Vai trò của lao động trong sự phát triển kinh tế Việt Nam

Mục lục Trang Lời nói đầu Dân số lao động - việc làm là ba vấn đề rất quan trọng không phải chỉ ở tầm trước mắt ở mỗi quốc gia mà nó là vấn đề phát triển lâu dài ở tất cả các quốc gia và cũng như trên toàn thế giới. Nguồn nhân lực cùng với các nguồn lực khác như nguồn lực tự nhiên, nguồn lực kinh tế và nguồn lực xã hội có vai trò và ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội trong mọi thời đại. Nếu như trước đây, người ta chỉ nhìn nhận vai trò của nguồn nhân lực chỉ

doc43 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1645 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Vai trò của lao động trong sự phát triển kinh tế Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đơn thuần là một phương tiện, là một nguồn lực cho sự phát triển giống như những nguồn lực vật chất khác thì ngày nay với sự thay đổi của công nghệ, phương thức sản xuất… thì sự nhận thức về vai trò và vị trí của nguồn lao động đã có sự thay đổi và bổ sung nhiều. Những thay đổi trên thế giới hiện nay buộc chúng ta phải lựa chọn sự đổi mới cho phù hợp với quy luật khách quan để tồn tại và phát triển. Đặt con người là vị trí trung tâm, coi con người là nhân tố hàng đầu cho sự phát triển nó cũng là mục tiêu của sự phát triển và cũng là yếu tố cơ bản nhất quyết định sự phát triển. Nhận thức rõ vai trò và vị trí của nguồn nhân lực đối với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước ta từ trước đến nay luôn đặt mục tiêu hoạt động của mình là vì hạnh phúc nhân dân. Thực tiễn trong những năm đổi mới gần đây ở nước ta và một số kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới đã cho thấy có nhiều giải pháp phát triển nguồn nhân lực. Nhưng lựa chọn phương pháp nào? và lựa chọn cách thức thực hiện các phương pháp này như thế nào trong từng giai đoạn phát triển để đạt hiệu quả cao tuỳ thuộc vào thực trạng nguồn nhân lực. Vấn đề đào tạo, sử dụng và phát triển nguồn nhân lực đã được nhiều sách báo đề cập tới. Tuy nhiên cần phải thừa nhận rằng vẫn còn nhiều người đang có quan niệm sai lệch về vai trò và vị trí của lao động, nhất là trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Do vậy, nghiên cứu các vấn đề nguồn nhân lực, nhận dạng đúng các đặc trưng cơ bản về thực trạng, xu hướng và các mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình phát triển và nhằm khai thác, sử dụng, bồi dưỡng và phát triển có hiệu quả nguồn nhân lực đang là một đòi hỏi cấp bách, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn rất sâu sắc. Do đó em chọn đề tài "Vai trò của lao động trong sự phát triển kinh tế Việt Nam" làm đề án môn học. Mục tiêu của đề án này là: - Cung cấp các luận cứ và bộ khung lý thuyết đối với việc phát triển nguồn nhân lực. - Đề xuất một số giải pháp thực tiễn để phát triển nguồn nhân lực. Đề án bao gồm 3 chương: Chương I: Phát triển kinh tế và vai trò của lao động đối với sự phát triển kinh tế Chương II: Đánh giá vai trò lao động trong phát triển kinh tế ở Việt Nam Chương III: Giải pháp nâng cao vai trò của lao động ở Việt Nam. Chương I: Phát triển kinh tế và vai trò của lao động đối với sự phát triển kinh tế. I. Vai trò của lao động trong sự phát triển kinh tế. 1. Một số khái niệm cơ bản. 1.1. Phát triển kinh tế. Ngày nay, mọi quốc gia độc lập có chủ quyền trên thế giới đều có những mục tiêu phấn đấu cho sự tiến bộ và phát triển của quốc gia mình. Tuy mỗi nước đều có những khía cạnh, quan điểm khác nhau trong quan niệm riêng của mỗi nước, nhưng nhìn chung, sự phát triển và tiến bộ trong một giai đoạn nào đó của một nước thường được đánh giá bằng 2 mặt: sự gia tăng về kinh tế và sự biến đổi về mặt xã hội. Mọi người thường dùng khái niệm “ sự phát triển kinh tế” để phản ánh sự tiến bộ đó. Phát triển kinh tế có thể hiểu là một quá trình lớn lên(hay tăng tiến) về mọi mặt của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Trong đó bao gồm cả sự tăng lên về quy mô sản lượng và sự tiến bộ về cơ cấu kinh tế-xã hội. Ngoài sự khác nhau trong cách nhìn nhận đánh giá ở mỗi nước, thì một định nghĩa ngắn gọn không thể phản ánh hết được nội dung của sự phát triển kinh tế. Chúng ta có thể rut ra được những vấn đề cơ bản của định nghĩa trên như sau: Sự phát triển bao gồm cả sự tăng thêm về khối lượng của cải vật chất, dịch vụ và sự biến đổi tiến bộ về cơ cấu kinh tế và đời sống xã hội. Tăng thêm quy mô sản lượng và tiến bộ về cơ cấu kinh tế- xã hội là hai mặt có mối quan hệ vừa phụ thuộc vừa độc lập tương đối của lượng và chất. Sự phát triển là một quá trình tiến hoá theo thời gian do những nhân tố nội tại của bản thân nền kinh tế quyết định. Tức là người dân của các quốc gia đó phải là những thành viên chủ yếu tác động đến sự biến đổi kinh tế của đất nước. Họ vừa là người tham gia vào các hoạt động kinh tế, vừa là người hưởng lợi ích do hoạt động này đem lại. Kết quả của sự phát triển kinh tế-xã hội là kết quả của một quá trình vận động khách quan, còn mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội đề ra là thể hiện sự tiếp cận tới các kết quả đó. Phát triển kinh tế đó là một khái niệm bao quát, chung nhất về một sự chuyển biến của nền kinh tế, Từ trạng thái thấp lên trạng thái cao hơn. do vậy không có tiêu chuẩn chung về sự phát triển của tất cả các quốc gia. 1.2. Nguồn lao động. Theo từ điển thuật ngữ lao động của Pháp(1977-1985) thì nguồn lao động không gồm những người có khả năng lao động nhưng không có nhu cầu làm việc. Theo quan điểm này, phạm vi dân số được tính vào nguồn lao động theo nghĩa hẹp hơn so với quan điểm trong từ điển thuật ngữ về lao động của Liên Xô đó là: nguồn lao động là toàn bộ những người lao động dưới dạng tích cực (đang tham gia lao động) và tiềm tàng (có khả năng lao động nhưng chưa tham gia lao động). Theo giáo trình Kinh tế lao động của trường ĐH KTQD Hà Nội, nguồn lao động là toàn bộ dân số trong độ tuổi lao động trừ đi những người trong độ tuổi này hoàn toàn mất khả năng lao động. với quan niệm này nguồn lao động sẽ không bao gồm dân số ngoài tuổi lao động đang thực tế làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân. Khái niệm lao động được sử dụng trong điều tra mẫu quốc gia về lao động- việc làm hàng năm thì quan niệm: nguồn lao động gồm những người từ đủ 15 tuổi trở lên có việc làm và những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động nhưng không có việc làm hoặc đang đi học hoặc đang làm nội trợ cho gia đình mình hoặc chưa có nhu cầu làm việc. Khái niệm này vừa phù hợp với quy định của bộ luật lao độngvề độ tuổi lao động vừa bao gồm những người lao động ở dạng tích cực và người lao động ở dạng tiềm năng. đây là căn cứ để tính toán quy mô nguồn lao động tại một thời điểm nào đó của một vùng hoặc cả nước. Ngoài các đặc trưng cơ bản nêu trên, nguồn lao động còn bao hàm các đặc trưng mang tính cụ thể về tình trạng hoạt động của dân số trong độ tuổi lao động có khả năng lao động và bộ phận dân số tuy hết tuổi lao động nhưng vẫn còn làm việc hoặc đang có nhu cầu làm việc và sẵn sàng làm việc. 1.3. Lực lượng lao động. ở một không gian và thời gian xác định, xét theo khả năng có thể sử dụng theo bộ luật lao động thì khái niệm nguồn nhân lực đồng nghĩa với khái niệm nguồn lao động. Nếu xét về tình trạng hoạt động thì khái niệm nguồn nhân lực cũng đồng nghĩa với lực lượng lao động. Nguồn nhân lực của một quốc gia hay một vùng, một địa phương là tổng hợp những tiềm năng lao động của con người có trong một thời điểm xác định. Tiềm năng lao động đó bao gồm thể lực trí lực và tâm lực(đạo đức, phong cách, lối sống, nhân cách truyền thống…)của bộ phận dân số có thể tham gia vào các hoật động kinh tế - xã hội. Theo nghĩa rộng, nguồn nhân lực là khái niệm chỉ số dân, cơ cấu dân số và chất lượng con người với tất cả dặc điểm, tiềm năng và sức mạnh của nó trong quá trình phát triển kinh tế- xã hội. Do vậy các đặc trưng cơ bản của nguồn nhân lực có quan hệ chặt chẽ mang tính nhân quả với các đặc trưng của dân số ở mỗi giai đoạn phát triển. Các đặc trưng đó bao gồm: Quy mô về số lượng Phân bố theo vùng địa l‎ kinh tế, khu vực thành thị nông thôn. Cơ cấu giới tính. Cơ cấu trình độ chuyên môn kỹ thuật,trình độ học vấn. Cơ cấu tuổi. Lực lượng lao động là một bộ phận của nguồn lao động đang tham gia hoạt động kinh tế không kể có việc làm hay không có việc làm. tuy nhiên cũng có một số điểm khác nhau khi nhận dạng và xác định cụ thể quy mô lực lượng lao động trong một không gian và thời gian xác định. Một số nhà nghiên cứu về dân số ở Anh quan niệm: lực lượng lao động là tất cả những người đang làm việc hoặc đang tìm kiếm việc làm. Theo tổ chức lao động quốc tế (ILO): lực lượng lao động là một bộ phận dân số trong độ tuổi quy định thực tế đang có việc làm và những người thất nghiệp. ở nước ta cũng có nhiều quan niệm khác nhau về lực lượng lao động. theo giáo trình kinh tế lao động của trường ĐH KTQD Hà Nội: lực lượng lao động là số người trong độ tuổi lao động cộng với ẵ số người lao động trên tuổi và 1/3 số người lao động dưới tuổi có khả năng lao động và có nhu cầu làm việc. Trong cuốn sách hướng dẫn nghiệp vụ chỉ tiêu xã hội ở Việt Nam lại quan niệm: lực lượng lao động là những người đủ từ 15 tuổi trở lên có việc làm và không có việc làm. các quan niệm nêu trên về lực lượng lao động mới làm rõ được về mặt định tính hoặc định lượng của các chỉ tiêu lao động. chứ không thể dùng làm căn cứ đánh giá thống kê về quy mô lực lượng lao động được. Bởi vì trong đó còn một vài yếu tố không xác định và không phù hợp với bọ luật lao động của Việt Nam. Theo quan niệm của ngành lao động, lực lượng lao động bao gồm những người từ đủ 15 tuổi trở lên tham gia hoạt động kinh tế, không phân biệt là có việc làm hay đang thất nghiệp. Khái niệm này xét về cơ bản thì thống nhất với quan điểm của ILO và nó cụ thể hơn. Lực lượng lao động tuy là một bộ phận của nguồn lao động nhưng đồng nhất với nguồn lao động. lực lượng lao động khong bao gồm lực lượng dan số trong độ tuổi lao động có khả năng lao động nhưng không tham gia vào hoạt động kinh tế như đang đi học, nội trợ hoặc chưa có nhu cầu làm việc. Do đó, ngoài các đặc trưng cơ bản về kỹ năng chuyên môn trình độ học vấn cò có bao trùm các đặc trưng về cơ cấu trình độ, tác phong lao động, sự hiểu biết để đáp ứng được yêu cầu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 1.4. Việc làm. Đối với mỗi quốc gia, quan niệm về việc làm lại có những quan điểm khác nhau. Bởi vì nó dựa theo yếu tố pháp luật của mỗi quốc gia đó. Nhìn chung việc làm là tất cả các hoạt động tạo ra thu nhập mà không bị pháp luật cấm. Những hoạt động này được thể hiện dưới các hình thức như:làm các công việc được trả công dưới dạng bằng tiền hoặc bằng hiện vật để trả công. Các công việc tự làm để thu lợi cho bản thân. làm các công việc nhằm tạo thu nhậo cho gia đình mình nhưng không hưởng tiền lương. Trước hết phải coi việc làm là một nhu cầu chính đáng của con người, đòi hỏi xã hội pphải giải quyết. Ngược lại xã hội đòi hỏi mọi người có sức lao động phải có nghĩa vụ lao động bình đẳng với mọi người khác. như vậy việc làm vừa là nhu cầu, vừa là quyền lợi nhưng đồng thời cũng là nghĩa vụ trách nhiệm đối với người lao động. Trong chiến lược ổn định và phát triển kinh tê- xã hội đến năm 2010 được thông qua tại đại hội Đảng IX vấn đề việc làm được đề cập một cách thiết thực hơn. với định nghĩa trên, ta thấy việc làm được gắn với người lao động, và còn phân biệt hai phạm trù “ lao động xã hội” và “ lao động gia đình”. Trong mối tương quan rộng lao động xã hội được coi là nhu cầu của mọi người tạo ra của cải vật chất được xã hội thừa nhận. Nhưng lao động gia đình chưa được coi là một nhu cầu của mọi người, thường đó là gánh nặng của người phụ nữ. nhất là trong hoàn cảnh hiện nay, sự phát triển kinh tế xã hội chưa đủ điều kiện để giải phóng người phụ nữ. Người có việc làm là người đủ từ 15 tuổi trở lên hiện đang làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân mà trong tuần lễ lion kề với thời gian điều tra có thời gian làm việc không ít hơn mức chuẩn quy định cho người được coi là có việc làm. đối với những người mà nghỉ làm việc vì một l‎ do khách quan như đang nghỉ đẻ, nghỉ ốm, nghỉ phép, nghỉ hè hoặc đi học có hưởng lương. Nhưng trước đó họ đã có một công việc nào đó với thời gian làm việc thực tế không ít hơn mức chuẩn quy định cho người có việc làm và họ sẽ trở lại làm việc bình thường sau thời gian nghỉ, vẫn được tính là có việc làm. căn cứ vào thời gian thực tế làm việc, chế độ làm việc và nhu cầu làm thêm của người được xác định là có việc làm trong tuần lễ điều tra, người có việc làm chia thành 2 nhóm: người đủ việc làm và người thiếu việc làm. + Người đủ việc làm: là người có số giờ làm việc trong tuần lễ điều tra lớn hơn hoặc bằng 40 giờ, hoặc những người có số giờ làm việc nhỏ hơn 40 giờ nhưng không có nhu cầu làm thêm, hoặc những người có số giờ làm việc theo chế độ làm công việc nặng nhọc độc hại. + Người thiếu việc làm: là người có số giờ làm việc trong một tuần dưới 40 giờ hoặc ít hơn giờ chế độ quy định đối với người làm các công việc nặng nhọc độc hại có nhu cầu làm thêm giờ và sẵn sàng làm việc khi có việc. 1.5. Thất nghiệp. Người thất nghiệp là người đủ 15 tuổi trở lên thuộc nhóm dân số hoạt động kinh tế mà trong tuần lễ điều tra không có việc làm nhưng có nhu cầu làm việc và sẵn sàng làm việc nhưng họ không tìm được việc làm. ở nước ta hiện nay, do hậu quả của dân số và nguồn lao đông tăng nhanh trong thời gian qua dẫn đến tình trạng mức cung lao động rất lớn. Trong khi đó, với hoàn cảnh nền kinh tế chậm phát triển, thiếu vốn đầu tư, lại đang trong quá trình chuyển hoá từ cơ chế cũ sang cơ chế kinh tế mới, nhu cầu về lao động đang ở mức hạn chế, do vậy tỉ lệ thất nghiệp tất yếu sẽ ở mức cao. Căn cứ vào thời gian thất nghiệp, người ta lại chia thành: thất nghiệp dài hạn và thất nghiệp ngắn hạn. Thất nghiệp dài hạn: là thất nghiệp liên tục từ 12 tháng trở lên tính từ ngày đăng k‎ thất nghiệp hoặc từ thời điểm điều tra tính về trước. Thất nghiệp ngắn hạn: là người thất nghiệp dưới 12 tháng tính từ ngày đăng ký‎ thất nghiệp hoặc từ thời điểm điều tra trở về trước. Trong khi phân loại cơ cấu thị trường lao động hiện nay, thất nghiệp được chia ra làm 3 loại khác nhau: thất nghiệp tạm thời, thất nghiệp có tính chu kỳ và thất nghiệp có tính cơ cấu. Thất nghiệp tạm thời: phát sinh ra do sự di chuyển khong ngừng của con người giữa các vùng, các công việc hoặc các giai đoạn khác nhau của cuộc sống. Thất nghiệp có tính cơ cấu xẩy ra khi có sự mất cân đối giữa cung lao động và cầu lao động, sự mất cân đối này có thể diễn ra vì mức cầu đối với một loại lao động tăng lên trong khi mức cầu đối với một loại lao động khác giảm đi, trong khi đó mức cung không được điều chỉnh nhanh chóng. 2. Vai trò của lao động trong sự phát triển kinh tế. Lao động một mặt là một bộ phận thiêt yếu cả nguồn lực phát triển. Đó là yếu tố không thể thiếu được của quá trình sản xuất. Mặt khác lao động là một bộ phận dân số, đó là những người được hưởng lợi ích trực tiếp từ sự phát triển. Con người, nguồn nhân lực đã trở thành mục tiêu của sự phát triển và là yếu tố cơ bản nhất quyết định sự phát triển. Nguồn nhân lực, nó là mục tiêu của sự phát triển, được thụ hưởng những thành quả của sự phát triển. Và chính sự thụ hưởng đó tiếp tục tạo ra sự kích thích, đôngj lực sáng tạo cho sự phát triển của chính bản thân nguồn nhân lực và của sự phát triển chung. Nguồn nhân lực có vị trí vai trò đặc biệt đối với sự phát triển của mỗi quốc gia. Nguồn nhân lực tốt, chất lượng cao, đó là tiền đề vững chắc và nhân tố quyết định đến tốc độ phát triển kinh tế xã hội. Nguồn nhân lực cao có thể đảm bảo chắc chắn trong việc đưa ra những quyết định sáng suốt trong các đường lối, chính sách và phương thức thực hiện các đường lối đó. Đồng thời nó quyết định đến sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật, từ đó tạo điều kiện cho sự thành công và phát triển của nhà nước. Nguồn nhân lực cao có trình độ là nền tảng vững chắc đảm bảo cho việc chuẩn bị tốt và thực hiện thành công quá trình hội nhập quốc tế. Đồng thời nó là cơ sở quan trọng để thực hiện các nhiệm vụ giữ vững trật tự an ninh tổ quốc, bảo vệ lãnh thổ tổ quốc. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, thì lao động phải đựoc xem xét, đánh giá dưới góc độ của năng suất, chất lượng và hiệu quả. L‎ luận triết học xã hội thừa nhận rằng: lao động là phương tiện tồn tại của con người và xã hội. Xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa Mac- Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của con người và nhân tố con người trong sự nghiệp phát triển, Đảng, nhà nước ta luôn luôn coi trọng con người là cị trí trung tâm, lấy đó làm mục tiêu và động lực chính của sự phát triển là vì con người và do con người. 2.1. Con người với vai trò là đầu vào của sự phát triển. Hội nghị lần thứ 4, Ban Chấp Hành TW Đảng khoá VIII đã ra nghị quyết về “ tiếp tục đẩy mạnh về công cuộc đổi mới, phát huy nội lực, nâng coa hiệu quả hợp tác quốc tế, cần kiệm để CNH,HĐH…”. Nguồn nội lực mà nghị quyết TW lần này nêu lên bao gồm: nguồn lực con người, đất đai, tài nguyên thiên nhiên, truyền thống văn hoá lịch sử, khoa học công nghệ… trong đó năng lực con người Việt Nam với thí tuệ truyền thống của dân tộc mình là trung tâm nội lực, là nguồn lực chính để phát triển đất nước. Sự gia tăng số lượng hiển nhiên cho ta thấy rõ sự tăng trưởng là kết quả hay được tạo ra từ quá trình sản xuất. Trong đó quá trình sản xuất là quá trình các nguồn lực (đầu vào) được kết hợp theo cách thức nhất định nhằm tạo ra sản phẩm có ích(sản lượng- đầu ra) theo nhu cầu xã hội. Như vậy rõ ràng giữa việc sử dụng các nguồn đầu vào có quan hệ nhân quả tới sản lượng đầu ra. Nói cách khác sự phát triển hay sự gia tăng sản lượng phải được xác định cách thức sử dụng luồng đầu vào. có thể biễu diễn mối quan hệ đầu ra- đầu vào bằng hàm số như sau(hàm sản xuất). Y= F (Xi). Trong đó Y là giá trị sản lượng. Xi (i=1,2,3,…) là các biến số đầu vào thể hiện các nhân tố kinh tế trực tiếp tạo ra từ giá trị sản lượng. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, các biến số đều chịu sự điều tiết của mối quan hệ cung- cầu. Một số luồng đầu vào (biến số đầu vào) thì ảnh hưởng tới mức cung, một số thì ảnh hưởng tới mức cầu. Sự cân bằng của cung cầu do giá cả thị trường điều tiết, sẽ tác động ngược trở lại các luồng đầu vào và dẫn tới kết quả sản xuất, đó là sản lượng đầu ra của nền kinh tế. Hàm sản xuất có thể nói lên sản lương tối đa có thể sản xuất được tuỳ thuộc vào lượng đầu vào trong điều kiện trình độ kinh tế và khoa học công nghệ kỹ thuật nhất định. Mỗi một yếu tố có vai trò nhất định trong việc tạo ra sự gia tăng sản lượng, điều này phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế ở mỗi nơi, mỗi lúc quyết định. Vốn sản xuất là một bộ phận của tài sản quốc gia được sử dụng trực tiếp vào quá trình sản xuất và cùng các yếu tố sản xuất khác, để tạo ra giá trị sản phẩm. Nó bao gồm máy móc, thiết bị, cơ sở hạ tầng…. Trong điều kiện năng suất lao động không đổi, khi chúng ta tăng tổng số vốn sẽ làm tăng thêm sản lượng hoặc trong khi số lao động không đổi, tăng vốn bình quân đầu người lao động cũng sẽ làm gia tăng sản lượng. Lao động là yếu tố sản xuất. Nguồn sức lao động được tính trên tổng số người ở tuổi lao động và có khả năng lao động trong dân số. Nguồn lao động với tư cách là yếu tố đầu vào trong sản xuất, cũng như các yếu tố đầu vào khác cũng được tính bằng tiền, trên cơ sở giá cả sức lao động được hình thành do thị trường và mức tiền lương quy định. Lao động là một yếu tố sản xuất đặc biệt, do vậy lượng lao động không chỉ đơn thuần là số lượng đầu người hay là số lượng thời gian lao động, mà còn bao gồm cả chất lượng của lao động. Đó là con người bao gồm cả trình độ tri thức, học vấn và những kỹ năng, kinh nghiệm lao động sản xuất nhất định. Do vậy, những chi phí nhằm nâng cao trình độ nguồn lao động cũng được coi là đầu tư dài hạn cho đầu vào. Đất đai là yếu tố quan trọng nhất trong sản xuất nông nghiệp. Còn trong sản xuất hiện nay, đất đai là cơ sở vật chất làm nền móng để phát triển. Do diện tích đất đai là cố định, người ta phải nâng cao hiệu quả sử dụng đất đai bằng cách đầu tư thêm lao động và vốn trên một đơn vị diện tích nhằm tăng thêm sản lượng. Các tài nguyên khác cũng là đầu vào quan trọng trong sản xuất các sản phẩm từ dưới lòng đất, từ rừng biển, nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào được khai thác sẽ làm tăng sản lượng một cách nhanh chóng. Những thành tựu khoa học công nghệ là yếu tố đầu vào đóng vai trò cực kỳ quan trọng cho sản lượng đầu ra của các nước. Những kỹ thuật mới ra đời là do sự tích luỹ kinh nghiệm trong sản xuất đặ biệt là được tạo ra từ những tri thức mới, đem vào áp dụng trong quá trình sản xuất. Ngoài các yếu tố sản xuất, ngày nay người ta còn đưa ra một loạt các nhân tố kinh tế khác tác động đến tổng cung như yếu tố con người, chất lượng lao động, lợi thế do quy mô sản xuất, khả năng tổ chức quản lý‎ . Những nhân tố tạo cung này, rõ ràng đã làm tăng sản lượng. Như đã phân tích ở trên, sự tăng trưởng hay phát triển có quan hệ hàm số với các yếu tố sản xuất như vốn (K), lao động (L), tài nguyên (Đ), khoa học công nghệ(T)… Y= f (K, L, R, T…) Do tính chất kỹ thuật của sản xuất nên các yếu tố đó không phải là tham số rời rạc. Nó có quan hệ với nhau rất chặt chẽ và không thể tách rời được. Để sản xuất một sản phẩm, doanh nghiệp càn 2 yếu tố sản xuất. Vốn và lao động. chúng ta thể hiện công nghệ của doanh nghiệp bằng hàm sản xuất thông thường sau: Y= F (K, L) Công ty bán xuất lượng của mình ở mức giá P, mướn nhân công ở mức tiền công W, và thuê vốn ở mức R. Mục đích của doanh nghiệp là tối đa hoá lợi nhuận. Lợi nhuậnbằng doanh thu trừ đi chi phí. Doanh thu bằng P*Y. chi phí bao gồm chi phí lao động và chi phí vốn. Chi phí lao động bằng W*L, tức tiền công nhân với lượng lao động L. chi phí vốn bằng R*K, tức là giá tiền thuê vốn R nhân với lượng vốn K. Lợi nhuận = doanh thu – chi phí lao động – chi phí vốn = PY - WL - RK Sau đó, để thấy lợi nhuận phụ thuộc như thế nào vào các yếu tố đầu vào sản xuất, chúng ta sử dụng hàm sản xuất Y= F (K,L) để thay vào cho Y, ta được: Lợi nhuận = P* F (K,L) - WL - RK Phương trình này cho thấy rằng lợi nhuận phụ thuộc vào P, W, R, L, và K. Công ty cạnh tranh coi giá sản phẩm và giá các yếu tố sản xuất là cho trước và xác định lượng lao động và lượng vốn để tối đa hoá lợi nhuận. Chúng ta biết rằng doanh nghiệp sẽ thuê nhân công và thuê vốn với số lượng sao cho tối đa hoá được lợi nhuận. Nhưng đâu là lượng tối đa hoá? để trả lời cho câu hỏi này, chúng ta phải xem xét lượng lao động sau đó là lượng vốn. Năng suất lao động biên (MPL) là mức sản lượng tăng thêm do sử dụng thêm một đơn vị lao động, trong khi vẫn giữ nguyên lượng vốn, sử dụng hàm sản xuất, MPL được thể hiện như sau: MPL = F (K,L + 1) – F (K,L). Hầu hết các hàm sản xuất có đặc tính là năng suất biên giảm dần: với lượng vốn không đổi, năng suất lao động biên giảm khi lượng lao động tăng năng suất lao động biên giảm dần. Khi một doanh nghiệp cạnh tranh và tối đa hoá lợi nhuận đang quyết định xem có nên thuê thêm một đơn vị lao động nữa hay không thì nó xem xét quyết định đó ảnh hưởng như thế nào đến lợi nhuận. Do đó doanh nghiệp so sánh doanh thu tăng thêm do tăng sản lượng từ lao động tăng thêm và mức tăng chi phí do trả tiền công cao hơn. mức tăng doanh thu từ một đơn vị lao động tăng thêm phụ thuộc vào hai biến số: sản phẩm lao động biên và giá xuất lượng. Do mỗi đơn vị lao động tăng thêm tạo ra các đơn vị MPL của xuất lượng và mỗi đơn vị xuất lượng bán được với giá P, cho nên mức doanh thu tăng thêm là P*MPL. Chi phí tăng lên do mướn thêm một đơn vị lao động là mức tiền công W. do đó mức lợi nhuận thay đổi do thuê thêm một đơn vị lao động là: Lợi nhuận = doanh thu – chi phí = (P*MPL) - W Do đó, cầu về lao động của doanh nghiệp được xác định bằng P*MPL = W, hay một cách thể hiện khác là MPL= W/P, trong đó W/P mức tiền công thực- mức chi trả cho lao động được đo bằng đơn vị xuất lượng chứ không phải bằng tiền. Để tối đa hoá lợi nhuận, doanh nghiệp thue lao động đến mức mà doanh thu tăng thêm bằng với mức tiền công thực. (thêm biểu đồ) 2.2. Con người là yếu tố thụ hưởng. Tất cả những thành quả của sự phát triển, mục đích chung lại là đều nhằm phục vụ con người, làm thoã mãn sở thích của con người. Quy luật kinh tế cơ bản của Chủ Nghĩa Xã Hội là “ không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội, nhằm thoã mãn nhu cầu ngày càng tăng của mọi thành viên trong xã hội là định hướng cơ bản của nền kinh tế thị trường ở nước ta.”. Quan điểm đặt con người vào vị trí trung tâm của công cuộc phát triển đất nước, yêu cầu phát huy mạnh mẽ nhân tố con người, phát triển nguồn nhân lực. Trong công cuộc Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá theo hướng xã hội chủ nghĩa, đặt khoa học, công nghệ, giáo dục và đào tạo vào vị trí nền tảng động lực của sự phát triển. Điều này được khẳng định rõ ràng trong đề cương về việc xây dựng chiến lược phát triển kinh tế xã hội đến năm 2010. Lao động gắn liền dân số và các quá trình kinh tế xã hội. Mỗi người lao động cùng lúc là người sản xuất cũng đồng thời là người tiêu dùng. Với tư cách là người tiêu dùng, sức mua của người lao động cũng như cầu về nâng cao phúc lợi xã hội và các giá trị vật chất tinh thần cho con người nó lại là động lực định hướng cho sự phát triển kinh tế- xã hội. Do vậy, khi xem xét tổng thể các quan hệ kinh tế xã hội trong quá trình phát triển, con người là nhân tố quyết định. Chất lượng nguồn nhân lực càng cao càng thúc đẩy mạnh mẽ quá trình hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá về quy mô và cường độ. II. Các nhân tố ảnh hưởng tới lao động- việc làm. Các yếu tố thị trường lao động bao gồm: cung lao động, cầu lao động, giá cả sức lao động, cạnh tranh trên thị trường lao động. Trong 4 yếu tố nêu trên thì tổng cung lao động và tổng cầu lao động là 2 yếu tố cơ bản nhất. 1. Các yếu tố ảnh hưởng đến lao động. Tổng cung lao động trên thị trường lao động còn phụ thuộc vào một số nhân tố cơ bản sau đây: quy mô và tốc độ tăng của dân số, quy mô và tốc độ tăng của nguồn nhân lực, tỷ lệ tham gia của lực lượng lao động, độ dài thời gian làm việc của người lao động. và khả năng làm thoã mãn các nhu cầu về mức sống đối với tầng lớp dân cư khác nhau. Những thay đổi trong các quá trình biến đổi dân số(sinh, đẻ, tử vong, di cư). Đó là yếu tố dân số học. Tổng cung lao động được xác định theo công thức: Ls = Pwa * Rlfp Trong đó Ls là tổng cung lao động Pwa là dân số tuổi lao động Rlfp là tỷ lệ tham gia lực lượng lao động. Là số phần trăm của dân số trong độ tuổi lao động tham gia lực lượng lao động trong tổng số nguồn nhân lực. Nhân tố cơ bản tác động đến tỷ lệ này là bộ phận dân số trong độ tuổi lao động không có nhu cầu làm việc vì nhiều l‎y do như đang đi học, hoặc đang làm nội trợ cho gia đình… Khi phân tích cung lao động người ta chú ‎ ý đến cơ cấu tuổi dân số. Dân số có cơ cấu trẻ sẽ cung cấp nguồn lao động lớn cho tương lai. Ngày nay dân số là vấn đề không chỉ riêng của từng quốc gia mà là vấn đề của toàn cầu cho nên việc giảm sức ép của dân số đến nền kinh tế, xã hội môi trường nhằm phát triển bền vững đã có tiếng nói chung va có sự đóng góp của các quốc gia phát triển và đang phát triển. Ngoài ra còn chịu ảnh hưởng bởi yếu tố kinh tế, văn hoá, xã hội, nó tác động đến cung lao động thông qua các tác động của chúng đến mức độ tham gia lao động của các nhóm dân số đặc trưng. Các yếu tố kinh tế có thể là tốc độ tăng trưởng GDP, mức thu nhập, các cơ hội làm việc và vị trí địa lý, đặc điểm ngành nghề… Các yếu tố xã hội bao gồm cơ hội tiếp nhận giáo dục, mức độ học qua các lớp đào tạo, luật pháp, chế độ phân biệt…, về văn hoá có thể bao gồm phong tục tập quán, tôn giáo… 2. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc làm. Tổng cầu lao động là toàn bộ nhu cầu về sức lao động của một nền kinh tế ở một thời kỳ nhất định. Việc làm là trạng thái trong đó diễn ra các hoạt động lao động mang lại thu nhập và không bị pháp luật cấm. Thất nghiệp gồm những người không có việc làm nhưng đang tích cực tìm kiếm việc làm. Số người không có việc làm sẽ làm ảnh hưởng tới những người đang có việc làm và ảnh hưởng tới nền kinh tế. Đây là vấn đề của mọi quốc gia vì nó tác động đến cả khía cạnh xã hội lẫn kinh tế. Cầu trên thị trường lao động phụ thuộc vào các nhân tố sau đây: Các nhân tố vĩ mô tác động đến cầu lao động bao gồm: khả năng phát triển kinh tế của đất nước, cơ cấu ngành nghề và sự phân bố giữa các ngành nghề, giữa nông thôn và thành thị, giữa các vùng lãnh thỗ, tỷ lệ lạm phát, thất nghiệp v.v… Các yếu tố vi mô tác động đến tổng cầu lao động bao gồm: giới tính, lứa tuổi, dân tộc, tôn giáo, đẳng cấp trong xã hội. Các yếu tố này chi phối nhiều đến sự tăng giảm cầu lao động. Trước hết sự thay đổi cơ cấu kinh tế sẽ tác động mạnh đến số lượng và chất lượng cầu lao động. Như đã biết, việc làm phân bổ theo cơ cấu kinh tế bao gồm làm việc trong nông, lâm, ngư nghiệp, trong công nghiệp và xây dựng, và làm việc trong khu vực dịch vụ. Sự chuyển dịch cơ cấu sẽ chuyển theo xu hướng là lao động trong khu vực nông lâm ngư nghiệp sẽ chuyển sang khu vực công nghiệp va xây dựng, dịch vụ. Điều này cần phải đòi hỏi về trình độ văn hoá, chuyên môn kỹ thuật và tay nghề, do đó vấn đề đào tạo và phát triển nguồn nhân lực rất quan trong giai đoạn hiện nay. Yếu tố thứ 2 tác động đến việc làm là tăng trưởng kinh tế. Như đã biết hàm sản xuất được viết Q = F(K,L), trong đó Q là sản lượng, K là vốn< L là lao động. Nếu công nghệ và giá cả cố định thì tăng trưởng kinh tế sẽ làm tăng cầu lao động. Thứ ba là lựa chọn kiểu và mức độ công nghiệp hoá. Đảng và Nhà nước ta xác định đường lối phát triển là công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Rõ ràng với tình trạng hiện nay của nước ta, chúng ta phải lựa chọn công nghệ với chi phí tối thiểu để sử dụng lao động nhiều hơn thay vì nhập khẩu và sử dụng công nghệ cao ít lao động. Thứ tư là yếu tố giá cả. đây là yếu tố ảnh hưởng gián tiếp đến việc làm. Như đã biết, mối liên hệ giữa giá cả và cầu lao động được biễu diễn thông qua hàm sau: P*Q = W*L + r*K, trong đó P là mức giá, Q là sản lượng đầu ra, W là tiền công, r là lãi suất vốn. Giá cả là yếu tố quan trọng trong việc lựa chọn các phương án sản xuất, tác động đến tỷ trọng lao động và vốn. Thứ năm là yếu tố phân phối thu nhập và các hình thức tiêu dùng. Nếu chúng ta tiêu dùng các hàng hoá mà sử dụng nhiều lao động trong nước để sản xuất ra hàng hoá đó thì sẽ làm tăng nhu cầu lao động. Ngược lai, nếu chúng ta tiêu dùng hàng hoá nhập ngoại, thì việc làm sẽ ít được tạo ra. Yếu tố nữa là tiết kiệm và tạo vốn, và chính sách khuyến khích tạo việc làm của Nhà nước. Đây là yếu tố quan trọng đối với đặc điểm của nước ta. Nước ta có một nền chính trị ổn định, và các chính sách pháp luật về kinh tế việc làm, xã hội đang dần dần được hoàn thiện. Điều này sẽ thúc đẩy sự phát triển xã hội, và việc làm mới sẽ được tạo ra. Chương II: Đánh giá vai trò lao động trong phát triển kinh tế ở Việt Nam I. Đánh giá về thực trạng lao động – việc làm trên thị trường lao động ở Việt Nam Thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 21 – thế kỷ củ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35643.doc
Tài liệu liên quan