LỜI MỞ ĐẦU
Xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới trong đó có cả lĩnh vực tài chính ngày càng phát triển trong những thập kỷ gần đây, và dần hoàn thiện các “luật chơi” cho các quốc gia tham gia vào quá trình này. Đứng trước xu hướng đó các quốc gia chịu cả những thách thức lẫn hưởng các thời cơ thuận lợi, nhưng các nước đang phát triển rõ ràng là chịu nhiều khó khăn hơn cả và dễ bị chịu những tác động xấu của toàn cầu hoá. Trước năm 1997 không một nhà kinh tế hay một chính trị gia nào có th
22 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1717 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Vai trò của IMF trong cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ể nghĩ rằng một cuộc khủng hoảng kinh tế lại diễn ra ở châu Á, một khu vực với những sự phát triển thần kỳ của các nền kinh tế con rồng. Thế nhưng một khu vực được coi là sẽ trở thành trung tâm phát triển của kinh tế thế giới ở thế kỷ 21 lại phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng với quy mô và mức độ phá hoại lớn như vậy.
Để hỗ trợ cho quá trình toàn cầu hoá các nước, dẫn đầu là các nước tư bản phát triển, đã thiết lập những thể chế kinh tế quốc tế có quy mô rộng lớn và những mục tiêu lớn lao.
Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) một tổ chức lớn nhất thế giới hoạt động trong lĩnh vực tài chính tiền tệ đã thể hiện vai trò của mình trong suốt gần nửa thế kỷ qua và đã hoạt động rất tích cực trong cuộc khủng hoảng châu Á, góp sức đưa khu vực ra khỏi cuộc khủng hoảng.
Hiện nay cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ đã đi qua nhưng nhìn lại diễn biến và vai trò của IMF trong cuộc khủng hoảng là một việc rất cần thiết và quan trọng bởi vì qua đó mới có thể hiểu được nguyên nhân của cuộc khủng hoảng và quan trọng hơn là để rút ra bài học kinh nghiệm cho tương lai và cải cách IMF sao cho có thể dự báo và khắc phục khủng hoảng tốt hơn. Với tinh thần đó bài khoá luận sẽ tập trung nghiên cứu nguồn gốc của cuộc khủng hoảng và đánh giá về vai trò của IMF. Do sự hạn chế về kiến thức, tài liệu và thời gian bài khoá luận không thể tránh khỏi thiếu sót. Rất mong được sự phê bình góp ý của thầy cô bộ môn kinh tế.
I-/ MỘT VÀI ĐẶC ĐIỂM VÀ MỤC ĐÍCH CỦA IMF.
Quỹ tiền tệ quốc tế là tổ chức tiền tệ - tín dụng liên chính phủ. Quỹ được thành lập trên cơ sở Nghị quyết của Hội nghị quốc tế về tiền tệ - tài chính của Liên Hợp Quốc họp tháng 07 năm 1994 tại Bretton Woods (Mỹ) với đại diện của 44 nước tham gia. Từ ngày 1/ 3/ 1947 tổ chức IMF bắt đầu đi vào hoạt động chính thức. Hiện nay có 181 nước là thành viên của IMF.
Nguồn vốn hoạt động chủ yếu của Quỹ là do các nước thành viên đóng góp. Tuy nhiên trong trường hợp cần thiết, Quỹ cũng có thể vay vốn trên các thị trường tài chính quốc tế để phục vụ việc cung cấp những khoản cho vay tài trợ. Quỹ còn có sự phối hợp chặt chẽ với ngân hàng quốc tế về tái thiết và phát triển (International Bank for Recontruction and Development - IBRD) cũng được thành lập tại hội nghị Bretton Woods trong việc ổn định các quan hệ thanh toán tiền tệ quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi cho tăng trưởng và phát triển kinh tế của các nước thành viên. IMF đã xây dựng một hạn mức cho vay và hạn mức đóng góp đối với các thành viên. Tiêu chuẩn để xác định mức đóng góp là tiềm năng kinh tế và vị trí của mỗi nước trong nền kinh tế thế giới số phiếu biểu quyết của mỗi nước tuỳ thuộc vào mức độ đóng góp của các nước đó cho IMF. Nước Mỹ, nền kinh tế lớn nhất thế giới đóng góp phần nhiều nhất cho IMF chiếm khoảng 18% tổng số cổ phần nên quyền lực của Mỹ ở IMF là lớn nhất.
Mục đích của IMF: IMF hỗ trợ tín dụng cho các nước thành viên để triển khai các dự án phát triển kinh tế - xã hội khắc phục thâm hụt trong cán cân thanh toán quốc tế, giải quyết những khó khăn tài chính bất thường xảy ra do ảnh hưởng của thiên nhiên hoặc để ổn định giá những mặt hàng nguyên nhiên liệu chiến lược và điều chỉnh quan hệ tiền tệ giữa các nước hội viên.
IMF chỉ cho vay với điều kiện là thành viên đó sử dụng tiền vay có hiệu quả. Vì vậy nước đi vay cam kết đề xướng một loạt các cải cách mà sẽ xoá bỏ nguồn gốc của khó khăn thanh toán và chuẩn bị nền tảng cho tăng trưởng kinh tế cùng với yêu cầu xin cấp một khoản vay, đối tượng vay tiềm năng sẽ trình bày với IMF một kế hoạch cải cách điển hình là cam kết hạ thấp giá trị đồng tiền của mình do với các đồng tiền khác (nếu như đồng tiền của nước này bị định giá cao hơn giá trị) khuyến khích xuất khẩu và giảm chi tiêu chính phủ.
Khi quốc gia nào gặp khó khăn trong vấn đề trả nợ nước ngoài thì IMF đề ra “chương trình điều chỉnh cơ cấu” bằng cách giảm phát nền kinh tế và giảm chi tiêu của chính phủ nhằm giúp các nước này lấy lại sự kiểm soát đối với nền kinh tế. Mặc dù có những vấn đề khó khăn với nền kinh tế quốc gia nhưng khi nền kinh tế được “điều chỉnh” tìh mọi thứ sẽ trở nên tốt hơn. Nhưng trên thực tế chương trình này đòi hỏi chính phủ nước đi vay phải giảm chi tiêu dịch vụ, tư nhân hoá, giảm thuế nhập khẩu, giảm trợ cấp chính phủ. Điều này làm các công ty nước ngoài dễ dàng kiểm soát nền kinh tế nước đi vay.
II-/ NGUYÊN NHÂN CỦA CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TIỀN TỆ CHÂU Á.
1-/ Một số diễn biến.
Ngày 2/ 7/ 1997 sau khi tung ra gần 24 tỷ USD để giữ giá đồng Baht nhưng không thành công, ngân hàng trung ương Thái Lan buộc phải tuyên bố thả nổi đồng Baht mở đầu cho cuộc khủng hoảng tài chính châu Á. Trong điều kiện liên kết kinh tế giữa các nước ASEAN hiện nay khá chặt chẽ việc đồng Baht giảm giá lập tức tác động đến đồng tiền các nước khác trong khu vực. Cuộc khủng hoảng lan rộng sang Malaysia, Philippines rồi Indonesia và Singapore sau đó lan tiếp sang Hàn Quốc, Nhật Bản, Hồng Kông và rồi cả nước Nga gây nên những khủng hoảng trầm trọng trên thị trường tài chính nước này, các đồng tiền nước này bị mất giá chóng mặt. Các nhà đầu tư nước ngoài từ Âu Mỹ rút khỏi thị trường châu Á nói chung và ASEAN nói riêng để chuyển sang các khu vực khác có vẻ ổn định hơn (chu chuyển vốn vào các nước đang phát triển ở châu Á giảm hơn 60 tỷ USD và chỉ còn 40 tỷ USD trong năm 1997). Cuộc khủng hoảng làm phá sản hàng vạn các công ty khắp châu Á trong đó có các tập đoàn lớn trong nhiều lĩnh vực như ngân hàng, điện tử và công nghiệp. Các nước bị ảnh hưởng nặng bởi cuộc khủng hoảng hầu hết đều có mức tăng trưởng âm và có tỷ lệ thất nghiệp cao. Đến 6/ 4/ 1998 IMF cho rằng thời điểm tồi tệ nhất của cuộc khủng hoảng kinh tế ở châu Á đã qua. Nhưng cuộc khủng hoảng lại tiếp tục với nhiều diễn biến khó lường trước được cuốn các quốc gia trong khu vực châu Á vào những nỗ lực vượt bậc. Hội nghị các thứ trưởng tài chính và thống đốc ngân hàng nhà nước nhóm G7 và 11 nước châu Á - Thái Bình Dương tại Tôkyô thảo luận về việc ổn định đồng Yên và ngăn chặn cuộc khủng hoảng tiền tệ lần thứ 2 tại khu vực và tìm cách khôi phục nền kinh tế Nhật Bản đang thoái chưa từng có trong 23 năm.
Các dấu hiệu hồi phục kinh tế bắt đầu xuất hiện từ tháng 4/ 1999, chấm dứt một thời gian dài mà chỉ nghe thấy tin tức về sự sụt giá của các đồng tiền, tăng trưởng âm...Tại hôi nghị cấp cao ASEAN + 3 diễn ra ở Manila (Philippines) các nhà lãnh đạo châu Á tuyên bố cuộc khủng hoảng kinh tế đã qua. Sự hồi phục diễn ra mạnh nhất ở Malaysia, Singapore, Hàn Quốc và Thái Lan trong đó Hàn Quốc dẫn đầu với mức tăng GDP 9% so với mức âm 6% năm 1998. Tốc độ tăng trưởng GDP của các quốc gia ASEAN năm 1999 đạt 3% so với âm 7,5% năm 1998. Đặc biệt là lòng tin của các nhà đầu tư vào châu Á tăng với số vốn đầu tư tăng nhanh.
2-/ Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng.
2.1. Nguyên nhân bên trong.
2.1.1. Thực hiện chế độ tỷ giá hối đoái không linh hoạt.
Nhiều nước mới nổi ở châu Á đã gắn đồng tiền của mình với đồng đôla Mỹ và đồng thời thực hiện chính sách nới lỏng việc kiểm soát trao đổi buôn bán ngoại tệ bằng cách cho phép người dân trong nước thực hiện các khoản vay bằng đồng USD Mỹ và người nước ngoài buôn bán đồng nội tệ khá tự do. Việc thực hiện chế độ tỷ giá cố định và nới lỏng kiểm soát ngoại tệ này nhằm khuyến khích kinh tế phát triển cao từ khía cạnh tài chính bằng cách khuyến khích dòng chảy tư bản bên ngoài vào và tạo ra các cơ hội đầu tư nhiều hơn cho các nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên dòng chảy tư bản lớn vào khu vực đã tạo ra sự chênh lệch tỷ giá hối đoái. Việc giá các đồng nội tệ được định giá cao hơn giá trị thực làm cho sức cạnh tranh của các nền kinh tế này bị suy giảm so với các quốc gia khác đồng thời bị chịu các đợt đầu cơ vào dự đoán các đồng tiền này sẽ bị giảm giá vào tương lai gần.
2.1.2. Dựa quá nhiều vào nợ - đặc biệt là nợ ngắn hạn.
Các nước Đông Nam Á là những nước xuất khẩu lớn bao gồm cả hàng chế tạo và có thể dễ dàng bù đắp cho nợ nước ngoài lớn. Tuy nhiên là chỉ có thu nhập từ xuất khẩu thì chưa đủ để trả nợ đặc biệt là vào những năm đầu thập kỷ 90 xuất khẩu của các nước này gặp khó khăn do thị trường đã bão hoà sức cạnh tranh giảm. Khi dự trữ ngoại tệ không đủ lớn để trả nợ gốc và lãi đến hạn thì các nước này đã tuyên bố tình trạng khủng hoảng cần sự giúp đỡ quốc tế.
NỢ NƯỚC NGOÀI VÀ DỰ TRỮ NGOẠI HỐI (ĐẾN CUỐI NĂM 1997)
Đơn vị: tỷ USD
Nước
Tổng số nợ
Nợ ngắn hạn (trong tổng số nợ)
Dự trữ ngoại hối
Thái Lan
91,7
65
27,0
Indonesia
137,4
60
16,6
Hàn Quốc
154,4
70
20,4
Malaysia
44,1
55
21,7
2.1.3 Sự hình thành bong bóng kinh tế.
Trong nền kinh tế nội địa khu vực phi hàng hoá bao gồm các ngành bất động sản và xây dựng đã dần trở nên có khả năng kiếm được nhiều lợi nhuận so với khu vực kinh doanh hàng hoá cũng chính vì vậy mà các nguồn lực đã được phân bổ nhiều hơn vào khu vực phi hàng hoá này. Trong thời kỳ này các khoản đầu tư mới và trợ giúp về vốn thường tập trung vào lĩnh vực bất động sản và các ngành phi kinh doanh hàng hoá khác. Trong khi đó sự yếu kém về quản lý của các tổ chức tài chính và sự nơi lỏng trong kiểm tra và giám sát của các tổ chức này đã góp phần vào sự phát triển quá mức của khu vực phi thương mại. Kết quả là những khoản vốn được tập trung vào lĩnh vực không sinh lời đã trở thành những khoản nợ khó đòi hoặc không thể đòi được. Tổng mức nợ khó đòi của các nền kinh tế ASEAN đã lên tới 130 - 140% GDP. Khi đồng tiền bị phá giá khu vực bất động sản bị sụp xuống thì bản cân đối của các công ty tài chính các ngân hàng bị phơi ra, vỡ nợ lan nhanh.
2.1.4. Sự yếu kém của hệ thống tài chính ngân hàng.
Các ngân hàng thuộc các nước ASEAN đã chi và đầu tư mà không tính đến khả năng cạnh tranh với nước ngoài đã đảm bảo và khích lệ các công ty trong nước vay không cần giới hạn dùng các quan hệ “tín chấp” thay cho các quan hệ thế chấp tài sản quá lạc quan khi đánh giá cao vai trò của các đồng nội tệ...chỗ mạnh và đồng thời cũng là chỗ yếu của các nước Đông Á là mối liên hệ giữa chính quyền ngân hàng và doanh nghiệp. Mối liên kết chặt chẽ này nhằm vào việc thực hiện các mục tiêu và đề án phát triển lớn lao do nhà nước đề ra. Chính sự liên kết này làm cho các thể chế kiểm soát và đánh giá tài chính nhiều khi không cần thiết hoặc trở nên mất hiệu lực, thông tin bị nhiễu hoặc không nhiều thì chính quyền cũng bằng mọi cách vực dậy các doanh nghiệp trên đà phá sản. Do hậu quả của những yếu kém đó các thể chế tài chính trong nước phải gánh chịu những rủi ro lớn tập trung do đầu tư vào những bong bóng kiểu như bất động sản và những rủi ro về lãi suất và tỷ giá hối đoái về mặt nghĩa vụ nợ.
2.2. Nguyên nhân bên ngoài.
2.2.1. Tự do hoá dòng chảy tư bản. Toàn cầu hoá gây khủng hoảng.
Di chuyển vốn quốc tế là một trong những nội dung cơ bản của các giao dịch kinh tế quốc tế tạo nên sự lưu động các yếu tố sản xuất và các loại tiền vốn trên thị trường thế giới. Từ những năm 80 xu thế toàn cầu hoá thị trường tiền vốn quốc tế phát triển rất mạnh đã tăng cường ảnh hưởng của lưu động tiền vốn quốc tế đối với tình hình kinh tế thế giới. Hơn nữa do tiền vốn ký hiệu ngày càng phát triển đặc biệt loại tiền vốn ngắn hạn quốc tế được gọi là “vốn lang thang” qúa lớn trong tổng số vốn lưu động trên thị trường thế giới đã làm tăng tính biến động của nền kinh tế thế giới. Hiện nay có khoảng 1500 tỷ USD được gọi là “vốn lang thang” trên thế giới hình thành lực lượng đầu cơ mạnh dễ gây nên những biến động tài chính tiền tệ quốc tế. Sự xuất hiện tiền điện tử tạo điều kiện làm cho tiền và hàng không còn giữ mối quan hệ đáng phải có, dẫn đến rối loạn hệ thống tài chính tiền tệ. Các dòng chảy tư bản ngắn hạn đều có đặc điểm chung là có thể biến dổi cả nền kinh tế tức là chúng tăng mạnh lên khi nền kinh tế đang phát triển và rút đi nhanh chóng khi nền kinh tế có dấu hiệu bất ổn.
2.2.2. Đầu cơ quốc tế.
Các đồng tiền của các nước trong khu vực Đông Á đã chịu các đợt tấn công của các nhà đầu cơ tài chính quốc tế làm đồng tiền mất giá liên tục kể cả khi ngân hàng trung ương can thiệp lớn cộng với sự giúp đỡ quốc tế. Ngoài ra còn có các tác động của một số thế lực tài chính phương Tây. Họ muốn làm giảm giá đồng tiền các nước Đông Á để một là nâng cao giá trị đồng USD để có lợi về kinh tế cho nước giàu; hai là dễ bề thúc ép các nước này chuyển đổi cơ cáu kinh tế và cả chính trị.
III-/ CÁC BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC KHỦNG HOẢNG CỦA IMF.
Ở các nước bị cuộc khủng hoảng hoành hành, tình trạng sụt giá tiền tệ cũng như chứng khoán diễn ra mang tính chất dây chuyền nghiêm trọng và khó chặn đứng. Người ta đổ xô đi mua USD Mỹ và các ngoại tệ mạnh trong khi các nhà đầu tư hối hả chuyển vốn ra nước ngoài. Cho đến đầu năm 1998 cuộc khủng hoảng đẩy lên cao tới cao trào hoảng loạn, kèm theo sự sụp đổ của tiền tệ là sự rối loạn thị trường chứng khoán. Các nền kinh tế châu Á chao đảo đặc biệt nghiêm trọng tập trung vào 3 nước Hàn Quốc, Indonexia và Thái Lan. chính phủ của các nước này lâm vào tình trạng thiếu hụt ngoại tệ nặng nề để ngăn chặn quá trình phá giá và giải quyết nợ nước ngoài, trong khi đó nguồn đầu tư từ nước ngoài không những giảm mạnh mà còn có xu hướng rút ra càng làm tình hình thêm khó khăn. Đứng trước tình hình này một số quốc gia lâm vào khủng hoảng đã đề nghị IMF trợ giúp.
Với mục đích là cung cấp cho các nước hội viên và tín dụng ngắn hạn và trung hạn khi gặp khó khăn về tiền tệ do cán cân thanh toán thiếu hụt, IMF đã lập ra các kế hoạch giúp những nước yêu cầu sự giúp đỡ, đồng thời còn để cứu cả các bên tư nhân nước ngoài khỏi bị vỡ nợ nếu những nước này không được IMF cấp tiền. Trong chương trình cứu giúp của mình IMF đã đề ra các mục tiêu chính là : kiên quyết ngăn chặn việc trốn tránh thi hành các nghĩa vụ với nước ngoài (hàm ý nghĩa trả nợ nước ngoài); khôi phục lại cân bằng tài chính trong đó đảm bảo cân bằng ngân sách là quan trọng, kiềm chế lạm phát gia tăng; tái lập và củng cố dự trữ ngoại hối; cải cách hệ thống ngân hàng nâng cao hiệu quả hoạt động và độ tin cậy của hệ thống này; xoá bỏ độc quyền tiến hành cải cách sâu rộng khu vực phi tài chính trong nước; khống chế sự suy giảm sản lượng.
Để thực hiện các mục tiêu này, IMF cung cấp cho các nước thành viên những khoản vay khổng lồ để hỗ trợ chương trình cải cách này. IMF phê duyệt khoảng 26 tỷ SDR tương đương khoảng 36 tỷ USD trợ giúp các nước yêu cầu hỗ trợ, khởi đầu việc huy động khoảng 77 tỷ USD tài chính bổ sung từ nguồn đa phương và song phương để hỗ trợ cho các chương trình cải cách này. Sự trợ giúp này giúp các quốc gia gặp khủng hoảng, tạm thời ngăn chặn việc xuống giá tiếp tục của các đồng tiền và tái lập, củng cố dự trữ ngoại hối và quan trọng là giúp thực hiện các nghĩa vụ quốc tế, giúp các nhà đầu tư nước ngoài nhận được món nợ từ các bên tư nhân lẫn nhà nước ở các nước gặp khủng hoảng.
Bê cạnh việc trợ giúp tài chính, IMF giúp đỡ 3 quốc gia bị ảnh hưởng nhất - Indonesia, Hàn Quốc và Thái Lan - giàn xếp các chương trình cải cách kinh tế có khả năng phục hồi lòng tin và được IMF ủng hộ. Chương trình cải cách kinh tế này nhằm xoá bỏ nguồn gốc của khó khăn thanh toán, ngăn chặn sự lan truyền của khủng hoảng, khắc phục khủng hoảng và chuẩn bị nền tảng cho tăng trưởng kinh tế. IMF cho rằng nguyên nhân cơ bản của thiếu hụt cán cân thanh toán quốc tế là nhu cầu về tiền tệ quá lớn, liên quan trước hết đến việc tăng quá lớn khối lượng tiền tệ và tăng chi phí của nhà nước. Đồng thời giữa chi phí sản xuất và giá cả hàng hoá, dịch vụ ở những nước sản xuất chủ yếu không phù hợp với nhau. Vì vậy, để khắc phục sự thiếu hụt cán cân thanh toán theo đề nghị của IMF, cần thực hiện hai phương pháp: Thứ nhất giảm tổng nhu cầu về tiền nhờ chính sách tiền tệ - tín dụng và quản lý ngân sách (tăng lãi suất chính thức, dự trữ tối thiểu, hợp lý hoá tín dụng, hạn chế chi tiêu ngân sách về nhu cầu xã hội, về trợ cấp nhà nước, tăng thuế...); Thứ hai là phá giá tiền tệ hoặc chuyển sang chế độ thả nổi.
Với cách tiếp cận như trên, IMF buộc áp dụng phương thức tỷ giá hối đoái linh hoạt ở những nơi chưa sử dụng phương thức này. Sửa đổi chính sách tài chính công cộng, các chính phủ phải thực hành tiết kiệm, cắt giảm chi tiêu công cộng, tăng các nguồn thu ngân sách từ thuế nhằm bảo vệ sự cân bằng tài khoản vãng lai cũng như tái củng cố dự trữ ngoại hối quốc gia. Theo IMF cả ba nền kinh tế Đông và Đông Nam Á đều phải thắt chặt chi tiêu ngân sách bằng cách hoãn hoặc huỷ bỏ tất cả những dự án đầu tư lớn, có độ mạo hiểm cao, đồng thời thu hẹp khu vực kinh tế nhà nước bằng chương trình tư nhân hoá do sự hoạt động kinh tế kém hiệu quả, và mối quan hệ khăng khít đến dễ tham nhũng giữa doanh nghiệp và nhà nước. chính phủ Thái Lan phải có một ngân sách thâm hụt từ 1 - 2% GDP so với mức thâm hụt cao trước đây, ở Indonesia, ngân sách chuyển từ thâm hụt sang thặng dư bằng 1% GDP. Ngoài ra, tăng nguồn thu ngân sách bằng nâng thuế hoặc giảm mức trợ giá, trợ cấp. Ở Indonesia phải bỏ trợ giá điện và dầu, tăng thuế một số mặt hàng, tăng thuế giá trị gia tăng ở Thái Lan và Indonesia.
Các nước phải tạm thời thắt chặt chính sách tiền tệ để hạn chế áp lực đối với cán cân thanh toán. Theo yêu cầu của IMF, các nước thực hiện thắt chặt tín dụng trong nước, kiểm soát vấn đề nợ của khu vực tư nhân thật chặt chẽ, hạn chế vay tín dụng bằng cách buộc các chính phủ phải nâng lãi suất vay lên mức cao. Một trong những khía cạnh dẫn đến khủng hoảng tiền tệ là dòng vốn lớn chảy vào khu vực Đông Nam Á do các chính phủi nước này thực hiện các chính sách nới lỏng hoặc khuyến khích dòng vốn bên ngoài vào. Kết quả là tư nhân tự do vay vốn nước ngoài chủ yếu là đầu tư vào bất động sản và các ngành xuất khẩu nhằm kiếm nhiều lợi nhuận. Cơ sở của chủ trương thắt chặt tín dụng là ép cầu đầu tư cũng như cầu tiêu dùng của xã hội xuống một mức hợp lý để dần dần sửa chữa hậu quả của nền kinh tế bong bóng. Ở Thái Lan, chính phủ phải duy trì lãi suất cao (vào khoảng 20%). Nền kinh tế của các nước Đông và Đông Nam Á chứa đựng nhiều điểm yếu bất hợp lý do đó IMF buộc các nước này hành động tức thì để khắc phục những điểm yếu dễ thấy trong hệ thống tài chínhvà các lĩnh vực khác - đã cấu thành những yếu tố chính gây nên khủng hoảng và nhằm đạt được sự phát triển bền vững trong tương lai.
IMF nhận định sự yếu kém trong hệ thống tài chính và ở mức độ đáng kể trong vấn đề quản lý đã gây ra khủng hoảng. Sự kết hợp của quá trình giám sát lĩnh vực tài chính không đầy đủ. Sự đánh giá và quản lý rủi ro tài chính yếu kém, sự duy trì tỷ giá hối đoái tương đối cố định đã khiến cho các ngâ hàng và công ty vay một lượng vốn quốc tế, phần lớn trong số đó là ngắn hạn bằng ngoại tệ và không được bảo hiểm. Theo năm tháng, nguồn vốn nước ngoài có xu hướng được sử dụng để tài trợ cho những khoản đầu tư không có hiệu quả kinh tế, hoạt động kinh doanh tiền tệ của ngân hàng không được xây dựng trên nguyên tắc tôn trọng hiệu quả tối đa mà bị chi phối bởi các mối quan hệ thiếu lành mạnh giữa chính phủ doanh nghiệp ngân hàng. Do đó, IMF buộc các quốc gia gặp khủng hoảng phải cải thiện hiệu quả các định chế tài chính trung gian cũng như tính lành mạnh của hệ thống tài chính. Ở Thái Lan, chính phủ phải cải tổ cơ cấu của khu vực tài chính tập trung vào đình chỉ và cơ cấu lại các thiết chế không thể đứng vững được (bao gồm 58 công ty tài chính) ở Hàn Quốc chính phủ phải mở cửa thị trường tài chính cho các ngân hàng nước ngoài, đình chỉ hoạt động cuả chín ngân hàng đầu tư mất khả năng thanh toán.
Nhằm đạt được sự phát triển bền vững trong tương lai, IMF buộc các nước gặp khủng hoảng cải cách cơ cấu nhằm xoá bỏ những đặc điểm yếu kém của nền kinh tế, gây cản trở cho sự phát triển (như độc quyền, hàng rào mậu dịch, thông lệ không minh bạch trong hoạt động của doanh nghiệp) các nước này phải điều chỉnh cơ cấu thông qua giảm quan thuế, mở cửa cho đầu tư nước ngoài vào các ngành kinh doanh và giảm bớt ưu đãi dành cho các tổ chức độc quyền, tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc kế toán phương Tây và bảo đảm độ trung thực và minh bạch trong kinh doanh. Ở Hàn Quốc chính phủ phải cải cách thị trường lao động, mở rộng thị trường cho hàng hoá nước ngoài và dọn đường cho nước ngoài sở hữu đa số cổ phần của các công ty Hàn Quốc. Ở Indonesia phải tự do hoá thương mại, giải thể các cacten chính thức và không chính thức, các độc quyền, chấm dứt trợ cấp một số mặt hàng.
IV-/ ĐÁNH GIÁ VỀ VAI TRÒ CỦA IMF TRONG CUỘC KHỦNG HOẢNG
1-/ Một số đánh giá.
1.1-/ Tích cực.
IMF mở đường cho các hoạt động đầu tư và các khoản trợ giúp tài chính của các tổ chức quốc tế cũng như các quốc gia khác. Sau khi IMF thoả thuận được với các quốc gia Đông Á về cam kết can thiệp vào cuộc khủng hoảng và các điều kiện để nhận khoản viện trợ của IMF, thì các tổ chức tài chính quốc tế khác như ngân hàng thế giới, ngân hàng phát triển Châu Á và các trợ giúp song phương khác của Nhật, Mỹ, Anh ... mới đồng ý giúp tài chính cho các nước này. IMF đã đóng vai trò trung tâm trong việc giải quyết khủng hoảng. Tổ chức này đã đứng ra giàn xếp các giải pháp để các nước này được vay số tiền khoảng 117 tỷ USD.
Các khoản trợ giúp tài chính của IMF có tác dụng tôt sngăn chặn sự lây lan cũng như sự xuống dốc tiếp tục của nhiều nền kinh tế Châu Á. Mặc dù có nhiều giai đoạn đồng tiền của các nước được IMF cho vay xuống giá liên tục và khủng hoảng kinh tế sâu sắc hơn nhưng đến bây giờ thì nền kinh tế của các nước khủng hoảng đã lấy lại tốc độ tăng trưởng cao. Các dấu hiệu phục hồi nền kinh tế đã bắt đầu xuất hiện từ tháng 4 - 1999 cho thấy cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ kéo dài 21 tháng đã qua thời kỳ chạm đáy và tác động xấu của nó phai nhạt dần.
IMF đã đề ra những biện pháp cải cách cơ cấu kinh tế tài chính phù hợp để đạt được sự phát triển bền vững trong tương lai.
Các biện páp khắc phục do IMF đưa ra có căn cứ trên các nguyên nhân gây ra sự suy thoái kinh tế ở các nước Đông Á. Mặc dù các biện pháp này gây đau đớn cho nền kinh tế các nước này nhưng nó là cần thiết. Trước hết để xoá đi mối quan hệ khăng khít đến mức dễ dàng tham nhũng giữa chính phủ và doanh nghiệp bằng cách thắt chặt chi tiêu ngân sách và huỷ bỏ các dự án đầu tư lớn có độ mạo hiểm cao, đồng thời thu hẹp khu vực kinh tế nhà nước. IMF cho rằng trong ba nền kinh tế Đông Á này còn tồn tại nhiều tổ chức kinh tế hoạt động kém hiệu quả, các khoản vốn khổng lồ được quyết định đầu tư xuất phát từ sự độc đoán hoặc từ ý đồ mờ ám trục lợi hơn là từ hiệu quả kinh tế, đặc biệt ở Indonesia, quyền lực của gia đình tổng thống Suhacto.
Chấn chỉnh các hệ thống tài chính - ngân hàng ở các nước trong khu vực bằng những cải cách sâu rộng đóng cửa sát nhập, siết chặt hoạt động kiểm toán, quản lý chặt chẽ các dư nợ làm cho các ngân hàng hoạt động có hiệu quả tăng tính “trong suốt” của các hoạt động.
IMF còn buộc các nền kinh tế này điều chỉnh cơ cấu kinh tế. Ở các nước gặp khủng hoảng, các tập đoàn công nghiệp độc quyền được hưởng nhiều ưu đãi từ chính phủ nhờ quan hệ thân hữu đã đẩy nền tài chính quốc gia vào thế yếu nghiêm trọng làm giảm sút hiệu quả đầu tư và sa sút khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Do đó, IMF buộc các nước này phải ngừng ngay lập tức những ưu đãi, bãi bỏ bảo hộ, tự do thương mại và đầu tư, tư nhân hoá mạnh mẽ... nhằm giảm thiểu những bất trắc xảy ra do bất ổn về kinh tế - xã hội.
1.2-/ Tiêu cực
1.2.1-/ IMF đã không dự đoán được cuộc khủng hoảng
Các thành viên trao cho IMF nhiệm vụ là đánh giá thành tựu của nền kinh tế cho toàn thể các thành viên một cách trung thực là khảo sát tất cả các khía cạnh của nền kinh tế nước thành viên do đó việc IMF không dự đoán được khủng hoảng cũng cần được xem xét.
Tại phiên họp thường nên của IMF và ngân hàng thế giới tại Hồng Kông vào tháng 9-1997, ông Michel Camdessus, giám đốc điều hành IMF tuyên bố rằng chính họ đã lên tiếng cảnh báo về cuộc khủng hoảng trong bản tường trình năm trước. Tuy nhiên trong một bài viết đăng trên Financial times vào tháng 12 - 1997, giáo sư Jeffrey Sachs thuộc đại học Havard, người đã từng cố vấn giúp các nước Đông Âu đã chỉ trích rằng trong bản tường trình ấy “... tuyệt nhiên không có chút dấu hiệu báo đọng nào cả ngoại trừ những lời khuyên cần cải tổ thêm”.
Ngay cả đối với Hàn Quốc, IMF cũng “... đã không hề nhắc nhở đến vấn đề các đại công ty (chaebol) hay đặt vấn đế nước ngoài nắm chủ quyền ngân hàng, hoặc sửa đổi quản lý ngân hàng là những điều giờ đây mới thây xuất hiện trong những chương trình do IMF đề ra”. Đối với Malaysia ngay hồi tháng 6 - 1997, IMF còn lên tiếng ca ngợi mô hình kinh tế nước này và khen chính phủ Malaysia là đã giữ vững được cơ cấu tài chính trong một hoàn cảnh đầy thách đố khi nền kinh tế tăng trưởng nhanh, chỉ bốn tháng sau đó, IMF lại trở ngược và nặng lời phê phán Malaysia.
Thậm chí ngày 6 -4 - 1998, IMF cho rằng thời điểm tồi tệ nhất của cuộc khủng hoảng kinh tế ở Châu Á đã qua nhưng ngay sau đó, đồng tiền của các nước này tiếp tục mất giá chóng mặt đạt các mức lịch sử, các chỉ số chứng khoán tiếp tục giảm...
1.2.2-/ IMF đã có những biện pháp khắc phục sai lầm hay quá tay.
Những yêu cầu về kinh tế vĩ mô mà IMF đưa ra đều nhằm để ổn định các đồng tiền và lấy lại chữ tín trên thương trường. Tại Thái Lan, Hàn Quốc và Indonesia, đồng tiền các nước này tiếp tục mất giá với tốc độ ngày càng tăng, ngay cả sau khi đã có sự can thiệp của IMF. Điều này cho thấy các chính sách kinh tế của IMF vừa không trúng đích, vừa không có tác động “kỳ diệu” khôi phục lòng tin của các thị trường và các nhà đầu tư. IMF cũng đã thay đổi liều thuốc nhiều lần khi thấy các “bệnh nhân” mình bị dị ứng quá mạnh. Trước viễn cảnh khó khăn do số người thất nghiệp và mức nghéo đói tăng nhanh tại Indonesia, IMF đã 5 lần thay đổi đơn thuốc và ngày 20 -10 -1998, đưa ra một số đề nghị mới trong chương trình cải tổ nhằm kích thích nền kinh tế bằng cách gia tăng mức chi tiêu của chính phủ. Ở Thái Lan cũng vậy, IMF đồng ý chấp nhận mức thâm hụt ngân sách bằng 1 - 2% GDP ngầm ý công nhận rằng đòi hỏi ban đầu mà IMF đưa ra với thặng dư ngân sách là sai lầm và có thể thực tế đã góp phần làm trầm trọng thêm cuộc khủng hoảng do tác động của nó đối với quyết định đầu tư của các doanh nghiệp.
Ở các nước Thái Lan, Hàn Quốc, Indonesia, một trong những điều đầu tiên IMF đã mang ra thi hành là lập tức bắt “đóng cửa” một số ngân hàng, việc này làm cho mọi người thêm sợ hãi vội vã rút tiền ra khỏi ngân hàng không kể tốt xấu và làm mất lòng tin tất cả.
IMF giúp cho cả những người cho và người đi vay tránh khỏi những hậu quả do những quyết định lựa chọn đầu tư kém khôn ngoan do họ gây ra. Điều này có thể gây ra một cuộc khủng hoảng trong tương lai khi không để cho các bên tư nhân dính líu, chia sẻ sự thất bại và giải quyết các khó khăn của họ mà lại dựa vào sự giúp đỡ của IMF. Trong khi đó, người dân phải chịu đựng những hậu quả của cuộc khủng hoảng nhiều nhất với sự sụt giảm mạnh mức sống như là một điển hình của kết quả IMF can thiệp một điều trái với mục đích của IMF. Các biện pháp tài chính trọn gói khổng lồ mà IMF đề xuất cho Thái Lan, Indonexia và Hàn Quốc cũng không thích hợp. Nếu IMF đóng vai trò như một người cho vay đối với nguồn dự trữ cuối cùng để chấm dứt khủng hoảng tài chính và ngăn chặn sự tháo chạy của các nhà đầu tư và chủ nợ thì nguồn vốn của IMF cần phải được sử dụng cho các khoản chi tiêu tức thời trước mắt chứ không bị giữ lại cho đến khi các nước này sẵn sàng thực hiện các cải cách cơ bản về cơ cấu.
Cuộc khủng hoảng châu Á là cuộc khủng hoảng của khu vực tư nhân có liên quan đến tình trạng vay nợ quá nhiều từ các nguồn tài chính dễ tiếp cận, tiếp sau việc tự do hoá các tài khoản vốn bắt đầu từ những năm 1980. Vì thế chính sách của IMF yêu cầu tự do hơn nữa ngành tài chính và các luồng lưu thông tài chính là sai lầm và làm tăng khả năng khủng hoảng trong tương lai.
Mặt khác cuộc khủng hoảng ở Châu Á là do nằm ở khu vực tư nhân khác với cuộc khủng hoảng tài chính Mexico năm 1994 nơi mà những món nợ chủ yếu chồng chất lên khu vực kinh tế nhà nước. Do đó biện pháp đòi cắt giảm chi tiêu công cộng là thiếu cơ sở, thậm chí cũng theo Liên Hợp Quốc khi nền kinh tế đang thương tổn lại bị đè bẹp xuống hơn nữa dưới sức nặng của những bắt buộc tiết chế nghiêm khác đã đẩy tỷ giá hối đoái đến những cơn nóng bỏng mới. Việc tăng tỷ lệ lãi suất lên cao đã làm cho hàng loạt các công ty phá sản gây ra gánh nặng thất nghiệp. Ngoài ra IMF đã nhân cơ hội các nước bị khủng hoảng để bỏ qua những quy trình chính trị của các qốc gia và áp đặt những thay đổi về mặt kinh tế. Không phải ngẫu nhiên mà các đợt phản đối IMF có ở hầu hết các nước khủng hoảng và sự thay đổi chính phủ ở nhiều nước
1.2.3-/ IMF hoạt động vì lợi ích của các cường quốc, đặc biệt là Mỹ.
Sau khi cuộc khủng hoảng kết thúc với sự can thiệp của IMF rất dễ nhận thấy sự thay đổi chủ nhân trong các công ty gặp khó khăn ở Châu Á và những cam kết mở rộng các thị trường cho hàng hoá của các nước khác tràn vào, cộng với sự tự do hoá dòng chảy tư bản tài chính điều mà Mỹ rất quan tâm. Trong trường hợp này IMF đã có quan điểm tương đồng tuyệt đối với cổ đông lớn nhất của quỹ là Mỹ.
Charlene Barshefky, đại diện thương mại đặc biệt của Mỹ, trong bản điều trần trước Tiểu ban nhà ở và phương tiện mậu dịch đã mô tả những lợi ích của Mỹ có thể sẽ được IMF thúc đẩy hơn như thế nào “nhiều thành phần cải cách cơ cấu trong các kế hoach cả gói của IMF sẽ trực tiếp góp phần cải thiện chế độ mậu dịch ở các nước này. Nếu được thực hiện một cách có hiệu quả các chương trình này sẽ bổ sung và tăng cường các mục tiêu về chính sách thương mại”.
IMF đã không đứng ra tổ chức thực hiện hoãn nợ như biến nợ ngắn hạn thành nợ dài hạn - một biện pháp giải quyết tình thế nhằm giảm cầu ngoại tệ và lấy lại lòng tin. Chỉ có thể hiểu điều này trên cơ sở là IMF đã trở thành công cụ của Mỹ nhằm thực hiện chính sách đập phá các hàng rào ngăn ngừa tự do dòng chảy tư bản tài chính.
Sáng kiến Quỹ tiền tệ châu Á do Nhật Bản đưa ra để giải quyết cuộc khủng hoảng một quỹ đã động chạm vào vị trí độc quyền của IMF về tư duy kinh tế và mở rộng thị trường cho những ý tưởng và những kiểu ý thức kinh tế mới. Nhưng chính Nhật Bản lại phải rút lại đề nghị với lý do là “ có sự phản đối mạnh mẽ từ phía các quan chức Bộ tài chính Mỹ và IMF....”.
2-/ Những bài học từ cuộc khủng hoảng của IMF.
IMF đã xác định được 6 khu vực chính mà những sáng kiến đã được đưa ra cần phải tăng cường.
- Giám sát có hiệu quả hơn chính sách và th._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- R0138.doc