Vai trò của kế hoạch hoá phát triển trong nền Kinh tế thị trường & những vấn đề đổi mới, trong công tác kế hoạch hoá ở Việt Nam hiện nay

Lời Mở Đầu Đảng lãnh đạo thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện, nền kinh tế nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn và rất quan trọng.Từ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, chuyển sang cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà Nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta đã khắc phục được cuộc khủng hoảng kinh tế kéo dài, tạo điều kiện đẩy mạnh cộng nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đây là một thành công lớn trong bối cảnh quốc tế và trong nước có nhiều khó khăn và thách thức. Sự thành

doc27 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1277 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Vai trò của kế hoạch hoá phát triển trong nền Kinh tế thị trường & những vấn đề đổi mới, trong công tác kế hoạch hoá ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
công này có sự đóng góp đáng kể của công tác hoạch định chiến lược phát triển, đặc biệt là vai trò của kế hoạch hoá kinh tế vĩ mô trong cơ chế thị trường. Xuất phát từ nhận định trên em chọn đề tài “Vai trò của kế hoạch hoá phát triển trong nền kinh tế thị trường và những vấn đề đổi mới, trong công tác kế hoạch hoá ở Việt Nam hiện nay” Làm nội dung nghiên cứu cho đề an môn hoc của mình nghiên cứu nội dung này em mong muốn có được những hiểu biết sâu hơn về bản chất kế hoạch hoá phát triển. Em xin chân thành cảm ơn GSTS Vũ Thị Ngọc Phùng đã nhiệt tình giúp đỡ em trong quá trình thực hiện đề án. Mặc dù đã có cố gắng nhưng do vấn đề đặt ra khó khăn và do hạn chế về mặt kiến thức. Vì thế đề án của em không tránh khỏi những thiếu xót, vì vậy em mong muốn nhận được những ý kiến đóng góp, nhận xét sửa đổi quý báu từ phía các thầy cô cho đề tài của em. Em xin chân thành cảm ơn. Nội dung chương I bản chất kế hoạch hoá trong nền kinh tế thị trường I - Phân biệt kế hoạch hoá tập trung và kế hoạch hoá định hướng *Khái niệm kế hoạch hoá: Kế hoạch hoá phát triển kinh tế xã hội là một phương thức quản lý của Nhà nước bằng mục tiêu, thể hiện bằng việc xác định các mục tiêu về kinh tế xã hội Cần đặt được trong thời kỳ kế hoạch, các thể chế chính sách, những giải pháp cơ bản để thực hiện các mục tiêu đặt ra. 1. Bản chất của kế hoạch hoá tập trung 1.1-Khái niệm: Kế hoạch hoá tập trung là một phương hướng kế hoạch hoá, trong đó mọi hoạt động sản xuất và tiêu dùng trong nền kinh tế đều được thực hiện trên cơ sở các quy định mang tính pháp lệnh phát ra từ trung ương. Trong cơ chế tập trung chính phủ thực hiện khống chế trực tiếp nhiều hoạt động kinh tế thông qua quá trình đưa ra nhiều quyết định từ trung ương các mục tiêu cụ thể được định trước bởi các kế hoạch ở trung ương đã tạo nên cơ sở cho một kế hoạch kinh tế quốc dân toàn diện và đầy đủ nguồn nhân lực. 1.2- Sự ra đời và phát triển của kế hoạch hoá tập trung Cơ chế kế hoạch hoá tập trung bắt đầu được áp dụng phổ biến nhất ở Liên Xô cũ, và các nền kinh tế kế hoạch hoá tập chung khác ở Đông Âu: AN BANi, Bungari, Cộng hoà dân chủ Đức và Rumani. Mô hình kế hoạch hoá tập chung của Liên Xô trước đây đã trở thành hình mẫu không chỉ với các nước cộng hoà xã hội ở Đông Âu, TRung Quốc và Việt nam khi đó, mà còn đối với tất cả các nước đang phát triển. 1.3. Đặc trưng cơ chế kế hoạch hoá tập trung - Kế hoạch hoá phân bố nguồn lực phát triển cho các mục tiêu đối với hai thành phần kinh tế cơ bản là quốc doanh và tập thể. Kế hoạch chỉ bó hẹp trong phạm vi kinh tế nhà nước và ngân sách nhà nước, chỉ chú trọng phát triển kinh tế quốc doanh. Còn các thành phần kinh tế khác không được coi trọng và do đó không bao quát được nền kinh tế quốc dân. Cơ chế kế hoạch hoá tập trung theo phương thức “giao_nhận” với hệ thống chằng chịt các chỉ tiêu pháp lệnh của Nhà nước, giao đến tận các cơ sở sản xuất kinh doanh theo bao cấp cả “đầu vào” lẫn “đầu ra” trong quá trinh sản xuất kinh doanh. - Phương pháp kế hoạch hoá được tiến hành theo trình tự “hai xuống,một lên” nhằm kết hợp hài hoà giữa tính tập trung và tính dân chủ trong kế hoạch Song trên thực tế, quyền dân chủ, quyền chủ động của các đơn vị cơ sơ rất hạn chế. Vai trò của kế hoạch của các đơn vị cơ sở rất thụ động. Hình thành một ‘tập quán” trông chờ, ỷ lại nhà nước. 2. Bản chất của Kế hoạch hoá định hướng: 2.1. Khái niệm kế hoạch hoá định hướng Kế hoạch hoá thể hiện sự tác động có ý của chính phủ thông qua việc chủ động giải quyết mối quan hệ giữa khả năng và mục tiêu nhằm thực hiện các mục tiêu bằng cách sử dụng tối đa và có hiệu quả. 2.2. Sự ra đời và phat triển của kế hoạch hoá định hướng ở việt Nam Thời kì 1980 đến đầu 1990 :Đây có thể gọi là thời kì cải cách kế hoạch hoá ở nước ta các chính sách của Đảng và Nhà Nước đã hướng cơ chế kế hoạch hoá trực tiếp chuyển dần sang gián tiếp. Phần lớn các chỉ tiêu trước Nhà Nước giao pháp lệnh được chuyển sang hình thức thông tin, hướng dẫn các doanh nghiệp tự chủ, lập kế hoạch theo nhu cầu thị trường và hợp đồng kinh tế. Những cải cách trong thời kì này đã làm những nền tảng cơ bản để chuyển kế hoạch hoá tập trung sang hình thứckế hoạch hoá phát triển mang tính định hướng hiện nay ở nước ta. Tuy vậy, vào những năm cuối thập niên 80 và đầu thập niên 90 sau khi các nước Đông Âu tan rã và sụp đổ của Liên Xô, có thể nói đó là thời kì khủng hoảng trong kế hoạch hoá ở việt Nam Nhiều người cho rằng đã chuyển sang nền kinh tế thị trường thì không cần kế hoạchvà công tác KHH. Đến đại hội Đảng lần thứ VII, Đảng và nàh nước ta đã chủ trương quyết tâm đổi mới cơ chế theo hướng “xoá bỏ KHH tập trung quan liêu bao cấp, xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường và có sự quản của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Nhờ những thành tựu đã đạt được trong thời kỳ đổi mới cơ chế quản lý nói chung và KHH nói riêng nền kinh tế nước ta đã tăng trưởng với nhịp độ cao, kiềm chế và đẩy lùi được lạm phát. Vai trò của KHH phát triển ngày càng được khẳng định trong nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước ở nước ta hiện nay và công tác KHH cũng đã và đang trải qua thời kỳ đổi mới từng bước và cơ bản. 3. Nguyên tắc kế hoạch hoá định hướng Kế hoạnh hoá phát triển là yếu tố tập trung của quản lý kinh tế, xã hội, được quán triệt bốn nguyên tắc sau: 3.1- Nguyên tắc tập trung dân chủ Tính tập trung trong kế hoạch hoá phát triển thể hiện ở các mặt sau đây Chính phủ thông qua các cơ quan kế hoạch hoá quốc gia thực hiện được chức năng định hướng, chủ động hình thành khung vĩ mô, các chỉ tiêu định hướng và cân đối cơ bản của nền kinh tế quốc dân trong thời kỳ kế hoạch, đưa ra các chương phát triển kinh tế xã hội lớn, ban hành hệ thống chính sách thể chế để điều tiết và khuyết khích sự phát triển của thành phần kinh tế. Tính dân chủ trong kế hoạch hoá phát triển đặt ra các nội dung: Sử dụng sự tham gia của cộng đồng vào xây dựng vào thực thi kế hoạch Nó sẽ đảm bảo sự nhất trí cao của bản kế hoạch được xây dựng và khích lệ tiềm lực của các nhân cũng như cộng đồng trong thực hiện kế hoạch Sự dụng sự tham gia của khu vực tư nhân trong cộng tác kế hoạch hoá, trao đổi ý kiến với khu vực tư nhân sẽ có được thông tin tốt hơn về đặc điểm, quy mô, loại hình đầu tư và xu thế phát triển của khu vực tư nhân, tăng cường tính hiệu quả và sát định trong việc hoạch định và áp dụng các chính sách cho khu vực tư nhân 3.2- Nguyên tắc thị trường Nếu coi thị trường và kế hoạch là hai công cụ điều tiết nền kinh tế thì mối quan hệ với thị trường thực chất là sự kết hợp giữa hai công cụ điều tiết trực tiếp (bằng kế hoạch) và điều tiết gián tiếp (thông qua thị trường) nguyên tắc thị trường đặt ra yêu cầu: kế hoạch không tim cách thay thế thị trường mà ngược lại nó bổ xung cho thị trường và bảo đảm sự vận hành của thị trường luôn luôn tương xứng với sự liên kết xã hội của đất nước. Mặt khác kế hoạch phải căn cứ vào thị trường để đưa ra các mục tiêu hợp lí, cân nhắc một cách có hệ thống tất cả các công cụ, chính sách để có sự lựa chọn tối ưu 3.3- Nguyên tắc linh hoạt mềm dẻo Nguyên tắc này được đưa ra xuất phát từ nguyên tắc thị trường, nó tạo điều kiện thực hiện được nguyên tắc thị trường. Đối với nhà quản lí, nguyên tắc linh hoạt được xem là quan trọng nhất khi xây dựng kế hoạch. Nguyên tắc linh hoạt thể hiện trước hết trong quá trình lập kế hoạch, phải xây dựng được nhiều phương án kế hoạch gẵn với mỗi biến số khác nhau về các điều kiện hiện tại cũng như tương lai .Nguyên tắc linh hoặt mềm dẻo còn thể hiện trong việc tổ chức cơ quan kế hoạch và cơ chế hoạt động của nó, cần phải đặt ra vấn đề phân công, phối hợp giữa cơ quan kế hoạch theo tuyến dọc và tuyến ngang trong điều hành và xây dựng kế hoạch cán bộ của cơ quan kế hoạch cần đặt vấn đề thay đổi vị trí làm việc thường xuyên để tránh việc sơ cứng và tạo điều kiện cho các ý tưởng mới xuất hiện 3.4- Nguyên tắc bảo đảm hiệu quả kinh tế xã hội của các hoạt động kinh doanh Nguyên tắc đặt ra các vấn đề chủ yếu sau trong hoạt động kế hoạnh Cơ quan kế hoạch hoá quốc gia phải đóng vai trò quyết định trong việc xác định khung vĩ mô cho sự phát triển kinh tế dài hạn của đất nước Bảo đảm tính hệ thống trong kế hoạch hoá thống nhất giữa đường lối phát triển với chiến lược phát triển, hoặc các kế hoạch phát triển Các chương trình dự án là sự cụ thể kinh tế xã hội thể hiện rõ nét trong nội dung quản lí và thẩm định các chương trình, dự án phát triển để quyết định hướng phân bổ nguồn lực 4- Nội dung KHH định hướng 4.1- chiến lược phát triển kinh tế xã hội Trước hết nghiên cứu về bản chất của chiến lược và phát triển: hiến lược và phát triển là hệ thống các phân tích, đánh giá và lựa chọn về quan điểm mục tiêu tổng quát định hướng phát triển và các lĩnh vực chủ yếu của đời sống xã hội và các giải pháp cơ bản trong đó bao gồm các chính sách về cơ cấu cơ chế vận hành hệ thống kinh tế xã hội nhằm thực hiện mục tiêu đặt ra trong một khoảng thời gian dài Sự cần thiết phải có chiến lược phát triển kinh tế - hội trong quá trình phát triển: trong quá trình phát triển nói chung đặc biệt là giai đoạn đầu công nghiệp hoá các nguồn lực thường khan hiếm và đòi hỏi phải có sự huy động và phối hợp tốt nhất để tạo ra hiệu quả cao. Chiến lược cung cấp một tầm nhìn và khuôn khổ tổng quát cho việc thiết lập các quan hệ hợp tác và hội nhập quốc tế một cách chủ đọng và có hiêụ quả. 4.2. Quy hoạch phát triển Quy hoạch phát triển là một bản luận chứng khoa học về kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội và tổ chức không gian hợp lý về nền kinh tế quốc gia hay bố trí kinh tế hợp lý quốc gia theo lãnh thổ bao gồm hai nhiệm vụ cơ bản: Dự báo phát triển vùng và không gian hợp lý. Vai trò hay chức năng của quy hoạch phát triển trước hết là sự thể hiện của chiến lược trong thực tiễn phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Quy hoạch cụ thể hoá chiến lược cả về mục tiêu và các giải pháp. 4.3 Kế hoạch phát triển Kế hoạch là một công cụ quản lý và điều hành vĩ mô nền kinh tế quốc dân nó chỉ là sự cụ thể hoá các mục tiêu định hướng của chiến lược phát triển theo từng thời kì băng hệ thống các mục tiêu và chỉ tiêu biện pháp định hướng phat triển và hệ thống các chính sách. Hệ thống kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia thường bao gồm các kế hoạch phát triển như: Kế hoạch tăng trưởng kinh tế kế hoạch chuyển dịch cơ cấu kinh tế kế hoạch phát triển vùng kinh tế kế hoach nâng cao phúc lợi xã hội. Về mặt thời gian thì kế hoạch phát triển kinh tế_xã hội 5 năm đặc biệt coi trọng đó là sự cụ thể hoá các chiến lược và quy hoạch phat triển trong lộ trình phats triển lộ trình dài hạn của đất nước. 4.4 Chương trình dự án và phát triển kinh tế_xã hội Chức năng chủ yếu của các chương trinh quốc gia là: Cụ thể hoá kế hoạch đưa nhiệm vụ kế hoạch vào thực tế cuộc sống với chức năng này một chương trình quốc gia phải bao gồm các mục tiêu cụ thể các chỉ tiêu biện pháp và các giải pháp để thực hiện. Các chương trình dự án phát triển được xem là cơ sở thực hiện phân bố nguồn lực như: vốn đầu tư ngân sách… thay cho hình thưc phân bố theo đối tượng như trươc kia thực hiện KHH theo chương trình quốc gia là biện pháp để khắc phục những mặt trái cơ chế thị trường tạo sự ổn định về chính trị xã hội cho kinh tế tăng trưởng một cách bền vững. II - Đổi mới kế hoạch hoá tập trung sang kế hoạch hoá định hướng 1- Đôỉ mới nhận thức mối quan hệ giữa kế hoạch và thị trường Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung kế hoạch không gắn với thị trường còn thị trường không những không có tác động kích thích các hoạt động sản xuất kinh doanh mà ngược lại còn gó phần kìm hãm sự phát triển của sức sản xuất chuyển sang cơ chế kế hoạch hoá định hướng, kế hoạch hoá không tìm cách thay thế thị trường mà ngược lại nó bổ sung chothị trường bù đắp các khiếm khuyết của thị trường hướng dẫn thị trường và bảo đảm sự vận hành của thị trường đẻ đưa ra các mục tiêu hợp lý cân nhắc một cách có hệ thống tất cả các công cụ chính sách có lựa chọn tối ưu. 2.Đổi mới tính chất kế hoạch Trong cơ chế KHH tập trung mang nặng tính mệnh lệnh trực tiếp Về thực chất đó là quá trình áp đặt của Nhà nước bằng các chỉ tiêu pháp lệnh đối với các đơn vị sản xuất kinh doanh Trong cơ chế cũ việc thực hiện KHH chủ yếu được tiến hành bằng cách giao chỉ tiêu pháp lệnh Vì vậy cấp dưới và các đơn vị cơ sở có nhiệm vụ thihành không cần suy nghĩ sáng tạo tính toán hiệu quả do đó mà trở nên hết sức thụ động. Bước sang cơ chế KHH định hướng kế hoạch hoá mang tính chất định hướng Nhà nước chỉ tập trung vào việc thiết lập cân đối nhằm đảm bảo cho nền kinh tế phát triển ổn định tăng trưởng có hiệu quả và công bằng xã hội. Còn các đơn vị kinh tế cơ sở trực tiếp thực hiện kế hoạch kinh doanh do mình vạch ra dựa trên định hướng KHH và thông qua tác động của thị trường và sự điều tiết vĩ mô của nhà nước. Trong cơ chế kế hoạch hoá định hướng kế hoạch manag tính hướng dẫn buộc các đơn vị kinh tế cơ sở phải tự chủ sản xuất kinh doanh. KHH định hướng mang tính công khai với việc sử dụng đòn bẩy kinh tế đã tạo ra động lực kích thích mạnh mẽ bằng lợi ích vật chất thông qua hiệu quả sản xuất kinh doanh. 3. Phân cấp kế hoạch hoá Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung cấp kế hoạch chủ yếu theo chiều dọc bằng các quyêt định mệnh lệnh được phát ra từ trung ương cơ quan kế hoạh cấp trên áp đặt hành chính chủ quan đối với cấp dưới khong phát huy được tính chủ động sáng tạo của các ngành các cấp chính quyền địa phương cũng như doanh nghiệp trong việc lập và thực hiện kế hoạch, đơn vị kinh tế cơ sở chỉ biết chấp hành thụ động tuân theo mệnh lệnh hành chính. Điều đó dẫn đến tình trạng quan liêu bao cấp tràn lan và nặng nề. Trong cơ chế kế hoạch hoá định hướng việc phân cấp kế hoạch hoá được thực hiện một cách mạnh mẽ phân cấp bộ máy KHH một cách triệt để theo xu hướng giao quyền cho cấp dưới. Thực hiện chế độ kế hoạch hoá hai cấp: Nhà nước và đơn vị kinh tế cơ sở, cơ quan kế hoạch trong phạm vi hệ thống kế hoạch và đầu tư nói chung đã đổi mới theo hướng đi mạnh vào việc đảm bảo các định hướng chiến lược quy hoạch các cân đối của nền kinh tế. 4. Đổi mới hệ thống các chỉ tiêu Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, Nhà nước phân bổ nguồn lực và sản phẩm bằng một hệ thống các chỉ tiêu hiện vật, chuyển sang cơ chế kế hoạch hoá định hướng đồng nghĩa với việc chuyển trọng tâm sang kế hoạch hoá giá trị, nghĩa là coi trọng các chỉ tiêu giá trị, các chỉ tiêu kế hoạch hiện vật nói chung đã được giảm bớt đáng kể. Kế hoạch hoá định hướng là có xu thế giảm định lượng tức là thay đổi tính chất định lượng và nâng cao hiệu quả định lượng lên. 5. Đổi mới nội dung kế hoạch hoá Nội dung kế hoạch hoá tâp trung Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung nội dung kế hoạch hoá được phân thành kế hoạch dài hạn, kế hoạch trung hạn, kế hoạch dài hạn, tuy cũng có kế hoạch 5 năm và kế hoạch hàng năm, song phạm vi chỉ bao quát các lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh và khu vực nhà nước. Nội dung kế hoạch hoá định hướng Chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế kế hoạch hoá định hướng nội dung của kế hoạch được cấu thành bao gồm các bộ phận và nội dung được đổi mới như sau: Đổi mới công tác xây dựng chiến lược phát triển kinh tế xã hội Trên cơ sở phân tích khoa học điều kiện kinh tế_ xã hội, khả năng khai thác các nguồn lực và tính thích ứng của quá trình hội nhập khu vực và thế giới, các quan điểm và đường lối trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội được cụ thể hoá thành các mục tiêu cho từng giai đoạn từ 10 đến 20 năm của sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế xã hội Việc tăng cường nghiên cứu xây dựng chiến lược và quy hoạch phát triển đã tạo cơ sở khoa học và thực tiễn cho công tác kế hoạch hoá trung hạn và kế hoạch hoá từng năm. Đại hội IX đã đánh giá việc thực hiện chiến lược đó và quyết định chiến lược 2001_2010”chiến lược đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp” chiến lược phát triển kinh tế xã hội đã đề ra mục tiêu tăng trưởng kinh tế thích hợp có nội dung đáp ứng được yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước, phát huy được tiềm lực trong nước và thu hút được nguồn lực từ bên ngoài, tạo điều kiện thuận lợi cho việc xác định các chính sách kinh tế phù hợp với điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường. Đổi mới quy hoạch phát triển Công tác kế hoạch đã có những cố gắng và chuyển biến lúc đầu tập trung sức xây dựng chiến lược và quy hoạch phát triển, các chương trình và dự án lớn trong cả nước và cho từng nghành, từng vùng, từng lĩnh vực thực hiện phương trâm này, trong những năm qua Nhà nước đã tập trung thực hiện quy hoạch một số ngành như: Điện lực, bưu chính viễn thông, giao thông vận tải, khu công nghiệp tạo cơ sở cho việc phát triển chung của nền kinh tế đóng góp một phần không nhỏ cho công cuộc cải cách kinh tế. Việc hình thành các vùng kinh tế trọng điểm ở 3 miền đã tạo ra những khu vực phát triển tập trung thu hút các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đàu tư nước ngoài, làm thay đổi không những bộ mặt kinh tế xã hội ở những vùng này mà còn góp phần quan trọng cho tăng trưởng của toàn nền kinh tế. Đổi mới kế hoạch hoá phát triển Kế hoạch hoá phát triển có nhiều đổi mới quan trọng mà trọng tâm là kế hoạch 5 năm Về phạm vi kế hoạch hoá: Phạm vi kế hoạch hoá không chỉ bao quát các doanh nghiệp thuộc khu vực nhà nước mà phần nào đã bao quát được các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Nhà nước ban hành nhiều chính sách nhằm tạo ra môi trường ổn định cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế hoạt động một cách bình đẳng và được pháp luật bảo vệ. Về nội dung kế hoạch: Do nhận thức và vai trò của các lĩnh vực văn hoá, xã hội đối với sự nghiệp phát triển kinh tế đã chuyển hướng từ kế hoạch phát triển kinh tế sang kế hoạch phát triển kinh tế xã. Các kế hoạch 5 năm và hàng năm đã chú trọng hơn đến các mục tiêu phát triển văn hoá, xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện công bằng xã hội các kế hoạch ngày càng trở nên vững chắc và toàn diện hơn, kế phát triển kinh tế đi liền với kế hoạch phát triển xã hội và bảo vệ môi trường. Như vậy chuyển sang cơ chế mới kế hoạch 5 năm đã có những chuyển biến quan trọng phù hợp vơí nhu cầu đổi mới của nền kinh tế. Đổi mới các chương trình dự án phát triển. Trong nền kinh tế thị trường, thực hiện các chương trình quốc gia, giải quyết các vấn đề bức xúc về kinh tế – xã hội ở Việt Nam cùng với quá trình đổi mới và mở cửa nền kinh tế phương pháp kế hoạch hoá quản lý theo các chương trình quốc gia cũng được áp dụng rộng rãi. Kế hoạch hoá quản lý theo các chương trình phát triển là việc đưa ra các chương trình mục tiêu để xử lý các vấn đề về kinh tế – xã hội của đất nước. Đây là một phương pháp quản lý vừa đặc biệt lại vừa mang tính hiệu quả cao. III - Vai trò của kế hoạch hoá phát triển kinh tế xã hội 1. Tăng trưởng kinh tế bền vững Đây là mục tiêu quan trọng nhất đối với các quốc gia đang phát triển vì tăng trưởng kinh tế quyết định tốc độ phát triển quốc gia, quyết định mức sống dân cư và tiềm lực kinh tế của đất nước. Tăng trưởng kinh tế bền vững đòi hỏi tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế không những phải ở mức độ cao có thể đạt được, mà còn phải bảo đảm sự ổn định của quá trình tăng trưởng, tức là tốc độ tăng trưởng phải ổn định liên tục, trong một thời kỳ dài, đồng thời phải đảm bảo có hiệu quả các nguồn lực sản xuất, bảo vệ môi trường, tái tạo lại các nguồn lực tự nhiên. Vì vậy mà mục tiêu hoạt động kinh tế của nhà nước luôn nhấn mạnh tăng trưởng một cách bền vững. 2. Giải quyết việc làm cho lực lượng lao động Lực lao động của một quốc gia là nguồn lực quan trọng của sự tăng trưởng kinh tế và phát triển. Giải quyết việc làm cho lực lượng lao động vừa có tác dụng thúc đấy tăng trưởng vừa giải quyết công bằng và ổn định xã hội. Ngược lại, nếu không giải quyết việc làm đầy đủ cho lực lượng lao động, tỷ lệ thất nghiệp quá cao sẽ trở thành ngánh nặng xã hội, gây nên những hậu quả kinh tế xã hội sấu khó giải quyết ở nước ta có tỷ trọng lao động trong khu vực nông nghiệp lớn, do đó nó có vai trò rất quan trọng trong các kế hoạch phát triển của quốc gia cũng như địa phương. 3- Khống chế lạm phát ở mức vừa phải Đây là mục tiêu ổn định nền kinh tế, đảm bảo nền kinh tế không bị xáo trộndo lạm phát bảo đảm ổn định môi trường kinh doanh, môi trường đầu tư và góp phần ổn định kinh tế xã hội. Mức độ lạm phát quá cao hay quá thấp hoặc giảm phát đều ảnh hưởng và tác động mạnh đến sản xuất, tiêu dùng, tới sự tăng trưởng kinh tế và ổn định kinh tế xã hội. Do vậy khống chế, kiểm soát và ổn định lạm phát ở mức chấp nhận được, hoặc ở mức vừa phải được coi là một trong mục tiêu kinh tế vĩ mô chủ yếu. 4. Cân bằng ngân sách Nhà nước và bảo đảm công bằng, tiến bộ xã hội Cân bằng ngân sách cũng được coi là một trong số các mục tiêu kinh tế vĩ mô quan trọng. Bởi vì việc thâm hụt ngân sách quá lớn sẽ trực tiếp tác đọng tới tổng cung, tổng cầu của nền kinh tế, tới dự trữ quốc gia, tới cán cân thanh toán quốc tế và ảnh hưởng tới sự tăng trưởng của toàn bộ nền kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN bảo đảm công bằng và tiến bộ xã hội là mục tiêu quan trọng, đồng thời cũng là một lĩnh vực thu hút sự quan tâm của toàn xã hội. Chương II: thực trạng và những vấn đề đổi mới I. Kế hoạch hoá trong thời kì chuyển đổi kinh tế ở Việt Nam hiện nay Đại hội lần thứ VIII của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã xác định” cơ chế áp dụng ở Việt Nam là cơ chế thị trường có sự điều tiết của Chính Phủ theo định hướng xã hội chủ nghĩa cơ chế này thể hiện nội dung cơ bản là: áp dụng hình thức đa dạng hoá các thành phần kinh tế, thực hiện cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà Nước, phát triển kinh tế tư nhân. Sử dụng thị trường với tư cách công cụ điều tiết sản xuất, giá cả là cơ sở sản xuất, tiêu dùng và điều tiết các yếu tố nguồn lực. Công tác kế hoạch hoá trong một nền kinh tế chuyển đổi như vậy không thể là kế hoạch hoá tập trung mệnh lệnh mà nó phải được chuyển sang một mô hình mới với những nét đặc trưng sau đây: Chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá phân bổ nguồn lực sang cơ chế kế hoạch hoá khai thác nguồn lực phát triển và định hướng sử dụng các nguồn lực đó theo mục tiêu đối với tất cả các thành phần kinh tế. Chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá pháp lệnh, trực tiếp sang cơ chế kế hoạch gián tiếp, định hướng phát triển với hệ thống cơ chế, chính sách phù hợp và khuyến khích nhằm đạt được mục tiêu. Chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá mang tính khép kín trong từng nghành, vùng lãnh thổ sang cơ chế kế hoạch hoá theo chương trình mục tiêu với sự kết hợp hài hoà giữa các ngành, các vùng, cả bên trong và bên ngoài theo hướng tối ưu hoá và hiệu quả các hoạt động kinh tế xã hội. II Sự cần thiết phải chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế kế hoạch hoá định hướng xã hội – chủ nghĩa 1. Những tồn tại của cơ chế kế hoạch hoá tập trung Kế hoạch hoá tập trung cao độ từ một trung tâm về thực chất là quá trình áp đặt hành vi từ phía Nhà nư. Các đơn vị kinh tế trở thành một vấn đề lệ thuộc hoàn toàn vào cấp trên, vào ngân sách Nhà nước, không có sức sống độc lập. Kế hoạch hoá trực tiếp đòi hỏi phải chia cắt nền kinh tế theo ngành và theo lãnh thổ để quản, mà thực chất là phân chia quyền sở hữu đối với mọi tài sản và nguồn lực của quốc. Tình trạng đó dẫn đến chỗ vì lợi ích cộc bộ của ngành, của địa phương, thậm chí của từng đơn vị kinh tế, làm phương hại đến lợi ích quốc gia, làm cho nền kinh tế không chỉ mất đi sức trồi của một chỉnh thể, mà còn bị lâm vào tình trạng mất cân đối với thiếu hụt thường xuyên. 2. Thực trạng kinh tế – Xã hội Việt nam trước khi chuyển đổi Do các quan hệ kinh tế đã thay đổi rất nhiều, việc áp dụng cơ chế quản lý kinh tế cũ vào điều kiện nền kinh tế đã thay đổi làm xuất hiện rất nhiều hiện tượng tiêu cực. Do chủ quan cứng nhắc, không nhắc tới sự phù hợp của cơ chế quản lý kinh tế mà chúng ta đã không quản lý có hiệu quả các nguồn tài nguyên sản xuất của đất nước, trái lại đã dẫn đến việc sử dụng lãng phí một cách nghiêm trọng các nguồn tài nguyên đó. Tài nguyên thiên nhiên bị phá hoại, môi trường bị ô nhiễm, sản xuất kém hiệu quả, nhà nước thực hiện bao cấp tràn lan. Những sự việc đó đã gay ra nhiều hậu quả xấu cho nền kinh tế, sự tăng trưởng kinh tế gặp nhiều khó khăn, sản phẩm trở nên khan hiếm, ngân sách bị thu hụt nặng nề, thu nhập từ nền kinh tế không đủ tiêu dùng, tích luỹ hàng năm hầu như không có Vốn đầu tư chủ yếu dựa vào vay và viện trợ của nước ngoài. Năng suất xã hội bị suy giảm do thiếu động lực cho hàng triệu người lao động. Nguyên nhân sâu xa về sự suy thoái nền kinh tế ở nước ta là do ta đã áp dụng một môh ình kinh tế chưa thích hợp. 3. Bối cảnh quốc tế Cuộc cách mạng khoa học công nghệ trên thế giới phát triển mạnh mẽ, tác động sâu sắc đến tình hình kinh tế, làm thay đổi mọi mặt đời sống của các dân tộc. Xét về mỗi quan hệ kinh tế đối ngoại ta thấy nền kinh tế nước ta đang hoà nhập với nền kinh tế thị trường thế giới, sự giao lưu về hàng hoá, dịch vụ và đầu tư trực tiếp của nước ngoài làm cho sự vận động làm cho nền kinh tế nước ta gần gũi hơn với nền kinh tế thị trường thế giới là sự phát triển kinh tế của mỗi nước, không thể tách rời và hoà nhập quốc tế, sự cạnh tranh giữa các quốc gia đã thay đổi hẳn về chất, tiềm lực kinh tế đã trở thành thước đo chủ yếu, vấn đề đổi mới là tất yếu vì mô hình xã hội chủ nghĩa cũ không thích hợp cản trở phát triển. III. Các vấn đề mà kế hoạch hoá đã làm được 1. Xây dựng chiến lược phát triển kinh tế xã hội Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội 1991-2000 đã được điều chỉnh trong đại hội Đảng VIII, nguyên nhân thành công của chiến lược là những tư tưởng,quan điểm cơ bản,mục tiêu,nhiệm vụ và giải pháp nêu trong chiến lược1991-2000 về cơ bản là phù hợp với yêu cầu phát triển và điều kiện thực tế, thực sự có ý nghĩa chỉ đạo quan trọng thúc đẩy đổi mới, tạo ra thế và lực mới cho đất nước. Chiến lược đã bước đầu khơi dậy và động viên sự phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân, đồng thời thể hiện một bước đổi mới, quan trọng có hệ thống về tư duy chiến lược. Thời kỳ 1991_2000 đã hình thành một chiến lược rõ ràng, đúng đắn, thực sự có ý nghĩa chỉ đạo, nên trong một thời gian ngắn thu được kết quả to lớn. Sau một số năm thực hiện, nước ta đã ra khỏi cuộc khủng hoảng cả nước đã đạt đươc mức tăng trưởng cao nhất từ trước đến nay tạo mức chuyển dịch mới về cơ cấu kinh tế, nâng cao một bước đời sống các tầng lớp dân cư. Mặc dù có ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực, nước ta vẫn có bước phát triển khá so vơi các nước xây dựng quy hoạch phát triển. 2. Kinh tế_ xã hội phat triển Trong thời gian vừa qua công tác quy họach phát triển kinh tế _ xã hội đã đóng góp đáng kể vào sự phát triển và tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Việc hình thành các vùng kinh tế trọng điểm ở bắc bộ, trung bộ và nam bộ đã tạo ra những khu vực phát triển tập trung thu hút các nhà đầu tư, đặc biệt các nhà đầu tư nước ngoài làm thay đổi không những bộ mặt kinh tế_xã hội ở những vùng này mà còn góp phần quan trọng cho tăng trưởng của toàn nền kinh tế, tạo điêu kiện thúc đẩy các vùng lân cận phát triển thành vệ tinh của những trọng điểm phát triển trên. Trên phạm vi cả nước nhờ công tác quy hoạch đã hình thành trồng cây chuyên môn hoá, hàng chục khu công nghiệp tập trung, hàng chục điểm đô thị mới, rất nhiều cảng biển, tuyến đường có tốc độ cao, nhiều công trình thuỷ điện… Nói tóm lại công tác quy hoạch đã có những cố gắng và chuyển biến bước đầu đã gắn được mục tiêu của chiến lược và nội dung quy hoạch, xác định được tiềm năng, định hướng phát triển cho từng vùng, từng địa phương. 3. Chuyển dần trọng tâm sang kế hoạch hoá định hướng phát triển 5 năm Trên cơ sở chiến lược phát triển kinh tế_xã hội và quy hoạch phát triển,các kế hoạch 5 năm 1991_1995 và 1996_2000 đã được xây dựng với những thay đổi lớn về phương pháp và nội dung như: tăng cường kế hoạch hoá vĩ mô, từng bước xoá bỏ kế hoạch hoá mệnh lệnh, chuyển sang kế hoạch hoá định hướng,chú ý hơn đến các chỉ tiêu các lĩnh vực xã hội, khoa học và công nghệ đã có nhiều cố gắng xây dựng và điều hành, đảm bảo các cân đối lớn trong kế hoạch hoá giá trị Xây dựng và thực hiệncác chương trình dự án quốc gia, chú trọng xây dựng cơ sở dựng cơ sở hạ tầng kinh tế_xã hội, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại và hội nhập quốc tế kế hoạch hàng năm đã chú trọng đến những cân đối lớn, đặc biệt là cân đối tài chính_tiền tệ, cân đối cán cân thanh toán quốc tế, cân đối vốn đầu tư toàn xã hội. Các chính sách tài chính tiền tệ, tỷ giá, lãi xuất được nghiên cứu và vận hành ngày càng phù hợp giúp ổn định kinh tế. Thực tế nói trên chứng tỏ ý tưởng chuyển dần việc điều hành kế hoạch từ can thiệp vi mô sang chú trọng các vấn đề vĩ mô, các cân đối lớn ngày càng thể hiện rõ và phát huy hiệu lực thực tế. 4. Xây dựng và thực hiện các chương trình dự án phát triển kinh tế_xã hội Cơ chế lồng ghép các chương trình đang được đặt ra bước đầu mang lại hiệu quả tốt triển khai hình thức kế hoạch hoá theo chương trình mục tiêu ưu tiên cơ sở vận dụng quan điểm hệ thống và phương pháp cân đối đã góp phần thúc đẩy quá trình hình thành cơ cấu mới và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở phạm vi toàn nền kinh tế cũng như ở các bộ ngành và tỉnh, thành phố, các công việc thuộc về thẩm định dự án, đấu thầu đã được triển khai theo quy trình có bài bản, hạn chế những tồn tại của công tác kế hoạch đó là sai xót và lãng phí. IV. Kế hoạch hoá trong cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa Trong nền kinh tế đang chuyển đổi ở Việt Nam, thị trường vừa là căn cứ, vừa là đối tượng của kế hoạch hoá Nhà nước một mặt phải xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, mặt khác phải hình thành đồng bộ các yếu tố của thị trường, xây dựng và hoàn thiện các công cụ pháp luật, kế hoạch, các thiết kế tài chính, tiền tệ và những phương tiện về vật chất và tổ chức cần thiết cho sự quản lý của mình, tạo điều kiện cho chế thị trường hoạt động hữu hiệu. Kế hoạch chủ yếu mang tích chất định hướng và đặc biệt quan trọng có vai trò trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn lĩnh vực hoạt động và phương án tổ chức kinh doanh. Đối với các thành phần kinh tế khác thì kế hoạch không có tính áp đặt đặt, mà thông qua các biện pháp chính sách thống nhất với lợi ích để khuyến khíc._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docN0217.doc
Tài liệu liên quan