Đặt vấn đề
Từ những năm đầu thập kỷ 90 trở lại đây có lẽ không còn mấy ai nghi ngờ về vai trò của sản xuất hàng hoá, của kinh tế thị trường trong sự nghiệp xây dựng đất nước ở thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Tuy vậy do ảnh hưởng của những quan niệm trước đây về một chủ nghĩa xã hội không có kinh tế hàng hoá, không có quan hệ thị trường và do bản thân kinh tế thị trường lại có tính hai mặt của nó cho nên trong thực tế, việc nhận thức cho đúng "vai trò của kinh tế thị trường định
21 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1442 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Vai trò của Kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hướng xã hội chủ nghĩa" còn có nhiều vấn đề cần xem xét.
Thị trường là một thực tế tồn tại tự nhiên qua nhiều chế độ khác nhau. Chủ nghĩa tư bản chỉ có công mở rộng thị trường lớn gấp hàng lần so với thị trường dưới chế độ phong kiến và ngay thị trường tư bản chủ nghĩa cũng không ngừng phát triển và thay đổi với cả hai mặt tốt xấu. Từ kết luận này có thể khẳng định việc xây dựng một thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là việc làm hoàn toàn phù hợp quy luật khách quan và rất hiện thực. Vậy nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta có tính khách quan và đặc điểm cũng như các giải pháp để phát triển nó như thế nào ?.
II. Giải quyết vấn đề
Nước ta từng bước chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một vấn đề lớn, là điểm then chốt trong lý luận về chủ nghĩa xã hội. Vấn đề đó không chỉ có ý nghĩa lý luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn rất quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
1. Tai sao nước ta phải phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Theo lối tư duy cũ, không ít các nhà kinh tế thị trường đem lại lý luận Mác – Lênin đối lập với các lý thuyết kinh tế thị trường do đó, có những định kiến kỳ thị đối với các học thuyết kinh tế thị trường. Thật ra kinh tế thị trường là sản phẩm của sự phát triển của xã hội loài người, nó là sự phát triển cao của kinh tế hàng hoá.
1.1. Nước ta đang từng bước chuyển đổi sang kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Quá trình đó được thực hiện qua ba bước cơ bản đó là:
+ Cải cách cơ cấu sở hữu: biến nền kinh tế về cơ bản dựa trên chế độ sở hữu toàn dân và tập thể thành nền kinh tế nhiều thành phần dựa trên sự đa dạng hoá của sở hữu.
+ Đối với cơ chế kinh tế với định hướng chuyển từ trạng thái nhà nước chỉ huy nền kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính, bằng kế hoạch hoá tập trung quan liêu sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
+ Từng bước chuyển sang nền kinh tế hàng hoá và hình thành một hệ thống kinh tế mở.
Kinh tế hàng hoá là một thành tựu của nền văn minh nhân loại và không đối lập với chủ nghĩa xã hội. Cơ chế vận hành của nó là cơ chế kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Có nhiều định nghĩa về cơ chế thị trường nhưng nói chung, cơ chế thị trường là tổng thể phương thức vận hành nền kinh tế sao cho phù hợp với các quy luật khách quan của thị trường trong đó gồm có quan hệ kinh tế (mà quan hệ cung cầu là trung tâm) các hình thức kinh tế (mà giá cả thị trường là cốt lõi) các phương pháp (mà cạnh tranh là sức sống). Từ đó tạo ra những lực hút đẩy theo một xu hướng nhất định nhằm chi phối 3 vấn đề cơ bản của nền sản xuất xã hội. Sản xuất cái gì, sản xuất bằng cách nào, sản xuất cho ai.
1.2. Nội dung của sự chuyển đổi sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Nội dung đầu tiên là phải bảo đảm sự ổn định vĩ mô nền kinh tế xã hội. Một trong những yếu tố quyết định của sự ổn định về chính trị đảm bảo cho chương trình ổn định, kinh tế vĩ mô tiến hành được nhất quán.
Nội dung cơ bản của sự chuyển đổi sang cơ chế kinh tế thị trường là tự do hoá kinh tế, bao gồm tự do hoá giá cả, tự do hoá hoạt động thương mại và bao gồm việc mở cửa cho đầu tư.
Cải cách thể chế tạo định hướng thị trường mà trước hết Nhà nước phải tạo ra môi trường pháp lý cho đầu tư và kinh doanh tạo sân chơi bình đẳng và cạnh tranh theo pháp luật.
Cải cách doanh nghiệp nhà nước, nhà nước phải đóng vai trò chủ đạo vì nhà nước vừa là người sở hữu tài sản quốc gia vừa là người phân giao quyền sử dụng vừa là người bảo vệ quyền lợi của người lao động.
1.3. Sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa vừa là một đặc trưng cơ bản của kinh tế thị trường vừa là một điều kiện tiền đề cần phải có để vận hành cơ chế thị trường ở nước ta.
1.4. Quá trình chuyển đổi sang cơ chế kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước mang lại kết quả đáng kể vượt quá mong mỏi ban đầu.
Việt Nam là một trong những nước có nền kinh tế thị trường tăng nhanh nhất trên thế giới. Lạm phát giảm từ mức độ siêu lạm pháp 800% năm xuống còn một con số, lạm phát vẫn giữ ở mức độ thấp là 21% năm. Tích luỹ trong nước tăng 5 lần so với GDP từ 3% lên đến 17% sản lượng nông nghiệp gấp đôi. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt.
1.5. Những thách thức đặt ra cho nền kinh tế Việt Nam
Để vượt lên thử thách ta cần phát huy tối đa nguồn lực trong nước, giải phóng mọi măng lực sản xuất của toàn dân của mọi thành phần kinh tế đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài.
Cần đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn, khai thác có hiệu quả tiền năng đa dạng của nông lâm ngư nghiệp. Như vậy sẽ cho phép giải phóng và phát huy nguồn lực con người ở nông thôn – yếu tố cơ bản của sự phát triển nhanh và bền vững.
Cần đẩy mạnh việc cải tiến và hoàn thiện hệ thống ngân hàng sắp xếp lại các ngân hàng thương mại cổ phần.
Đẩy mạnh chính sách thương mại tự do theo hướng tạo điều kiện dễ dàng cho các doanh nghiệp được xuất nhập khẩu trực tiếp các hàng hoá không bị cấm.
Cuối cùng đẩy mạnh việc cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước dễ đảm bảo mục tiêu cổ phần hoá 2000 doanh nghiệp vào năm 2000. Mặt khác cần có chính sách khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển mạnh hơn nữa.
2. Tính tất yếu khách quan của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Sau kháng chiến thắng lợi, dựa vào kinh nghiệm của các nước xã hội chủ nghĩa, đất nước ta bắt đầu xây dựng mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung dựa trên hình thức sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất. Từ một nền kinh tế lạc hậu và phân tán bằng công cụ kế hoạch hoá nhà nước đã tập trung vào tay mình một lực lượng vật chất quan trọng về đất đai, tài sản và tiền bạc để ổn địn và phát triển nền kinh tế. Nền kinh tế kế hoạch hoá trong thời kỳ đầu thực hiện ở nước ta tỏ ra phù hợp, nó tạo ra những bước chuyển biến quan trọng về mặt kinh tế xã hội.
Nhưng sau giải phóng Miền Nam, bước tranh mới về hiện trạng kinh tế xã hội đã thay đổi. Trong một nền kinh tế cùng một lúc tồn tại cả ba loại hình kinh tế, kinh tế tự cấp, tự túc, nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, và kinh tế hàng hoá.
Đó là thực tế khách quan tồn tại sau năm 1975. Do các quan hệ kinh tế đã thay đổi rất nhiều việc áp dụng cơ chế quản lý kinh tế cũ vào điều kiện nền kinh tế thay đổi làm xuất hiện rất nhiều, hiện tượng tiêu cực. Những hiện tượng đã gây ra nhiều hậu quả xấu cho nền kinh tế sự tăng trưởng kinh tế “ gặp nhiều khó khăn”. Nguyên nhân sâu xa về sự suy thoái nền kinh tế nước ta là do ta đã rập khuôn một mô hình kinh tế chưa thích hợp và kém hiệu quả, nhưng sai lầm cơ bản là:
- Ta đã thực hiện chế độ sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất trên một quy mô lớn trong điều kiện chưa cho phép. Điều này dẫn đến một bộ phận tài sản vơ chư đã không sử dụng có hiệu quả nguồn lực rất khan hiếm của đất nước trong khi dân số ngày một gia tăng.
- Thực hiện việc phân phối theo lao động cũng trong điều kiện chưa cho phép.
- Việc quản lý kinh tế của Nhà nước lại sử dụng các công cụ hành chính, mệnh lệnh theo kiểu thời chiến không thích hợp với yêu cầu tự do lựa chọn của người sản xuất và người tiêu dùng đã không kích thích sự sáng tạo của hàng triệu người lao động.
Trước sự suy thoái kinh tế nghiêm trọng viện trợ nước ngoài lại giảm sút, đã đặt nền kinh tế nước ta với sự bức bách phải đổi mới.
Tại đại hội VII đảng ta xác định rõ việc đổi mới cơ chế kinh tế ở nước ta là một tất yếu khách quan và trên thực tế đang diễn ra việc đó tức là chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý cuả Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là một sự thay đổi về nhận thức có ý nghĩa rất quan trọng trong lý luận cũng như trong thực tế lãnh đạo của Đảng trên mặt trận kinh tế. Dưới góc độ khoa học thì việc chuyển đổi nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế thị trường là đúng đắn. Nó phù hợp với thực tế của nước ta phù hợp với các quy luật kinh tế và với xu thế của thời đại.
Thứ nhất: Nếu vẫn giữ cơ chế kinh tế cũ thì không thể nào có đủ sản phẩm để tiêu dùng chứ chưa muốn nói đến tích luỹ vốn để mở rộng sản xuất. Thực tế những năm cuối của thập kỷ tám mươi đã chỉ ra thực hiện cơ chế kinh tế cũ cho dù chúng ta đã liên tục đổi mới hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế nhưng hiệu quả của nền sản xuất đạt mức thấp. Sản xuất không đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của xã hội, tích luỹ hầu như không có đôi khi còn ăn lạm vào vốn vay của nước ngoài.
Thứ hai: Do đặc trưng của nền kinh tế tập trung là rất cứng nhắc do đó nó chỉ có tác dụng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn ngắn và chỉ có tác dụng phát triển nền kinh tế theo chiều rộng.
Thứ ba: Xét về sự tồn tại thực tế ở nước ta những nhân tố của kinh tế thị trường. Thực tế kinh tế thị trường đã hình thành và phát triển đạt được những mức khác nhau ở hầu hết các đô thị và các vùng đồng bằng ven biển. Thị trường nước ta phát triển chưa đồng bộ còn thiếu hẳn thị trường các yếu tố sản xuất như thị trường lao động, thị trường vốn và thị trường đất đai và về cơ bản vẫn là thị trường tự do, mức độ can thiệp của Nhà nước còn rất thấp.
Thứ tư: Xét về mối quan hệ kinh tế đối ngoại ta thấy nền kinh tế nước ta đang hoà nhập với nền kinh tế thị trường thế giới.
Thứ năm: Xu hướng chung phát triển kinh tế của thị trường thế giới là sự phát triển kinh tế của mỗi nước không thể tách rời. Sự phát triển và hoà nhập quốc tế. Sự cạnh tranh giữa các quốc gia đã thay đổi hẳn về chất không còn là dân số đông, vũ khí nhiều, quân đội mạnh mà là tiềm lực kinh tế. Tiềm lực kinh tế đã trở thành thước đo chủ yếu, vai trò và sức mạnh của mỗi dân tộc, là công cụ chủ yếu dễ bảo vệ uy tín và duy trì sức mạnh của đảng và cầm quyền.
3. Đặc điểm nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Chuyển nền kinh tế từ hoạt động theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung – hành chính – quan liêu – bao cấp sang phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướn xã hội chủ nghĩa là nội dung bản chất và đặc điểm khái quát nhất đối với nền kinh tế nước ta trong hiện tại và tương lai. Tuy nhiên cần phải phân tích sâu thêm bản chất đặc điểm đã được khái quát nói trên để có thể hiểu rõ và thống nhất hơn trong nhận thức và hành động.
Thứ nhất: Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà nước ta sẽ xây dựng là nền kinh tế thị trường hiện đại với tính chất xã hội hiện đại (xã hội chủ nghĩa). Mặc dù nền kinh tế nước ta đang nằm trong tình trạng lạc hậu và kém phát triển nhưng khi nước ta chuyển sang phát triển kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường thì thế giới đã chuyển sang giai đoạn kinh tế thị trường hiện đại. Bởi vậy, chúng ta không thể và không nhất thiết phải trải qua giai đoạn kinh tế hàng hoá giản đơn và giai đoạn kinh tế thị trường hiện đại.
Mặc khác, thế giới vẫn đang nằm trong thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội cho nên sự phát triển kinh tế – xã hội nước ta phải theo định hướng xã hội chủ nghĩa là cần thiết, khách quan và cũng là nội dung yêu cầu của sự rút ngắn.
Thứ hai: Nền kinh tế của chúng ta là nền kinh tế hỗn hợp nhiều thành phần với vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong một số lĩnh vực, một số bộ phận quan trọng có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Nền kinh tế hàng hoá, nền kinh tế thị trường phải là một nền kinh tế đa thành phần đa dạng hình thức sở hữu. Thế nhưng nền kinh tế thị trường mà chúng ta sẽ xây dựng là nền kinh tế thị trường hiện đại, cho nên cần có sự tham gia bởi “bàn tay hữu hình” của Nhà nước trong việc điều tiết quản lý nền kinh tế đó. Đồng thời, chính nó sẽ bảo đảm sự định hướng phát triển của nền kinh tế thị trường. Sự quản lý, điều tiết, định hướng phát triển nền kinh tế thị trường của Nhà nước thông qua các công cụ chính sách kinh tế vĩ mô và vai trò chủ đạo của khu vực kinh tế Nhà nước, kinh tế nhà nước phải nắm giữ vai trò chủ đạo ở một số lĩnh vực then chốt có ý nghĩa là “ mạch máu” của nền kinh tế. Cùng với việc nhấn mạnh vai trò chủ đạo của nền kinh tế nhà nước, cần coi trọng vai trò của khu vực kinh tế tư nhân và kinh tế hỗn hợp, đặt chúng trong mối quan hệ gắn bó hữu cơ, thống nhất, không tách rời biệt lập.
Thứ ba: Nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường, theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, là nhà nước của dân do dân vì dân. Thành tố quan trọng mang tính quyết định trong nền kinh tế thị trường hiện đại là nhà nước tham gia vào quá trình kinh tế. Nhưng khác với nhà nước ta là nhà nước “ của dân, do dân và vì dân” Nhà nước công nông, nhà nước của đại đa số nhân dân lao động, , đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Nó có đủ bản lĩnh, khả năng và đang tự đổi mới để bảo đảm giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thứ tư: Cơ chế vận hành của nền kinh tế được thực hiện thông qua cơ chế thị trường với sự tham gia quản lý điều tiết của Nhà nước. Mọi hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế được thực hiện thông qua thị trường. Các quy luật của kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường chi phối các hoạt động kinh tế. cơ chế hoạt động của nền kinh tế là thị trường điều tiết nền kinh tế, nhà nước điều tiết thị trường và mỗi quan hệ Nhà nước – thị trường – các chủ thể kinh tế là mối quan hệ hữu cơ, thống nhất.
Thứ năm: Mở cửa, hội nhập nền kinh tế trong nước với nền kinh tế thế giới, trên cơ sở giữ vững độc lập tự chủ và toàn vẹ lãnh thổ của quốc gia là nội dung quan trọng của nền kinh tế thị trường ở nước ta. Quá trình phát triển của kinh tế thị trường đi liền với xã hội hoá nền sản xuất xã hội. Một trong những đặc trưng quan trọng của kinh tế thị trường hiện đại là việc mở rộng giao lưu kinh tế với những khu vực hoá, toàn cầu hoá đang ngày càng phát triển và trở thành xu thế tất yếu, trong thời đại của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ hiện nay. Để phát triển trong điều kiện của kinh tế thị trường hiện đại Việt Nam không thể đóng cửa, khép kín nền kinh tế trong trạng thái tự cung tự cấp mà phải mở cửa hội nhập kinh tế thế giới.
Thứ sau: Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đồng thời với việc bảo đảm công bằng xã hội cũng là một nội dung quan trọng trong nền kinh tế thị trường ở nước ta. Phát triển công bằng và phát triển bền vững, là những thuật ngữ phổ biến và là xu thế của thời đại hiện nay. Khác với nhiều nước, chúng ta phát triển kinh tế thị trường nhưng chủ trương bảo đảm công bằng xã hội, thực hiện sự thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội trong tất cả các giai đoạn của sự phát triển kinh tế của nước ta.
Thứ bảy: Giải quyết mối quan hệ giữa lao động và tư bản (vốn) thông qua phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, được thực hiện theo kết quả lao động là chủ yếu kết hợp với một phần theo vốn và tài sản. Đây là điểm khác biệt giữa nền kinh tế thị trường trong chủ nghĩa tư bản với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Tóm lại: Quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta phải là quá trình thực hiện dân giầu, nước mạnh, tiến lên hiện đại trong một xã hội nhân dân làm chủ, nhân ái, có văn hoá, có kỉ cương, xoá bỏ áp bức bất công tạo điều kiện cho mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.
4. Sự giống và khác nhau căn bản giữa kinh tế thị trường ở Việt Nam với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam khác với kinh tế thị trường tư bản chủ nghiã ở những điểm căn bản sau đây.
- Có sự lãnh đạo của Đảng cộng sản đối với kinh tế thị trường thông qua đường lối chủ trương chính sách và các cán bộ quản lý kinh tế cán bộ kinh doanh
- Có sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nếu như sự cam thiệp sự quản lý của Nhà nước đối với kinh tế thị trường là thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế – một đặc trưng của kinh tế thị trường hiện đại (kể cả trong các nước tư bản chủ nghĩa) thì đối với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chức năng đó được thực hiện bởi nhà nước của dân do dân vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sảm. Thông qua kế hoạch chính sách, pháp luật, các công cụ điều tiết vĩ mô cũng như bộ máy tổ chức và cán bộ của mình, nhà nước tác động vào kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế thị trường hạn chế xu hướng tự phát tư bản chủ nghĩa, hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của kinh tế thị trường kết hợp tăng trưởng kinh tê với tiến bộ và công bằng xã hội.
- Dựa trên nền kinh tế nhiều thành phần mà trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo. Sự lớn mạnh và làm ăn có hiệu quả của kinh tế nhà nước là yếu tố định hướng xã hội chủ nghĩa của kinh tế thị trường.
Kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế – xã hội mà trong đó quá trình sản xuất phân phối, trao đổi tiêu dùng đều gắn với thị trường, được thực hiện thông qua thị trường. Vì vậy, kinh tế thị trường không chỉ là công nghệ, là kỹ thuật mà còn là quan hệ xã hội, nó không chỉ là bao hàm yếu tố lực lượng sản xuất mà còn quan hệ sản xuất. Kinh tế thị trường gồm nhiều hình thức sở hữu mà trong đó nó phụ thuộc vào chế độ sở hữu thống trị. Mặt khác bản thân quan hệ thị trường quan hệ hàng hoá - tiền tệ là thể hiện quan hệ giữa người với người trong xã hội.
Vì vậy không có kinh tế thị trường chung chung thuần tuý. Trừu tượng tách khỏi các hình thái kinh tế – xã hội tách rời chế độ xã hội. Trong các chế độ xã hội khác nhau, kinh tế thị trường mang tính chất xã hội khác nhau – tác động tích cực tiêu cực của kinh tế thị trường đến đâu còn phụ thuộc vào chế độ xã hội, vai trò Nhà nước vào chính sách và pháp luật của Nhà nước.
Tác động của kinh tế thị trường phải thông qua cơ chế thị trường vì nó là cơ chế vận hành khách quan của kinh tế thị trường. Cơ chế thị trường dựa trên các quan hệ cung cầu. Dựa trên các quy luật của thị trường như quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, quy luật lưu thông tiền tệ. Chính vì vậy không thể căn cứ vào công thức mà đại hội VIII của Đảng nêu lên là “ Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa” để nói rằng Đảng ta chỉ chấp nhận cơ chế thị trường. Không thể có cơ chế thị trường mà lại không có cơ chế thị trường mà lại không có kinh tế thị trường.
- Giải quyết mối quan hệ giữa lao động và tư bản thông qua phân phối thu nhập đây là thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
- Đặc trưng của thị trường tư bản chủ nghĩa là phân phối theo tư bản với các bộ luật như luật thương mại, luật chứng khoán, luật bảo vệ quyền lợi cho tư bản.
5. Một vài suy nghĩ về đặc điểm kinh tế thị trường hiện nay.
+ Nền kinh tế thị trường nước ta hiện nay có thể nói đang trong giai đoạn quá độ chuyển tiếp nền kinh tế tập trung hành chính bao cấp sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chính vì thế những đặc điểm trên đương nhiên là một vấn đề cần được xem xét.
+ Nhận thức được điểm phức tạp sẽ tránh được sai lầm chủ quan, nóng vội hoặc những khuynh hướng cực đoan.
+ Đều có ý nghĩa với việc xác định đặc điểm nền kinh tế hiện nay, có lẽ là sự thừa nhận xu hướng chủ yếu trong sự vận động của nó.
6. Giải pháp phát triển kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay.
Trên cơ sở đánh giá thực trạng của nền kinh tế nước ta hiện nay phân tích những thành tựu đã đạt được và những khó khăn tồn đọng. Vậy trong những năm tới cần phải tiếp tục làm những công việc sau đây:
6.1. Tiếp tục quá trình tự do hoá giá cả, thương mại hoá nền kinh tế một cách triệt để.
Tự do hoá giá cả, thương mại hoá nền kinh tế là một trong những nội dung trọng yếu của lô trình chuyển đổi. Trong điều kiện nước ta hiện nay thị trường giá cả còn có những diễn biến phức tạp. Điều đó đòi hỏi các biện pháp quản lý giá cả của Nhà nước phải hết sức linh hoạt và đa dạng phù hợp với diễn biến của mỗi loại hình thái thị trường đang từng bước chuyển mình trong cơ chế mới.
a. Các biện pháp quản lý giá trên thị trường độc quyền.
Hiện nay thị trường độc quyền đã được thu hẹp nhiều nhưng vẫn còn tồn đọng một số ngành có tính chất độc quyền nhà nước, đó là cá ngành Bưu điện, Bưu chính viễn thông... sản phẩm của những ngành này có vị trí rất quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Nói cách khác là đối với những ngành này sự quản lý và điều hành tập trung thống nhất của Nhà nước trung ương là tất yếu và cần thiết. Nhà nước quản lý cả những sản phẩm này bằng các hình thức sau:
+ Quy định giá chuẩn đối với hàng hoá dịch vụ độc quyền như giá điện, cước thư, cước điện thoại trong nước.
+ Quy định chính sách cơ chế quản lý giá sử dụng tài nguyên thiên nhiên.
Tóm lại trong tương lai xu hướng chung là từng bước, từng phần xoá bỏ vị trí độc quyền của các sản phẩm bằng cách nhà nước tạo điều kiện và cho phép tiếp tục mở rộng hợp tác liên doanh nước ngoài.
b. Các biện pháp quản lý giá trên thị trường cạnh tranh.
Đối với một số sản phẩm quan trọng vừa có sự tham gia của nhà nước vừa có sự tham gia cả các đơn vị kinh tế thì Nhà nước quy định tới hạn như:
+ Giá tối đa hàng chuẩn: Xăng dầu, sắt thép,... cước vận chuyển một số hàng hoá quan trọng bằng đường sắt, đường biển.
+ Giá xuất khẩu tối thiểu của gạo, dầu thô, giá nhập khẩu tối đa của xăng dầu.
Đối với các mặt hàng còn lại Nhà nước quản lý giá thông qua các biện pháp.
+ Quy định chính sách cơ chế quản lý giá đối công trình xây dựng sở hữu nhà nước.
+ Quy định giá này là giới hạn đối với một số hàng hoá đặc biệt. Giá này là tín hiệu để điều hành thị trường lương thực.
+ Tổ chức đăng ký giá, hiệp thương giá và niêm yết giá.
Thực hiện các chính sách, biện pháp để bình ổn giá vượt số hàng hoá, dịch vụ thiết yếu bảo hộ sản phẩm trong nước
Tiến hành thanh tra và xử lý vi phạm kỷ luật về giá
c. Hình thành đầy đủ các thị trường cần thiết cho việc thương mại hoá nền kinh tế như: thị trường vốn thị trường lao động, đưa các thị trường này vào hoạt động.
Thị trường vốn là yếu tố cơ bản nhất của nền kinh tế thị trường hiện đại: là cơ sở hạ tầng của xã hội và do đó nó có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội.
d. Tăng cường khả năng cạnh tranh của nền kinh tế thông qua chính sách mở cửa.
6.2. Tiếp tục đa dạng hoá chế độ sở hữu theo xu hướng phát triển doanh nghiệp tư nhân, đổi mới phương thức hoạt động kịnh doanh của các doanh nghiệp nhà nước cho phù hợp với cơ chế thị trường.
a. Hình thức sở hữu Nhà nước.
Đây là một trong các hình thức sở hữu cơ bản trong thời kỳ quá độ của nước ta. Nhà nước là người chủ của hình thức sở hữu. ở các nước tư bản khác đều có hình thức sở hữu nhà nước. Vậy sự khác nhau giữa hình thức sở hữu nhà nước ở Việt Nam với các nước khác là ở tính chất nhà nước. Một bên là nhà nước của giai cấp tư sản và tư sản độc quyền, một bên là của dân, do dân vì dân.
b. Hình thức sở hữu tư nhân
Đây là một trong những hình thức sở hữu cơ bản tồn tại trong thời kỳ quá độ ở nước ta. Những tài sản, vốn liếng của hình thức này thuộc về các chủ thể tư nhân vừa, nhỏ và hộ có thể. Hình thức này bao hàm không chỉ hình thức sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa mà cả hình thức sở hữu cá thể.
c. Hình thức sở hữu tư bản Nhà nước.
Nếu xét chủ nghĩa tư bản Nhà nước theo khả năng cạnh tranh sở hữu thì hình thức sở hữu tư bản nhà nước là hình thức mà nhà tư bản cùng góp vốn với nhà nước để sản xuất kinh doanh. Họ đều là những người chủ sở hữu. Nhà tư bản nói ở đây là hình thức sở hữu “ trung gian” “quá độ” và dự báo là hình thức sở hữu mang tính phổ biến có triển vọng đối với một nước tiểu nông như nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
6.3. Tăng cường khả năng kiểm kê, kiểm soát của Nhà nước đối với sự hoạt động của các doanh nghiệp.
Đồng thời với quá trình tự do hoá giá cả, thương mại hoá nền kinh tế mở cửa đối với các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài. Nhà nước một mặt không hạn chế khả năng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp mặt khác dân chủ hoá, tự do hoá đến đâu, công tác kiểm kê, kiểm soát phải được tăng cường đến đó để một mặt là đảm bảo môi trường kinh doanh luôn luôn trong sạch, mặt khác tăng nguồn thu từ thuế cho ngân sách.
6.4. Cải cách bộ máy hành chính, hiện đại hoá Nhà nước.
Trong việc thực hiện cải cách bộ máy Nhà nước, vấn đề cốt lõi là đổi mới chức năng của cả hệ thống bộ máy và trên cơ sở đó mà đặt lại chức năng của từng cơ quan trong hệ thống này.
Chính phủ là cơ quan chấp hành và hành chính cao nhất của nước ta, chính phủ chịu trách nhiệm trước chủ tịch nước và quốc hội về toàn bộ công việc hành pháp và hành chính mà mình được giao. Với vị trí như trên thì thẩm quyền quan trọng của chính phủ là chủ động tiến hành có kế hoạch việc lập quỹ văn bản dưới luật để thực hiện luật do quốc hội đã thông qua và ban hành.
Một Nhà nước chính quy, hoạt động có hiệu lực phải có một quy chế công cụ khoa học, một quy chế công chức rõ ràng rành mạch phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện có của nền kinh tế xã hội.
6.5. Đổi mới công tác kế hoạch hoá theo xu hướng kế hoạch hoá định hướng đồng thời đổi mới hệ thống các mục tiêu định hướng.
Kế hoạch hoá đã trở thành một hiện tượng phổ biến trong nền kinh tế thế giới hiện đại trên phạm vi xã hội. Nói cách khác, xét ở tầm vĩ mô nền kinh tế nhiều thành phần cần phải được kế hoạch hoá nhưng không thể là kế hoạch hoá trực tiếp, pháp lệnh.
Để phù hợp với việc quản lý kinh tế vĩ mô theo cơ chế thị trường có thể phác hoạ một bố cụ hợp lý của hệ thống kế hoạch hoá định hướng như sau:
+ Cần xúc tiến nghiên cứu xây dựng chiến lược phát triển kinh tế – xã hội cũng như các chiến lược phát triển ngành vùng, lĩnh vực.
+ Hệ thống thông tin – dự báo có vai trò rất quan trọng nhưng chưa được quan tâm đúng mức.
+ Nghiên cứu thiết kế các chương trình và dự án phát triển.
+ Đổi mới phương pháp xây dựng kế hoạch 5 năm và kế hoạch hàng năm.
6.6. Đổi mới hệ thống thông tin kinh tế – thông tin quản lý theo yêu cầu của cơ chế thị trường.
Khi nền kinh tế nước ta chuyển sang cơ chế thị trường có sự điều tiết thì đồng thời với việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, hệ thống thông tin kinh tế – quản lý cũng phải đổi mới cho phù hợp với cơ chế quản lý theo mô hình kinh tế thị trường.
Để phù hợp với cơ chế mới và để làm đúng chức năng mô tả thực trạng của thị trường hàng hoá dự baó xu hướng biến động về cung – cầu – giá cả về các trạng thái sản lượng việc làm và giá cả cần phải căn cứ vào hệ thống mục tiêu quản lý theo cơ chế mới.
6.7. Đổi mới cách thức sử dụng các chính sách kinh tế theo yêu cầu của kinh tế thị trường, tạo ra cơ chế phù hợp với các chính sách ổn định kinh tế vĩ mô.
Trong nền kinh tế kế hoạc hoá khi tác động vào nền kinh tế các chính phủ thị trường sử dụng hệ thống đòn bẩy kinh tế tác động vào cơ chế giá - lượng – tiền. Khi chuyển sang cơ chế thị trường giá và lượng không chỉ là công cụ mà còn là một trong những mục tiểu ổn định kinh tế vĩ mô. Chính vì vậy cùng với việc đổi mới cơ chế kinh tế phải đổi mới các chính sách kinh tế là lẽ đương nhiên.
6.8. Đổi mới hệ thống pháp chế kinh tế theo hướng dân chủ hoá nền kinh tế.
a. Trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế nước ta đang đối mặt với khó khăn. Phải tạo kép một hệ thống pháp luật trong đó cơ chế pháp lý phản ánh sự đa dạng của chủ thể kinh doanh.
b. Trong nền kinh tế thị trường quyền tự do kinh doanh là trung tâm, mục tiêu động lực thúc đẩy sự phát triển của kinh tế, mục tiêu động lực thúc đẩy sự phát triển của kinh tế. Tuy nhiên tự do kinh doanh không có nghĩa là vô chính phủ, là vô hạn.
c. Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung pháp luật kinh tế thị trường liệt kê những quy định về quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp như đều bị cấm, đều bị bắt buộc phải làm, điều được làm.
6.9. Hoàn thiện đổi mới quản lý nhà nước về tiền tệ – tín dụng và ngân hàng.
a. Chính sách tiền tệ năm nay và những năm tới cần được xem là một lĩnh vực hàng đầu của chính sách kinh tế vĩ mô, một đòn bẩy hàng đầu để điều tiết kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường.
Chính sách tiền tệ trong cơ chế thị trường là chính sách không chỉ điều chỉnh khối tiền tệ cung ứng thêm trong một thời kỳ nhất định cho việc cấp tín dụng nền kinh tế mua ngoại tệ tam ứng cho ngân sách mà còn điều chỉnh khối tiền đã có sẵn trong lưu thông cho phù hợp với mức tăng tổng sản phẩm quốc dân.
b. Quản lý nhà nước về hoạt động của ngân hàng, hợp tác xã tín dụng công ty tài chính.
+ Bênh cạnh các văn bản pháp quy thuộc thẩm quyền của mình về tiền tệ tín dụng.
+ Thực hiện vai trò ngân hàng đối với các tổ chức tín dụng.
+ áp dụng các biện pháp quản lý nhằm đảm bảo sự tôn trọng nguyên tắc hoạt động nghiệp vụ.
+ Thanh tra các tổ chức tín dụng trong việc chấp hành luật pháp tiền tệ.
c. Điều kiện để thực hiện quản lý Nhà nước về tiền tệ – tín dụng và ngân hàng.
Để quản lý Nhà nước dù ở lĩnh vực nào cũng đều phải có luật hoặc những văn bản pháp quy dưới luật do Nhà nước ban hành. Bên cạnh đó phải có tổ chức hoặc bộ máy đủ mạnh với những chức năng nhiệm vụ được giao.
Ngân hàng nhà nước làm công việc của Ngân hàng Trung ương với chức năng hoạch định và thực hiện chính sách tiền tệ và ngân hnàg của các ngân hàng.
Ngân hàng là tổ chức tín dụng hoạt động kinh doanh vì lợi thông qua huy động nguồn vốn để mở rộng tín dụng.
6.10. Tiếp tục kiềm chế lạm pháp vẫn là nhiệm vụ trung tâm trong những năm trước mắt.
Có thể nói, chống được lạm pháp là ro nhờ một biện pháh riêng biệt nào. mà sự tác động đồng thời ăn khớp của cả gói các biện pháp có ý nghĩa quyết định. Những giải pháp đó là:
- Điều chỉnh cơ cấu sản xuất và cơ cấu tiêu dùng
- Giảm thâm hụt ngân sách, sửa đổi hệ thống ngân hàng.
- Chấn chỉnh hệ thống tài cính, giá cả, xuất nhập.
- Cải cách chế độ tiền lương.
- Xây dựng, sửa đổi, hoàn thiện hệ thống luật
- Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý
- Cải cách bộ máy hành chính
6.11. Đổi mới chế độ lương
Đây cũng là một vấn đề hết sức cần thiết vì cứ để lượng như hiện nay thì không thể siết chặt kỷ luật kỷ cương và thực hiện tham nhũng có hiệu quả. Không thể xây dựng được một phong cách làm ăn mới và chấn chỉnh.
6.12. Tăng cường phối hợp các công cụ quản lý kinh tế vĩ mô.
Để phát triển được một nền kinh tế theo đúng nghĩa của nó thì ta phải tăng cường phối hợp với công cụ quản lý kinh tế vĩ mô vì nó sẽ đảm bảo tầm quan sát rộng h._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- U0242.doc