Vai trò của hội liên hiệp phụ nữ huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang triển khai thực hiện chương trình "Hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế" từ năm 2001 đến năm 2006

Khóa luận tốt nghiệp Đại học Sư phạm Svth: Trần Phan Như Ý PHẦN MỞ ĐẦU 1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, phụ nữ Việt Nam giữ một vai trò và vị trí quan trọng. Giải phóng và phát triển toàn diện phụ nữ là một trong những mục tiêu của cách mạng Việt Nam, có ảnh hưởng trực tiếp và lâu dài đến sự phát triển của đất nước. Bồi dưỡng lực lượng phụ nữ, phát huy sức mạnh và chăm lo sự phát triển mọi mặt của phụ nữ là nhiệm vụ thường xuyên, rất quan trọng của Đảng tr

pdf54 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1777 | Lượt tải: 5download
Tóm tắt tài liệu Vai trò của hội liên hiệp phụ nữ huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang triển khai thực hiện chương trình "Hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế" từ năm 2001 đến năm 2006, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ong mọi thời kỳ cách mạng. Từ khi thành lập, Đảng luôn quan tâm lãnh đạo phát huy vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, để Hội thực sự là tổ chức đoàn kết các tầng lớp phụ nữ, phát động và hướng dẫn các phong trào cách mạng của phụ nữ. Hiện nay, cả nước ta đang phấn đấu thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước. Đổi mới là một cuộc vận động cách mạng toàn diện và sâu sắc, diễn ra trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, tạo ra những điều kiện, những cơ hội để phát huy mọi tiềm năng của mọi gia đình, mọi thành viên trong xã hội. Trong số các vấn đề xã hội hiện nay, quan tâm đến các chính sách nhằm giải phóng phụ nữ, phát huy vai trò người phụ nữ trong gia đình và trong xã hội được coi là vấn đề hết sức cơ bản và cấp bách. Xuất phát từ thực tế đó, Đại hội Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam toàn quốc lần thứ IX, đã xác định mục tiêu phong trào phụ nữ hướng tới trong giai đoạn hiện nay, đó là sự thay đổi tích cực của chính bản thân người phụ nữ, nâng cao chất lượng cuộc sống của phụ nữ và bình đẳng giới trong xã hội. Để thực hiện được mục tiêu đề ra, Đại hội đã xác định sáu chương trình trọng tâm của công tác Hội, trong đó chương trình II - “Hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế” được xem là chương trình thiết thực cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của chị em, nâng cao vị trí xã hội của phụ nữ. Trang 1 Khóa luận tốt nghiệp Đại học Sư phạm Svth: Trần Phan Như Ý Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang trong quá trình thực hiện chương trình “Hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế” đã đạt được một số kết quả tích cực, đã giúp đỡ các tầng lớp phụ nữ trong huyện phát triển kinh tế gia đình, tăng thu nhập tạo ra sự biến đổi về đời sống kinh tế, góp phần đáng kể vào chương trình xoá đói giảm nghèo của địa phương. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện chương trình vẫn còn gặp những khó khăn nhất định, chương trình chưa bao khắp đến mọi tầng lớp phụ nữ trong huyện vẫn còn một bộ phận phụ nữ nghèo, thiếu trình độ, thiếu công ăn việc làm, cuộc sống bấp bênh. Đó cũng là một vấn đề đáng quan tâm hiện nay. Trong thời gian qua, nghiên cứu về hoạt động của Hội Liên hiệp Phụ nữ và phong trào phụ nữ đã có nhiều bài viết, đề tài nghiên cứu như: Bài viết “Những kết quả đáng ghi nhận từ phong trào thi đua phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo xây dựng gia đình hạnh phúc” đăng trên báo “Thông tin phụ nữ” số ra ngày 20/10/2006, đề tài nghiên cứu “Công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới của Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh An Giang” của tác giả Nguyễn Thị Minh Nguyệt, bài viết “Hội Phụ nữ tỉnh An Giang với công tác xóa đói giảm nghèo” đăng trên quyển “Thông tin công tác tư tưởng” số 10/2007. Tuy nhiên, hầu hết các bài viết, đề tài nghiên cứu còn mang tính lí luận, chưa có điều kiện đi sâu vào tìm hiểu hoạt động của Hội Liên hiệp Phụ nữ, trong việc thực hiện một chương trình cụ thể ở địa phương cấp huyện như huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Từ yêu cầu lý luận và thực tiễn trên, cũng như vấn đề nâng cao vị trí xã hội của người phụ nữ là một vấn đề mà tôi đã rất tâm đắc. Là một người con sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Chợ Mới, tôi mong muốn đóng góp một phần công sức nhỏ bé của mình vào quá trình nâng cao vị trí xã hội của người phụ nữ ở huyện Chợ Mới. Chính vì vậy, tôi đã quyết định chọn đề tài cho khóa luận tốt nghiệp của mình là “Vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang triển khai thực hiện chương trình Hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế từ năm 2001 đến năm 2006”. Trang 2 Khóa luận tốt nghiệp Đại học Sư phạm Svth: Trần Phan Như Ý 2. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ 2.1. Mục đích - Nghiên cứu vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang với chương trình “Hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế” từ năm 2001 đến năm 2006. - Đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện chương trình “Hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế” ở huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang trong những năm sắp tới. 2.2. Nhiệm vụ - Nghiên cứu lý luận về phụ nữ và vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ với phong trào phụ nữ - Nghiên cứu thực tế triển khai thực hiện chương trình “Hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế” của Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang từ năm 2001 đến năm 2006 để làm rõ những đóng góp tích cực của chương trình đối với đời sống các tầng lớp phụ nữ trong huyện . - Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm góp phần nâng cao hoạt động của Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang thực hiện chương trình “Hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế” trong những năm sắp tới. 3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU 3.1. Đối tượng Nghiên cứu vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ triển khai thực hiện chương trình “Hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế”. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Nghiên cứu vai trò Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang trong triển khai thực hiện chương trình “Hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế” từ năm 2001 đến năm 2006. Trang 3 Khóa luận tốt nghiệp Đại học Sư phạm Svth: Trần Phan Như Ý 4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Khoá luận sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội khoa học, kết hợp với phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp lôgic, lịch sử, khảo sát thực tiễn, thống kê, so sánh. 5. ĐÓNG GÓP CỦA KHÓA LUẬN - Kết quả nghiên cứu của khóa luận có thể làm nguồn tư liệu cho Hội Liên hiệp Phụ nữ các cấp tham khảo trong quá trình thực hiện chương trình “Hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế” tại địa phương. - Góp phần cung cấp những cơ sở khoa học cho Đảng bộ và chính quyền các cấp tham khảo trong lãnh đạo, quản lí có những chủ trương và tạo điều kiện thuận lợi cho Hội Liên hiệp Phụ nữ thực hiện có hiệu quả hơn chương trình “ Hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế”. 6. KẾT CẤU CỦA KHÓA LUẬN Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, khoá luận gồm 2 chương, 5 tiết: Chương 1: PHỤ NỮ VÀ VAI TRÒ CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ VỚI PHONG TRÀO PHỤ NỮ 1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, Đảng Cộng sản Việt Nam về Phụ nữ. 1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về Phụ nữ. 1.1.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về Phụ nữ. 1.2. Vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ với phong trào phụ nữ. 1.2.1. Thời kỳ đấu tranh cách mạng giành độc lập dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. 1.2.2. Thời kỳ đổi mới đất nước. Trang 4 Khóa luận tốt nghiệp Đại học Sư phạm Svth: Trần Phan Như Ý Chương 2: VAI TRÒ CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG TRIỂN KHAI THỰC HIỆN CHƯƠNG TRÌNH “HỖ TRỢ PHỤ NỮ PHÁT TRIỂN KINH TẾ” TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2006. 2.1. Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh An Giang với phong trào phụ nữ trong 30 năm xây dựng và phát triển (1975 – 2005). 2.1. Vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang trong triển khai thực hiện chương trình “Hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế” từ năm 2001 đến năm 2006. 2.2.1. Thực trạng đời sống phụ nữ huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. 2.1.1.1. Vài nét về vị trí địa lý và tình hình kinh tế - xã hội huyện Chợ Mới. 2.2.1.2.Thực trạng đời sống phụ nữ huyện Chợ Mới. 2.1.2. Thực tế triển khai thực hiện chương trình “Hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế” tại huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang từ năm 2001 đến năm 2006. 2.1.2.1. Mục tiêu của chương trình “Hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế” từ năm 2001 đến năm 2006. 2.1.2.2. Nội dung của chương trình “Hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế” từ năm 2001 đến năm 2006. 2.1.2.3. Một số kết quả và hạn chế của thực hiện chương trình “Hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế” từ năm 2001 đến năm 2006. 2.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chương trình “Hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế” ở huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang trong những năm sắp tới. 2.2.1. Tập trung huấn luyện cán bộ Hội phụ nữ về kiến thức và kỹ năng cần thiết để hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế. Trang 5 Khóa luận tốt nghiệp Đại học Sư phạm Svth: Trần Phan Như Ý 2.2.2. Tiếp tục vận động các nguồn vốn trong nước và quốc tế để tăng nguồn vốn vay cho phụ nữ. Ưu tiên hỗ trợ vốn thực hiện xóa đói giảm nghèo, phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ có khả năng thu hút lao động 2.2.3. Tăng cường phối hợp với ngành Lao động - Thương binh và xã hội, các ban ngành liên quan củng cố, nâng cao chất lượng công tác đào tạo nghề và giới thiệu việc làm. 2.2.4. Tăng cường công tác chuyển giao khoa học - kỹ thuật nhằm hướng dẫn phụ nữ sản xuất, kinh doanh đạt hiệu quả cao. 2.2.5. Phát động thường xuyên các phong trào như “Phụ nữ giúp nhau làm kinh tế gia đình” hay phong trào “Phụ nữ làm kinh tế giỏi” để động viên phụ nữ tự vươn lên thoát nghèo. Trang 6 Khóa luận tốt nghiệp Đại học Sư phạm Svth: Trần Phan Như Ý PHẦN NỘI DUNG Chương 1: PHỤ NỮ VÀ VAI TRÒ CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ VỚI PHONG TRÀO PHỤ NỮ. 1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, Đảng Cộng sản Việt Nam về Phụ nữ. 1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về Phụ nữ Trong xã hội loài người, phụ nữ là cái nôi tiếp nối cho sự sống, là người thầy đầu tiên của con người, là một trong những nguồn lực chính để phát triển xã hội và đã có những đóng góp lớn lao vào sự phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc. Lịch sử nhân loại đã trải qua biết bao thăng trầm. Song, hình ảnh người phụ nữ ở bất cứ quốc gia, dân tộc nào cũng luôn luôn là biểu tượng cao đẹp của con người. Xã hội muốn tồn tại và phát triển thì trước hết phải sản xuất của cải vật chất. Muốn sản xuất của cải vật chất phải có đông đảo những người lao động bao gồm cả nam lẫn nữ. Nhìn lại lịch sử loài người từ trước đến nay, phụ nữ bao giờ cũng là một bộ phận quan trọng trong đội ngũ đông đảo những người lao động. Bằng lao động sáng tạo của mình, phụ nữ đã góp phần làm giàu cho xã hội. Không chỉ góp phần sáng tạo của cải vật chất, phụ nữ còn góp phần cả trong các hoạt động văn hóa, tinh thần, làm phong phú thêm cuộc sống của con người. Song song với những hoạt động góp phần sáng tạo mọi của cải vật chất và tinh thần, phụ nữ còn tích cực tham gia các cuộc đấu tranh giai cấp, các phong trào nổi dậy của quần chúng bị áp bức bóc lột. Từ khi xã hội phân chia thành giai cấp đến nay, lịch sử luôn luôn chứng kiến cuộc đấu tranh giai cấp giữa những người lao động bị bóc lột với chủ bóc lột. Phụ nữ lao động là những người bị bóc lột nhiều nhất, nên rất hăng hái tham gia đấu tranh giải phóng bản thân mình cũng như nhân loại. Trang 7 Khóa luận tốt nghiệp Đại học Sư phạm Svth: Trần Phan Như Ý Lịch sử đấu tranh của giai cấp vô sản còn ghi lại gương chiến đấu kiên cường của những người phụ nữ Công xã Pari năm 1871. Trong cuộc đấu tranh vũ trang đầu tiên này của giai cấp vô sản, hàng vạn phụ nữ đã sát cánh cùng nam giới bảo vệ Công xã. Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga năm 1917, phụ nữ công nông Nga và phụ nữ nhiều nước khác đã đứng lên cùng chồng con, cha anh để bảo vệ nước Nga Xô - viết. Như vậy, từ xưa đến nay, xét bất cứ mặt nào của đời sống xã hội (sản xuất vật chất, hoạt động tinh thần, đấu tranh giai cấp), phụ nữ mà chủ yếu là phụ nữ lao động có vai trò rất to lớn. Chính phụ nữ cùng đông đảo người lao động khác là người sáng tạo chân chính ra lịch sử. Bên cạnh đó, phụ nữ còn có chức năng cao quí là chức năng làm mẹ, phụ nữ đóng vai trò rất quan trọng trong việc bảo tồn nòi giống, giáo dục và bồi dưỡng thế hệ mai sau góp phần quan trọng vào sự phát triển đất nước. Với vai trò quan trọng như vậy, phụ nữ phải được tôn trọng và có địa vị xứng đáng trong xã hội, nhưng trong tất cả các xã hội có giai cấp đối kháng, phụ nữ luôn bị khinh rẻ và mất quyền bình đẳng, không những trong xã hội mà trong cả gia đình. Tuy nhiên, phụ nữ sinh ra vốn không phải ngay từ đầu đã ở vào địa vị bị áp bức bóc lột và không bình đẳng với nam giới. Trải qua hàng chục vạn năm trong xã hội cộng sản nguyên thủy, phụ nữ tuy phải sống cuộc đời thấp kém, vất vả chung của loài người, nhưng họ chưa bị áp bức bóc lột và mất quyền bình đẳng. Do sức sản xuất còn rất thấp, nên con người phải cùng sống chung, làm chung và cùng hưởng chung những thứ kiếm được. Sự phân công lao động hoàn toàn có tính chất tự nhiên giữa nam và nữ. Đàn ông thì tìm kiếm hoặc chế tạo công cụ, săn thú, bắt cá. Đàn bà do có chức năng sinh đẻ nên làm công việc gia đình, chế biến thức ăn. Khi nguồn thức ăn do săn bắt cung cấp còn chưa nhiều, lại hay thất thường thì công việc “tề gia nội trợ” ấy càng có ý nghĩa xã hội rất quan trọng. Ph.Ăngghen đã viết về vai trò của người phụ nữ trong xã hội công xã nguyên thủy như sau: “Trong nền kinh tế gia đình cộng Trang 8 Khóa luận tốt nghiệp Đại học Sư phạm Svth: Trần Phan Như Ý sản thời cổ, một nền kinh tế bao gồm nhiều cặp vợ chồng với con cái họ, việc tề gia nội trợ, được giao cho phụ nữ, là một loại hình hoạt động xã hội cần thiết, cũng ngang như việc nam giới cung cấp lương thực”.[14;115] Đến cuối xã hội cộng sản nguyên thủy, chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất dần dần hình thành, dẫn tới sự phân chia xã hội thành giai cấp, thành bọn đi bóc lột và những người bị bóc lột. Bước sang thời kỳ xã hội chiếm hữu nô lệ, phụ nữ cùng với chồng, con và mọi người nô lệ khác phải sống dưới sự áp bức, bóc lột của chủ nô. Đến xã hội phong kiến là xã hội dựa trên chế độ gia trưởng và đẳng cấp thì quyền lợi và nhân phẩm của người phụ nữ bị chà đạp rất nghiệt ngã. Xã hội phong kiến chứa đựng đầy rẫy những thành kiến bất công và những tập tục khinh rẻ phụ nữ. Chẳng riêng gì xã hội chiếm hữu nô lệ và xã hội phong kiến, ngay xã hội tư bản là xã hội vẫn cho rằng đã giải phóng con người, giải phóng phụ nữ thì địa vị không bình đẳng của phụ nữ cũng thể hiện rõ. Trong các nước tư bản, kể cả những nước tự xưng là văn minh dân chủ thì phụ nữ thường không được hưởng đầy đủ những quyền lợi về chính trị. Dù trên danh nghĩa họ có được bình đẳng thì trong thực tế họ vẫn rất ít khi được hưởng quyền bình đẳng ấy. Về kinh tế, phụ nữ lao động trong xã hội tư bản bị bóc lột rất nặng nề. Bọn tư bản đã lợi dụng sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - kỹ thuật, sự mở rộng quy mô sản xuất, bằng nhiều cách thu hút ngày càng nhiều phụ nữ và trẻ em vào sản xuất. Với lao động phụ nữ và trẻ em, bọn tư bản thu được nhiều lợi nhuận vì lương của phụ nữ thấp nhiều so với lương của nam giới, thường chỉ bằng một nửa. C.Mác đã vạch rõ sự bóc lột lao động phụ nữ trong xã hội tư bản: “Lao động càng ít cần đến sự khéo tay và sức lực chừng nào, nghĩa là công nghiệp hiện đại càng tiến, thì lao động của đàn ông càng được thay thế bằng lao động của đàn bà và trẻ em. Những sự phân biệt già trẻ, trai gái không còn có ý nghĩa xã hội gì nữa đối với giai cấp công nhân. Tất cả đều là công cụ lao động, mà giá cả thì thay đổi tùy theo già trẻ và trai gái”[2;29]. Tình trạng một bộ phận phụ nữ được thu hút vào sản xuất, khiến bọn tư bản có thể dựa Trang 9 Khóa luận tốt nghiệp Đại học Sư phạm Svth: Trần Phan Như Ý vào đó để hạ thấp tiền lương của chồng con họ, làm cho cuộc sống của giai cấp công nhân càng khó khăn thêm. Mỗi khi có khủng hoảng kinh tế, thì hàng loạt công nhân bị đẩy ra khỏi nhà máy, phụ nữ lại thường là những người bị loại trước hết. Tình cảnh đó dẫn phụ nữ đến bước đường cùng, đời sống họ càng thêm khốn khổ. Trong gia đình, thân phận của phụ nữ cũng chẳng hơn gì. Quan hệ vợ chồng của giai cấp tư sản, về thực chất cũng chỉ là quan hệ tiền tài, trong đó người chồng giữ quyền thống trị, chi phối. Thái độ tôn trọng phụ nữ mà bọn tư bản thường khoe khoang thật ra chỉ đối với một bộ phận nhỏ phụ nữ trong các tầng lớp trên của xã hội. Trong các gia đình lao động, dù quan hệ vợ chồng có xây dựng trên tình yêu giai cấp thì người phụ nữ vừa bị nền sản xuất tư bản làm cho kiệt sức, vừa phải gánh vác những công việc nội trợ trong gia đình nên cũng không thể vươn lên bình đẳng cùng nam giới. Bên cạnh đó, còn có những cách đối xử không bình đẳng như cảnh hành hạ, đánh đập, chửi mắng vợ con của chính những người lao động do chịu ảnh hưởng tư tưởng của chế độ bóc lột. V.I Lênin đã nêu lên tình cảnh của người phụ nữ như sau: “…Dưới chế độ tư bản thì phụ nữ, tức là một nửa nhân loại phải chịu hai tầng áp bức. Nữ công nhân và nữ nông dân đều bị tư bản áp bức và ngoài ra, họ còn…bị giam hãm trong cảnh nô lệ gia đình…”[3;38-39] Từ khi chế độ tư hữu và nạn người bóc lột người xuất hiện, thì vai trò người phụ nữ bị hạ thấp. Họ là những người bị thiệt thòi nhiều nhất, so với tất cả những người lao động khác. Sống trong hoàn cảnh bị khinh rẻ và mất quyền bình đẳng ấy, tất nhiên người phụ nữ khát khao được giải phóng và thực tế, họ đã không ngừng đấu tranh giải phóng mình. Trước đây, do điều kiện chưa cho phép, những cuộc đấu tranh của họ chưa mang lại kết quả mong muốn. Chỉ đến khi giai cấp công nhân xuất hiện và được vũ trang bằng chủ nghĩa Mác - Lênin thì vấn đề giải phóng phụ nữ mới được nhận thức và giải quyết đúng. Giai cấp công nhân hiểu rằng, muốn tự giải phóng thì trước hết phải giải phóng mọi người lao động trong đó có phụ nữ và chỉ khi nào giải phóng được Trang 10 Khóa luận tốt nghiệp Đại học Sư phạm Svth: Trần Phan Như Ý phụ nữ thì khi ấy giai cấp công nhân mới được giải phóng hoàn toàn. Cho nên giải phóng phụ nữ là nhiệm vụ cách mạng chung của giai cấp công nhân. Được chính đảng vô sản lãnh đạo và giáo dục, phụ nữ thấy rõ chính giai cấp tư sản, chính bọn đế quốc và phong kiến đã làm cho họ bị mấy tầng áp bức, bị khinh rẻ và mất quyền bình đẳng. Muốn thoát khỏi tình cảnh đó, phụ nữ chỉ có một con đường là tham gia cuộc cách mạng do giai cấp công nhân và Đảng Cộng sản lãnh đạo, chủ động đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng của bản thân mình. V.I.Lênin đã khẳng định đối với cuộc đấu tranh của phụ nữ: “Chúng ta nói, việc giải phóng công nhân phải là việc của bản thân công nhân, mà việc giải phóng phụ nữ lao động cũng vậy, nó phải là việc của bản thân phụ nữ” [3;55] Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, muốn giải phóng phụ nữ thì điều quan trọng là phải giải phóng họ về kinh tế, vì địa vị xã hội của phụ nữ, do địa vị kinh tế của họ quyết định. Trong các xã hội có áp bức bóc lột, phụ nữ luôn ở địa vị bị phụ thuộc về kinh tế, nên không bao giờ được hưởng quyền bình đẳng cùng nam giới. Điều này đã được Ph.Ăngghen chỉ rõ: “Chỉ có thể giải phóng được người phụ nữ khi người phụ nữ có thể tham gia sản xuất trên một quy mô xã hội rộng lớn và chỉ phải làm công việc trong nhà rất ít. Nhưng chỉ với nền đại công nghiệp hiện đại, là nền công nghiệp không những thu nhận lao động của phụ nữ trên quy mô lớn, mà còn trực tiếp đòi hỏi phải có lao động phụ nữ và ngày càng có xu hướng hòa tan lao động tư nhân của gia đình trong nền sản xuất công cộng, thì mới có thể thực hiện điều nói trên” [14;241] Bên cạnh việc giải phóng phụ nữ trong lĩnh vực kinh tế, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin cũng đánh giá cao vai trò của phụ nữ trong việc tham gia giải phóng giai cấp, giải phóng toàn nhân loại. V.I.Lênin đã khẳng định: “Đảng cách mệnh phải làm sao dạy cho đàn bà nấu ăn cũng biết làm việc nước, như thế cách mạng mới gọi là thành công”[6;288] Các nhà kinh điển của chủ nghĩa xã hội khoa học đã đánh giá cao vai trò của phụ nữ trong xã hội, họ cho rằng, việc giải phóng phụ nữ, thực hiện nam Trang 11 Khóa luận tốt nghiệp Đại học Sư phạm Svth: Trần Phan Như Ý nữ bình quyền, là một mục tiêu lớn của cách mạng do Đảng lãnh đạo. Điều này có thể giải thích tại sao từ năm 1920 thế giới tiến bộ lấy ngày 8/3 là “Ngày đàn bà con gái”, sau đổi là ngày Quốc tế phụ nữ nhằm đoàn kết các tầng lớp phụ nữ các nước đấu tranh để giải phóng giới mình, giành quyền bình đẳng về kinh tế, chính trị và xã hội cho họ. C.Mác đã khẳng định vai trò quan trọng của phụ nữ: “Ai đã biết lịch sử thì biết rằng muốn sửa sang xã hội mà không có phụ nữ giúp vào thì chắc chắn không làm nổi. Xem tư tưởng và việc làm của đàn bà con gái thì biết xã hội tiến bộ ra thế nào”[6;288]. 1.1.2.Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về Phụ nữ. Trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, từ tổ tiên xưa đến con cháu ngày nay, phụ nữ nước ta đã cùng nhân dân cả nước làm nên lịch sử vẻ vang của dân tộc, hình thành nên truyền thống tốt đẹp của phụ nữ Việt Nam. Ở mỗi thời kỳ phát triển của dân tộc, phụ nữ luôn biết lựa chọn chỗ đứng, lựa chọn đường đi đúng đắn vì lợi ích và hạnh phúc của nhân dân, của gia đình và của chính bản thân mình. Do đặc điểm sống trong hoàn cảnh đất nước luôn có giặc ngoại xâm, phụ nữ Việt Nam với truyền thống yêu nước và ý chí căm thù giặc sâu sắc, luôn là người trực tiếp chiến đấu và phục vụ chiến đấu, gắn bó quyền lợi của mình với vận mệnh đất nước góp phần tô thắm những trang sử vẻ vang của dân tộc. Từ khi có Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, các thế hệ phụ nữ, người trước mở đường cho người sau tiếp bước, càng phát huy sức mạnh đoàn kết và ý chí kiên cường, đã làm nên biết bao kỳ tích. Đặc biệt, trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, với tinh thần gan dạ và mưu trí, tài năng sáng tạo, hàng triệu phụ nữ đã lập nên những chiến công lẫy lừng trên khắp các mặt trận, góp phần xứng đáng vào thắng lợi vĩ đại giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, tạo tiền đề đưa đất nước bước vào thời kỳ phát triển mới. Đảng Cộng sản Việt Nam ngay từ khi mới thành lập đã thể hiện rõ quan điểm của mình về phụ nữ, Đảng coi trọng mục tiêu giải phóng phụ nữ, thực Trang 12 Khóa luận tốt nghiệp Đại học Sư phạm Svth: Trần Phan Như Ý hiện nam nữ bình đẳng, đặt sự nghiệp giải phóng phụ nữ gắn liền với sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị cha già dân tộc, vị lãnh tụ tối cao, Người đã cống hiến cả đời mình cho nhân dân và đất nước ta. Trong cuộc đời hoạt động của mình, Người luôn quan tâm đến sự nghiệp giải phóng phụ nữ. Với quan điểm cách mạng rất khoa học, đầy tính nhân văn, Người đã dành cho phụ nữ Việt Nam những tình cảm ưu ái, cái nhìn đúng đắn. Từ giữa thế kỉ XIX, nhân dân Việt Nam “một cổ hai tròng áp bức”, cảnh ngộ của người phụ nữ khi nước mất nhà tan đã phải chịu trăm nghìn cay đắng. Ngay từ những ngày đầu khi xâm lược Việt Nam, giặc Pháp đã đốt phá, giết người và hãm hiếp, gây biết bao tai họa cho nhân dân và phụ nữ ở khắp nơi. Những hành động dã man ấy khiến Hồ Chí Minh phải thốt lên: “Người ta thường nói: chế độ thực dân là ăn cướp. Chúng tôi xin thêm: là hiếp dâm và giết người”[6;106]. Thấu hiểu nỗi khổ nhục của người phụ nữ, họ là những nạn nhân của ách áp bức bóc lột giai cấp, là đối tượng bị bóc lột đè nén nặng nề nhất. Chính vì vậy, theo Hồ Chí Minh giải phóng phụ nữ bản thân nó cũng là một cuộc cách mạng, nó gắn liền với giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Khẳng định vai trò quan trọng của phụ nữ trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, Người đã rút ra kết luận rằng “Xem trong lịch sử cách mệnh chẳng có lần nào là không có đàn bà con gái tham gia” rồi Người khẳng định: “An Nam cách mệnh cũng phải có nữ giới tham gia mới thành công”[6;228-289]. Hồ Chí Minh còn nhấn mạnh phụ nữ chiếm một nửa nhân loại khi nói đến phụ nữ là nói đến một nửa xã hội, vì vậy, phụ nữ là một lực lượng lao động rất quan trọng, nếu không giải phóng phụ nữ là xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ một nửa. Từ nhận thức đúng đắn về vai trò lực lượng phụ nữ trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng Việt Nam có một chính Đảng thấu hiểu sâu sắc tình hình, đặc điểm phụ nữ và đưa ra được Trang 13 Khóa luận tốt nghiệp Đại học Sư phạm Svth: Trần Phan Như Ý những thuyết sách đúng đắn về lý luận và thực sự phụ nữ đã phát huy vai trò, khả năng cách mạng, truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam. Trong Luận cương chính trị đầu tiên của Đảng do Hồ Chí Minh soạn thảo và được thông qua trong Hội nghị thành lập Đảng 3/2/1930 thì vấn đề nam nữ bình quyền đã được được đề cập đến. Về mặt Nhà nước, trong bản Hiến pháp đầu tiên năm 1946, do Bác Hồ chỉ đạo soạn thảo, tại Điều 9 đã ghi: “Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện”[11;9]. Có lẽ đây là lần đầu tiên quyền bình đẳng nam nữ được ghi trong một văn bản có giá trị pháp lý cao nhất ở Việt Nam. Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, học tập kinh nghiệm của các nước xã hội chủ nghĩa và kinh nghiệm của Đảng Cộng sản ở các nước khác. Từ những năm hai mươi của thế kỉ XX, Hồ Chí Minh đã xác định các Đảng Cộng sản cần phải xây dựng tổ chức riêng của phụ nữ và thường xuyên chăm lo xây dựng tổ chức đó vững mạnh để tập hợp, vận động phụ nữ hoạt động cách mạng, giải phóng dân tộc, giải phóng phụ nữ và đấu tranh vì sự tiến bộ của phụ nữ. Tổ chức phụ nữ ở mỗi nước phải hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản nước đó và chịu sự chỉ đạo của Phụ nữ quốc tế. Người khẳng định: “Mỗi Đảng Cộng sản phải có một bộ phụ nữ, trực tiếp thuộc về Phụ nữ quốc tế”, “…chuyên trách về mặt tuyên truyền, tổ chức và huấn luyện đàn bà con gái, và giúp về đường giáo dục trẻ con công nông”[6; 289]. Từ khi Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời, ở mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau, Đảng đã tổ chức ra những đoàn thể phụ nữ mang các tên gọi khác nhau: Hội phụ nữ giải phóng (1931-1935), Hội phụ nữ phản đế (1936-1938), Hội phụ nữ dân chủ (1939-1940), Đoàn phụ nữ cứu quốc. Đặc biệt vào ngày 20- 10-1946 Bác Hồ đã chỉ thị thành lập Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, tập hợp thống nhất mọi phụ nữ Việt Nam gia nhập liên đoàn phụ nữ quốc tế. Tờ báo “Tiếng gọi” (là tiền thân báo Phụ nữ Việt Nam ngày nay) đã ra đời để nói lên tiếng nói của phụ nữ Việt Nam. Trang 14 Khóa luận tốt nghiệp Đại học Sư phạm Svth: Trần Phan Như Ý Kế thừa tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn quan tâm lãnh đạo phát huy vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, để Hội thực sự là tổ chức đoàn kết các tầng lớp phụ nữ, phát động và hướng dẫn các phong trào cách mạng của phụ nữ, góp phần đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ cho Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân tích cực tham gia các hoạt động của phụ nữ quốc tế và tranh thủ được sự ủng hộ to lớn của phụ nữ quốc tế đối với phụ nữ Việt Nam. Thấm nhuần tư tưởng, quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp giải phóng và phát triển phụ nữ, những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách quan trọng đối với sự trưởng thành của các thế hệ phụ nữ. Vấn đề phụ nữ đã được đưa vào Hiến pháp các năm: 1946, 1960, 1986, 1992 với những điều khoản cụ thể, tạo cơ sở pháp lí quan trọng cho mọi quyền và nghĩa vụ cho hoạt động của phụ nữ trên mọi lĩnh vực. Vấn đề phụ nữ cũng được đưa vào các Bộ luật, các Luật như Bộ luật Hình sự (1986), Bộ luật Dân sự (1994), Luật Hôn nhân và gia đình (1986), Luật Lao động (1994)… đã có nhiều điều khoản qui định các quyền và bảo vệ quyền lao động, quyền sống, quyền hạnh phúc của phụ nữ trong cộng đồng. Bên cạnh đó Đảng, Nhà nước và các cơ quan hữu quan đã có nhiều văn bản tạo điều kiện và bảo vệ phụ nữ trên nhiều lĩnh vực, nhằm tạo môi trường tốt cho phụ nữ có điều kiện phát triển. Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI (12-1986) được gọi là Đại hội đổi mới, với mục tiêu khai thác mọi tiềm năng của đất nước, giải phóng năng lực sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân, ổn định tình hình kinh tế - xã hội, phát huy nhân tố con người. Con người được coi là mục tiêu và động lực phát triển xã hội. Đại hội đánh giá cao vai trò phụ nữ Việt Nam trong sự nghiệp chung của đất nước. Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội đã nêu: “Phụ nữ nói chung và lao động nữ nói riêng có những đặc điểm cần được chú ý. Để phát huy vai trò to lớn của phụ nữ trong sự nghiệp cách mạng, cần làm cho đường lối vận động phụ nữ của Đảng được thông suốt trong cả hệ thống Trang 15 Khóa luận tốt nghiệp Đại học Sư phạm Svth: Trần Phan Như Ý chuyên chính vô sản, được cụ thể hóa thành chính sách, pháp luật….cần có biện pháp thiết thực tạo thêm việc làm, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ nữ, chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em, thực hiện đúng Luật hôn nhân và gia đình. Tạo điều kiện cho phụ nữ kết hợp được nghĩa vụ của công dân với chức năng làm mẹ, xây dựng gia đình hạnh phúc” [7;51] Ngày nay, trong quá trình thực hiện sự nghiệp đổi mới toàn diện của đất nước trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, trước những thời cơ và thách thức mới nhằm thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đòi hỏi phải phát huy cao hơn bao giờ hết tiềm năng, sức sáng tạo, nghị lực của mọi tầng lớp xã hội, trong đó có vai trò hết sức quan trọng của các tầng lớp phụ nữ. Nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phụ nữ, tạo điều kiện để phụ nữ phát triển và thúc đẩy bình đẳng giới Bộ Chính trị đã ban hành Nghị Quyết số 11-NQ/TW “Về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Nghị quyết tiếp tục khẳng định quan điểm đúng đắn của Bộ Chính trị về công tác phụ nữ, trong đó nhấn mạnh đến việc phát huy vai trò, tiềm năng to lớn của phụ nữ trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao địa vị phụ nữ, thực hiện bình đẳng giới trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội là một trong những nhiệm vụ và mục tiêu quan trọng của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ mới”, đồng thời “Xây dựng và phát triển vững chắc đội ngũ cán bộ nữ tương xứng với vai trò to lớn của phụ nữ là yêu cầu khách quan, là nội dung quan trọng trong chiến lược công tác cán bộ của Đảng”[13;8] Hiện nay nước ta bước sang những năm đầu tiên của thế kỉ XXI, trong bối cảnh trong nước và quốc tế có nhiều thuận lợi. Vấn đề giải phóng phụ nữ tiếp tục được Đảng ta tăng cường quan tâm lãnh đạo, Chính phủ có chiến lược và kế hoạch hành động vì sự tiến bộ của phụ nữ, phong trào phụ nữ quốc tế có những bước phát triển mới, bình đẳng giới, phát triển và hòa bình tiếp tục là mục tiêu hành động mang tính chất toàn cầu. Đây chính là những yếu tố ảnh Trang 16 Khóa luận tố._.t nghiệp Đại học Sư phạm Svth: Trần Phan Như Ý hưởng tích cực tới sự bình đẳng và tiến bộ của phụ nữ, thúc đẩy phong trào phụ nữ Việt Nam phát triển và hội nhập quốc tế. Cơ hội dành cho đội ngũ nữ trí thức trở thành những nhà khoa học cũng được nhân lên từ đây. Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã nêu lên quan điểm của Đảng ta về công tác phụ nữ trong tình hình hiện nay. Đó là: “Đối với phụ nữ, nâng cao trình độ mọi mặt và đời sống vật chất, tinh thần, thực hiện bình đẳng giới. Tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện tốt vai trò của người công dân, người lao động, người mẹ, người thầy đầu tiên của con người. Bồi dưỡng, đào tạo để phụ nữ tham gia ngày càng nhiều vào các hoạt động xã hội, các cơ quan lãnh đạo quản lý ở các cấp. Chăm sóc và bảo vệ sức khỏe bà mẹ, trẻ em. Bổ sung và hoàn chỉnh các chính sách về bảo hộ lao động, bảo hiểm xã hội, thai sản, chế độ đối với lao động nữ. Kiên quyết đấu tranh chống các tệ nạn xã hội, các hành vi bạo lực, xâm hại và xúc phạm nhân phẩm phụ nữ”[5;120] Gần tám thập kỷ qua kể từ khi có Đảng, phụ nữ Việt Nam đã tạo dựng nên biết bao truyền thống, đức tính quý báu cho dân tộc Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta mãi mãi ghi ơn, tự hào vì những đóng góp này. Phụ nữ rất xứng đáng với lời khen mà Đảng và Nhà nước đã phong tặng “Phụ nữ Việt Nam trung hậu, đảm đang, tài năng, anh hùng”. Phát huy truyền thống oanh liệt của Bà Trưng, Bà Triệu, các thế hệ phụ nữ Việt Nam anh hùng, thế hệ phụ nữ Việt Nam ngày hôm nay cùng với việc Đảng và Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho sự tiến bộ của phụ nữ, tin chắc rằng, họ sẽ tiếp tục phấn đấu vươn lên trở thành những người phụ nữ có trí tuệ, tài năng và phẩm giá cao đẹp, đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, cùng dân tộc tiến tới mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh”, vì bình đẳng giới - phát triển - hòa bình. Trang 17 Khóa luận tốt nghiệp Đại học Sư phạm Svth: Trần Phan Như Ý 1.2. Vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ với phong trào phụ nữ. 1.2.1. Thời kỳ đấu tranh cách mạng giành độc lập dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Đất nước Việt Nam từ bao đời nay với nền văn minh nông nghiệp, dựa trên nền tảng nghề trồng lúa nước và thủ công nghiệp, lại luôn luôn bị kẻ thù xâm lược đã hun đúc nên truyền thống của phụ nữ Việt Nam. Họ là những chiến sĩ chống ngoại xâm kiên cường dũng cảm, là những người lao động trí óc và lao động chân tay cần cù, sáng tạo, thông minh, người nghệ sĩ bảo vệ, giữ gìn, phát triển bản sắc và tinh hoa văn hóa dân tộc, là người chủ gia đình dịu hiền, đảm đang, trung hậu, người sản sinh ra những thế hệ anh hùng của dân tộc anh hùng. Dưới chế độ phong kiến và đế quốc, phụ nữ là lớp người bị áp bức bóc lột, chịu nhiều bất công, nên luôn có yêu cầu được giải phóng và sẵn sàng đi với cách mạng. Ngay từ những ngày đầu chống Pháp, phụ nữ đã tham gia đông đảo vào các phong trào như: phong trào Cần Vương của Phan Đình Phùng nổi tiếng là cô Tám, phong trào Duy Tân của Phan Bội Châu có người phụ nữ họ Đinh, trong cuộc khởi nghĩa Hoàng Hoa Thám có tài trí tuyệt vời của bà Ba mà khi nghe tên quân thù đã khiếp sợ,… Đến những năm 1927 – 1930 những tổ chức quần chúng bắt đầu hình thành và thu hút đông đảo các tầng lớp phụ nữ như: Công Hội đỏ, Nông Hội đỏ, các nhóm tương tế, tổ học nghề và các tổ chức có tính chất riêng của giới nữ: Phụ nữ phản đế, Đồng minh phụ nữ hiệp hội, Hội phụ nữ giải phóng… Ngày 3-2-1930, Đảng Cộng sản Đông Dương thành lập, trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã ghi: “Nam nữ bình quyền”. Đảng đã sớm nhận rõ, phụ nữ là lực lượng quan trọng của cách mạng và đề ra nhiệm vụ Đảng phải giải phóng phụ nữ gắn liền giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, phụ nữ phải tham gia các đoàn thể cách mạng (công hội, nông hội) đồng thời phải thành lập tổ chức riêng cho phụ nữ để lôi cuốn các tầng lớp phụ nữ tham gia cách mạng. Chính vì vậy vào ngày 20/10/1946 tổ chức phụ nữ Việt Nam đầu Trang 18 Khóa luận tốt nghiệp Đại học Sư phạm Svth: Trần Phan Như Ý tiên được thành lập, với tên gọi “Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam”. Kể từ đó đến nay, trải qua biết bao thăng trầm, bao sự biến động của lịch sử dân tộc, phong trào phụ nữ không ngừng trưởng thành và lớn mạnh cùng với chặng đường phát triển của dân tộc. Qua các thời kỳ cách mạng, các tổ chức phụ nữ như: Hội phụ nữ giải phóng (1930 – 1931), Hội phụ nữ Dân chủ (1936 – 1939), Hội phụ nữ Phản đế (1939 – 1941), Đoàn phụ nữ Cứu quốc (16-6-1941), Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (6/1976 – khi nước nhà thống nhất). Dù tên gọi có nhiều thay đổi cho phù hợp với từng giai đoạn cách mạng, nhưng trước sau Hội vẫn là tổ chức kiên trung của phụ nữ Việt Nam. Phong trào phụ nữ và hoạt động của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam có mối quan hệ hữu cơ, tác động qua lại, thúc đẩy nhau cùng phát triển. Nếu thiếu vai trò tập hợp, tổ chức, vận động, hướng dẫn của tổ chức Hội thì phong trào phụ nữ sẽ trở thành phong trào tự phát và không thể có được vai trò, sự đóng góp to lớn vào sự nghiệp đấu tranh cách mạng trước đây cũng như sự nghiệp đổi mới, xây dựng đất nước ngày nay. Đối với từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, Hội phụ nữ luôn thể hiện vai trò là tổ chức tập hợp lực lượng chị em phụ nữ, dẫn dắt phong trào phụ nữ phát triển đi theo những đường lối chiến lược cách mạng do Đảng và Nhà nước đề ra. Từ năm 1930 – 1935: đây là thời kỳ Đảng ta mới thành lập, nên mọi tổ chức và lãnh đạo phong trào của Đảng hoàn toàn trong bí mật vì phải đương đầu với chính sách khủng bố cực kỳ dã man của thực dân Pháp. Do đó, hoạt động của Hội phụ nữ lúc này đi vào phương thức tổ chức các hội giúp đỡ nhau như: “Hội cấy”, “Hội gặt”, “Hội tương tế” để tranh thủ tuyên truyền, vận động phụ nữ. Hình thức hoạt động này của Hội phụ nữ đã tập hợp được số đông phụ nữ tham gia và góp phần quan trọng vào đấu tranh chống lại sự áp bức đối với phụ nữ. Được Đảng giác ngộ và lãnh đạo, nhiều phụ nữ đã thoát ly gia đình, tham gia hoạt động cách mạng như rải truyền đơn, in ấn tài liệu, giao thông Trang 19 Khóa luận tốt nghiệp Đại học Sư phạm Svth: Trần Phan Như Ý liên lạc, vận động quần chúng đấu tranh…Năm 1930-1931 đã hình thành tổ chức “Phụ nữ giải phóng” để thu hút đông đảo phụ nữ tham gia vào các cao trào đấu tranh cách mạng. Từ năm 1936 – 1939: đây là thời kỳ vận động dân chủ nên tổ chức phụ nữ lúc này đã chuyển hướng hoạt động mạnh mẽ trong phong trào dân chủ với tên gọi “Hội phụ nữ dân chủ”. Phụ nữ đã tham gia đấu tranh công khai, hợp pháp, tuyên truyền chủ nghĩa Mác – Lênin và đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng ta, tuyên truyền vận động quần chúng phụ nữ tham gia vào các tổ chức cách mạng. Từ năm 1940 -1945: đây là giai đoạn chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền cho nên mọi hoạt động của Hội phụ nữ đều tập trung vào các cuộc đấu tranh lớn nhằm thực hiện mục tiêu giải phóng dân tộc. Để phù hợp với tình hình, Hội lấy tên là “Hội phụ nữ phản đế”. Thời gian này, phụ nữ thoát ly gia đình, tham gia hoạt động cách mạng ngày càng nhiều, dưới nhiều hình thức như gây dựng cơ sở cách mạng, nuôi dấu, bảo vệ cán bộ cách mạng, trực tiếp tham gia vào các cuộc khởi nghĩa, các đội tự vệ, vũ trang tuyên truyền… Khởi nghĩa Nam Kỳ năm 1940 – 1941 tiêu biểu như: Nguyễn Thị Minh Khai, Nguyễn Thị Thập, Nguyễn Thị Bảy,… là những tấm gương sáng ngời của phụ nữ Việt Nam luôn sống mãi trong lòng dân tộc. Các hoạt động của Hội phụ nữ đã góp phần không nhỏ vào thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Từ năm 1945 – 1954: ngày 20/10/1946 Hội phụ nữ với tên gọi mới là “Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam” được thành lập, nhằm động viên phụ nữ tham gia phong trào cách mạng. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ hưởng ứng lời kêu gọi “Toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hội phụ nữ đã phát động các phong trào như: “Phụ nữ tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm” nhằm tự túc, tự cấp về mọi mặt và đóng góp lương thực cho cuộc kháng chiến; “Phụ nữ học cày, học bừa” nhằm vận động phụ nữ đảm đang công việc đồng áng để nam giới yên tâm đi bộ đội; ở vùng tạm chiếm có phong trào Trang 20 Khóa luận tốt nghiệp Đại học Sư phạm Svth: Trần Phan Như Ý “Chống bắt lính”; “Vận động binh sĩ trở lại quê hương” và đã có hàng vạn phụ nữ đi dân công tiếp lương tải đạn, phục vụ các chiến dịch. Nhìn chung những đóng góp của Hội phụ nữ ở cả hậu phương và tiền tuyến, từ Bắc tới Nam, từ nông thôn đến thành thị, từ miền xuôi đến miền núi đã góp phần to lớn vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Từ năm 1954 – 1975: đây là thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Đất nước ta tạm thời bị chia cắt làm hai miền: miền Bắc tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Ở miền Bắc, để tích cực tham gia vào công cuộc khôi phục kinh tế sau chiến tranh. Tháng 3/1961, Hội phụ nữ đã phát động phong trào thi đua “Phụ nữ 5 tốt” với nội dung: Đoàn kết, sản xuất, tiết kiệm tốt; Chấp hành chính sách tốt; Tham gia quản lý tốt; Học tập chính trị, văn hóa, kỹ thuật tốt; Xây dựng phong trào nuôi dạy con tốt. Phong trào đã phát triển mạnh mẽ, sâu rộng trong các tầng lớp phụ nữ đã góp phần thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa và thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 – 1965). Tháng 3/1965, Mỹ mở rộng chiến tranh đánh phá miền Bắc ác liệt. Ban chấp hành Trung ương Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam đã phát động phong trào “Ba đảm đang chống Mỹ cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội” với nội dung: đảm đang sản xuất và công tác; đảm đang gia đình; đảm đang phục vụ chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu. Từ phong trào “Ba đảm đang” phụ nữ đã có những đóng góp to lớn trong sản xuất, công tác. Chị em đã tiến bộ vượt bậc về mọi mặt và trưởng thành nhanh chóng. Từ hai phong trào thi đua “Phụ nữ năm tốt” và “Ba đảm đang” do Hội phụ nữ phát động, phụ nữ miền Bắc đã tích cực hưởng ứng và làm việc trên tinh thần “Mỗi người làm việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt”. Cả miền Bắc lúc ấy sôi động như một công trường xây dựng, vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa chiến đấu chống phá hoại bằng không quân của đế quốc Mỹ, vừa chi viện sức người, sức của cho miền Nam giết giặc. Trên khắp các nẻo đường đất Trang 21 Khóa luận tốt nghiệp Đại học Sư phạm Svth: Trần Phan Như Ý nước khẩu hiệu “Nhằm thẳng quân thù mà bắn”, nhiều đội nữ du kích đã lập công lớn bắn hạ máy bay, tàu chiến của Mỹ. Hình ảnh mẹ Suốt trên sông Nhật Lệ ngày đêm chèo đò dưới làn bom đạn đưa bộ đội, chiến sĩ qua sông là một minh chứng cho tinh thần đấu tranh kiên cường của phụ nữ Việt Nam. Trên mặt trận chi viện miền Nam giết giặc, mười cô gái ngã ba Đồng Lộc, mười hai cô gái Truông Bồn Nghệ An là những cá nhân, tập thể phụ nữ đã không tiếc máu xương, tô thắm thêm truyền thống anh dũng của phụ nữ Việt Nam. Phong trào “Ba đảm đang” thắng lợi, đã khẳng định đường lối công tác phụ vận của Đảng và của Nhà nước xã hội chủ nghĩa là hoàn toàn đúng, vì nó tạo điều kiện giải phóng phụ nữ. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam đã chỉ đạo cụ thể và đưa phong trào thu được nhiều kết quả. Hội đã động viên cổ vũ, hướng dẫn các tầng lớp phụ nữ phấn đấu thực hiện “Ba đảm đang”, nghiên cứu đề xuất với Đảng và Nhà nước các chế độ chính sách đối với phụ nữ để tạo điều kiện cho chị em phấn đấu vươn lên. Cán bộ, hội viên của Hội là lực lượng nòng cốt thúc đẩy phong trào phát triển. Ở miền Nam, trong những năm tháng đau thương uất hận nhất khi luật 10/59 ra đời, Ngô Đình Diệm lê máy chém trên khắp miền Nam, thực hiện “thà giết nhầm hơn bỏ sót” nhằm mục đích tiêu diệt cách mạng, trả thù những người đi kháng chiến, bắt những người phụ nữ phải li khai cộng sản, phải ly dị chồng, phải xa rời cách mạng. Trước tình hình cách mạng, ngày 8-3-1961 Hội Liên hiệp Phụ nữ giải phóng miền Nam được thành lập, Hội đã phát động phong trào thi đua “Phụ nữ năm tốt” khắp miền Nam với nội dung: “Đoàn kết đấu tranh chính trị, vũ trang, binh vận tốt. Lao động, sản xuất, tiết kiệm tốt. Chăm sóc nuôi dưỡng thương binh tốt. Học tập văn hóa, chính trị, chuyên môn tốt. Rèn luyện tư cách đạo đức tốt ”. Phong trào “Phụ nữ năm tốt” của phụ nữ miền Nam và phong trào “Ba đảm đang” của phụ nữ miền Bắc là phong trào yêu nước nồng nàn và rộng khắp, lôi cuốn đông đảo phụ nữ hai miền thi đua sản xuất, phục vụ chiến đấu, góp phần to lớn vào sự nghiệp chống Mỹ cứu nước của toàn dân. Trang 22 Khóa luận tốt nghiệp Đại học Sư phạm Svth: Trần Phan Như Ý Đối với phong trào phụ nữ thế giới, đây cũng là thời điểm mà phụ nữ Việt Nam có những đóng góp to lớn và nhận được sự ủng hộ tích cực của phụ nữ tiến bộ ở khắp năm châu. Ngày 30-4-1975 cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta đã kết thúc thắng lợi vẻ vang. Miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước được độc lập, thống nhất, cùng đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tháng 3/1978, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam phát động phong trào “Người phụ nữ mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Phong trào đã giáo dục, động viên phụ nữ cả nước thực hiện các nhiệm vụ chính trị của Đảng, Nhà nước, thực hiện quyền dân chủ, bình đẳng chăm lo quyền lợi phụ nữ, trẻ em. 1.2.2. Thời kỳ đổi mới đất nước. Từ năm 1986, đất nước bước vào thời kì đổi mới, hoạt động của phong trào phụ nữ Việt Nam cũng cần được đổi mới về nội dung, phương thức hoạt động cho phù hợp với tình hình. Tháng 3/1989, Hội đã phát động hai cuộc vận động: “Phụ nữ giúp nhau làm kinh tế gia đình”, “Nuôi dạy con tốt, góp phần hạn chế trẻ em suy dinh dưỡng và bỏ học” nhằm phát huy truyền thống tốt đẹp của phụ nữ là đoàn kết, tương trợ giúp đỡ nhau trong lao động sản xuất và tổ chức cuộc sống gia đình, khuyến khích chị em, phấn đấu nâng cao trình độ mọi mặt đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới. Đến Đại hội Đại biểu Phụ nữ toàn quốc lần thứ VII Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ chủ trương tiếp tục thực hiện hai cuộc vận động lớn với các chương trình công tác trọng tâm. Từ hai cuộc vận động “Phụ nữ giúp nhau làm kinh tế gia đình”, “Nuôi dạy con tốt, hạn chế trẻ em suy dinh dưỡng và bỏ học” đã phát triển thành phong trào mang ý nghĩa sâu rộng trong thời kỳ mới. Đầu năm 1993, cuộc vận động “Phụ nữ giúp nhau làm kinh tế gia đình” đã phát triển cả về bề rộng và bề sâu, cả về lượng và về chất. Nhờ có cuộc vận động này nạn cho vay nặng lãi đã bị đẩy lùi, Hội phụ nữ đã phối hợp với Công đoàn và các ngành kinh tế kỹ thuật, triển khai các hoạt động chuyển giao kỹ thuật, tìm việc làm, khôi phục ngành thủ công, phát triển các trung tâm dạy Trang 23 Khóa luận tốt nghiệp Đại học Sư phạm Svth: Trần Phan Như Ý nghề đã tạo ra việc làm cho phụ nữ thất nghiệp ở vùng nông thôn, thành phố, thị xã. Từ đó, đã thật sự góp phần vào công tác xóa đói giảm nghèo của địa phương, ngày càng có nhiều phụ nữ vượt nghèo thành công, vươn lên làm giàu chính đáng bằng sức lao động, sáng tạo và nghị lực của chính mình, được cộng đồng, xã hội tôn vinh. Cuộc vận động “Nuôi dạy con tốt góp phần hạn chế trẻ em suy dinh dưỡng và bỏ học” đã được cụ thể hóa trong chương trình với ba mục tiêu giúp chị em biết tổ chức cuộc sống gia đình, biết chăm sóc sức khỏe cho bản thân và con cái, thực hiện sinh đẻ có kế hoạch, liên kết phối hợp các ngành, đoàn thể xã hội chăm sóc bà mẹ và trẻ em, nâng cao chất lượng cuộc sống Thực hiện hai cuộc vận động này, Hội phụ nữ đã có sự đổi mới vượt bậc về nội dung và phương thức hoạt động, nội dung thiết thực gắn liền với lợi ích của phụ nữ nên được chị em tích cực ủng hộ, tạo ra phong trào thi đua rộng rãi sôi nổi trong phụ nữ cả nước. Tháng 5/1997, Đại hội phụ nữ lần thứ VIII tiếp tục triển khai thực hiện năm chương trình trọng tâm và phát động hai phong trào: “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, nuôi dạy con tốt, xây dựng gia đình hạnh phúc” và “Phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế gia đình, cần kiệm xây dựng đất nước”. Thực hiện hai phong trào và năm chương trình trọng tâm, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam đã thể hiện tốt vai trò đại diện của tổ chức Hội, tham gia có hiệu quả trong việc xây dựng kế hoạch, luật pháp, chính sách của Nhà nước có liên quan trực tiếp đến phụ nữ. Cán bộ phong trào bám sát cơ sở, bám sát cuộc sống, nắm vững yêu cầu và mục tiêu nhờ vậy mà các hoạt động của Hội đã thực sự mang lại lợi ích thiết thực cho chị em phụ nữ Sau chặng đường dài cùng với sự đi lên của đất nước, của dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam đã trưởng thành và phát triển. Hội đã trở thành một tổ chức chính trị- xã hội vững mạnh với hệ thống bốn cấp từ Trung ương đến cơ sở, với sự tham gia đông đảo của hội viên và đội ngũ cán bộ Hội nhiệt tình, năng động đã Trang 24 Khóa luận tốt nghiệp Đại học Sư phạm Svth: Trần Phan Như Ý lãnh đạo phong trào phụ nữ từng bước phát triển và lớn mạnh. Đặc biệt, trong công cuộc đổi mới đất nước theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đại hội Đại biểu Phụ nữ toàn quốc lần thứ X đã tiếp tục phát động trong các tầng lớp phụ nữ cả nước phong trào thi đua “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc”. Năm chương trình trọng tâm cùng hai phong trào lớn được triển khai thực hiện đã mang lại lợi ích thiết thực cho phụ nữ trong cả nước, đồng thời vận động chị em tham gia có hiệu quả các chương trình quốc gia như chương trình xóa đói giảm nghèo, đào tạo nghề, giải quyết việc làm, hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nữ, dân số - KHHGĐ, vệ sinh môi trường, phòng chống các tệ nạn xã hội, phòng chống HIV/AIDS…Những đóng góp của phong trào phụ nữ và hoạt động của các cấp Hội phụ nữ đã góp phần tích cực vào việc thực hiện các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Để đáp ứng được yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, các cấp Hội đã đẩy mạnh thực hiện hoạt động tuyên truyền, phổ biến và vận động phụ nữ thực hiện luật pháp, chính sách, tích cực tham gia phát triển kinh tế xã hội, xây dựng người phụ nữ Việt Nam thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Với những thành tích đạt được qua phong trào phụ nữ, báo cáo tại Đại hội Đại biểu Phụ nữ toàn quốc lần thứ X, đã thống kê qua nhiệm kỳ “…có 32 đơn vị và cá nhân được nhận giải thưởng Phụ nữ Việt Nam, 57 nữ doanh nhân được nhận giải thưởng Bông hồng vàng và gần 300 phụ nữ tài năng toàn quốc thời kỳ đổi mới...Đó là những thành tích rất đáng tự hào của toàn thể cán bộ, hội viên và phụ nữ cả nước” [10;42] Bên cạnh việc đẩy mạnh phong trào phụ nữ trong nước, Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ, đã đẩy mạnh công tác quan hệ ngoại giao với tổ chức phụ nữ của các nước láng giềng và quốc tế góp phần xây dựng tình đoàn kết , hợp tác vì hòa bình, nhân đạo và công lý. Tiếp nối truyền thống phụ nữ Việt Nam, ngày nay trong sự nghiệp đổi mới, các tầng lớp phụ nữ trong cả nước lại đang tích cực đóng góp tài năng, Trang 25 Khóa luận tốt nghiệp Đại học Sư phạm Svth: Trần Phan Như Ý trí tuệ, sức lực của mình trên khắp các lĩnh vực. Đảng và Nhà nước ta đánh giá cao vai trò và sự cống hiến của phụ nữ Việt Nam trong công cuộc đổi mới. Đại diện cho phụ nữ, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam đã phát huy bản chất tốt đẹp và khả năng to lớn của hàng chục triệu phụ nữ. Phong trào phụ nữ dưới sự dẫn dắt của các cấp Hội phụ nữ đã có sự khởi sắc, chuyển biến rõ nét, hoạt động có trọng tâm, trọng điểm, ngày càng đi vào chiều sâu, từng bước bắt nhịp với sự phát triển của đất nước. Trang 26 Khóa luận tốt nghiệp Đại học Sư phạm Svth: Trần Phan Như Ý Chương 2:VAI TRÒ CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG TRIỂN KHAI THỰC HIỆN CHƯƠNG TRÌNH “HỖ TRỢ PHỤ NỮ PHÁT TRIỂN KINH TẾ” TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2006. 2.1. Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh An Giang với phong trào phụ nữ trong 30 năm xây dựng và phát triển (1975 – 2005). Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, phụ nữ luôn giữ vị trí xứng đáng trong công cuộc xây dựng, giữ gìn bờ cõi và góp phần vun đắp nên truyền thống hào hùng của dân tộc với nhiều chiến công, gương sáng làm rạng rỡ phẩm giá, đức hạnh của người phụ nữ Việt Nam. Đó là niềm tự hào của dân tộc và phụ nữ. Hoà trong dòng chảy lịch sử đó, với truyền thống vẻ vang “Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang” các tầng lớp phụ nữ trong tỉnh đã cùng phụ nữ cả nước tham gia hai cuộc kháng chiến, trải qua bao gian khổ hy sinh để giành thắng lợi giải phóng hoàn toàn miền Nam. Sau ngày 30/4/1975 trong phong trào “Người phụ nữ mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” hàng ngàn chị em người Kinh, Khmer, Chăm, Hoa đã tham gia xây dựng xã hội mới, là lực lượng nòng cốt vận động chồng, con, em, người thân tham gia cải tạo xã hội chủ nghĩa, tham gia vào hợp tác xã nông nghiệp, công thương nghiệp,… Vết thương chiến tranh do đế quốc Mỹ để lại chưa kịp hàn gắn thì năm 1979 chiến tranh biên giới Tây Nam bùng nổ, phụ nữ An Giang đã trở thành hậu phương vững chắc cho chồng, con lên đường bảo vệ Tổ quốc. Trong gia đình chị em là những người lao động chính, vừa làm trách nhiệm của người mẹ hiền, người vợ thảo, ngoài xã hội là những người phụ nữ tháo vát và rất gan dạ, dũng cảm trong chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Tiêu biểu là chị Trần Thị Chọn - nguyên Chủ tịch Hội phụ nữ huyện Tịnh Biên, khi còn công tác tại xã Thới Sơn, Tịnh Biên vào thời điểm bọn Pôn Pốt tràn qua, bộ đội ta chiến đấu hy sinh, đội ngũ phân tán, lúc đó chị là Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân xã đã trực tiếp chỉ huy đánh trả. Chị Trương Thị Lan (tự là Hai A) quê xã Vĩnh Hội Trang 27 Khóa luận tốt nghiệp Đại học Sư phạm Svth: Trần Phan Như Ý Đông - An Phú, năm 1977 là trưởng Công an xã được phong tặng nhiều danh hiệu cao quí. Chị Nguyễn Thị Chăm quê xã Phước Hưng, An Phú qua chiến đấu được bình bầu chiến sĩ thi đua cấp quân khu và còn rất nhiều tấm gương tiêu biểu khác. Năm 1986, cùng với quá trình đổi mới của Đảng, hoạt động của Hội có nhiều thay đổi, với nhiều hoạt động thiết thực phù hợp với nhu cầu, nguyện vọng của các tầng lớp phụ nữ. Thông qua phong trào phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế gia đình, hằng năm có trên 5000 lao động nữ được Hội giới thiệu tìm việc làm, tranh thủ các dự án trong, ngoài nước hỗ trợ vốn cho chị em từ 700 triệu đồng năm 1986, tăng lên 34 tỷ năm 2004, xây dựng trên 2000 nhóm phụ nữ tiết kiệm. Đặc biệt, có 5.121 hộ gia đình do phụ nữ làm chủ hộ hoặc lao động chính, thường xuyên được Hội giúp đỡ từ vật chất đến tinh thần. Khôi phục được nghề dệt thổ cẩm của phụ nữ Khmer xã Văn Giáo - huyện Tịnh Biên, là nghề truyền thống đã mai một từ lâu. Bằng sự hỗ trợ của Nhà nước cùng với sự vươn lên của bản thân, chị em đã từng bước ổn định và nâng cao cuộc sống gia đình, hăng hái tham gia phong trào “Nuôi dạy con tốt, góp phần hạn chế trẻ em suy dinh dưỡng và trẻ em bỏ học”. Cán bộ Hội phụ nữ đã không ngại gian khó đến những vùng sâu, vùng xa, biên giới, dân tộc dạy cho phụ nữ biết nấu cháo dinh dưỡng cho con, giúp đỡ cho những gia đình nghèo hằng năm vài trăm triệu từ tiền vận động các nhà hảo tâm, từ hội viên để mua tập, sách, dụng cụ học tập cho các cháu đến trường. Bản thân cán bộ Hội trực tiếp đứng lớp dạy xóa mù chữ cho phụ nữ góp phần giảm đáng kể tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng và bỏ học. Thông qua phong trào đã có 67 ngàn phụ nữ được bình bầu gia đình đạt bốn chuẩn mực: “No ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc”. Sau ngày nước nhà thống nhất và ngày nay trong thực hiện sự nghiệp đổi mới của Đảng, phụ nữ An Giang tiếp tục đóng góp tài năng, trí tuệ của mình trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội. Quá trình hoạt động cách mạng của phụ nữ tỉnh nhà luôn được Đảng đánh giá đúng vai trò, vị trí, khả Trang 28 Khóa luận tốt nghiệp Đại học Sư phạm Svth: Trần Phan Như Ý năng, sự chịu đựng hy sinh thầm lặng và cống hiến lớn lao của phụ nữ. Để ghi nhớ công ơn của các bà mẹ sinh ra những người con anh hùng và đã hy sinh cho Tổ quốc, An Giang có 240 bà mẹ được phong tặng danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”, Hội phụ nữ các cấp đã vận động được trên 4 tỷ đồng để thực hiện các chính sách cho các mẹ. Với nhiều hoạt động thiết thực, uy tín và vị trí của Hội không ngừng được tăng lên. Hội đã tập hợp được 345.805 phụ nữ đại diện cho các dân tộc và các tầng lớp phụ nữ trong tỉnh tham gia tổ chức Hội phụ nữ, 21.510 chị là thành viên nòng cốt tiêu biểu trong tôn giáo - dân tộc, sống “Tốt đời đẹp đạo” làm nòng cốt trong đấu tranh với những phần tử xấu lợi dụng tôn giáo. Tiêu biểu như bà Dương Thị Liêm (Ni sư Thích nữ Như Định), trụ trì chùa Pháp Hoa là ủy viên Ban Chấp hành phụ nữ tỉnh, luôn vận động trong đạo đóng góp giúp đỡ cho người nghèo; chị ZeilRoh - Chủ tịch Hội phụ nữ xã Châu Phong - huyện Tân Châu được Trung ương Hội tặng giải thưởng Kova, là một trong ba phụ nữ tiêu biểu toàn quốc được tặng giải thưởng này; chị Châu Kholy-Phó Chủ tịch phụ nữ xã Đa Phước - An Phú là một trong ba nữ dân tộc Chăm được đứng vào hàng ngũ Đảng Cộng sản Việt Nam. Bằng uy tín của mình chị đã thuyết phục được cộng đồng người Chăm cho phép phụ nữ Chăm vào Thánh đường hội họp, là việc từ xưa đến nay chưa có trong Hồi giáo. Nhận thức được vai trò, vị trí của cán bộ trên các lĩnh vực của xã hội, ngoài sự quan tâm giúp đỡ và tạo điều kiện của Đảng, bản thân chị em đã không ngừng nổ lực phấn đấu rèn luyện, nâng cao trình độ thông qua học tập, bồi dưỡng và kết hợp với thực tiễn phong trào. Do vậy, sau 30 năm đất nước thống nhất, đội ngũ cán bộ nữ cũng như cán bộ Hội đã trưởng thành rõ rệt. Nếu như năm 1975, An Giang không có nữ tiến sĩ và thạc sĩ thì nay đã đào tạo được 13 nữ/44 người, 51 chị đang theo học. Nữ có trình độ Cao Đẳng, Đại học 3.264 chị. Riêng cán bộ chủ chốt Hội phụ nữ từ tỉnh đến cơ sở có 17 chị tốt nghiệp đại học, cử nhân, 17 chị tốt nghiệp cao cấp chính trị, 152 chị có trình độ trung cấp, 5.350 chị em nữ đứng vào hàng ngũ Đảng Cộng sản Việt Nam. Trang 29 Khóa luận tốt nghiệp Đại học Sư phạm Svth: Trần Phan Như Ý An Giang đang cùng cả nước bước vào giai đoạn phát triển mới, giai đoạn mở cửa, hội nhập, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Những năm qua, Đảng bộ và nhân dân An Giang đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, những thành quả đó có sự đóng góp to lớn của các cấp Hội và các tầng lớp phụ nữ trong tỉnh. Điều đó càng khẳng định, phụ nữ Việt Nam nói chung, phụ nữ An Giang nói riêng rất xứng đáng với những danh hiệu cao quý mà Đảng và Bác Hồ đã khen tặng. 2.2. Vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang trong triển khai thực hiện chương trình “Hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế” từ năm 2001 đến năm 2006. 2.2.1. Thực trạng đời sống phụ nữ huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. 2.2.1.1. Vài nét về vị trí địa lý và tình hình kinh tế - xã hội huyện Chợ Mới. Chợ Mới là huyện cù lao nằm giữa sông Tiền và sông Hậu. Có diện tích đất tự nhiên là 35.571 ha, trong đó diện tích đất sản xuất nông nghiệp là 24.579 ha, số dân là 368.477 người, mật độ dân số trung bình 998 người/km2, chỉ sau thành phố Long Xuyên và thị xã Châu Đốc [12] . Huyện gồm 2 thị trấn và 16 xã là: thị trấn Chợ Mới, thị trấn Mỹ Luông, xã Mỹ Hội Đông, Kiến An, Long Điền A, Tấn Mỹ, Long Điền B, Kiến Thành, Mỹ Hiệp, Mỹ An, Nhơn Mỹ, Long Giang, Long Kiến, Bình Phước Xuân, An Thạnh Trung, Hội An, Hòa Bình, Hòa An. Về vị trí địa lý, phía Đông giáp thị xã Cao Lãnh, phía Tây giáp huyện Phú Tân, Châu Thành, phía Nam giáp thành phố Long Xuyên và huyện Lấp Vò (Đồng Tháp), phía Bắc giáp huyện Thanh Bình (Đồng Tháp). Chợ Mới cách thành phố Long Xuyên 30 km, đây là trung tâm của tỉnh nên thuận lợi cho việc học tập, tiếp thu khoa học - công nghệ phục vụ cho sản xuất và đời sống của nhân dân. Trang 30 Khóa luận tốt nghiệp Đại học Sư phạm Svth: Trần Phan Như Ý Với địa hình bằng phẳng, đất đai màu mỡ, có nhiều sông ngòi kênh rạch, cùng với khí hậu nhiệt đới gió mùa rất thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp, nên người dân chủ yếu sống bằng nghề sản xuất nông nghiệp. Với tình trạng đất hẹp, người đông mà chỉ đơn thuần sản xuất nông nghiệp thì rất khó cải thiện đời sống. Vì thế, ngoài việc sản xuất nông nghiệp nhân dân Chợ Mới còn sản xuất một số ngành công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp truyền thống như: ngành mộc, đan bồ, vẽ tranh trên kiếng, chằm nón, xay xát gạo, cầu lông…Tính đến cuối năm 2005, toàn huyện có 4.046 cơ sở sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp với 15.589 lao động, đã góp phần giải quyết việc làm cho lực lượng lao động tại địa phương. [12;27]. Lĩnh vực thương mại và dịch vụ phát triển khá nhanh, sức mua tăng, mẫu mã hàng hóa đa dạng, tình trạng khan hiếm hàng và giá tăng đột biến ít xảy ra. Hiện nay, toàn huyện có 64 chợ, trong đó có 06 chợ loại II, 58 chợ loại III. Từ năm 2001-2005, đã tiến hành nâng cấp 25 chợ, xây dựng mới 03 chợ với tổng số vốn đầu tư trên 7 tỷ đồng [15]. Với mạng lưới thương mại - dịch vụ khá phát triển là điều kiện thuận lợi trong việc mua bán, phục vụ tốt hơn nhu cầu tiêu dùng trong nhân dân. Trong quá trình phát triển, huyện Chợ Mới rất chú trọng phát triển hệ thống giao thông vận tải. Đến nay hệ thống giao thông trên địa bàn đã phát triển tương đối hoàn chỉnh với 187 km đường nhựa, gồm 39 km đường tỉnh lộ và 148 km đường hương lộ, là huyện đầu tiên của tỉnh hoàn thành chương trình bêtông hóa 100% các tuyến lộ nông thôn. Mạng lưới giao thông phát triển đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp, các ngành công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ, việc buôn bán với các địa phương lân cận, nâng cao thu nhập cho người dân và góp phần thúc đẩy cơ cấu kinh tế huyện theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa[15]. Về văn hóa - thông tin, trong những năm qua công tác thông tin tuyên truyền đạt kết quả tích cực. Bằng nhiều hình thức phong phú, đa dạng như tuyên truyền trực quan, panô, khẩu hiệu, hệ thống truyền thanh xã, thị trấn… Trang 31 Khóa luận tốt nghiệp Đại h._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfXT1284.pdf