phép được ký).
- Thứ hai, Luật có hiệu lực và các văn bản hướng dẫn sẽ đặt ra những điều kiện cao hơn đối với doanh nghiệp được niêm yết. Dự thảo Nghị định hướng dẫn Luật, đã được Ủy ban Chứng khoán lấy ý kiến các ban ngành liên quan và trình Chính phủ duyệt, đưa ra một số quy định mới đã khiến thị trường xôn xao.
Dự thảo đưa ra quy định: Để được niêm yết tại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Tp.HCM, doanh nghiệp phải có mức vốn điều lệ tối thiểu là 80 tỷ đồng, cao gấp 8 lần so với quy định trước đó; còn tại sàn Hà Nội là mức vốn tối thiểu 10 tỷ đồng thay cho mức 5 tỷ đồng.
Với quy định dự kiến này, thị trường và nhiều doanh nghiệp xôn xao về khả năng những doanh nghiệp đang niêm yết tại sàn TP.HCM không đủ và không tăng kịp vốn lên trên 80 tỷ có thể sẽ phải chuyển sang sàn Hà Nội. Hiện Ủy ban Chứng khoán vẫn chưa có thông tin định hướng cụ thể về khả năng này vì nghị định hướng dẫn vẫn chưa được ban hành.
- Thứ ba, Luật có quy định về tổ chức và hoạt động của Trung tâm Lưu ký chứng khoán, giống như Sở và Trung tâm Giao dịch chứng khoán, là sẽ được tổ chức theo mô hình công ty TNHH hoặc công ty cổ phần, có chức năng tổ chức, quản lý và giám sát hoạt động đăng ký, lưu ký, bù trừ và thanh toán chứng khoán.
Luật cũng quy định chứng khoán của các công ty đại chúng phải được đăng ký, lưu ký tập trung tại Trung tâm Lưu ký chứng khoán. Ủy ban Chứng khoán cho rằng quy định như vậy là phù hợp với thông lệ quốc tế về đăng ký và lưu ký tập trung, khắc phục được tình trạng các nhà đầu tư nắm giữ trực tiếp chứng chỉ chứng khoán. Điều này cũng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc theo dõi biến động sở hữu, cũng như thuận tiện cho việc giao dịch, thanh toán và tiến tới thực hiện chính sách phi vật chất chứng khoán như một số nước đã tiến hành.
- Thứ tư, Luật có hiệu lực sẽ là một cú hích quan trọng trong việc công khai, minh bạch thông tin của các công ty đại chúng, nhằm đảm bảo tất cả các doanh nghiệp có chứng khoán được công chúng sở hữu rộng rãi phải tuân thủ nguyên tắc công khai, minh bạch, từ đó có thể bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư.
Về hoạt động chào mua công khai, để bảo đảm tính công khai, minh bạch trong việc chào mua thâu tóm doanh nghiệp, tránh việc các công ty đại chúng bị thâu tóm một cách không công bằng, không công khai và bảo vệ các cổ đông thiểu số trong doanh nghiệp bị thâu tóm, Luật cũng quy định việc chào mua công khai phải báo cáo Uỷ ban Chứng khoán và chỉ được thực hiện sau khi Ủy ban chấp thuận và đã được công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng trước thời điểm dự kiến thực hiện.
- Thứ năm, một trong những yêu cầu cấp thiết mà nhiều nhà đầu tư mong Luật khi đi vào đời sống sẽ có sự điều chỉnh cần thiết, cho phép các nhà đầu tư được mở thêm tài khoản giao dịch thay vì chỉ một tài khoản như hiện nay.
Nhiều nhà đầu tư cho rằng chỉ với một tài khoản, họ không có được nhiều thuận lợi để nắm bắt những cơ hội trên thị trường khi việc đặt lệnh bị bó hẹp tại một công ty chứng khoán, hoặc vì hạn chế về thời hạn 3 ngày tiền hoặc cổ phiếu mới về tài khoản như quy trình hiện hành…
Tuy nhiên, việc một nhà đầu tư được mở nhiều tài khoản có thể sẽ gây ảnh hưởng xấu đến các cổ phiếu, đến thị trường nếu nhà đầu tư lợi dụng thuận lợi này để tạo những hoạt động mua – bán “ảo”, để làm giá theo mục đích của mình. Vì vậy, khả năng nới rộng quy định về số lượng tài khoản được mở đối với một nhà đầu tư vẫn đang phải xem xét.
- Thứ sáu, Luật chính thức có hiệu lực từ 1/1/2007, nhưng đến thời điểm này vẫn chưa có một văn bản hướng dẫn nào ban hành. Ủy ban Chứng khoán từng cho biết “dự kiến các Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Chứng khoán sẽ được hoàn chỉnh trình Chính phủ trong tháng 11/2006”.
Các nghị định trên bao gồm: Nghị định hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Luật Chứng khoán, Nghị định quy định về tổ chức, bộ máy quản lý, điều hành của Uỷ ban Chứng khoán và Nghị đinh về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán.
Ngoài ra còn có các văn bản hướng dẫn thuộc thẩm quyền Bộ Tài chính dưới hình thức Thông tư hoặc Quyết định ban hành quy chế đối với những vấn đề cụ thể để đảm bảo tính đồng bộ, tập trung các quy định về chứng khoán và thị trường chứng khoán.
Hiện các doanh nghiệp, giới đầu tư và các ban ngành liên quan đang chờ đợi sự ra đời của những văn bản trên để Luật được cụ thể hóa hơn, để có được định hướng trong hoạt động.
Riêng về các quy định về mức vốn tối thiểu của công ty chứng khoán cũng như vốn tối thiểu để niêm yết dự kiến sẽ có một lộ trình theo hướng tạo điều kiện để các doanh nghiệp có thời gian chuẩn bị.
IV. Sự điều tiết của Chính phủ đối với Thị trường Chứng khoán:
1) Các tiêu chí cơ bản nhằm đánh giá tính hiệu quả của Luật chứng khoán:
Trước khi có sự ra đời của học thuyết về phân tích kinh tế các quy định luật pháp, việc đánh giá, đo lường tính hiệu quả của pháp luật trở nên rất khó khăn, đặc biệt là việc đánh giá tính hiệu quả tác động của các quy định luật pháp vào lĩnh vực kinh tế vốn rất tinh vi và phức tạp như thị trường chứng khoán. Cho đến khi các nghiên cứu về kinh tế học pháp luật đem lại kết quả khả quan thì việc đánh giá, đo lường tính hiệu quả của pháp luật nói chung và pháp luật về chứng khoán nói riêng đã trở nên thuận lợi, dễ dàng hơn trước rất nhiều. Dựa trên những thành tựu nghiên cứu của kinh tế học pháp luật, chúng tôi cho rằng việc đo lường, đánh giá tính hiệu quả của Luật chứng khoán cần được thực hiện bằng việc tiếp cận các tiêu chí cơ bản sau đây:
* Tính rõ ràng, minh bạch của các quy định trong Luật chứng khoán
Không thể phủ nhận rằng pháp luật vốn có vai trò và bổn phận dẫn dắt hành vi xử sự của con người trong xã hội để hướng tới sự thoả mãn các nhu cầu riêng của từng chủ thể pháp luật cũng như các lợi ích chung mang tính cộng đồng. Nếu các quy định luật pháp về chứng khoán không được rõ ràng và minh bạch thì các chủ thể pháp luật tham gia thị trường chứng khoán sẽ không có điều kiện để lựa chọn được cách hành xử có lợi nhất cho mình. Điều đó sẽ làm tăng chi phí giao dịch cho các bên tham gia thị trường do họ phải “bơi” trong môi trường pháp lí kém chuẩn mực, ít công khai, thiếu tính định hướng chiến lược và chưa sẵn sàng tương thích với môi trường giao thương quốc tế đương đại.
Nói cách khác, “nếu pháp luật rõ ràng, dễ tiệm cận và có thể tin cậy được thì chi phí để tìm hiểu, ra quyết định và thương thảo cũng như triển khai một giao dịch kinh doanh sẽ giảm”.
F Vậy, cần phải quan niệm như thế nào về tính rõ ràng, minh bạch của các quy định trong Luật chứng khoán?
Trước hết, chúng tôi bày tỏ sự đồng thuận với quan điểm khoa học cho rằng tính minh bạch của pháp luật cần phải được xem như là một thuộc tính của nhà nước pháp quyền.Trong một xã hội dân sự, tính rõ ràng minh bạch của hệ thống pháp luật làm cho mọi người dân hiểu luật tốt hơn, do đó họ sẽ chấp hành pháp luật tốt hơn và hơn thế nữa, người dân có thể sử dụng pháp luật như là công cụ hữu hiệu để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho chính mình và kiểm soát, giám sát bộ máy chính quyền trong quá trình thực thi công vụ.
Xét về khía cạnh học thuật, khái niệm tính minh bạch của pháp luật tuy có thể được quan niệm như là một thuật ngữ có nội hàm độc lập hoặc được đồng nhất ở mức độ nào đó với phạm trù tính hiệu quả của pháp luật song về cơ bản, nó phải thể hiện được khả năng tiếp cận và thực thi một cách dễ dàng, thuận lợi đối với dân chúng, bất kể họ ở trình độ nhận thức pháp luật như thế nào.
Có thể nói, ngoài việc đáp ứng các yêu cầu cơ bản vốn đã nhận được sự đồng thuận của các nhà khoa học như tính đồng bộ và nhất quán; tính công khai và khả năng tiếp cận dễ dàng đối với người dân; tính tin cậy và khả năng dự đoán trước thì tính minh bạch của các quy định trong Luật chứng khoán còn phải đảm bảo được những yêu cầu sau đây:
- Một là, các quy định trong Luật chứng khoán phải thể hiện một cách rõ ràng các ý tưởng hợp lí của người làm luật. Nếu Luật chứng khoán không có khả năng thể hiện một cách rõ ràng các ý tưởng, nhất là các ý tưởng hợp lí của người làm luật thì đạo luật này rất khó được thi hành trong thực tế và không được dân chúng chào đón, ủng hộ. Những ý tưởng hợp lí - tức là những ý tưởng được xây dựng từ nền tảng thực tại xã hội, có thể được xem như là một trong các yếu tố quan trọng làm nên tính hiệu quả của việc thực thi Luật chứng khoán.
- Hai là, quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia thị trường chứng khoán cần được thiết kế một cách đơn giản, rõ ràng và chắc chắn về mức độ an toàn cũng như khả năng thực hiện.
Nếu người dân không có khả năng hiểu và tiếp cận được với các quy định trong Luật chứng khoán, đặc biệt là những quyền và nghĩa vụ pháp lí cơ bản thì cơ hội để họ tham gia thị trường là rất ít và nếu có tham gia thì các chi phí giao dịch bỏ ra cho việc tiếp cận thị trường và phòng tránh rủi ro cũng là rất lớn. Khi người đầu tư và các chủ thể khác có liên quan như tổ chức phát hành chứng khoán, tổ chức kinh doanh chứng khoán, cá nhân hành nghề kinh doanh chứng khoán hay các cơ quan quản lí, giám sát thị trường chứng khoán không thể hình dung được một cách rõ ràng về nội dung và cơ chế thực hiện những quyền, nghĩa vụ cơ bản của họ như thế nào thì việc tham gia thị trường hay không sẽ là một quyết định rất khó khăn, mạo hiểm, chứa đựng nhiều rủi ro và tốn nhiều chi phí. Rõ ràng, muốn đảm bảo tính minh bạch của các quy định trong Luật chứng khoán, đòi hỏi nhà làm luật phải thiết kế một cách đầy đủ, rõ ràng hệ thống quyền và nghĩa vụ hợp lí cho các chủ thể tham gia thị trường để từ đó giúp họ có được những quyết định đúng đắn, nhanh chóng, an toàn và hiệu quả. Việc thiết kế những quyền năng hay những nghĩa vụ không hợp lí cho mỗi chủ thể tham gia thị trường, đặc biệt là quyền và nghĩa vụ của tổ chức phát hành chứng khoán có thể gây ra sự hoang mang cho giới đầu tư chứng khoán, nhất là các nhà đầu tư nước ngoài bởi lẽ khoảng cách về địa lí cũng như sự khác biệt về hệ thống pháp luật không cho phép họ tiếp cận và thẩm định một cách dễ dàng những thông tin được cung cấp về tổ chức phát hành chứng khoán.
Ở Việt Nam, Luật chứng khoán được soạn thảo và ban hành trong bối cảnh cải cách toàn diện hệ thống pháp lí để kịp thời gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) vào năm 2006. Vì lẽ đó, nhiều quy định của Luật chứng khoán đã đáp ứng được yêu cầu chung về tính minh bạch theo thông lệ quốc tế (ví dụ: Các quy định về chào bán chứng khoán ra công chúng; quy định về công ti đại chúng; quy định về giao dịch chứng khoán trên thị trường tập trung; quy định về đăng kí, lưu kí, bù trừ, thanh toán chứng khoán…). Tuy nhiên, do quy trình soạn thảo luật ở Việt Nam lâu nay vẫn được thực hiện theo kiểu “cắt khúc, chia đoạn”, nghĩa là luật điều chỉnh lĩnh vực nào thì giao cho cơ quan nhà nước, tổ chức có chức năng quản lí trong lĩnh vực đó chủ trì soạn thảo nên khó tránh khỏi tình trạng chồng chéo hoặc bỏ sót, thậm chí mâu thuẫn về nội dung giữa các đạo luật. Không phải là ngoại lệ, Luật chứng khoán hiện hành vẫn còn một số quy định chưa thực sự rõ ràng và minh bạch, khó áp dụng trong thực tế, ví dụ: Quy định về chính sách phát triển thị trường chứng khoán; quy định về các loại chứng khoán tại điểm b, khoản 1 Điều 6 Luật chứng khoán; các quy định về một số loại chứng khoán đặc thù như quyền mua cổ phần, chứng quyền, quyền chọn mua và quyền chọn bán, hợp đồng tương lai…; các quy định về vấn đề thông tin bất cân xứng và những giao dịch không công bằng trên thị trường chứng khoán; các quy định về quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư và phương thức, cơ chế bảo đảm thực thi các quyền năng đó…
* Khả năng làm giảm thiểu các chi phí tiếp cận thị trường và chi phí giao dịch cho các bên tham gia thị trường chứng khoán
Tại sao việc giảm thiểu các chi phí gia nhập thị trường lại được xem là một tiêu chí cơ bản để đo lường tính hiệu quả của Luật chứng khoán?
Câu trả lời sẽ trở nên rõ ràng khi ta giải đáp được câu hỏi: Nhà đầu tư và các chủ thể khác như tổ chức phát hành chứng khoán, tổ chức kinh doanh chứng khoán hướng tới mục đích gì khi họ quyết định tham gia vào thị trường chứng khoán? Nếu câu trả lời đơn giản chỉ là mục đích thoả mãn các lợi ích kinh tế của mỗi chủ thể tham gia thị trường thì rõ ràng Luật chứng khoán sẽ không phải là quan trọng và không có ý nghĩa gì đối với họ - tức là không hiệu quả, nếu các quy định của Luật chứng khoán có thể làm cho các chi phí giao dịch của họ gia tăng, đến mức triệt tiêu luôn các lợi ích kinh tế đơn thuần mà họ mong nhận được từ việc gia nhập thị trường.
Vì lẽ đó, có thể khẳng định rằng, để thị trường chứng khoán phát triển bình thường theo đúng quy luật kinh tế thì hành lang pháp lí cho việc gia nhập thị trường của các nhà đầu tư, các tổ chức phát hành hay các tổ chức kinh doanh chứng khoán phải đảm bảo các yêu cầu về tính minh bạch, tính tự do, tính nhanh chóng, thuận lợi, tính an toàn và giảm thiểu các chi phí giao dịch. Nếu các quy định của Luật chứng khoán không rõ ràng, khó hiểu, quá phức tạp, kém độ an toàn và không thể dễ dàng tiếp cận được đối với các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán, đặc biệt là đối với người dân thì chắc chắn các quy định đó sẽ bị xem là không hiệu quả về mặt kinh tế, nghĩa là có thể làm gia tăng các chi phí giao dịch cho các bên khi gia nhập thị trường.
Vậy, làm thế nào để cho Luật chứng khoán có khả năng giảm thiểu các chi phí gia nhập thị trường chứng khoán? Đây là bài toán tương đối khó giải quyết đối với các nhà làm luật về chứng khoán. Tuy nhiên, có thể hình dung các yêu cầu cơ bản khi thiết kế ban hành và hoàn thiện Luật chứng khoán mà người soạn luật cần đáp ứng, bao gồm:
- Thứ nhất, làm cho các quy định của Luật chứng khoán trở nên rõ ràng, minh bạch, công khai, dễ tiếp cận đối với mỗi người dân, mỗi tổ chức hay mỗi công chức chính quyền. Khi người ta có thể tìm hiểu và nghiên cứu pháp luật về chứng khoán một cách dễ dàng, nhanh chóng và hiệu quả ở mọi nơi, bằng mọi phương tiện thì hiển nhiên là chi phí cho việc tìm hiểu thị trường, gia nhập thị trường và thực thi các giao dịch trên thị trường chứng khoán sẽ giảm đi đáng kể. Dĩ nhiên, khi các chi phí cho việc gia nhập thị trường chứng khoán được tiết giảm đáng kể, với một mức chi phí ngày càng rẻ hơn thì sẽ có tác dụng khuyến khích nhà đầu tư, các tổ chức phát hành và các nhà kinh doanh chứng khoán tham gia thị trường một cách tích cực và thiện chí.
- Thứ hai, làm cho các quy định của Luật chứng khoán ngày càng hợp lí và được thực thi nghiêm túc trong bất kì hoàn cảnh nào. Yêu cầu này liên quan đến quan niệm về tính hợp lí của các quy định luật pháp. Tuy còn nhiều ý kiến tranh luận về vấn đề này nhưng ở mức khái quát, có thể hiểu tính hợp lí của các quy định pháp luật, trong đó bao gồm các quy định của Luật chứng khoán, chính là sự phù hợp hay tương thích của các quy định đó với tình trạng xã hội hiện tại, bao gồm cả sự phù hợp với trình độ phát triển của nền kinh tế và yêu cầu hội nhập quốc tế. Mặt khác, muốn cho các quy định của Luật chứng khoán có thể được thực thi nghiêm túc thì ngoài việc đảm bảo tính hợp lí cho các quy định đó, Luật chứng khoán cần thể hiện được tính nghiêm khắc trong việc áp dụng các chế tài xử lí đối với những hành vi vi phạm pháp luật về chứng khoán, bất luận người vi phạm là ai. Kinh nghiệm thực tiễn còn cho thấy, nếu người dân không được tiếp cận đầy đủ với hệ thống pháp luật và họ không được khuyến khích hành xử theo tinh thần thượng tôn pháp luật, không được trang bị những khả năng v._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 8004.doc