Vai trò của Kiểm toán nội bộ trong hệ thống kiểm soát nội bộ của doanh nghiệp

LỜI MỞ ĐẦU Việt Nam đang trong giai đoạn mở cửa hội nhập với các nước trên thế giới và trong khu vực, thêm vào đó nhiều vấn đề chưa được giải quyết đồng bộ như các yếu tố về pháp luật, về luật định, về các chính sách kinh tế-xã hội… Do đó, việc điều hành quản lý hoạt động của các doanh nghiệp hiện nay ít nhiều bị ảnh hưởng. Thực tế xảy ra ở nhiều doanh nghiệp có những biểu hiện không đồng bộ, không thống nhất, cácvụ việc vi phạm quy chế, nghiệp vụ vẫn lặp đi lặp lại chưa được giải quyết triệt

doc34 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1603 | Lượt tải: 3download
Tóm tắt tài liệu Vai trò của Kiểm toán nội bộ trong hệ thống kiểm soát nội bộ của doanh nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
để. Muốn uốn nắn và phát hiện sai sót kịp thời nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp đòi hỏi phải có một bộ phận kiểm toán nội bộ hoạt động một cách có hiệu quả tại mỗi doanh nghiệp. Việc hình thành một tổ chức kiểm toán nội bộ trong doanh nghiệp sẽ làm chi phí quản lý tăng lên trong khi các doanh nghiệp chưa thấy được các lợi ích mang lợi từ kiểm toán nội bộ. Đây là một trong những lý do làm cho các doanh nghiệp nhất là các doanh nghiệp có quy mô hoạt động nhỏ chưa tổ chức bộ phận kiểm toán. Các doanh nghiệp này thường kết hợp giữa bộ phận kế toán với bộ phận kiểm toán. Điều này trái với nguyên tắc “bất kiêm nhiệm” và không đúng với tính chất, nội dung của kiểm toán nội bộ. Bên cạnh đó, nhiều doanh nghiệp hiện nay đã có bộ phận kiểm toán nội bộ nhưng hoạt động còn yếu kém, chỉ mang tính hình thức nên tác dụng giám sát và kiểm tra còn yếu. Một phần do kiểm toán viên chưa được đào tạo đầy đủ về chuyên môn kiểm toán, thiếu kinh nghiệm trong kiểm toán. Mặt khác kiểm toán viên cũng chưa được giao đầy đủ “quyền hạn trách nhiệm”. Vì vậy đôi khi công tác kiểm toán mất tính khách quan, chỉ kiểm toán và đưa ra những kết luận tốt, những mặt ưu điểm còn sai sót thì bỏ qua. Chính vì vậy, việc hình thành một hệ thống kiểm toán nội bộ là một tất yếu đối với các doanh nghiệp hiện nay. Đồng thời việc hoàn thiện các công tác này là một điều rất cần thiết không chỉ cho bản thân các doanh nghiệp mà còn cho cả hệ thống nền kinh tế. Nhận thức được tầm quan trọng của kiểm toán nội bộ trong doanh nghiệp và xuất phát từ mong muốn muốn tìm hiểu thêm nữa về công tác kiểm toán nội bộ nên em đã chọn đề tài là: “Vai trò của Kiểm toán nội bộ trong hệ thống kiểm soát nội bộ của doanh nghiệp ”. Ngoài Lời mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo đề án môn học của em gồm các phần chính như sau: Phần I: Hệ thống kiểm soát nội bộ trong doanh nghiệp hiện nay. Phần II: Vai trò của Kiểm toán nội bộ trong hệ thống kiểm soát nội bộ của doanh nghiệp Phần III: Kiểm toán nội bộ-những vấn đề đặt ra Đề án môn học này được hoàn thành, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo thạc sỹ Phan Trung Kiên đã nhiệt tình chỉ dẫn và giúp đỡ em rất nhiều trong quá trình thực hiện và hoàn thành bản đề án này. Em xin chân thành cảm ơn! Hà Nôi, tháng 11 – 2006. Sinh viên Nguyễn Thị Hoàng Lan PHẦN I: HỆ THỐNG KIỂM SOÁT NỘI BỘ TRONG DOANH NGHIỆP HIỆN NAY 1. Bản chất của hệ thống kiểm soát nội bộ Kiểm soát luôn là một khâu quan trọng trong mọi quy trình quản trị, do đó các nhà quản lý thường quan tâm nhiều hơn đến việc hình thành và duy trì các hoạt động kiểm soát để đạt được các mục tiêu của tổ chức. Với ý nghĩa đó, kiểm soát có thể được hiểu theo nhiều chiều: cấp trên quản lý cấp dưới thông qua chính sách hoặc biện pháp cụ thể, đơn vị này kiểm soát đơn vị khác thông qua chi phối đáng kể về quyền sở hữu và lợi ích tương ứng, nội bộ đơn vị kiểm sóat lẫn nhau thông qua quy chế và thủ tục quản lý v.v… Tuy nhiên, thông dụng nhất vẫn là kiểm soát nội bộ đơn vị. Đối với một tổ chức, doanh nghiệp, việc kiểm tra, kiểm soát đối với hoạt động hàng ngày càng có ý nghĩa quan trọng hơn. Điều đó đòi hỏi doanh nghiệp, tổ chức phải có một hệ thống kiểm soát nội bộ hữu hiệu. Theo liên đoàn Kế toán Quốc tế (IFAC), hệ thống kiểm soát nội bộ là một hệ thống chính sách và thủ tục nhằm bốn mục tiêu: bảo vệ tài sản của đơn vị, bảo đảm độ tin cậy của các thông tin, bảo đảm việc thực hiện các chế độ pháp lý, và bảo đảm hiệu quả của hoạt động. Tuy nằm trong một thể thống nhất song bốn mục tiêu trên đôi khi cũng có sự mâu thuẫn với nhau như tính hiệu quả của hoạt động với mục đích bảo vệ tài sản, sổ sách hoặc cung cấp thông tin đầy đủ và tin cậy. Vì vậy nhiệm vụ của các nhà quản lý là xây dựng một hệ thống kiểm soát nội bộ hữu hiệu và kết hợp hài hòa bốn mục tiêu trên. Theo Chuẩn mực kiểm toán số 400 quy định: “Hệ thống kiểm soát nội bộ là các quy định và các thủ tục kiểm soát do đơn vị được kiểm toán xây dựng và áp dụng nhằm đảm bảo cho đơn vị tuân thủ pháp luật và các quy định, để kiểm tra, kiểm soát, ngăn ngừa và phát hiện gian lận, sai sót để lập báo cáo tài chính trung thực và hợp lý; nhằm bảo vệ, quản lý và sử dụng có hiệu quả tài sản của đơn vị”. Về bản chất, có thể hiểu hệ thống kiểm soát nội bộ như sau: - Kiểm soát nội bộ là một quá trình, bao gồm một chuỗi hoạt động kiểm soát hiện diện ở mọi bộ phận trong đơn vị và được kết hợp với nhau thành một thể thống nhất.Quá trình kiểm soát là phương tiện để giúp đơn vị đạt được các mục tiêu của mình. - Kiểm soát nội bộ được thiết kế và vận hành bởi con người. Kiểm soát nội bộ không chỉ đơn thuần là những chính sách, thủ tục, biểu mẫu … mà bao gồm cả con người trong tổ chức như Hội đồng quản trị, Ban Giám đốc, các nhân viên khác… Chính con người định ra mục tiêu, thiết lập cơ chế kiểm soát ở mọi nơi và vận hành chúng. - Kiểm soát nội bộ cung cấp một sự đảm bảo hợp lý, chứ không bảo đảm tuyệt đối là các mục tiêu sẽ được thực hiện. Do trong khi vận hành hệ thống kiểm soát các sai phạm có thể xảy ra làm cho các mục tiêu không thực hiện được, hệ thống kiểm soát nội bộ có thể ngăn chặn các sai phạm nhưng không thể đảm bảo chúng không bao giờ xảy ra. 2. Các yếu tố cơ bản của hệ thống kiểm soát nội bộ Mặc dù có sự khác biệt về tổ chức hệ thống kiểm soát nội bộ giữa các đơn vị khác nhau song ở bất kỳ đơn vị nào hệ thống kiểm soát nội bộ cũng được cấu thành bởi các bốn yếu tố cơ bản sau: * Môi trường kiểm soát: Môi trường kiểm soát bao gồm toàn bộ nhân tố bên trong và bên ngoài đơn vị tác động đến việc thiết kế, hoạt động và xử lý dữ kiệu của các loại hình kiểm soát nội bộ. Các nhân tố thuộc môi trường kiểm soát chủ yếu liên quan tới quan điểm, thái độ và nhận thức cũng như hành động của các nhà quản lý trong doanh nghiệp; bao gồm: Đặc thù về quản lý, Cơ cấu tổ chức, Chính sách nhân lực, Công tác kế hoạch, Ủy ban kiểm soát, Môi trường bên ngoài. Nhưng trên thực tế, tính hiệu quả của các hoạt động kiểm tra, kiểm soát trong các hoạt động của một tổ chức phụ thuộc chủ yếu vào các nhà quản lý tại doanh nghiệp đó. Nếu các nhà quản lý cho rằng công tác kiểm tra, kiểm soát là quan trọng và không thể thiếu được đối với mọi hoạt động trong đơn vị thhì mọi thành viên trong đơn vị đó sẽ có nhận thức đúng đắn về hoạt động kiểm tra, kiểm soát và tuân thủ mọi quy định cũng như chế độ đề ra. Ngược lại, nếu hoạt đọng kiểm tra, kiểm soát bị coi nhẹ từ phía các nhà quản lý thì chắc chắn các quy chế về kiểm soát nội bộ sẽ không được vận hành một cách có hiệu quả bởi các thành viên của đơn vị. * Hệ thống thông tin: Hệ thống thông tin chủ yếu là hệ thống kế toán của đơn vị bao gồm hệ thống chứng từ kế toán, hệ thống sổ kêư toán, hệ tống tài khoản kế toán, hệ thống bảng tổng hợp cân đối kế toán. Trong đó, quá trình lập và luân chuyển chứng từ đóng vai trò quan trọng trong công tác kíểm soát nội bộ của doanh nghiệp. Mục đích của hệ thống kế toán của một tổ chức là sự nhận diết thu thập, phân loại, ghi sổ và báo cáo các nghiệp vụ kinh tế tài chính của tổ chức đó, thỏa mãn chức năng thông tin và kiểm tra của hoạt động kế toán. Một hệ thống kế toán hữu hiệu phải bảo đảm các mục tiêu kiểm toán chi tiết: - Tính có thực: cơ cấu kiểm soát không cho phép ghi chép những nghiệp vụ không có thực vào sổ sách của đơn vị. - Sự phê chuẩn: bảo đảm mọi nghiệp vụ xảy ra phải được phê chuẩn hợp lý. - Tính đầy đủ: bảo đảm việc phản ánh trọn vẹn các nghiệp vụ kinh tế phát sinh. - Sự đánh giá: bảo đảm không có sai phạm trong việc tính toán các khoản giá và phí. - Sự phân loại: bảo đảm các nghiệp vụ được ghi chép đúng theo sơ đồ tài khoản và ghi nhận đúng đắn ở các sổ sách kế toán. - Tính đúng kỳ: bảo đảm việc ghi sổ các nghiệp vụ phát sinh được ghi sổ theo đúng quy định. - Quá trình chuyển sổ và tổng hợp chính xác: số liệu kế toán được ghi vào sổ phải được tổng cộng và chuyển sổ đúng đắn, tổng hợp chính xác trên các Báo cáo tài chính của doanh nghiệp. * Các thủ tục kiểm soát: Các thủ tục kiểm soát do Ban giám đốc đơn vị thiết lập và thực hiện nhằm đạt được mục đích quản lý cụ thể. Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 400 quy định: “Kiểm toán viên phải hiểu biết các thủ tục kiểm soát của đơn vị để xây dựng kế hoạch và chưong trình kiểm toán”. Các thủ tục kiểm soát chủ yếu bao gồm: Lập, kiểm tra, so sánh và phê duyệt các số liệu liên quan đến đơn vị. Kiểm tra tính chính xác của các số liệu tính toán. Kiểm tra chưong trình ứng dụng và môi trường tin học. Kiểm tra và phê duyệt các tài liệu kế toán. Đối chiếu giữa số liệu nội bộ với bên ngoài. So sánh, đối chiếu kết quả kiểm kê thực tế với số liệu trên sổ kế toán. Giới hạn việc tiếp cận trực tiếp với các tài sản và các tài liệu kế toán. Phân tích, so sánh giữa số liệu thực tế với dự toán, kế hoạch. Các thủ tục kiểm soát được thiết lập dựa trên ba nguyên tắc cơ bản: nguyên tắc phân công phân nhiệm rõ ràng; nguyên tắc bất kiêm nhiệm; nguyên tắc ủy quyền và phê chuẩn. 3. Những hạn chế tiềm tàng của kiểm soát nội bộ Ở bất kỳ đơn vị nào, dù đã được đầu tư rất nhiều trong thiết kế và vận hành hệ thống, thế nhưng một hệ thống kiểm soát nội bộ vẫn không thể hoàn toàn hữu hiệu. Bởi vì ngay cả khi có thể xây dựng hệ thống hoàn hảo về cấu trúc thhì hiệu quả thật sự của nó vẫn phụ thuộc vào nhân tố chủ yếu là con người, tức là phụ thuộc vào năng lực làm việc và tính đáng tin cậy của lực lượng dân sự. Do đó hệ thống kiểm soát nội bộ chỉ giúp hạn chế tối đa các sai phạm mà thôi vì nó cá các hạn chế tiềm tàng xuất phát từ nguyên nhân sau: - Những hạn chế xuất phát từ bản thân con người như sự vô ý, bất cẩn,đãng trí hay ước lượng sai, hiếu sai chỉ dẫn của cấp trên hoặc các báo cáo của cấp dưới… - Khả năng đánh lừa, lẩn tránh của nhân viên thông qua sự thông đồng với nhau hay với các bộ phận bên ngoài đơn vị. - Hoạt động kiểm soát thường chỉ nhằm vào cácnghiệp vụ thường xuyên phát sinh mà ít chú ý đến những nghiệp vụ không thường xuyên, do đó những sai phạm trong các nghiệp vụ này thường hay bị bỏ qua. - Yêu cầu thường xuyên và trên hết của người quản lý là chi phí bỏ ra cho hoạt đọng kiểm soát phải nhỏ hơn giá trị thiệt hại được tính do sai sót hay gian lận gây ra. - Luôn có khả năng là các cá nhân có trách nhiệm kiểm soát đã lạm dụng quyền hạn của mình nhằm phục vụ cho mưu đồ riêng. - Điều kiện hoạt động của đơn vị thay đổi nên dẫn tới những thủ tục kiểm soát không còn phù hợp… Chính những hạn chế nói trên đây của kiểm soát nội bộ là nguyên nhân khiến cho kiểm soát nội bộ không thể bảo đảm tuyệt đối trong việc đạt được mục tiêu của mình. PHẦN II: VAI TRÒ CỦA KIỂM TOÁN NỘI BỘ TRONG HỆ THỐNG KIỂM SOÁT NỘI BỘ DOANH NGHIỆP 1. Kiểm toán nội bộ và đặc trưng của kiểm toán nội bộ Hình thức kiểm toán nội bộ lần đầu tiên xuất hiện tại Mỹ vào những năm 30 của thế kỷ 20 và sau đó lan rộng ra nhiều quốc gia trên thế giới. Tổ chức quốc tế về kiểm toán nội bộ (IIA) đã thành lập năm 1941 tại Mỹ. Tổ chức này đã quy định bản chất, mục tiêu, chức năng và phạm vi họat động của kiểm toán nội bộ. Tổ chức kiểm toán nội bộ là thành viên của IFAC và INTOSAI. Từ những năm 60 cho đến nay, hoạt động kiểm toán nội bộ đã phát triển rộng rãi trên thế giới. Từ quan điểm thuần túy về kế toán, nhằm phát hiện các sai sót và gian lận, kiểm toán nội bộ đã dần dần mở rộng phạm vi hoạt động trên tất cả các lĩnh vực hoạt động của đơn vị hoặc của doanh nghiệp đồng thời hướng hoạt động kiểm soát nội bộ vào việc cải thiện và nâng cao chất lượng hoạt động, tăng cường sức mạnh cho cơ chế kiểm soát nội bộ. Trong các công ty, tập đoàn kinh tế lớn có nhiều chi nhánh với khối lượng chứng từ, sổ sách kế toán khổng lồ thường có thêm bộ phận kiểm toán nội bộ. Đay chính là bộ phận quan trọng trong công ty, là cánh tay phải của ban giám đốc trong việc quản lý hoạt động tài chính của doanh nghiệp. Kiểm toán nội bộ là bộ phận chịu trách nhiệm xem xét lại một cách định kỳ các biện pháp mà ban giám đốc và các nhà quản lý ở mọi cấp áp dụng để quản lý và kiểm soát doanh nghiệp đồng thời chịu sự điều hành của ban giám đốc nhưng hoàn toàn độc lập với tất cả các bộ phận khác. Bộ phận này quản lý hoạt động của phòng ban kế toán trong doanh nghiệp, tìm ra các sai phạm trong quản lý tài chính của các bộ phận, phòng ban, chi nhánh, công ty con…để kịp thời phản ánh với ban lãnh đạo công ty. Ở các nước trên thế giới, kiểm toán nội bộ không được quy định bởi pháp luật hoạt động kiểm toán cũng như các nhà chuyên môn trong lĩnh vực kiểm toán nội bộ đều không phải tuân thủ các quy định trừ những người là thành viên của một tổ chức nghề nghiệp. Nói cách khác, không có quy định bắt một công ty hay doanh nghiệp phải có kiểm toán nội bộ. ở những đơn vị có quy mô nhỏ, các hoạt động thường đơn giản hoặc ít phức tạp và rủi ro trong quá trình quản lý cũng ít xảy ra. Khi đó, nhà quản lý của đơn vị sẽ thực hiện việc kiểm tra và đánh giá về những chính sách và các thủ tục kiểm soát trong đơn vị. Nhưng ở các đơn vị có quy mô lớn đến một mức nào đó, quyền hạn và trách nhiệm sẽ phải được phân chia cho nhiều bộ phận. Điều này dẫn đến mối quan hệ giữa những bộ phận chức năng và các nhân viên sẽ trở nên phức tạp, quá trình truyền đạt và thu nhận thông tin phảm hồi cũng trở nên khó khăn hơn, quá trình truyền đạt và thu nhận thông tin phản hồi cũng trở nên khó khăn hơn; bên cạnh đó tài sản sẽ bị phân tán ở nhiều nơi do được sử dụng cho các hoạt động và mục tiêu khác nhau…và rủi ro gây ra ảnh hưởng nghiêm trọng đến các hoạt động và mục tiêu của đơn vị cúng sẽ tăng lên. Lúc này, các nhà quản lý khó có thể trực tiếp tiến hành việc kiểm tra và đánh giá sự tuân thủ các chính sách và thủ tục kiểm soát. Vì thế, cần phải có một bộ phận chuyên môn để giúp họ thực hiện điều này, đó chính là bộ phận kiểm toán nội bộ. Ở nước ta, khả năng dự báo và phân tích của các doanh nghiệp là rất hạn chế, còn nhiều dáng dấp của thời quản lý bao cấp. Doanh nghiệp quốc doanh vẫn muốn ỷ lại, dựa dẫm vào nhà nước. Doanh nghiệp chưa có hệ thống phân tích chức năng, do đó việc tổ chức một bộ phận kiểm toán nội bộ ở các doanh nghiệp là hết sức đúng đắn. Kiểm toán nội bộ là tai mắt cho doanh nghiệp. Mục đích của kiểm toán nội bộ là tạo ra công cụ để phân tích toàn bọ hoạt động chiến lược, để rút kinh nghiệm trong quản lý, trong điều hành, đòng thời đề ra chiến lược phát triển của riêng doanh nghiệp, đảm bảo chi tiêu có lợi, tiết kiệm, minh bạch về số liệu kế toán. Sau khi Nhà nước ban hành Quyết định 832-TC/QĐ/CĐKT ngày 28 tháng 10 năm 1997 về việc ban hành quy chế kiểm toán nội bộ, ởt nhiều Tổng công ty bộ phận kiểm toán nội bộ đã được thành lập và đi vào hoạt động. * Quy định đối với kiểm toán viên nội bộ: Công việc kiểm toán được thực hiện bởi các kiểm toán viên, “Kiểm toán viên là các chuyên gia kế toán có kỹ năng nghiệp vụ kiểm toán. Theo IFAC-Liên đoàn kế toán quốc tế thì kiểm toán viên phải là người có kỹ năng và khả năng nghề nghiệp, phải chính trực, khách quan, độc lập và phải tôn trọng bí mật. Đó là những yêu cầu không thể thiếu đối với một kiểm toán viên. Theo quyết định số 832 /TC/QĐ/CĐKT ngày 28/10/1997 của Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định các tiêu chuẩn đối với người được bổ nhiệm làm kiểm toán viên nội bộ như sau: 1. Có phẩm chất trung thực, khách quan, chưa có tiền án và chưa bị kỷ luật từ mức cảnh cáo trở lên do sai phạm trong quản lý kinh tế, tài chính, kế toán; 2. Đã tốt nghiệp đại học chuyên ngành kinh tế, tài chính, kế toán, hoặc quản trị kinh doanh; 3. Đã công tác thực tế trong lĩnh vực quản lý tài chính, kế toán từ 5 năm trở lên, trong đó có ít nhất có 3 năm làm việc tại doanh nghiệp nơi được giao nhiệm vụ kiểm toán viên; 4. Đã qua huấn luyện về nghiệp vụ kiểm toán, kiểm toán nội bộ theo nội dung chương trình thống nhất của Bộ Tài chính và được cấp chứng chỉ. Kiểm toán viên nội bộ phải tránh tham gia đánh giá nhứng hoạt động cụ thể mà trước đây do chính kiểm toán viên này đảm nhạn. Như vậy tính khách quan xem như bị phương hại nếu kiểm toán viên cung cấp sự bảo đảm cho một hoạt động mà trước đây họ đã đảm nhận. Nhưng họ lại có thể cung cấp sự tư vấn liên quan đến những hoạt động trước đây do chính họ làm. Ban giám đốc có quyền đánh gía và lựa chọn kiểm toán viên nội bộ cho doanh nghiệp. ở nhiều nước đã hình thành mộtchương trình đào tạo lấy bằng kiểm toán viên nội bộ. Các tiêu chuản để lựa chọn kiểm toán viên nội bộ được căn cứ trên phẩm chất, năng lực chuyên môn lẫn phẩm chất đạo đức của các kiểm toán viên. Về năng lực chuyên môn của kiểm toán viên nội bộ phụ thuộc vào nội dung công việc mà họ làm là kiểm toán báo cáo tài chính hay kiểm toán hoạt động. Nếu là kiểm toán báo cáo tài chính, doanh nghiệp đòi hỏi người phụ trách bộ phận kiểm toán nội bộ phải có: Bằng đại học chuyên ngành kế toán và tài chính; Có chứng chỉ kiểm toán viên Có 4 đến 5 năm kinh nghiệm chuyênmôn với tư cách là trợ lý kiểm toán . Ngoại ngữ (ít nhất 2 ngoại ngữ, bắt buộc phải giỏi tiếng Anh hoặc tiếng Pháp). Nếu là kiểm toán hoạt động, các kiểm toán viên phải hiểu biết rất tốt về kỹ thuật liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp. Về phẩm chất đạo đức kiểm toán viên nội bộ phải vận dụng những kỹ năng và tính cẩn thận cần phải có của một kiểm toán viên nội bộ, tức phải có đủ năng lực và thận trọng nghề nghiệp đúng mức nhưng khong có nghĩa là không thể có sai lầm. * Trách nhiệm của kiểm toán viên nội bộ trong doanh nghiệp được quy định như sau: 1. Kiểm toán viên nội bộ thực hiện nhiệm vụ theo kế hoạch kiểm toán đã được Tổng Giám đốc, hoặc Giám đốc phê duyệt và chịu trách nhiệm trước (Tổng) Giám đốc về chất lượng, về tính trung thực, hợp lý của báo cáo kiểm toán và về những thông tin tài chính, kế toán đã được kiểm toán. 2. Trong quá trình thực hiện công việc, kiểm toán viên nội bộ phải tuân thủ luật pháp, tuân thủ các nguyên tắc và chuẩn mực nghề nghiệp về kiểm toán, các chính sách, chế độ hiện hành của Nhà nước. 3. Kiểm toán viên phải khách quan, đề cao tính độc lập trong hoạt động kiểm toán. Không ngừng nâng cao năng lực chuyên môn, cập nhật kiến thức, giữ gìn đạo đức nghề nghiệp. 4. Tuân thủ nguyên tắc bảo mật các số liệu, tài liệu đã được kiểm toán (loại trừ các trường hợp có yêu cầu của toà án, hoặc các nghĩa vụ liên quan đến tiêu chuẩn nghiệp vụ). * Quyền hạn của kiểm toán viên nội bộ: 1. Được độc lập về chuyên môn nghiệp vụ. Không bị chi phối, hoặc can thiệp khi thực hiện hoạt động kiểm toán và trình bày ý kiến trong báo cáo kiểm toán. 2. Có quyền yêu cầu các bộ phận, cá nhân được kiểm toán và bộ phận có liên quan cung cấp thông tin, tài liệu phục vụ cho công tác kiểm toán. 3. Được ký xác nhận trên báo cáo kiểm toán nội bộ do cá nhân tiến hành, hoặc chịu trách nhiệm thực hiện theo nhiệm vụ kiểm toán được giao. 4. Nêu các ý kiến đề xuất, các giải pháp, kiến nghị, các ý kiến tư vấn cho việc cải tiến, hoàn thiện công tác quản lý, điều hành hoạt động sản xuất, kinh doanh; ngăn ngừa các sai sót gian lận, các việc làm sai trái trong doanh nghiệp... 5. Được bảo lưu ý kiến đã trình bày trong báo cáo kiểm toán nội bộ, được quyền đề nghị cơ quan chức năng của Nhà nước xem xét lại quyết định của (Tổng) Giám đốc về bãi nhiệm kiểm toán viên. Kiểm toán viên nội bộ do Tổng Giám đốc, Giám đốc trực tiếp bổ nhiệm và bãi nhiệm. Kiểm toán viên nội bộ đã bị bãi nhiệm do vi phạm kỷ luật không được bổ nhiệm lại. Kiểm toán viên tuyệt đối không được đảm đương trách nhiệm điều hành, hay quản lý kinh doanh ở doanh nghiệp. * Vai trò, vị trí của kiểm toán viên nội bộ trong doanh nghiệp Kiểm toán viên nội bộ thường là những người được chọn ra từ phòng ban trong doanh nghiệp, chủ yếu từ bộ phận tài chính, kế toán thậm chí từ các phòng vật tư hay phòng nghiệp vụ. Sau khi được bổ nhiệm các kiểm toán viên nội bộ được đào tạo về nghiệp vụ kiểm toán. Cũng có nhiều doanh nghiệp lớn, đặc biệt các doanh nghiệp liên doanh hoặc có vốn đầu tư nước ngoài, kiểm toán viên nội bộ thường được tuyển chọn kỹ lưỡng. Vị trí của bộ phận kiểm toán nội bộ trong doanh nghiệp nên đủ để cho phép thực hiện các trách nhiệm kiểm toán. Bộ phận kiểm toán nội bộ được tổ chức độc lập với các bộ phận quản lý và điều hành kinh doanh trong doanh nghiệp (kể cả phòng kế toán - tài chính); chịu sự chỉ đạo và lãnh đạo trực tiếp của (Tổng) Giám đốc doanh nghiệp. Bộ phận kiểm toán nội bộ trực thuộc vào Ban giám đốc vì hai lý do chủ yếu: Bảo đảm được tính độc lập khách quan Có thể thu thập không giới hạn các thông tin của đơn vị. Các kiểm toán viên nội bộ cần có sự hỗ trợ của ban quản lý và Hội đồng quản trị để họ có được sự cộng tác của các đối tượng được kiểm toán và thực hiện công việc một cách tự do không bị can thiệp. Theo yêu cầu của bộ phận kiểm toán nội bộ, (Tổng) Giám đốc có thể cử chuyên gia thuộc các lĩnh vực chuyên môn khác trong doanh nghiệp, hoặc thuê chuyên gia bên ngoài (nếu cần thiết) tham gia một số nội dung hoặc toàn bộ một cuộc kiểm toán. Để đảm bảo cho sự độc lập cho hoạt động của kiểm toán nội bộ, bộ phận kiểm toán nội bộ nên và cần sự chỉ đạo trực tiếp của Ban giám đốc. Tối thiểu kiểm toán viên phải nhất thiết là một người hoàn toàn độc lập với những người chịu trách nhiệm trực tiếp về hoạt động được kiểm toán. Để giữ được tính độc lập, kiểm toán viên không được tham gia bất kỳ một hoạt đọng nào khác của doanh nghiệp. Trong phạm vi trách nhiệm của mình, kiểm toán nội bộ trợ giúp Ban giám đốc kiểm soát hoạt động của đơn vị, Ban giám đốc phải được thông báo một cách nhanh chóng, đúng đắn tất cả các vấn đề. Do vậy, kiểm toán nội bộ phải được thu thập không giới hạn thông tin của đơn vị. Bộ phận kiểm toán nội bộ phải trả lời câu hỏi của Ban giám đốc, chứ không phải là cho các cổ đông hay cho thành viên của Hội đồng quản trị. * Quy trình thực hiện một cuộc kiểm toán nội bộ Theo quy định tại điều 10 của quyết định số 832 /TC/QĐ/CĐKT ngày 28/10/1997 của Bộ trưởng Bộ Tài chính, trình tự các bước công việc của một cuộc kiểm toán nội bộ như sau: 1. Lập kế hoạch và lựa chọn phương pháp kiểm toán - Lập chương trình kế hoạch, xác định mục tiêu, nội dung, phạm vi và thời gian tiến hành kiểm toán nội bộ; - Xác định quy mô cuộc kiểm toán; phương pháp, cách thức tiến hành kiểm toán, biện pháp tổ chức thực hiện; tổ chức lực lượng kiểm toán (bao gồm cả kiểm toán viên trong, ngoài doanh nghiệp và các nhân viên chuyên môn cần huy động). Tuỳ theo tính chất của cuộc kiểm toán, kiểm toán viên phải lựa chọn và áp dụng những phương pháp, thủ tục kiểm toán phù hợp với mục tiêu và yêu cầu kiểm toán. Thủ tục và phương pháp kiểm toán được lựa chọn và áp dụng gồm quan sát, kiểm kê thực tế, xác minh, xem xét; đối chiếu văn bản, tài liệu, chế độ, luật lệ; thu thập và đánh giá các bằng chứng; tính toán, so sánh, phân tích, kiểm tra trên máy vi tính; tổng hợp, lựa chọn thông tin, xác định nguyên nhân và mức độ liên quan của từng nguyên nhân; dự đoán, dự báo xu hướng, khả năng; và các bước kiểm tra, đánh giá khác mà kiểm toán viên xét thấy cần thiết phải tiến hành trong từng trường hợp cụ thể. 2. Công tác chuẩn bị kiểm toán - Nghiên cứu các văn bản, tài liệu liên quan đến tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, nhiệm vụ kế hoạch và các điều kiện, biện pháp, các chính sách, quy định của doanh nghiệp trong kỳ kinh doanh sẽ kiểm toán. Sơ bộ đánh giá những thay đổi về điều kiện và môi trường hoạt động kinh doanh ảnh hưởng đến các mặt hoạt động của doanh nghiệp; - Tìm hiểu chính sách, quy định mới và các chủ trương, biện pháp phát sinh trong kế toán, kiểm toán; - Xem xét các báo cáo, tài liệu, hồ sơ kiểm toán trước đó (nếu có), kể cả các tài liệu bên ngoài doanh nghiệp có liên quan đến cuộc kiểm toán; tóm tắt các thông tin cần phải kiểm tra trong quá trình kiểm toán sắp tới; thu thập và chuẩn bị các mẫu, các chương trình, các chỉ dẫn cho cuộc kiểm toán sẽ được tiến hành. 3. Thực hiện việc kiểm toán - Trong quá trình kiểm toán, kiểm toán viên nội bộ phải xem xét, thu thập và đánh giá đủ các bằng chứng cần thiết có liên quan, kể cả các chứng cứ bên ngoài doanh nghiệp...; - Xem xét, đánh giá và việc thực hiện các chính sách, quy định trong thực tế hoạt động của doanh nghiệp. - Đánh giá khả năng sai sót, nhầm lẫn, gian lận đối với từng loại nghiệp vụ, từng hoạt động kinh tế. Đánh giá tính trọng yếu và rủi ro của các nghiệp vụ phát sinh trong nội bộ doanh nghiệp. - Thực hiện phân tích, khảo sát các khoản mục chính, khảo sát bổ sung các chi tiết; xem xét các sự kiện tiếp sau, đánh giá kết quả cuộc kiểm toán. - Các bước tiến hành thực hiện cuộc kiểm toán phải theo đúng quy trình của một cuộc kiểm toán và các bước tiến hành kiểm toán phải được ghi nhận trên tài liệu, hồ sơ kiểm toán. 4. Kết thúc cuộc kiểm toán * Khi kết thúc cuộc kiểm toán Kiểm toán viên nội bộ phải lập báo cáo kiểm toán; Báo cáo kiểm toán phải trình bày đầy đủ các nội dung và kết quả kiểm toán theo mục tiêu, yêu cầu đã đề ra cho từng cuộc kiểm toán; xác nhận tính đầy đủ, hợp lý của báo cáo tài chính, báo cáo kế toán quản trị hàng năm trước khi trình ký duyệt; đề xuất các kiến nghị và biện pháp xử lý các sai sót, gian lận, các vi phạm, nêu các giải pháp cần thiết để nâng cao chất lượng và hiệu quả quản lý kinh doanh của doanh nghiệp; Báo cáo kiểm toán được gửi cho Chủ tịch Hội đồng quản trị, cho (Tổng) Giám đốc doanh nghiệp. Việc lưu hành và công bố báo cáo kiểm toán nội bộ tuỳ theo tính chất kiểm toán và do Chủ tịch Hội đồng quản trị, (Tổng) Giám đốc quyết định. Riêng báo cáo kiểm toán báo cáo tài chính, báo cáo kế toán quản trị được đính kèm báo cáo tài chính, báo cáo kế toán quản trị trước khi lưu hành. * Phúc tra kết quả kiểm toán là công việc tiếp sau cuộc kiểm toán nhằm kiểm tra lại việc triển khai thực hiện những kiến nghị, những đề nghị xử lý và những giải pháp đã nêu trong báo cáo kiểm toán ở các bộ phận quản lý, điều hành kinh doanh trong doanh nghiệp. 2. Bản chất của kiểm toán nội bộ *Bản chất của kiểm toán nội bộ Kiểm toán nội bộ là nhu cầu cần thiết khách quan cho việc kiểm soát chất lượng hoạt động và bảo đảm chất lượng thông tin kinh tế, tài chính của bản thân doanh nghiệp. Kiểm toán nội bộ có vai trò rất lớn trong việc nâng cao chất lượng hoạt động của doanh nghiệp và không chỉ giới hạn ở phạm vi kiểm toán báo cáo tài chính. ở phạm vi rộng hơn và quan trọng hơn, kiểm toán nội bộ phải kiểm toán hoạt động và kiểm toán tính tuân thủ các quy định, các chế độ hiện hành của Nhà nước và của doanh nghiệp… nhưng nhìn chung, kiểm toán nội bộ là vấn đề khá phức tạp và còn mới mẻ ở nước ta. Hiệp hội kiểm toán viên nội bộ (IIA) đã định nghĩa về kiểm toán nội bộ như sau: “Kiểm toán nội bộ là hoạt động bảo đảm và tư vấn mang tính độc lập, khách quan được thiết lập nhằm tăng thêm giá trị và cải thiện cho các họat động của tổ chức. Kiểm toán nội bộ giúp cho tổ chức hoàn thành mục tiêu thông qua việc đưa ra một cách tiếp cận có hệ thống và kỷ cương nhằm đánh giá và cải thiện tính hữu hiệu trong quản trị rủi ro, kiểm soát và giám sát”. Theo các chuẩn mực hành nghề kiểm toán nội bộ ban hành tháng 5 năm 1978: “Kiểm toán nội bộ là một chức năng thẩm định độc lập được thiết lập bên trong một tổ chức để xem xét và đánh giá các hoạt động của tổ chức đó với tư cách là một sự trợ giúp cho tổ chức đó”. Kiểm toán nội bộ là một bộ máy thực hiện công việc kiểm toán trong tổ chức và do chính nhân viên trong tổ chức tiến hành. Khhi thực hiện công việc, kiểm toán viên nội bộ phải độc lập và khách quan, tức không bị cản trở khi xác định phạm vi công việc trong thực tiễn công việc, trong thực hhiện cong việc và thông báo kết quả của mình. Kiểm toán viên nội bộ phải vô tư, công bằng và không được khoan nhượng về chất lượng cộng việc; đồng thời không để cho sự phán xét trong công việc của mình bị lệ thuộc vào người khác. Ngoài công việc kiểm tra, kiểm toán viên nội bộ có thể tư vấn cho các bộ phận trong đơn vị. Tính chất và phạm vi của hoạt động này tùy theo sự thỏa thuận với bộ phận được tư vấn và dự kiến về việc tăng thêm giá trị và cải thiện hoạt động tổ chức. Thí dụ, các hoạt động tư vấn, trợ giúp, thiết kế quy trình và huấn luyện. Làm tăng thêm giá trị hoặc lợi ích cho các chủ sở hữu,cổ đông, khách hàng… là mục đích của mọi tổ chức. Giá trị có được thôngqua việc phát triển các sản phẩm và dịch vụ và việc sử dụng tối đa các nguồn lực để thúc đẩy sựgia tăng của sản phẩm và dịch vụ. Kiểm toán viên nội bộ thông qua quá trình đánh giá rủi ro và thu thập bằng chứng, sẽ tăng cường sự hiểu biết và cơ hội cải thiện hoạt động, từ đó góp phần làm tăng thêm lợi ích cho tổ chức. Các thông tin hữu ích được kiểm toán viên gửi đến các cấp quản lý thích hợp bằng những văn bản hoặc ý kiến kiến nghị, đề xuất. Kiểm toán viên nội bộ phải luôn cố gắng để ngày càng hoàn thiện phương pháp thực hiện công việc theo đúng những quy định về trách nhiệm nghề nghiệp trong việc nhận định, phân tích, đánh giá, ghi chép và thông báo kết quả; đồng thời kiểm toán viên nội bộ cũng phải tuân thủ những quy định về mặt đạo đức nghề nghiệp. Đánh giá và cải thiện là chức năng chủ yếu của kiểm toán nội bộ, họ phải tìm hiểu, phận tích sự việc để có những đánh giá thích hợp và đưa ra các đề xuất để cải thiện hoạt động của tổ chức. Mục đích của kiểm toán nội bộ là thực hiện việc kiểm tra, kiểm soát chất lượng hoạt động và chất lượng thông tin kinh tế, tài chính của doanh nghiệp, giúp cho công tác điều hành của chủ sở hữu, nhà điều hành doanh nghiệp trong việc giúp phát hiện và khắc phục khâu yếu, ngăn ngừa sai sót, gian lận trong hoạt động kinh tế, tài chính của doanh nghiệp. Đồng thời, kết quả kiểm toán nội bộ sẽ góp phần đắc lực và hiệu quả vào việc đảm bảo thông tin kinh tế, tài chính cung cấp cho các đối tựong bên ngoài doanh nghiệp. Mục tiêu của kiểm toán nội bộ : - kiểm tra tính phù hợp, hiệu lực, hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ. - đảm bảo việc tuân thủ chủ trương chính sách, pháp luật của Nhà nước, quy chế và quy trình nghiệp vụ của đơn vị, ngăn ngừa những hiện tượng vi phạm hoặc không tuân thủ pháp luật, quy trình nghệp vụ dẫn đến rủi ro trong hoạt động. - đảm bảo hoạt động của từng bộ phận trong đơn vị được triển khai đúng định hướng các biện pháp tổ chức thực hiện nhiệm vụ có hiệu lực và hiệu quả. - xác định, đánh giá tính chính xác, đầy đủ, hợp lý của các thông tin trên báo cáo tài chính và báo cáo nghiệp vụ của đơn vị. - kiến nghị._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docK1310.doc
Tài liệu liên quan