MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận án
Gia đình là tế bào của xã hội, nơi con người sinh ra và lớn lên, nơi thế hệ trẻ được chăm lo cả về thể chất, trí tuệ, đạo đức và nhân cách để hội nhập vào cuộc sống cộng đồng xã hội.
Tuy không phải là thiết chế duy nhất có vai trò, trách nhiệm giáo dục đối với trẻ em, nhưng gia đình là môi trường giáo dục đầu tiên và có tầm quan trọng quyết định việc hình thành nhân cách của trẻ. Xã hội luôn vận động và phát triển không ngừng, song giáo dục gia đình
171 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 3368 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Vai trò của gia đình trong việc giáo dục thế hệ trẻ ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vẫn luôn ảnh hưởng lâu dài và toàn diện đối với mỗi cá nhân trong suốt cuộc đời. Giáo dục nhà trường, xã hội là những môi trường giáo dục rất quan trọng, song vai trò của nó chỉ có thể được phát huy một cách có hiệu quả, khi lấy giáo dục gia đình làm cơ sở.
Hiện nay, nhiều quốc gia trên thế giới sau quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH), đã trở thành những cường quốc về kinh tế, song cũng không ít quốc gia phải trả giá vì sự đổ vỡ của quan hệ giữa con người với con người. Giàu có là điều ai cũng mong ước, dân tộc nào cũng hướng tới, song cuộc sống sẽ trở nên đáng sợ biết bao, nếu như mọi người chỉ nghĩ đến đồng tiền mà không quan tâm đến nhau, lòng nhân ái bị chà đạp. Nhiều nước trên thế giới hiện muốn quay trở lại tìm kiếm những giá trị nhân văn đích thực, vốn có của gia đình đã bị đánh mất do một thời gian dài xem nhẹ vấn đề gia đình và chính sách xã hội đối với gia đình. Khi xã hội muốn quay lại dựa vào giáo dục gia đình để chữa chạy cho những mất mát, hư hỏng do những toan tính thiên về tiền bạc, thì thể chế gia đình đã trở nên hết sức mỏng manh và ở nhiều trường hợp tình hình gia đình đã trở nên bi kịch.
Ở Việt Nam, một đất nước sau hàng thế kỷ tiến hành chiến tranh giải phóng và hơn một thập kỷ thực hiện đường lối đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), với truyền thống giàu lòng nhân ái, thủy chung, trọng tình nghĩa, chúng ta luôn đề cao vai trò gia đình trong quan hệ nhà - làng - nước. Đặc biệt, mặc cho xã hội có nhiều đổi thay, nhưng giáo dục gia đình vẫn được các bậc cha mẹ chú ý, quan tâm. Điều cần khẳng định là, cho dù sự tác động nhiều chiều của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, của sự bùng nổ thông tin, của quá trình toàn cầu hóa, của cơ chế thị trường, nhưng những giá trị đạo đức truyền thống của gia đình, của dân tộc vẫn tiếp tục được phát huy; sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước khởi sắc, đời sống của phần lớn các gia đình được nâng lên, việc giáo dục thế hệ trẻ có điều kiện thuận lợi; con trẻ có cơ hội vươn lên tự khẳng định mình trong sự phát triển lành mạnh của gia đình và xã hội.
Bên cạnh đó, giáo dục gia đình cũng có những diễn biến tiêu cực, do chịu tác động của môi trường xã hội, của các loại văn hóa phẩm độc hại, của lối sống thực dụng phương Tây... Tất cả những điều đó đang làm băng hoại đạo đức một bộ phận xã hội, lôi cuốn một bộ phận thế hệ trẻ vào vòng tội lỗi. Trong khi đó, giáo dục gia đình đối với con trẻ chưa được coi trọng và đầu tư đúng mức. Không ít cha mẹ lo nuôi con nhiều hơn đầu tư cho việc dạy chữ, dạy người; nhiều cha mẹ rất coi trọng đến việc giáo dục con cái phát triển toàn diện, song do kiến thức và năng lực hạn chế nên hiệu quả của việc giáo dục còn thấp.
Hiện nay, sự nghiệp CNH, HĐH đất nước đã và đang đặt ra những yêu cầu bức thiết đối với sự nghiệp giáo dục nói chung và giáo dục gia đình nói riêng nhằm tạo ra lớp người Việt Nam vừa cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức, vừa đạt đến tầm cao về trí tuệ, đủ năng lực đưa nước ta hội nhập với văn minh nhân loại mà bản sắc dân tộc vẫn được giữ vững. Yêu cầu đó đặt ra cho sự nghiệp giáo dục, trong đó có việc giáo dục gia đình phải không ngừng đổi mới, hoàn thiện theo hướng CNH, HĐH, dân chủ hóa, tri thức hóa, toàn cầu hóa mà vẫn đậm đà bản sắc văn hóa Việt Nam. Đã đến lúc chúng ta nên có sự nhìn nhận đầy đủ hơn, khách quan hơn, đúng đắn hơn về vai trò của giáo dục gia đình trong sự nghiệp giáo dục để từ đó có chiến lược và kế hoạch đầu tư thỏa đáng cho giáo dục gia đình, sao cho gia đình thực sự xứng đáng là trường học đầu tiên của thế hệ trẻ, những nhân cách văn hóa nảy sinh và phát huy có hiệu quả trong công cuộc kiến tạo đất nước to đẹp hơn, đàng hoàng hơn như Bác Hồ hằng mong ước.
Đề tài: "Vai trò của gia đình trong việc giáo dục thế hệ trẻ ở nước ta hiện nay", là một trong những cố gắng theo hướng chung đó và tác giả mong muốn góp thêm tiếng nói, một tình cảm, một hành động vào sự nghiệp trồng Người mà khởi nguồn từ giáo dục gia đình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Những năm trước đây đã có nhiều công trình nghiên cứu về giáo dục gia đình được công bố. Trong các công trình ấy, trước hết phải kể đến: "Giáo dục trong gia đình Mác" của Pê-tréc-nhi-cô-va, do Nhà xuất bản Thanh niên phát hành năm 1977; "Giáo dục các con trong gia đình" của Am-bac-đi-an do Nhà xuất bản Kim Đồng phát hành năm 1977; "Giáo dục thái độ cộng sản đối với lao động" của Xu-khôm-lin-xki, do Nhà xuất bản Thanh niên phát hành năm 1977; "Nói chuyện về giáo dục gia đình" của A.Ma-ca-ren-cô, do Nhà xuất bản Kim Đồng phát hành năm 1978. Với tâm huyết và năng lực vốn có, cùng với kinh nghiệm của một nhà giáo dục Xô viết nổi tiếng, A.Ma-ca-ren-cô đặc biệt quan tâm đến việc giáo dục thế hệ trẻ phải được bắt đầu ngay từ thời thơ ấu. Ông cho rằng, điều đó không phải là khó như nhiều người lầm tưởng, rằng tất cả các bậc cha mẹ đều có thể làm được, vả lại đó là một công việc lý thú, mang lại niềm vui và hạnh phúc. Nếu tuổi trẻ không được gia đình giáo dục ngay từ đầu, thì công việc cải tạo sẽ tốn hơn rất nhiều công sức không chỉ của gia đình, mà xã hội phải quan tâm. Kinh nghiệm giáo dục gia đình của A.Ma-ca-ren-cô, còn vẹn nguyên ý nghĩa trong giáo dục thế hệ trẻ ở gia đình hiện nay. Tiếp theo A.Ma-ca-ren-cô, phải kể đến I.A-Pê-sec-ni-cô-va với tác phẩm "Dạy con yêu lao động" do Nhà xuất bản Phụ nữ phát hành năm 1980. Theo tác giả, muốn cho con cái của chúng ta lớn lên được mạnh khỏe, vui tươi, yêu đời và cống hiến được nhiều cho xã hội, thì lúc còn nhỏ phải được giáo dục về lao động (lao động học tập, lao động gia đình và lao động xã hội...), bởi phẩm chất đạo đức hình thành ở trẻ em, trước hết là trong quá trình lao động.
Ở Việt Nam, trong những năm qua đã có khá nhiều công trình, bài viết của nhiều nhà giáo dục học, tâm lý học được công bố, đề cập khá sâu sắc đến công tác giáo dục gia đình đối với thế hệ trẻ với nhiều góc độ, cấp độ khác nhau. Tiêu biểu là các công trình như: "Khoa học giáo dục con em trong gia đình" của Ủy ban Thiếu niên nhi đồng Trung ương, xuất bản năm 1979, do Đức Minh chủ biên. Cuốn sách này đã giới thiệu một số quan điểm về giáo dục xã hội chủ nghĩa, nhấn mạnh vai trò, đặc điểm của giáo dục gia đình, cung cấp những cơ sở lý luận, những nội dung và yêu cầu của giáo dục gia đình đối với thế hệ trẻ; "Dạy con nên người" của Hội Liên hiệp Phụ nữ thành phố Hà Nội, xuất bản năm 1991. Tập thể tác giả đã cung cấp cho các bậc cha mẹ những hiểu biết cần thiết về gia đình, về trách nhiệm làm cha, làm mẹ trong việc giáo dục con cái nên người, trên những mặt cơ bản của nội dung giáo dục: Đức, trí, thể, mỹ và lao động, mà các thế hệ làm cha mẹ luôn luôn hướng tới.
Trong các công trình nghiên cứu, còn có "Gia đình Việt Nam với chức năng xã hội hóa" của Tiến sĩ Lê Ngọc Văn, Nhà xuất bản Giáo dục, 1996. Đặc biệt gần đây, có đề tài cấp Nhà nước KX-07-09: "Vai trò gia đình trong sự hình thành và phát triển nhân cách con người Việt Nam", của Trung tâm Nghiên cứu về gia đình và phụ nữ, mà Giáo sư Lê Thi làm chủ biên, do Nhà xuất bản Phụ nữ phát hành năm 1997. Tập thể các tác giả cho rằng, những thành tựu to lớn của cách mạng khoa học và công nghệ trong những năm cuối thế kỷ XX đang đưa lại những khả năng sáng tạo, trí thông minh tuyệt vời cho con người và hứa hẹn đem lại những tiến bộ vượt bậc cho cuộc sống của cá nhân, gia đình, xã hội cả về vật chất và tinh thần. Bên cạnh những tiến bộ vượt bậc do con người tạo ra, thì hàng loạt những sai lầm, thiếu hụt, những hành động dã man, điên cuồng, những tệ nạn xấu xa, nguy hiểm đang tồn tại trên khắp thế giới... cũng lại do con người gây ra. Hậu quả đó đang làm cho hàng triệu gia đình tan tác, chia ly, cùng khổ. Tác giả khẳng định, bàn về sự phát triển ổn định của xã hội, không thể tách rời sự phát triển của con người và vai trò của gia đình trong việc bồi dưỡng, đào tạo nguồn nhân lực, xây dựng nhân cách con người.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được về lý luận cũng như thực tiễn, hầu hết các tác giả đều thừa nhận, việc làm đó mới chỉ là kết quả bước đầu, mới chỉ là phát hiện những vấn đề, còn trên những khía cạnh cụ thể cũng cần có sự đầu tư hơn nữa để nghiên cứu một cách tổng thể, khoa học.
Luận án "Vai trò của gia đình trong việc giáo dục thế hệ trẻ ở nước ta hiện nay" hy vọng sẽ là sự đóng góp nhỏ của tác giả vào sự nỗ lực chung của toàn xã hội.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
- Mục đích:
Trên cơ sở làm rõ vai trò, các yếu tố ảnh hưởng đến giáo dục gia đình và thực trạng của giáo dục gia đình đối với thế hệ trẻ ở nước ta hiện nay, luận án đề xuất một số phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao vai trò của giáo dục gia đình đối với thế hệ trẻ trong thời kỳ đổi mới.
- Nhiệm vụ:
+ Làm rõ các khái niệm "Gia đình"; "Thế hệ trẻ"; "Giáo dục gia đình" và "Vai trò của giáo dục gia đình" và đặc điểm, nội dung của giáo dục gia định đối với thế hệ trẻ
+ Xác định những yếu tố ảnh hưởng đến giáo dục gia đình và đánh giá thực trạng giáo dục gia đình đối với thế hệ trẻ ở nước ta; phân tích những nguyên nhân cơ bản của thực trạng và những vấn đề đặt ra cần giải quyết.
+ Đề xuất một số phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao vai trò của giáo dục gia đình đối với thế hệ trẻ ở nước trong thời kỳ đổi mới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
Luận án tập trung nghiên cứu vai trò của giáo dục gia đình đối với thế hệ trẻ chủ yếu ở lứa tuổi vị thành niên chịu sự nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục của gia đình (giới hạn dưới 18 tuổi).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước ta về gia đình và giáo dục gia đình.
Luận án sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu, như phân tích và tổng hợp, lôgíc và lịch sử, điều tra xã hội học, so sánh, chứng minh, kết hợp các phương pháp của một số ngành khoa học như tâm lý, giáo dục, văn hóa học...
6. Đóng góp mới của luận án
- Trên quan niệm mác xít, luận án làm rõ và sâu sắc hơn về vai trò, đặc điểm và nội dung của giáo dục gia đình đối với thế hệ trẻ hiện nay.
- Đề xuất một số phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao vai trò của giáo dục gia đình đối với thế hệ trẻ ở nước ta trong thời kỳ đổi mới.
7. Ý nghĩa của luận án
Kết quả nghiên cứu của luận án có thể góp phần làm sáng tỏ thêm những luận điểm, các vấn đề lý luận và thực tiễn về gia đình và giáo dục gia đình.
Luận án góp thêm một tiếng nói, một kinh nghiệm để các bậc cha mẹ tham khảo, nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục gia đình; đồng thời cung cấp thêm tư liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy bộ môn chủ nghĩa xã hội khoa học, môn giáo dục công dân... trong các trường học.
8. Kết cấu luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án được kết cấu thành 3 chương, 6 mục.
Chương 1
GIA ĐÌNH VÀ GIÁO DỤC GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI THẾ HỆ TRẺ
1.1. GIA ĐÌNH VÀ CHỨC NĂNG CỦA GIA ĐÌNH
1.1.1. Khái niệm gia đình
Là tế bào của xã hội, gia đình - nơi con người sinh ra, lớn lên, từ lâu đã được nhiều nhà tư tưởng, nhà hoạt động thực tiễn quan tâm, nghiên cứu.
Trong tác phẩm "Hệ tư tưởng Đức" (1845), khi luận chứng về những tiền đề, điều kiện cho sự tồn tại của con người, C. Mác và Ph.Ăngghen, đã cho rằng: "Hằng ngày tái tạo ra đời sống của bản thân mình, con người còn tạo ra những người khác, sinh sôi nảy nở - đó là quan hệ giữa chồng và vợ, cha mẹ và con cái, đó là GIA ĐÌNH" [42, tr. 41]. Với quan điểm này, khái niệm gia đình được nhìn nhận với một số nội dung sau: Thứ nhất, gia đình ra đời và tồn tại cùng với sự ra đời và tồn tại của xã hội loài người; con người cùng với quá trình tái tạo ra chính bản thân mình thì đồng thời cũng tạo ra gia đình. Thứ hai, chức năng chính của gia đình là tái tạo ra, sinh sôi nảy nở con người. Thứ ba, gia đình được tạo bởi hai mối quan hệ chủ yếu: quan hệ hôn nhân (chồng - vợ), quan hệ huyết thống (cha mẹ - con cái).
Tiếp tục công trình nghiên cứu về gia đình, trong tác phẩm "Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước" (1884), Ph.Ăngghen đã chỉ ra vị trí quy định của gia đình đối với các thiết chế xã hội:
Theo quan điểm duy vật, nhân tố quyết định trong lịch sử, quy cho đến cùng, là sản xuất và tái sản xuất ra đời sống trực tiếp. Nhưng bản thân sự sản xuất đó lại có hai loại. Một mặt là sản xuất ra tư liệu sinh hoạt, ra thức ăn, quần áo và nhà ở và những công cụ cần thiết để sản xuất ra những thứ đó; mặt khác là sự sản xuất ra bản thân con người, là sự truyền nòi giống. Những thiết chế xã hội, trong đó những con người của một thời đại lịch sử nhất định và của một nước nhất định đang sống là do hai loại sản xuất đó quyết định: Một mặt là do trình độ phát triển của lao động và mặt khác là do trình độ phát triển của gia đình [43, tr. 44].
Vậy là, theo Ph.Ăngghen, thứ nhất, quá trình sản xuất và tái sản xuất ra đời sống trực tiếp là nhân tố suy đến cùng quyết định tiến trình phát triển của lịch sử; thứ hai, cùng với trình độ phát triển của lao động, trình độ phát triển của gia đình quyết định trình độ phát triển của xã hội; thứ ba, đến lượt mình, trình độ phát triển của gia đình cũng tùy thuộc vào trình độ phát triển của sản xuất, của lao động và của xã hội.
Trong điều kiện hiện nay, hoặc do thế giới quan của các nhà nghiên cứu, hoặc một phần vì thực tiễn vận động và biến đổi quá nhanh chóng và sâu sắc, thậm chí vượt xa so với dự đoán của các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học, nhiều nhà nghiên cứu về gia đình đã không đánh giá đúng quan điểm khoa học của C.Mác, Ph.Ăngghen. Bởi vậy, để có thể nhận thức đúng đắn hơn, hiện đại hơn về vấn đề này, cần tính đến các cách tiếp cận khác nhau.
Hiện nay, xã hội phương Tây đang lưu hành các lý thuyết: "Thuyết đạo đức tương đối", "Hôn nhân không con", "Cha mẹ công nghiệp", "Gia đình thoáng qua"... Tiêu biểu cho các lý thuyết đó là quan điểm của Alvin Toffler trong cuốn "Làn sóng thứ ba". Trong tác phẩm này, Alvin Toffler đã khái quát rằng, đại gia đình gia trưởng là hình thức gia đình của nền văn minh nông nghiệp, gia đình một vợ một chồng với một đến hai con là hình thức của gia đình văn minh công nghiệp, còn nền văn minh hậu công nghiệp sẽ có nhiều hình thức gia đình... Alvin Toffler và những người theo lý thuyết ấy cho rằng, mọi giá trị đã có là chủ quan, cá nhân có quyền lựa chọn bình đẳng, trong nền văn minh thứ ba sẽ không có một hình thức gia đình nào giữ yếu tố chủ đạo, mà sẽ là những hình thức: gia đình đa phụ mẫu, gia đình đoàn thể, gia đình nam hoặc nữ thanh niên (gia đình đồng tính luyến ái) [65, tr. 104-110]. Dự báo này cần phải tỉnh táo để xem xét.
Thực tế cuộc sống cũng cho thấy, gia đình một vợ một chồng đang có sự rạn nứt, song những cái gọi là hình thức gia đình mới nêu trên, không những không phản ánh được sự tiến bộ xã hội đang hiện hữu, mà trái lại, nó thể hiện sự suy đồi và bế tắc của xã hội tư sản phương Tây trong vấn đề gia đình.
Từ khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, cùng với những vấn đề mang tính toàn cầu nảy sinh: mâu thuẫn sắc tộc, tôn giáo, chiến tranh cục bộ, sự ô nhiễm môi trường, bùng nổ dân số, nạn thất nghiệp trầm trọng, các tệ nạn xã hội gia tăng, tính bền vững trong gia đình đang đứng trước những đe dọa mới, thách thức mới, nhưng như vậy không có nghĩa là gia đình một vợ một chồng đã bị giải thể...
Hướng tới việc xây dựng gia đình bền vững, tổ chức UNESCO của Liên Hiệp Quốc đã quyết định lấy năm 1994 là năm Quốc tế gia đình và thống nhất khẳng định: gia đình là một yếu tố tự nhiên và cơ bản, một đơn vị kinh tế của xã hội. Gia đình được coi như một giá trị vô cùng quý báu của nhân loại, cần được gìn giữ và phát huy. Trên tinh thần đó, UNESCO đã đưa ra định nghĩa về gia đình: "Gia đình là một nhóm người có quan hệ họ hàng, cùng sống chung và có ngân sách chung" [60, tr. 269]. Quan hệ họ hàng, trước hết là nói đến quan hệ hôn nhân và quan hệ huyết thống. Ngoài những thành viên tạo nên quan hệ họ hàng, gia đình còn bao gồm một số thành viên khác cùng chung sống. Các thành viên gắn bó với nhau về trách nhiệm và quyền lợi về mọi mặt. Đây là một khái niệm rộng, nội hàm của khái niệm phức tạp và đa dạng.
Gần với quan niệm UNESCO, có một số quan niệm khác cũng đáng quan tâm. Trong cuốn "Vai trò gia đình trong việc xây dựng nhân cách con người Việt Nam", Giáo sư Lê Thi đã nêu ra quan niệm của Levystrauss về gia đình:
Gia đình là một nhóm xã hội được quy định bởi ba đặc điểm trong quan sát thường thấy nhiều nhất:
a- Nó bắt nguồn từ hôn nhân.
b- Nó bao gồm vợ - chồng - con cái đã phát sinh từ sự hôn phối của đôi nam nữ, tuy rằng có thể có mặt trong gia đình những họ hàng bà con, con nuôi, người ở, bạn bè.
c- Các thành viên của gia đình được gắn liền với nhau bởi các ràng buộc pháp lý, bởi các nghĩa vụ và quyền lợi có tính chất kinh tế, tôn giáo hay cái khác; bởi các quan hệ nhất định về quyền và sự cấm đoán tình dục giữa các thành viên; bởi một tổng hợp có tính chất thay đổi về tình cảm, tâm lý như tình yêu, tình thương, sự kính trọng, sự sợ hãi... [60, tr. 268-269].
Quan niệm này khá hợp lý, song chưa phản ánh hết thực tế sinh động của thực tại. Trên thực tế, hiện đang tồn tại những đôi nam nữ chung sống nhưng không cưới nhau, ở với con cái họ sinh ra; những người đàn ông và đàn bà góa, hay ly dị sống với con cái họ...
Gia đình hôn phối (hay gia đình hạt nhân) gồm bố, mẹ, con cái sống chung một nhà là hình thức chiếm số đông hiện nay. Gia đình hôn phối được lập nên bằng hôn nhân và được giải thể cùng với sự giải thể của hôn nhân (ly dị).
Theo Giáo sư Lê Thi:
Khái niệm gia đình được sử dụng để chỉ một nhóm xã hội hình thành trên cơ sở quan hệ hôn nhân và quan hệ huyết thống nảy sinh từ quan hệ hôn nhân đó và cùng chung sống (cha, mẹ, con cái, ông bà, họ hàng, nội ngoại). Đồng thời, trong gia đình cũng có thể bao gồm một số người được gia đình nuôi dưỡng, tuy không có quan hệ huyết thống. Các thành viên gia đình gắn bó với nhau về trách nhiệm và quyền lợi (kinh tế, văn hóa, tình cảm), giữa họ có những điều ràng buộc có tính pháp lý, được nhà nước thừa nhận và bảo vệ (được ghi rõ trong Luật hôn nhân và gia đình của nước ta). Đồng thời, gia đình cũng có những quyết định rõ ràng về quyền được phép và những cấm đoán trong quan hệ tình dục giữa các thành viên [60, tr. 20-21].
Định nghĩa này hợp lý về cả khoa học và đạo lý Việt Nam, song một lần nữa vẫn chưa giải thích được sự xuất hiện loại gia đình cũ tồn tại ở Việt Nam, gia đình không có trách nhiệm pháp lý.
Theo Giáo sư, Tiến sĩ Hồ Ngọc Đại, "Gia đình là một khái niệm mới, được hình thành từ ba thành phần, gồm những "đại lượng khác tên" là bố, mẹ và con cái" [36, tr. 57]. Theo ông, sự hình thành ban đầu là một hành vi giản đơn kết hợp hai cá nhân (nam và nữ), mãi sau này khi đạt đến hình thái chính thức, gia đình mới - có cấu trúc hoàn chỉnh ba thành phần: bố, mẹ, con cái. Khi cậu con trai hay con gái đi lấy vợ hay lấy chồng, giữa họ lại có sự kết hợp mới và khi đạt đến hoàn chỉnh lại cho ra đời một phạm trù mới - Gia đình. Với quan niệm này, tác giả chú ý nhấn mạnh đến hai mối quan hệ cơ bản để hình thành nên một gia đình mới, đó là quan hệ hôn nhân (giữa chồng và vợ) và quan hệ huyết thống (giữa cha mẹ và con cái).
Nhóm nghiên cứu gồm nhiều tác giả của Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam - Thành phố Hà Nội do Lê Tiến Hùng (chủ biên), cho rằng:
Gia đình là một tế bào của xã hội, là một trong những hình thức của đời sống nhân loại. Nó là một lĩnh vực của đời sống đạo đức, nó là sự liên hiệp tự giác giữa người nam và người nữ bằng mối quan hệ hôn nhân với mục đích tổ chức cuộc sống hạnh phúc chung và nuôi dạy con cái. Các thành viên trong gia đình có quan hệ huyết thống với nhau hoặc quan hệ đỡ đầu, nuôi dưỡng. Họ gắn bó chặt chẽ với nhau về mặt kinh tế, tình cảm, tâm lý, đạo đức, đời sống văn hóa. Họ được pháp luật công nhận và bảo hộ [25, tr. 5].
Theo Từ điển Văn hóa gia đình của nhóm tác giả Phạm Thị Dung, Nguyễn Thu Hà, Phạm Minh Thảo, Từ Thu Hằng, Phạm Thị Hảo biên soạn, khái niệm gia đình được định nghĩa:
Gia đình là thiết chế xã hội dựa trên cơ sở sự kết hợp của những thành viên khác giới, thông qua hôn nhân để thực hiện được các chức năng sinh học (sinh đẻ), kinh tế, văn hóa, xã hội...Khi gia đình đã có con, các thành viên được liên kết với nhau vừa bằng quan hệ hôn nhân vừa bằng quan hệ huyết thống. Gia đình là một phạm trù lịch sử, thay đổi cùng với sự thay đổi của xã hội [13, tr. 27-28].
Dĩ nhiên, khi nêu khái niệm gia đình, các nhà nghiên cứu cố gắng đưa ra một khái niệm bao quát nhất, nhằm phản ánh một cách đầy đủ nội hàm của một phạm trù tương đối rộng này. Nhưng trong đời sống hàng ngày, khi nói đến gia đình, thì điều đầu tiên và chủ yếu là nói đến một tập hợp người, cùng sống chung dưới một mái nhà và giữa họ có mối liên hệ với nhau, bởi: Thứ nhất, quan hệ hôn nhân giữa vợ và chồng; thứ hai, quan hệ huyết thống giữa cha mẹ và con cái, giữa anh chị em ruột, giữa ông bà với các cháu; thứ ba, một số người được gia đình nuôi dưỡng, gắn bó với nhau về trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi, được họ hàng làng xóm ủng hộ, được luật pháp thừa nhận và bảo vệ.
Có thể còn nhiều vấn đề cần phải tìm hiểu và nghiên cứu thêm, nhưng căn cứ vào tình hình chung của hôn nhân và gia đình ở nước ta, kế thừa những cách tiếp cận hợp lý khác nhau như trên, theo chúng tôi, có thể đưa ra một khái niệm về gia đình như sau: Gia đình là một phạm trù dùng để chỉ một tập hợp người, hình thành trên cơ sở các mối quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng... Các thành viên gia đình gắn bó với nhau bởi trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền lợi về kinh tế, văn hóa, tình cảm và theo những chuẩn giá trị nhất định, được dư luận xã hội ủng hộ, được nhà nước thừa nhận và bảo vệ.
Quan niệm trên cho chúng ta thấy:
Thứ nhất, gia đình là một thiết chế xã hội được hình thành trước hết trên cơ sở của quan hệ hôn nhân. Quan hệ hôn nhân là sự liên kết giữa hai cá nhân (nam - nữ) theo qui định của pháp luật hay nhà thờ, nhằm để chung sống với nhau và xây dựng gia đình hạnh phúc. Quan hệ hôn nhân được biểu hiện là một loại quan hệ xã hội gắn liền với thân nhân, đó là quan hệ vợ - chồng mà thực chất là sự kết hợp với nhau để sinh sản và cùng nuôi dạy con cái. Trong các xã hội còn giai cấp, quan hệ hôn nhân là một hiện tượng xã hội mang tính giai cấp. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội có các hình thái hôn nhân đặc trưng và giai cấp thống trị dùng pháp luật để điều chỉnh các quan hệ hôn nhân cho phù hợp với ý chí và lợi ích của giai cấp mình.
Thứ hai, quan hệ huyết thống là quan hệ giữa cha mẹ và con cái. Quan hệ huyết thống là sự tiếp tục và là hệ quả tất yếu của quan hệ hôn nhân. Nó chỉ phát triển tốt đẹp dựa trên cơ sở quan hệ tình yêu và hôn nhân chính đáng, hợp pháp. Bàn về vấn đề này, Ph.Ăngghen nhận xét: "Nếu trong thời cổ, người ta thấy có đôi chút tình yêu giữa vợ chồng, thì tình yêu đó không phải là sở thích chủ quan, mà là một nghĩa vụ khách quan, không phải là nguyên nhân của hôn nhân mà là cái bổ sung cho hôn nhân" [43, tr.119].
Thứ ba, quan hệ nuôi dưỡng là loại quan hệ hình thành giữa chủ thể với đối tượng được nuôi dưỡng, họ gắn bó với nhau bởi những quyền lợi, nghĩa vụ và được dư luận xã hội ủng hộ.
Vậy là, dù không có một định nghĩa duy nhất về gia đình cho mọi nền văn hóa [5, tr.13], song với quan niệm như trên, chúng ta cũng có thể thống nhất về cơ bản: gia đình là một cộng đồng người trên cơ sở hai mối quan hệ cơ bản hôn nhân và huyết thống, được xã hội thừa nhận.
1.1.2. Chức năng của gia đình
Là một tập hợp người, được hình thành trên cơ sở hai mối quan hệ cơ bản: hôn nhân và huyết thống gia đình có sứ mệnh đảm đương những chức năng đặc biệt mà ngoài nó ra không có một thiết chế xã hội nào có thể thay thế được. Có thể nêu một số chức năng chủ yếu của gia đình như sau:
Thứ nhất: Tái sản xuất ra con người.
Một trong hai loại sản xuất quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người, đó là tái sản xuất ra con người. Đây là chức năng cơ bản, tự nhiên của gia đình, nhằm cung cấp nguồn lao động mới cho xã hội, mặt khác, để đáp ứng và thỏa mãn nhu cầu cuộc sống của đôi vợ chồng và các thành viên.
Đối với gia đình Việt Nam truyền thống, chức năng này được đặc biệt đề cao bởi tính quy định của nền văn minh nông nghiệp. Trong quá trình sản xuất nông nghiệp đòi hỏi phải có nhiều lao động, nhất là lao động của người đàn ông. Gia đình càng đông con, nhất là đông con trai, thì lực lượng lao động càng lớn và có ảnh hưởng trực tiếp đến việc sản xuất, đến các mối quan hệ trong họ, trong làng. Ngoài ra, xét về mặt văn hóa truyền thống, người con trai luôn được đề cao. Bởi gia đình Việt Nam truyền thống có phong tục thờ cúng tổ tiên, ông bà. Việc thờ cúng được thực hiện chủ yếu bởi người con trai cả và nhằm vào tổ tiên trực tiếp mang tộc danh người bố (bên nội). Những người con trai thứ khi ra ở riêng, cũng được lập bàn thờ, nhưng tổ chức đơn giản hơn theo kiểu "Thờ vọng", thờ từ xa [9, tr. 57-58]. Với quan niệm như vậy, lôgíc tất yếu của gia đình truyền thống Việt Nam là gia đình nào sinh đẻ ít, không có con trai là bất hạnh, bất hiếu với ông bà, tổ tiên; gia đình nào đông con (con đàn, cháu đống) và nhiều con trai là gia đình có phúc đức, có hiếu. Vì vậy, trong hôn nhân, người ta đặc biệt chú ý đến việc kén tông, xem họ, "Lấy vợ kén tông, lấy chồng kén họ".
Trong 15 năm đổi mới vừa qua, nhờ những nỗ lực của Đảng và Nhà nước trong công tác giáo dục, tuyên truyền, thuyết phục.. nên đã làm thay đổi nhận thức của xã hội về vấn đề gia đình, dân số và phát triển. Tỷ lệ sinh đã giảm xuống còn 1,58% năm 1999 [2, tr. 38]. Việc sinh con trai hay con gái không còn là sức ép tâm lý đối với nhiều cặp vợ chồng. Do vậy đời sống vật chất và tinh thần của nhiều gia đình đã được cải thiện rõ rệt. Trên bình diện xã hội, việc thực hiện chức năng tái sản xuất ra con người đang diễn ra theo chiều hướng khác nhau. Một là, nhiều gia đình đã nhận thức được sự cần thiết phải thực hiện kế hoạch hóa gia đình, chỉ nên có một đến hai con, vừa đảm bảo sức khỏe sinh sản, vừa có cơ hội để nuôi dưỡng và giáo dục con cái. Vợ chồng có điều kiện nghỉ ngơi và giải trí, tham gia các hoạt động văn hóa và xã hội, học tập để nâng cao trình độ. Hai là, hiện nay vẫn còn một bộ phận các gia đình chịu ảnh hưởng của phong tục, tập quán cũ, với quan niệm "trời sinh voi, sinh cỏ", phải sinh cho được con trai, nên đã đẩy tỷ lệ sinh cao hơn mức giới hạn. Thuộc diện loại này thường là những gia đình ở nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa - nơi mà trình độ dân trí còn thấp kém. Tỷ lệ tăng dân số ở nước ta trong những năm qua, mặc dù đã giảm rất nhiều, song vẫn còn ở mức cao (đến năm 1999 là 1,58%) so với yêu cầu chung, đây là một trong những nguyên nhân của tình trạng đói nghèo, (hiện cả nước vẫn còn trên 1.700 xã nghèo), tình trạng suy dinh dưỡng và thất học ở trẻ em thuộc khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa vẫn đang có chiều hướng gia tăng.
Thứ hai: Chức năng kinh tế của gia đình.
Theo quan điểm duy vật lịch sử, xã hội loài người tồn tại và phát triển là do hai loại sản xuất quyết định:sản xuất ra con người và sản xuất ra của cải vật chất. Bởi vậy, hoạt động kinh tế là chức năng tự nhiên của mọi gia đình, trong mọi thời đại; tất nhiên với mức độ không giống nhau.
Việc thực hiện chức năng kinh tế của gia đình nhằm tạo điều kiện vật chất, đảm bảo sự tồn tại và nâng cao chất lượng sống cho các thành viên trong gia đình, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội. Về vấn đề này, C.Mác viết: "Tiền đề đầu tiên của mọi sự tồn tại của con người, và do đó là tiền đề của mọi lịch sử, đó là: Người ta phải có khả năng sống đã rồi mới có thể "làm ra lịch sử". Nhưng muốn sống được thì trước hết cần phải có thức ăn, thức uống, nhà ở, quần áo và một vài thứ khác nữa" [42, tr. 39-40].
Trong tiến trình phát triển của xã hội, gia đình thường được xem là một đơn vị kinh tế, vừa với tư cách là đơn vị sản xuất, vừa với tư cách là đơn vị tiêu dùng.
Trong xã hội Việt Nam truyền thống, các triều đại phong kiến chủ trương "trọng nông, ức thương", nên hầu như toàn bộ cư dân là nông dân (trên 90%) sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa nước, với phương thức tự cung, tự cấp là chủ yếu "Trước khi thực dân Pháp xâm chiếm nước ta, chưa có một triều đại nào cho phép thương nhân trong nước ra nước ngoài buôn bán, quá lắm là mở cửa biển cho tàu buôn nước ngoài đến" [9, tr.58]. Có thể nói, kinh tế của gia đình truyền thống lấy nông nghiệp làm chính, sức lao động chủ yếu là hai vợ chồng; các em gái cũng phải lao động từ rất sớm. Với phương thức tự cung, tự cấp, kinh tế gia đình chỉ đủ bảo đảm cuộc sống tối thiểu để tồn tại, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển xã hội, chức năng kinh tế nếu có, cũng chỉ ở mức độ rất hạn chế.
Trong điều kiện hiện nay ở nước ta, gia đình không chỉ là đơn vị tự chủ trong sản xuất, mà còn là đơn vị dịch vụ, tiêu thụ, trong đó các thành viên gia đình có thể đảm đương nhiều vị trí sản xuất và kinh doanh khác nhau, với những phương thức hoạt động và quan hệ rộng mở, đa dạng và phong phú. Hơn nữa, Đảng và Nhà nước rất quan tâm đến kinh tế hộ gia đình và khuyến khích mô hình kinh tế trang trại, coi đó là đơn vị kinh tế có vị trí quan trọng và tồn tại lâu dài. Với chính sách phát triển kinh tế hộ gia đình, kinh tế trang trại của Nhà nước, nhiều gia đình đã hăng hái lao động sản xuất, kinh doanh và vươn lên làm giàu chính đáng, theo quan điểm "dân giàu thì nước mạnh". Chính nhờ vậy không chỉ đời sống gia đình được cải thiện, con người có điều kiện phát triển về trí tuệ, thể lực, nhân cách mà bộ mặt xã hội không ngừng được đổi thay.
Thứ ba: Chức năng tổ chức đời sống gia đình.
Không những là tế bào xã hội, gia đình còn là "tổ ấm tình thương", nơi mà mỗi thành viên của gia đình được chăm lo về đời sống vật chất, tinh thần và tình cảm. Chính trong gia đình, con người mới thể hiện một cách đầy đủ nhất những nhu cầu khát vọng và những tâm tư sâu kín, nhất là đối với thế hệ trẻ đang tràn đầy sức sống, luôn hướng tới tương lai. Đời sống gia đình được tổ chức tốt, cuộc sống của mỗi thành viên được đảm bảo và hạnh phúc, là điều kiện rất quan trọng để mỗi người trong gia đình yên tâm, phấn khởi, tích cực tham gia lao động, công tác và học tập; người già được chăm sóc, con trẻ có cơ hội được nuôi dưỡng, rèn luyện, vui chơi giải trí và phát triển năng l._.ực toàn diện.
Trong gia đình truyền thống, chức năng tổ chức cuộc sống còn bị hạn chế, trước hết bởi trình độ sản xuất còn thấp kém, con người chưa được coi là mục đích của phát triển kinh tế. Hơn nữa, với chế độ phụ quyền và những ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng Nho giáo, người phụ nữ phải chịu nhiều thiệt thòi hơn cả, thậm chí chỉ là người phục vụ trong gia đình, phục vụ chồng con một cách đơn thuần, một chiều... Tuy nhiên, với truyền thống "Đói cho sạch, rách cho thơm", đề cao tình nghĩa vợ chồng, tôn trọng người già, yêu thương và hết lòng vì con trẻ, nên mặc dù ngoài xã hội, con gái còn bị xem thường và khinh rẻ, nhưng trong gia đình họ vẫn có vị trí và vai trò xứng đáng xây đắp nên "Tổ ấm tình thương", như người xưa vẫn thường nói: "Đàn ông xây nhà, đàn bà xây tổ ấm". Trong gia đình hiện nay, với kết quả của sự nghiệp đổi mới, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, kinh tế mở cửa, kinh tế gia đình đã có nhiều đổi thay theo hướng tích cực. Đời sống vật chất được cải thiện đáng kể, gia đình có điều kiện nuôi dưỡng, chăm lo ngày càng tốt hơn cho các thành viên, đặc biệt là những nhu cầu về ăn, mặc, học tập, vui chơi giải trí cho thế hệ trẻ. Một khi cuộc sống đã được đảm bảo, thì các thành viên trong gia đình cũng có điều kiện để quan tâm đến nhau đến hạnh phúc chung của gia đình nhiều hơn.
Vấn đề dân chủ hóa đời sống xã hội được coi trọng đã có ảnh hưởng tích cực đến việc mở rộng sự bình đẳng và dân chủ trong các mối quan hệ gia đình, như quan hệ vợ - chồng, quan hệ cha mẹ và con cái. Gia đình ngày càng chú ý nhiều hơn đến cuộc sống riêng của mỗi người. Tự do cá nhân vì thế cũng được tôn trọng. Sự cân bằng tâm lý, tình cảm của các thành viên trở nên quan trọng và là cội nguồn của hạnh phúc gia đình.
Bên cạnh những chuyển biến tích cực, trong xã hội một số gia đình tuy đời sống đã được nâng cao, cuộc sống giàu sang khá giả nhưng hạnh phúc gia đình không được đảm bảo, bởi ở những gia đình đó, quan hệ kinh tế đã chi phối, lấn át các mối quan hệ khác, do vậy hậu quả tất yếu là ông bà, cha mẹ bị con cái bỏ rơi, tình trạng bạo lực, trẻ em phạm tội, vợ chồng ly tán và ngoại tình tăng lên, đạo lý gia đình bị chà đạp. Cuộc sống gia đình hiện nay là muôn hình, muôn vẻ, nhu cầu, nguyện vọng và lợi ích của cá nhân ngày càng đa dạng. Song để xây dựng và tổ chức tốt cuộc sống của gia đình, đòi hỏi phải loại trừ những hành vi bạo lực, nạn độc đoán gia trưởng trong gia đình, và thay vào đó là sự bình đẳng, quan tâm chăm sóc lẫn nhau. Hơn thế nữa ở tầm vĩ mô, chính sách kinh tế - xã hội của Nhà nước đóng vai trò to lớn, góp phần điều chỉnh, tạo điều kiện cho việc nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của mọi gia đình. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã khẳng định:
Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi thân yêu nuôi dưỡng cả đời người, là môi trường quan trọng giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách. Các chính sách của Nhà nước phải chú ý tới xây dựng gia đình ấm no, hòa thuận, tiến bộ. Nâng cao ý thức về nghĩa vụ gia đình đối với mọi lớp người [14, tr. 15].
Thứ tư: Chức năng giáo dục của gia đình.
Đồng thời với chức năng tái sản xuất ra con người, gia đình còn có chức năng giáo dục thế hệ trẻ. Đây là chức năng rất quan trọng trong việc hình thành nhân cách của con người. C. Mác đã từng khẳng định rằng, con người là một động vật - xã hội. Sau khi lọt lòng mẹ, nếu đứa trẻ không được sống trong môi trường xã hội, không được hưởng chế độ giáo dục của gia đình, của xã hội, đứa trẻ sẽ không trở thành một con người. Khoa học đã chứng minh có sức thuyết phục điều này. Bởi vậy, có thể khẳng định rằng, quá trình chuyển biến đứa trẻ từ một thực thể sinh học thành một con người, được diễn ra trong môi trường xã hội, trước hết là nhờ quá trình giáo dục, trong đó đặc biệt là giáo dục gia đình. Sabran, nhà xã hội học người Pháp đã có lý khi nhận xét rằng: "Xã hội như một con tàu, cá nhân phải bước lên con tàu xã hội thì mới trở thành người xã hội, nếu không thì phải đứng mãi ở bến tàu" [26, tr. 7]. Có thể nói, những mầm mống ban đầu của nhân cách, những sở thích, những suy nghĩ về cuộc sống của mỗi con người đều được hình thành ngay từ trong gia đình. Giáo dục gia đình tốt sẽ góp phần tạo ra những công dân tốt, làm cho xã hội tốt đẹp.
Trong gia đình truyền thống, sự giáo dục (gia giáo) chủ yếu thiên về giáo dục đạo đức, giáo dục phẩm hạnh, giáo dục đối nhân xử thế giữa các thành viên trong gia đình và với họ hàng, làng xóm; có sự phân biệt giữa nam và nữ, mà người có vai trò ảnh hưởng lớn nhất trong giáo dục là người cha. Đối với con trai, các gia đình thường quan tâm tới việc giáo dục đạo lý theo khuôn mẫu Nho giáo. Luân cương có ngũ luân, đó là năm mối quan hệ (vua-tôi, cha-con, chồng-vợ, anh-em, bạn-bè), trong đó nhấn mạnh ba mối quan hệ cơ bản nhất (tam cương) là vua-tôi, cha-con, chồng-vợ. Vua thay trời để cai trị muôn dân, là cha mẹ của muôn dân, cho nên từ quan đến dân đối với vua đều phải hết dạ trung thành, hết lòng cung kính. Quan hệ cha-con trong gia đình, là quan hệ trên bảo, dưới nghe, con cái phải noi gương cha ông, phải tuân thủ nghiêm ngặt những quy tắc chuẩn mực của gia giáo. Trong quan hệ vợ-chồng, cư xử với nhau trọng nhất là hai chữ hòa thuận [6, tr. 48], "thuận vợ, thuận chồng, tát bể đông cũng cạn", chồng phải giữ nghĩa với vợ, vợ phải giữ tiết với chồng. Đối với người con gái, gia giáo đặc biệt chú ý giáo dục đạo lý "tam tòng" và "tứ đức". Đạo tam tòng quy định lúc ở nhà phải theo cha, lấy chồng phải theo chồng, chồng chết thì phải theo con. Bởi thế, dâu mới coi là con, và người con gái khi đi lấy chồng, phải hết lòng phục vụ nhà chồng. Tứ đức gồm công, dung, ngôn, hạnh, là đòi hỏi người phụ nữ trước hết phải biết nữ công gia chánh, phải khéo léo chân tay, dáng dấp phải khoan thai, hòa nhã, gọn gàng và sạch sẽ; ăn nói phải dịu dàng, lịch thiệp, phải rèn dũa nết na, phải trên kính dưới nhường, chiều chồng, thương con, nhu mì chín chắn... Trong gia đình, ngoài phần chức phận theo giới (nam, nữ), còn phân quan hệ trên - dưới; danh nghĩa gia trưởng là thuộc về: cha của con, chồng của vợ, anh của em, bởi vậy gia giáo là công việc của người trên đối với người dưới (theo quan hệ chiều dọc) trên cơ sở tôn trọng "khoan dung".
Là chức năng cơ bản của gia đình, trong gia đình truyền thống, việc giáo dục con cái được ghi thành gia huấn, lưu truyền từ đời này sang đời khác, chẳng hạn như "Bảo kính cảnh giới" của Nguyễn Trãi, "Huấn đồng thi tập" của Phùng Khắc Khoan,"Minh đạo gia huấn" của Trình Minh Đạo, "Ngũ huấn tự quốc âm" của Hoàng Tông Khuê [20, tr. 18]. Gia huấn là những lời khuyên bảo, xuất phát từ tình cảm ruột thịt giữa cha với con, anh với em về cách suy nghĩ, kinh nghiệm riêng và những tấm gương của ông cha, tổ tiên, nhắc nhở con cháu cố gắng giữ nếp nhà. Gia huấn còn nói nhiều đến kinh nghiệm đối nhân xử thế trong gia đình, gia tộc, làng xã. Sách còn dạy về nhiệm vụ hiếu thảo, lòng kính trọng của con cái đối với cha mẹ, về sự hòa thuận vợ chồng, anh em, bạn bè, nhắc nhở mọi người phải thực hiện việc trung, việc hiếu, việc thiện, tránh xa điều ác, điều tà... Sách còn khuyên bảo và nhắc nhở con trai, phải có trách nhiệm học tập, để làm rạng danh gia đình, để nối dõi tông đường; nhắc nhở con gái, phải học việc tề gia nội trợ, siêng năng, chăm chỉ, dâu hiền, con thảo...
Trong gia đình hiện nay, chức năng giáo dục được chia sẻ cùng với nhà trường và xã hội, tuy nhiên để tạo ra một lớp người phát triển toàn diện, để nâng cao chất lượng của nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công cuộc đổi mới đất nước thì chức năng giáo dục gia đình ngày càng được coi trọng. Việc xây dựng nhân cách con người phải căn cứ vào yêu cầu của xã hội, vào hệ thống giá trị thay đổi tùy theo mỗi giai đoạn lịch sử. Gia đình tác động đến sự hình thành tình cảm, tâm lý, hành vi ứng xử văn hóa đến tư cách, phẩm chất của con người. Thế giới quan, nhân sinh quan của cá nhân chủ yếu được định hình sau này trong quá trình tiếp xúc với môi trường và cộng đồng xã hội, song nó cũng chịu sự tác động quan trọng của gia đình, của các thành viên với nhau.
Ngày nay, cùng với sự cần thiết phát huy tính năng động, sáng tạo, tích cực của trẻ, cha mẹ cần tôn trọng ý kiến con cái, không nên áp đặt một chiều. Đặc biệt trong thời đại ngày nay, trình độ, phạm vi xã hội hóa của trẻ em phát triển rất nhanh. Để thực hiện tốt chức năng giáo dục, các bậc cha mẹ phải không ngừng học tập, nâng cao trình độ văn hóa, và kỹ năng giáo dục. Với sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cơ chế quản lý và sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ, vai trò của giáo dục gia đình cũng có sự thay đổi. Không ít cha mẹ có lúc cảm thấy lúng túng, đôi khi bất lực trong việc giáo dục con cái. Tuy nhiên, yếu tố tích cực vẫn là cơ bản, bởi nền kinh tế đất nước cũng như đời sống từng gia đình đã có bước phát triển đáng kể, tạo ra những điều kiện hiện thực để trẻ em được nuôi dưỡng và phát triển về thể chất, đạo đức, trí tuệ và tinh thần, hướng tới sự phát triển toàn diện. Về vấn đề này, Đảng ta đã chỉ rõ: "Mục tiêu chủ yếu là thực hiện giáo dục toàn diện đức dục, trí dục, thể dục, mỹ dục ở tất cả các bậc học. Hết sức coi trọng giáo dục chính trị, tư tưởng, nhân cách, khả năng tư duy sáng tạo và năng lực thực hành" [16, tr. 33]. Đề cập đến trách nhiệm của gia đình, "Luật bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em" của nước ta đã quy định: "Cha mẹ hoặc người đỡ đầu là người trước tiên chịu trách nhiệm về việc bảo vệ, chăm sóc và nuôi dạy trẻ em, dành điều kiện tốt nhất cho sự phát triển của trẻ em" [56, tr. 8].
Là một trong những thiết chế cơ bản của xã hội, gia đình có chức năng khá toàn diện, một trong những cơ sở khách quan khẳng định tính tất yếu về sự hiện diện của gia đình đối với lịch sử và đối với mọi chế độ xã hội. Tuy nhiên, mức độ thực hiện chức năng còn tùy thuộc vào điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa của từng giai đoạn phát triển xã hội, của từng quốc gia dân tộc và tùy thuộc vào ý chí của giai cấp cầm quyền. Ở Việt Nam, gia đình luôn được đặt trong cơ cấu: Nhà - làng - nước. Bởi vậy, gia đình luôn là nhân tố quan trọng của sự phát triển xã hội, trong đó với chức năng giáo dục, đã đưa gia đình trở thành mắt khâu quan trọng của hệ thống giáo dục xã hội, đã trở thành một nhân tố chủ yếu của công tác giáo dục toàn diện cho thế hệ trẻ - tương lai của đất nước, nguồn lực của mọi nguồn lực...
1.2. GIÁO DỤC GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI THẾ HỆ TRẺ
Giáo dục là một trong những chức năng cơ bản của gia đình, sẽ tồn tại cùng với sự tồn tại của gia đình. Giáo dục gia đình là một nhân tố không thể thiếu được trong hệ thống giáo dục xã hội, tác động một cách tự giác và có mục đích đến sự phát triển toàn diện của thế hệ trẻ. Trước khi luận giải về nội dung của giáo dục gia đình, cần thống nhất một số khái niệm:
Thế hệ trẻ: Khi nói về thế hệ trẻ, V.I. Lê-nin cho rằng, họ là nguồn lực lượng hậu bị mà Đảng và Nhà nước có thể khai thác lâu dài. Người vạch rõ, thế hệ trẻ có một khát vọng hăng say không gì ngăn cản nổi, đó là nhiệm vụ mà Đảng mà Nhà nước, cũng như các đoàn thể phải huấn luyện, giáo dục, dạy dỗ tất cả thế hệ trẻ.
Một số nhà nghiên cứu trên thế giới cho rằng, khái niệm thế hệ trẻ chỉ mang tính "ước lệ", tức là tính từ lúc con người sinh ra cho đến tuổi 35.
Ở Việt Nam, trong báo cáo đề tài "Đảng lãnh đạo công tác Thanh niên" do đồng chí Lê Thanh Đạo chủ biên, đã cho rằng: Thế hệ trẻ được xác định trong độ tuổi nhất định, từ khi sinh ra cho đến 30 tuổi, luôn được Đảng và Bác Hồ chăm lo giáo dục và bồi dưỡng để trở thành lớp người kế cận cho sự nghiệp đấu tranh cách mạng của Đảng và của dân tộc.
Trong cuốn sách "Vấn đề Thanh niên nhìn nhận và dự báo" của Viện nghiên cứu thanh niên, xuất bản năm 1992, cho rằng: "Khi nói tới tuổi trẻ, lớp trẻ, thế hệ trẻ, tức muốn nói tới lớp người từ tuổi lọt lòng đến 28 tuổi" [74, tr.12]. Trong khuôn khổ của luận án, chúng tôi quan niệm rằng: thế hệ trẻ là lớp người ở độ tuổi vị thành niên đang chủ yếu chịu sự nuôi dưỡng chăm sóc và giáo dục của gia đình, lứa tuổi chưa được pháp luật qui định trách nhiệm, nghĩa vụ công dân, có nghĩa là ở lứa tuổi dưới 18. Có thể nêu lên những đặc điểm của lứa tuổi này như sau:
- Tâm, sinh lý, thể chất và nhân cách phát triển chưa hoàn chỉnh, do đó trong những hành vi, cách ứng xử, thường có những biểu hiện hạn chế và lệch lạc.
- Tính hiếu động và phản xạ nhanh, ưa chuộng những điều mới lạ.
- Là lứa tuổi còn chịu sự chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục của gia đình.
- Được giáo dục bởi sự kết hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội.
- Lứa tuổi chưa được pháp luật quy định về trách nhiệm, nghĩa vụ công dân, trách nhiệm hình sự.
Giáo dục gia đình: Giáo dục gia đình "là sự tác động có hệ thống, có mục đích của những người lớn trong gia đình và toàn bộ nếp sống của gia đình tới đứa trẻ" [70, tr. 233]. Giáo dục gia đình là một bộ phận của hệ thống giáo dục xã hội, diễn ra trong phạm vi gia đình. Mục đích của giáo dục gia đình bị quy định bởi chế độ kinh tế - xã hội, mà cơ sở của nó là hệ tư tưởng, những chuẩn mực đạo đức, hệ thống mối quan hệ qua lại trong gia đình. Nhìn chung, mục đích của giáo dục gia đình và xã hội thống nhất với nhau, đó là những người con ngoan, trò giỏi, những công dân tốt, những con người hạnh phúc. Song so với mục đích giáo dục của nhà trường và xã hội, mục đích của gia đình có điểm khác ở chỗ, phân tán và cụ thể hơn, do nó hướng vào từng đứa trẻ cụ thể và gắn với lợi ích của từng gia đình riêng biệt. Đồng thời, mục đích của giáo dục gia đình linh hoạt hơn, thay đổi theo sự biến đổi và phát triển của đứa trẻ, theo sự vận động và phát triển của xã hội xung quanh, phụ thuộc vào chính cuộc sống của gia đình và những định hướng giá trị của nó.
Cùng với sự tự giáo dục, giáo dục thế hệ trẻ bao gồm ba loại, giáo dục gia đình, giáo dục nhà trường và giáo dục xã hội, trong đó giáo dục gia đình là cơ sở và có vị trí, vai trò rất quan trọng. Mỗi loại hình giáo dục có những chức năng, vai trò khác nhau nhưng đều hướng tới mục tiêu chung là giáo dục thế hệ trẻ toàn diện. "Nếu nhà trường dạy tốt mà gia đình dạy ngược lại, sẽ có những ảnh hưởng không tốt tới trẻ em và kết quả cũng không tốt" [48, tr. 330].
Đặc trưng của giáo dục gia đình: So với giáo dục nhà trường và giáo dục xã hội, giáo dục gia đình mang những nét đặc trưng (đặc thù) sau đây: thứ nhất, giáo dục gia đình được tiến hành đối với trẻ ngay từ lúc còn nhỏ, thậm chí khoa học hiện đại đã chứng minh có sức thuyết phục việc giáo dục từ trong bào thai (thai giáo); thứ hai, nó xuất phát từ tình cảm và thông qua tình cảm, có khi không cần lời nói mà qua thái độ, việc làm, cách đối xử trong gia đình...; thứ ba, giáo dục gia đình mang tính cá biệt và cụ thể, chú ý đến những nét cá biệt của từng đứa trẻ. Nó linh hoạt theo sự phát triển của trẻ, theo sự thay đổi cuộc sống của gia đình và xã hội. Bởi vậy, giáo dục gia đình có tính thực tiễn, qua thực tế, bằng cuộc sống thực tế để giáo dục và rất chú trọng đến kết quả thực tế của việc giáo dục; thứ tư, gia đình là một tập thể không thuần nhất, khác nhau về giới tính, nghề nghiệp, tuổi tác, bao gồm ông bà, cha mẹ, anh chị, do đó giáo dục gia đình mang tính phối hợp nhiều mặt về kiến thức và các mối quan hệ xã hội; thứ năm, giáo dục gia đình chủ yếu dựa vào phương pháp thuyết phục, giảng giải bằng tình cảm, vận dụng linh hoạt, phong phú nhiều phương pháp và nghệ thuật giáo dục, đó là kết hợp phương pháp giáo dục truyền thống với hiện đại, kết hợp giữa uy quyền với tình thương, uy quyền với bao dung, tha thứ...; thứ sáu, phạm vi của giáo dục gia đình không chỉ khuôn lại trong việc giáo dục trẻ em mà là toàn bộ các thành viên. Nhưng thế hệ trẻ, thế hệ đang hình thành và tiến tới hoàn thiện nhân cách, được quan tâm hơn cả.
1.2.1. Những nội dung chủ yếu của giáo dục gia đình đối với thế hệ trẻ
Giáo dục gia đình có nội dung toàn diện, phong phú: giáo dục đạo đức, văn hóa, giáo dục lao động, giáo dục giới tính, giáo dục tính tự lập, giáo dục thẩm mỹ... Luận án đề cập một số nội dung giáo dục chủ yếu sau đây:
Thứ nhất: Giáo dục đạo đức.
Là một hình thái ý thức xã hội, đạo đức thuộc lĩnh vực tinh thần của đời sống xã hội, có cơ sở từ tồn tại xã hội. Lẽ sống, niềm hạnh phúc, nghĩa vụ và lương tâm của con người, những quan hệ hành vi đạo đức chỉ nảy sinh, tồn tại khi chủ thể đạo đức ý thức được điều đó, xây dựng cho mình có được lý trí và tự nguyện hành động, phù hợp với những tiêu chuẩn, nguyên tắc được dư luận xã hội thừa nhận. Trong cuốn "Đạo đức học" do Trần Hậu Kiêm chủ biên, cho rằng:
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt, bao gồm một hệ thống quan điểm, quan niệm, những quy tắc, chuẩn mực xã hội. Nó ra đời, tồn tại và biến đổi từ nhu cầu xã hội. Nhờ đó, con người tự giác điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc của con người và sự tiến bộ của xã hội trong mối quan hệ giữa con người với con người, giữa cá nhân và xã hội [34, tr.12].
Như vậy, đạo đức là một hình thái ý thức xã hội bị chi phối bởi điều kiện kinh tế - xã hội và lịch sử. Đặc trưng của đạo đức là ý chí, năng lực và hành vi tự giác, tự nguyện của con người. Tiêu chuẩn của đạo đức phải phù hợp với lợi ích chung của xã hội, của gia đình, theo đó mỗi người phải điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp. Đạo đức có nguồn gốc từ tồn tại xã hội nhưng thường bảo thủ và biến đổi chậm hơn so với tồn tại xã hội. Không phải lúc nào đạo đức cũng phản ánh và tác động thuận chiều, thậm chí, nó có thể tác động tiêu cực trở lại tồn tại xã hội.
Đạo đức là nền tảng chủ yếu của đời sống tinh thần của gia đình, xã hội. Trong xã hội có giai cấp, đạo đức luôn mang tính giai cấp. Trong quá trình cai trị và quản lý xã hội, giai cấp thống trị xã hội luôn áp đặt chuẩn đạo đức của giai cấp mình cho toàn xã hội. Điểm khác biệt có tính chất cơ bản giữa đạo đức trong xã hội tư bản và đạo đức trong xã hội - XHCN bắt nguồn từ quan hệ sản xuất, do quan hệ sản xuất quyết định, chi phối vấn đề đạo đức. Vì vậy, đạo đức của giai cấp công nhân phù hợp với lợi ích của nhân dân lao động, phù hợp với tiến bộ xã hội; còn đạo đức của giai cấp tư sản thì ngược lại, không phù hợp với đại đa số nhân dân, trái với tiến bộ xã hội. Cùng với tính chất giai cấp, đạo đức cũng mang tính lịch sử, cùng với sự thay đổi của tồn tại xã hội, cơ sở hình thành đạo đức, những chuẩn giá trị về đạo đức cũng biến đổi. Trong điều kiện, khi mà đạo đức cũ không còn phù hợp, đạo đức mới đang hình thành, việc giáo dục đạo đức (rèn người) trở nên vô cùng cấp thiết và cũng gặp nhiều khó khăn.
Chúng ta có thể còn thiếu tiền của, nhưng không thể thiếu thốn đạo đức. Đã có người công danh lừng lẫy, sự nghiệp oai hùng nhưng vẫn không tạo được sự kính phục chân thành của mọi người trong xã hội, chỉ vì người ấy thiếu đạo đức [68, tr. 5-6]. Ngược lại cũng có người khởi đầu sự nghiệp không mấy thành công, nhưng do họ có đạo đức trong sáng, nên được mọi người kính nể, xã hội trọng dụng. Trong "Bảo kính cảnh giới", Nguyễn Trãi khuyên con cháu trước hết là đừng chạy theo danh lợi, đừng tham giàu, sợ nghèo. Thế gian vì tham giàu, sợ nghèo nên chạy theo danh lợi, xu phụ kẻ giàu sang; vì tham danh nên phô trương khoác lác, ham giàu nên chạy theo của cải, bon chen, đố kỵ, giành phần nhiều, keo kiệt, tham ô, ham danh thì uốn mình theo người khác, nịnh hót. Đối với con người, đạo đức là thứ quý hơn của cải. Đạo đức là làm điều thiện, là sống ngay thẳng, là hiếu, là trung, cần, là có khí tiết không uốn mình theo thế thái. Có Đức là không tham lam, ít dục vọng, là không tư túi, là "thấy lợi thì làm cho phải nghĩa".
Kế tục và phát huy truyền thống đạo đức của dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh là điển hình của một bậc đại nhân, đại đức. Ở Người, đức và tài hòa quyện vào nhau làm một. Theo Người, người có tài mà không có đức là người vô dụng; người có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó. Bởi vậy, theo Người, giáo dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên, đặc biệt là cho thế hệ trẻ là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng và phải được tiến hành thường xuyên, liên tục. Trong bài "Thư gửi các bạn thanh niên" bàn về giáo dục đạo đức, Người viết:
a- Các sự hy sinh khó nhọc thì mình làm trước người ta, còn sự sung sướng thanh nhàn thì mình nhường người ta hưởng trước.
b- Các việc đáng làm thì khó mấy cũng quyết làm cho kỳ được.
c- Ham làm những việc ích quốc lợi dân. Không ham địa vị và công danh phú quý.
d- Đem lòng chí công vô tư mà đối với người, đối với việc.
đ- Quyết tâm làm gương về mọi mặt, siêng năng, tiết kiệm, trong sạch.
e- Chớ kiêu ngạo, tự mãn, tự túc, nên nói ít, làm nhiều, thân ái đoàn kết [46, tr. 185-186].
Khi đất nước chuyển sang thời kỳ phát triển mới, đẩy mạnh cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh thêm nội dung giáo dục tinh thần yêu lao động, yêu khoa học. Theo Người, muốn cho chủ nghĩa xã hội thắng lợi thì thế hệ trẻ phải được trau dồi đạo đức cách mạng từ trong gia đình, phải xây dựng gia đình thực sự là tế bào vững mạnh của xã hội, là cơ sở để xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa.
Trong giáo dục gia đình, giáo dục đạo đức là nội dung quan trọng nhằm xây dựng ý thức đạo đức, bồi dưỡng tình cảm đạo đức, rèn luyện thói quen hành vi đạo đức và để mỗi thành viên trong gia đình được sống trong môi trường chan chứa tình thương, đậm tính nhân văn. Giáo dục đạo đức trong gia đình hướng tới sự hình thành và phát triển nhân cách với những phẩm chất sau: lòng yêu Tổ quốc, yêu gia đình, kính trên nhường dưới, thái độ đúng đắn với lao động và nghề nghiệp, lòng yêu thương con người, tính trung thực, khiêm tốn, tính tự trọng, lòng dũng cảm, vượt khó khăn... Phương thức giáo dục đạo đức chủ yếu bằng con đường nêu gương của cha mẹ. Cha mẹ sống trong sáng, mẫu mực, thì con nết na, nên người. Đó là quan hệ nhân - quả. Giáo dục đạo đức chỉ đạt kết quả như mong muốn một khi gắn liền với nội dung giáo dục học tập, lao động nghề nghiệp, thẩm mỹ, giới tính...
Trong gia đình truyền thống Việt Nam, giáo dục đạo đức được đặc biệt coi trọng, trong đó chữ hiếu đứng đầu trăm nết của con người. Mỗi cá nhân phải tuân thủ nghiêm ngặt những quy tắc, chuẩn mực đạo đức của gia đình, gia tộc, tuân theo nề nếp gia phong "trên bảo dưới nghe", "trên kính dưới nhường", khác đi đều bị coi là bất hiếu và bị trừng trị nghiêm khắc. Hiếu là một lòng phụng dưỡng cha mẹ, nhất là khi cha mẹ về già, bởi:
"Công cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ kính cha,
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con"
(Ca dao Việt Nam).
Trong gia đình truyền thống, mọi người thường xem đạo hiếu là gốc rễ của mọi việc dạy đạo lý, gia phong. Gia huấn răn dạy con cái ghi lòng tạc dạ về công sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ. Làm con có hiếu là phải nối được nghiệp nhà, làm rạng rỡ tổ tông. Hiếu không những được xem là đứng đầu của đức hạnh mà còn là cội nguồn để có được phúc thiện:
Điều hiếu đứng vững
Muôn điều thiện theo.
Phúc thiện đúng đạo,
Phúc lành được gieo.
(Xuân đình gia huấn) [12, tr. 187].
Trong những năm trước đổi mới, trải qua một thời gian dài trong cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp, việc giáo dục đạo đức trong gia đình dường như ít được quan tâm đúng mức. Chức năng giáo dục đạo đức hầu như đã được chuyển giao cho xã hội, cho nhà trường đảm nhiệm. Chủ yếu nhờ vào sự bao cấp của Nhà nước, hệ thống các cấp học như nhà trẻ, mẫu giáo phát triển rộng rãi ở cả thành thị và nông thôn, đã giúp cho việc nuôi dạy tốt các cháu trước tuổi học đường. Vì vậy, vai trò nhà trường trong việc giáo dục thế hệ trẻ chiếm vị trí rất quan trọng, bởi thế mà nhiều gia đình hầu như phó mặc việc giáo dục con cái cho nhà trường, xã hội. Ưu điểm chủ yếu mà giáo dục nhà trường và xã hội là tạo cho thế hệ trẻ tinh thần và ý thức vì tập thể, tuân thủ mọi quy định của tập thể, của cộng đồng; nhưng bên cạnh đó tính sáng tạo, năng động của cá nhân nhiều khi không được quan tâm đúng mức, do đó trẻ thường nảy sinh tư tưởng thụ động, ỷ lại vào gia đình.
Khi nước ta tiến hành sự nghiệp đổi mới, phát triển kinh tế thị trường, mở cửa, hội nhập quốc tế, cuộc sống có nhiều biến đổi đã ảnh hưởng không nhỏ tới từng gia đình và các thành viên, nhất là thế hệ trẻ, khiến chúng ta phải nhìn nhận lại chức năng giáo dục đạo đức của gia đình. Mặc dù đất nước có nhiều đổi thay, nội dung giáo dục trong gia đình cũng có những biến đổi, song đạo hiếu mà hạt nhân là tình thương, lòng kính trọng và sự phụng dưỡng cha mẹ vẫn là một trong những nội dung quan trọng của giáo dục đạo đức. Sinh thời, C.Mác đã từng viết thư cho người cha thân yêu của mình: "Nhưng còn có nơi bảo tồn nào thiêng liêng hơn cõi lòng cha mẹ, đó là một quan tòa khoan dung nhất, người bạn thông cảm với mình nhất, là mặt trời của tình yêu, mà ngọn lửa của nó sưởi ấm đến tận những khát vọng sâu kín nhất của lòng mình". Khi biết cha lâm bệnh, C.Mác rất lo lắng: "Hy vọng rằng cha chóng bình phục hoàn toàn, để cho con có thể ghì cha vào ngực và nói nên tất cả những ý nghĩ của mình - con vẫn là con trai mãi mãi yêu thương của cha" [54, tr. 16].
Nói về tình thương, cố Tổng Bí thư Lê Duẩn cũng đã cho rằng, lao động, tình thương và lẽ phải đã trở thành đạo lý của con người Việt Nam; "thương người như thể thương thân". Thương người, thương mình, trước hết phải yêu lao động và phải phấn đấu trở thành người lao động chân chính, yêu lao động, giàu tình thương, phải gắn liền với việc tôn trọng lẽ phải của đời sống cộng đồng. Trong đời sống gia đình, lẽ phải được xây dựng trên cơ sở nguyên tắc tình thương. Trong đời sống xã hội, ngoài tình thương, lẽ phải cần phải được bảo đảm bằng luật nước. Lao động, tình thương, lẽ phải không chỉ là nhu cầu mà còn là nguyên tắc của đời sống cộng đồng, dù là cộng đồng trong gia đình hay cộng đồng xã hội. Trong gia đình, tình thương được biểu hiện khá cô đọng ở lòng kính trọng ông bà, cha mẹ và những người trên.
Ngày nay, không chỉ ở nước ta mà trên thế giới, thái độ và hành vi đúng, tốt, đẹp đối với người lớn tuổi, người già cả là tiêu chí của văn hóa, văn minh. Phụng dưỡng, chăm sóc và kính trọng ông bà, cha mẹ là tiêu chuẩn của đạo đức con người, đòi hỏi thế hệ trẻ phải nhận thức và hành động đúng. Việc phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta, bên cạnh mặt tích cực là khơi dậy những tiềm năng cho sự phát triển, nó còn tiềm chứa không ít những yếu tố tiêu cực như: Lối sống thực dụng, đua đòi, chạy theo đồng tiền, chà đạp lên đạo lý... Cuộc sống đã cho thấy nhiều bài học về cái giá phải trả cho những hành vi thiếu đạo đức, vi phạm đạo hiếu trong gia đình.
Như vậy, giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ là một bộ phận quan trọng có tính chất nền tảng của giáo dục gia đình nhằm xây dựng ý thức đạo đức, bồi dưỡng tình thương, rèn luyện thói quen và hành vi đạo đức, đó là những phẩm chất quan trọng nhất của nhân cách con người. Giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ góp phần hình thành lòng yêu Tổ quốc, yêu gia đình, thái độ đúng đắn với lao động, trách nhiệm đối với gia đình và xã hội, tôn trọng và bảo vệ cái đúng, cái tiến bộ, phê phán và lên án cái sai, cái trì trệ, bảo thủ.
Thứ hai: Giáo dục học tập văn hóa.
Đối với thế hệ trẻ, học tập văn hóa là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Nếu không khao khát nắm lấy tri thức khoa học, thanh thiếu niên không thể trở thành những người tiên tiến có khả năng làm chủ xã hội, làm chủ bản thân. Học tập văn hóa sẽ góp phần phát triển toàn diện nhân cách con người.
A.X.Ma-ca-ren-cô, nhà giáo dục nổi tiếng của Liên Xô trước đây nhấn mạnh, nhiệm vụ quan trọng nhất của trẻ em ở tuổi đi học là học tập. Trong gia đình, việc học tập của trẻ em phải được coi là việc quan trọng nhất, là nhiệm vụ hàng đầu. Ông cho rằng: "Phải làm cho trẻ em hiểu rằng, học tập không những là công việc riêng của các em, mà còn là công việc chung và các em phải chịu trách nhiệm về học tập không những trước bố mẹ, mà còn trước cả nhà nước nữa" [53, tr. 14].
Giáo dục học tập có nội dung toàn diện, nhằm trang bị những tri thức văn hóa, khoa học - kỹ thuật, nhằm mở rộng sự hiểu biết, rèn luyện năng lực tư duy khoa học, óc phân tích và kỹ năng vận dụng những tri thức vào cuộc sống. Do đó, cùng với giáo dục ở nhà trường, giáo dục đức tính siêng năng học tập trong gia đình là hết sức quan trọng. V.I. Lê-nin đã nói, người mù chữ đứng ngoài chính trị. Bác Hồ cũng khẳng định, một dân tộc dốt là dân tộc yếu. Bác đã kêu gọi nhân dân ta, nhất là thế hệ trẻ Việt Nam phải ra sức học tập. Người viết:
Quốc dân Việt Nam !
Muốn giữ vững độc lập
Muốn làm cho dân mạnh, nước giàu,
Mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới, để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà và trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ [45, tr. 36].
Người đã chỉ ra ba thứ giặc, trong đó có giặc dốt là một loại giặc không kém phần nguy hiểm cho vận mệnh dân tộc. Phát triển giáo dục không phải chỉ có nhiệm vụ nâng cao trình độ văn hóa cho mọi người mà còn phải đào tạo thế hệ trẻ thành những nhân tài cho đất nước. Người nói: "Kháng chiến phải đi đôi với kiến quốc. Kháng chiến thắng lợi thì kiến quốc mới thành công. Kiến quốc có chắc thành công thì kháng chiến mới thắng lợi. Kiến thiết cần có nhân tài" [45, tr. 99]. Ý thức đầy đủ về vị trí, vai trò của thế hệ trẻ, chủ nhân tương lai của đất nước, tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư cho học sinh nhân ngày khai trường và đặt niềm tin rất lớn vào việc học tập của thế hệ trẻ. Người viết: "Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em" [45, tr. 33]. Thấm nhuần những lời dạy của các nhà sáng lập CNXH khoa học và của Hồ Chí Minh, Đảng ta luôn quan tâm và đánh giá cao vai trò của gia đình trong việc giáo dục đức tính hiếu học đối với thế hệ trẻ.
Trong giáo dục học tập, các bậc cha mẹ cần giúp con trẻ xác định đúng mục đích, động cơ, thái độ học tập: Học tập là một công việc quan trọng bậc nhất đối với các em nhằm nâng cao kiến thức về mọi mặt và để trở thành người lao động có phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ kiến thức khoa học và năng lực thực hành, đáp ứng yêu cầu của người lao động mới. Rèn luyện cho các em ý thức tự giác, lòng say mê học tập. Trong chừng mực có thể được, cha mẹ dạy con cái về kiến thức văn hóa và văn hóa ứng xử. Dù khó khăn đến đâu, gi._.dung, phương pháp giáo dục gia đình đối với thế hệ trẻ
Trong giáo dục gia đình, ngoài sự gương mẫu của cha mẹ và những người lớn, đối với con cái, việc xác định những nội dung, phương pháp giáo dục trẻ là vô cùng quan trọng. Giáo dục cái gì, giáo dục như thế nào còn là câu hỏi lớn làm trăn trở bao bậc phụ huynh tâm huyết.
Cải tiến nội dung giáo dục:
Trong nội dung giáo dục đạo đức, nếu trước đây và ngay cả một bộ phận gia đình hiện nay, cha mẹ giáo dục con cái phải ngoan ngoãn, vâng lời theo nguyên tắc trên bảo, dưới nghe hay tuân theo sự áp đặt một chiều, thì ngày nay sự ngoan ngoãn, vâng lời phải được xem xét, nhìn nhận từ hai phía chủ thể giáo dục (cha mẹ) và khách thể giáo dục (con cái). Đạo đức ngày nay không chỉ là sự ngoan ngoãn, vâng lời, mà còn phải là tự ý thức về trách nhiệm, nghĩa vụ và phải luôn phấn đấu vượt qua khó khăn để học tập, có nghề nghiệp chuyên môn, biết sống tự lập, năng động và sáng tạo...
Giáo dục học tập cũng là nội dung quan trọng của việc giáo dục, muốn trở thành người có ích thì phải học tập. Việc học do đó là quyền lợi và niềm vui của mỗi người [63, tr. 33]. Trong việc giáo dục học tập, trước đây gia đình khuyên răn con cái học tập để biết cái chữ, để hy vọng có việc làm và trở thành biên chế nhà nước, do đó cha mẹ chỉ nhắc nhở con cái học tập các môn học cơ bản ở trường phổ thông với các môn học toán,văn là chủ yếu. Ngày nay thời cuộc đã thay đổi, xã hội phát triển, nhiều ngành nghề mới xuất hiện, hệ thống thông tin đa dạng, phong phú, cho nên việc giáo dục văn hóa, cha mẹ phải hướng con cái học tập để có học vấn cao, có trình độ chuyên môn, khoa học kỹ thuật tiên tiến, có kiến thức toàn diện: chuyên môn, ngoại ngữ, vi tính, có ý chí và biết làm giàu bằng kiến thức và năng lực của bản thân. Hơn thế nữa học chữ, học nghề đồng thời phải học cách làm người, làm người có nhân cách.
Tuy nhiên, đứa trẻ sẽ trở nên lầm lì, thụ động, xa lạ với cuộc sống, nếu cha mẹ chỉ chăm lo giáo dục học tập. Ngày nay, ngoài nội dung giáo dục truyền thống, cần giáo dục trẻ phải có tình thương, trọng lẽ phải, sống có tâm hồn, có lối sống trong sáng... giáo dục tri thức văn hóa phải gắn với giáo dục lao động, tính tự lập, sáng tạo, tình thương và lẽ phải... thậm chí phải hun đúc cho trẻ có ý chí "rửa nhục đói nghèo", có ý chí làm giàu chân chính, có tinh thần thái độ đúng đắn trong việc thực hiện dân chủ, công bằng, văn minh. Ngay cả trong nội dung giáo dục giới tính, cũng phải gắn liền với giáo dục về giới, dân số và phát triển...
Về phương pháp giáo dục:
Hiện nay phương pháp giáo dục trong gia đình đối với thế hệ trẻ đã có những thay đổi phù hợp hơn với nội dung giáo dục và sự phát triển của xã hội. Cách giáo dục bằng phương pháp hành chính bắt trẻ phục tùng mệnh lệnh của ông bà, cha mẹ, đã dần thay bằng phương pháp định hướng, khích lệ. Bầu không khí bình đẳng, dân chủ trong gia đình cũng là phương pháp giáo dục có ý nghĩa thiết thực. Bởi trong hoàn cảnh như vậy, lòng tự trọng của trẻ được đề cao, một khi cha mẹ định hướng trong học tập và rèn luyện để trẻ thấy mình phải tự làm và bắt đầu làm từ đầu...
Vậy là, giáo dục trong gia đình hiện đại là tôn trọng nhân cách cá nhân, tự trọng, chú ý tới những nhu cầu nguyện vọng và lợi ích của cá nhân. Việc giáo dục nghiêng về sự định hướng là để con cái tự nhìn nhận, phân biệt đúng sai và tự điều chỉnh, nhằm phát huy tính chủ động và sáng tạo của chúng. Không quá nghiêm khắc, khắt khe, song cũng không nuông chiều, dễ dãi quá mức, gây cho chúng tâm lý hưởng thụ vật chất, ít quan tâm đến cha mẹ và người xung quanh. Muốn giáo dục có kết quả, người làm cha mẹ phải tìm thấy ở con em mình những đức tính tốt đẹp, dù đây chỉ mới là mầm mống, để khích lệ, giúp đỡ trẻ phát triển, trên cơ sở đó mà hạn chế cái xấu. Như cố Tổng Bí thư Lê Duẩn đã nói: "Công tác tư tưởng là phải làm cho người ta lớn lên, chứ không phải làm cho người ta cảm thấy nhỏ bé lại" [73, tr. 69]. Nhiều nhà nghiên cứu tâm lý, giáo dục ở nước ta đã nêu ra phương pháp giáo dục, là kết hợp phương pháp giáo dục truyền thống và hiện đại, kết hợp uy quyền với tình thương, uy quyền với sự bao dung, vị tha. Đối với phương pháp uy quyền: "Uy quyền là quyền lực khiến người ta phải tôn kính, nể sợ" [67, tr. 1087]. Trong giáo dục gia đình, uy quyền có thể hiểu là quyền lực của cha mẹ khiến con cái phải tuân theo. Thực tế, trong giáo dục gia đình có một số bậc cha mẹ xây dựng uy quyền của mình trên những nguyên tắc sai. Họ muốn con cái phải vâng lời và đó là mục đích của họ. Thực ra, đấy là một sai lầm. Uy quyền và sự vâng lời tự nó không thể là một mục đích [41, tr. 22]. Chỉ có thể có một mục đích duy nhất, đó là: một sự giáo dục tốt. Sự vâng lời của những đứa con chỉ là một trong những biện pháp dẫn tới mục đích đó. Những cha mẹ không nghĩ đến các mục đích của giáo dục, chính là những người cố buộc đứa trẻ vâng lời cốt để được vâng lời. Nếu con cái vâng lời thì bố mẹ được sống yên ổn hơn. Hình như chính sự yên ổn đó mới là thứ mục đích thực sự của họ. Khi kiểm tra lại, bao giờ người ta cũng thấy rằng, sự yên ổn cũng như sự vâng lời đều không bền vững. Uy quyền xây dựng trên cơ sở sai lầm, chỉ có hiệu quả trong một thời gian ngắn, chẳng bao lâu sẽ bị sụp đổ. Uy quyền không còn, mà sự vâng lời cũng biến mất. Cũng có những trường hợp, cha mẹ hy sinh tất cả mọi mục đích giáo dục khác, chỉ cố đạt lấy sự vâng lời; con cái họ trở nên dễ bảo, nhưng đó là những con người yếu đuối.
Trong giáo dục gia đình ở nước ta hiện nay, cơ sở chính của uy quyền cha mẹ chỉ có thể nằm trong cuộc sống và lao động của cha mẹ, trong vai trò công dân của họ, trong đạo đức của họ. Nếu cha mẹ hoàn thành nhiệm vụ trước xã hội, hoàn thành trách nhiệm của mình trước gia đình, trước cuộc đời của con cái và đề ra được mục tiêu phấn đấu trong việc giáo dục con cái, như thế có nghĩa là đứng về mặt làm cha mẹ, họ đã có đầy đủ uy quyền.
Uy quyền của cha mẹ còn biểu hiện ở sự bao dung, sự vị tha. Lẽ thông thường là cha mẹ khoan dung, tha thứ cho con cái, song cuộc sống càng đòi hỏi con cái cũng phải vị tha đối với cha mẹ một khi cha mẹ có uy quyền cũng là khi đó họ tạo ra được phẩm chất vị tha ở con cái. Trong cuộc sống gia đình, nếu cha mẹ thuận hòa, hạnh phúc, thì con cái thông thường sẽ ngoan ngoãn, chăm học và học giỏi. Nếu cha mẹ mâu thuẫn, dù là về phương pháp (người này khắt khe, người kia dễ dãi) sẽ làm cho kết quả giáo dục con trẻ không đạt được ý muốn. Đối với phương pháp nêu gương: Theo đạo lý thông thường, cha mẹ và người lớn trong gia đình, trước hết phải thống nhất giữa lời nói và việc làm, cha mẹ phải luôn là tấm gương sáng để con trẻ noi theo. Đây là phương pháp mang lại hiệu quả giáo dục cao nhất. Ở Phong Lạc (Cà Mau) có tới 94% số người dân được hỏi cho rằng phương pháp nêu gương là hiệu quả nhất; tương ứng, ở phường 1, quận 3 (thành phố Hồ Chí Minh): 96 %; ở Nam Sơn (Bắc Ninh): 98% [26, tr. 31]. Điều này cho thấy, môi trường sống đầu tiên của trẻ em là gia đình, người mà các em tiếp xúc sớm nhất, nhiều nhất chính là cha mẹ, do đó chúng chịu tác động ảnh hưởng nhiều nhất từ phía cha mẹ. Vì vậy, cha mẹ muốn con nên người thì trước hết họ phải là tấm gương sáng cho con học tập, gia đình không hòa thuận, cha mẹ không tốt, không mẫu mực thì con cái không có mấy đứa ngoan, cha mẹ phải tốt, gia đình phải hòa thuận thì các cháu mới nên người. Thực tiễn được biết có tới 71,7% các bậc cha mẹ sử dụng phương pháp này [26, tr. 31].
Đối với trẻ khi được cha mẹ giao việc chúng rất mừng, những khi con trẻ làm được những việc tốt, cha mẹ khuyến khích, khen thưởng để trẻ tiếp tục thực hiện và phát huy những hành vi tốt đẹp này. Có thể đó là một cử chỉ tốt, một lời khen ngợi, một thái độ tán thưởng hoặc là khích lệ bằng một món quà... Phương pháp này sẽ làm cho con trẻ phấn khởi và có thêm lòng tự tin để làm tốt hơn những điều mà cha mẹ cũng như con trẻ mong muốn. Trong mọi hoạt động của trẻ, nếu thiếu động cơ tình cảm thì không thể có sự say mê, hứng thú trong lao động và do đó không thể có một công trình sáng tạo [66, tr. 356]. Một bài học đạt điểm tốt, một việc làm mang lại hiệu quả cao,... tất cả đều mang theo tình cảm tốt đẹp cho trẻ. Tuy nhiên, cần khen thưởng đúng mức và không nên dùng tiền bạc để thưởng cho con trẻ, vì khi có tiền trẻ sẽ tùy tiện mua những thứ không mang lại hiệu quả giáo dục và có khi còn làm hại chúng. Đồng thời với việc khen thưởng, trong giáo dục gia đình cũng cần thực hiện phương pháp phê bình nhắc nhở: không phải lúc nào trẻ em cũng ngoan ngoãn, vâng lời cha mẹ, làm tốt công việc được giao, mà nhiều lúc chúng không vâng lời, có hành vi sai trái, khiến cha mẹ không vừa lòng, thậm chí còn gây đau khổ cho cha mẹ. Nhiều gia đình hiện nay dạy con theo phương pháp uy quyền dựa trên sự đàn áp, sử dụng bạo lực. Thiết nghĩ, trong việc giáo dục con trẻ đã đến lúc nói rằng, dùng đòn roi là vi phạm quyền trẻ em, tuy nhiên việc răn đe vẫn là cần thiết, đặc biệt là tránh sự xúc phạm nhiều đến trẻ, gây tâm lý bất cần cho trẻ. Răn đe trẻ chỉ có hiệu quả một khi cha mẹ thực sự yêu thương con, bao dung và mẫu mực đối với con. Tất nhiên, do hiện trạng tệ nạn xã hội gia tăng, một số trẻ lún quá sâu vào con đường nghiện ngập, sa ngã, thậm chí phạm pháp; việc răn đe, giáo dục bằng biện pháp cưỡng chế của nhà nước là cần thiết, song cơ bản, lâu bền và có hiệu quả vẫn là tình thương, độ lượng của cha mẹ.
Nội dung và phương pháp giáo dục gia đình đối với con trẻ cần được cải tiến phù hợp với yêu cầu của tiến trình đổi mới đất nước, phù hợp với tâm lý lứa tuổi, giới tính và mục tiêu phát triển toàn diện hài hòa đảm bảo cho trẻ tự tin khi lập thân, lập nghiệp. Quan tâm tới việc đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục trẻ cũng là để phát hiện bồi dưỡng kịp thời những thiên hướng, năng khiếu của trẻ. Tuyệt đối không biến gia đình chỉ là nơi nuôi con thuần túy, càng không thể giáo dục con theo nội dung đơn điệu và phương pháp giáo dục thái quá: nuông chiều quá sẽ làm cho trẻ trở nên ích kỷ, không vâng lời cha mẹ, chỉ làm theo ý mình; hoặc làm trẻ mất tính tự lập, yếu hèn, việc gì cũng ỷ lại cha mẹ. Nghiêm khắc và quá khắt khe với con cái cũng gây ra phản ứng ở trẻ và dẫn đến mâu thuẫn giữa các thế hệ.
Trong đời sống dân chủ và cởi mở hiện nay, phương pháp giáo dục có hiệu quả hơn là phải kết hợp việc lồng ghép các phương pháp giáo dục khác nhau, đặc biệt là phải cải tiến các phương pháp giáo dục truyền thống theo hướng chất lượng hơn, tri thức hơn, tình cảm hơn, thời đại hơn và hiệu quả hơn. Nhất thiết phải giáo dục, rèn luyện trẻ thông qua lao động, học tập. Cải tiến nội dung và phương pháp giáo dục đối với con cái sẽ góp phần quan trọng nâng cao hiệu quả của giáo dục gia đình ở nước ta hiện nay.
3.2.5. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học về gia đình và giáo dục gia đình
Trong những năm qua, công tác nghiên cứu về gia đình và giáo dục gia đình đã được các tổ chức: Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Trung tâm Nghiên cứu khoa học về gia đình và phụ nữ, Viện Xã hội học... và một số nhà khoa học tâm huyết quan tâm nghiên cứu một cách nghiêm túc, quy mô. Một số đề tài về gia đình, phụ nữ, giới và giáo dục gia đình cũng đã được triển khai sâu rộng và có kết quả bước đầu. Nhìn chung, công tác nghiên cứu về gia đình và giáo dục gia đình ở nước ta đã có nhiều cố gắng và đạt được những kết quả đáng mừng. Song trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, phát triển nguồn nhân lực con người; trước cuộc sống đầy biến động của thế giới và trong nước; sự đan xen giữa truyền thống và hiện đại, có lúc ranh giới đúng sai chưa được làm sáng tỏ..., đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục triển khai các đề tài nghiên cứu về gia đình và giáo dục gia đình một cách toàn diện hơn nữa. Có như vậy mới giúp Đảng và Nhà nước hoạch định được chiến lược toàn diện về gia đình, về giáo dục gia đình, góp phần nâng cao hơn nữa vai trò của gia đình và giáo dục gia đình đối với thế hệ trẻ, đảm bảo chất lượng nguồn lực ngày càng cao cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Nghiên cứu khoa học về gia đình, phải nằm trong tổng thể nghiên cứu chiến lược quốc gia vừa toàn diện, vừa lâu dài và gắn với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, giáo dục và đào tạo của đất nước. Tăng trưởng kinh tế, đổi mới chính trị phải nhằm nâng cao phúc lợi gia đình, xóa đói giảm nghèo, tạo sự ấm no, bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc cho gia đình. Công tác nghiên cứu về gia đình cũng phải được tiến hành theo định hướng đó. Hơn nữa nghiên cứu khoa học về gia đình phải xuất phát từ quan điểm lịch sử cụ thể và phát triển, đặt gia đình trong sự phát triển của đất nước, của thời đại, để một mặt làm rõ quan hệ tác động giữa gia đình và sự phát triển của đất nước, của thời đại, mặt khác để bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc trong việc xây dựng gia đình Việt Nam, tránh sự lai căng thực dân mới... Xem xét sự biến đổi của gia đình qua các thời kỳ lịch sử của dân tộc, vận động theo quy luật kế thừa và đổi mới, truyền thống và hiện đại, mà kế thừa có chọn lọc và phát huy những giá trị tích cực của gia đình phù hợp với yêu cầu xây dựng gia đình văn hóa.
Nghiên cứu khoa học về gia đình và giáo dục gia đình phải gắn với yếu tố thời đại, với xu thế hội nhập và đổi mới. Do đó những ảnh hưởng của sự biến đổi xã hội sẽ tác động đến vấn đề gia đình và giáo dục gia đình. Dĩ nhiên, cần khẳng định rằng cho dù xã hội có biến đổi thế nào, thì gia đình Việt Nam vẫn là tế bào xã hội, có vai trò to lớn trong việc giáo dục thế hệ trẻ và thực hiện ngày càng tốt các chức năng phù hợp với điều kiện phát triển mới của đất nước, của thời đại.
Nghiên cứu về gia đình và giáo dục gia đình phải gắn với việc khuyến khích nam giới tham gia vào công việc chăm sóc gia đình, làm cho bình đẳng giới trong gia đình và xã hội ngày càng tăng lên. Bình đẳng trong gia đình được thực hiện là cơ sở cho bình đẳng xã hội, sẽ góp phần nâng cao vai trò giáo dục gia đình. Hạnh phúc gia đình phải bao hàm cả sự san sẻ trách nhiệm của nam giới [39, tr. 37]. Trong những năm qua, hưởng ứng năm quốc tế gia đình do Liên Hiệp Quốc phát động, chúng ta đã thực hiện được nhiều công việc thiết thực, góp phần định hướng xây dựng gia đình và giáo dục gia đình, thúc đẩy dư luận xã hội và hoạt động của các tổ chức quần chúng, quan tâm nhiều hơn đến đời sống của gia đình, đến việc giáo dục thế hệ trẻ.
Bước sang thiên niên kỷ mới, công tác nghiên cứu về gia đình cần phát huy những thành tựu đã đạt được, tiếp tục nghiên cứu gia đình theo tinh thần của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, đáp ứng yêu cầu phát triển của gia đình và xã hội.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Cùng với sự phát triển của xã hội, vị trí vai trò của gia đình, của giáo dục gia đình ngày càng được khẳng định, đề cao. Sự nghiệp CNH, HĐH đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh, phần lớn tùy thuộc vào sự tiến bộ của gia đình mà trong đó giáo dục gia đình đóng vai trò quan trọng. Bởi vậy, cùng với sự nghiệp đối mới toàn diện đất nước, đòi hỏi phải đổi mới về nhận thức vị trí, vai trò của gia đình, của giáo dục gia đình trong xây dựng nền tảng xã hội, trong việc chăm lo phát triển nguồn lực con người.
Nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện gia đình để góp phần nâng cao vai trò giáo dục thế hệ trẻ, phải được thể hiện trong các chủ trương, đường lối phát triển kinh tế, văn hóa xã hội của Đảng, Nhà nước và của cả hệ thống chính trị, của các cấp, các ngành và của từng gia đình. Tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, gắn tăng trưởng kinh tế với việc xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh; đẩy mạnh sự nghiệp cải cách giáo dục - đào tạo, tạo cơ hội và điều kiện thuận lợi để thế hệ trẻ phát triển và tự khẳng định mình. Đây là những phương hướng cơ bản nhằm nâng cao vai trò của giáo dục gia đình đối với thế hệ trẻ.
Để hiện thực hóa có kết quả những phương hướng này, trong thời gian tới cần thiết phải tiến hành đẩy mạnh việc xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và bền vững, làm cơ sở cho việc nâng cao vai trò giáo dục gia đình; kết hợp chặt chẽ giữa gia đình với nhà trường và xã hội trong việc giáo dục con trẻ; các bậc cha mẹ phải không ngừng học tập, nâng cao tri thức về giáo dục gia đình, năng lực làm cha, làm mẹ; không ngừng cải tiến nội dung, phương pháp giáo dục phù hợp với yêu cầu phát triển của xã hội, của trẻ em; đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học về gia đình, về giáo dục gia đình. Các giải pháp nêu trên là một chỉnh thể, không quá nhấn mạnh giải pháp này mà xem nhẹ giải pháp kia.Vấn đề là tùy thuộc vào hoàn cảnh từng gia đình và môi trường xã hội, mà vận dụng các giải pháp cho phù hợp để đem lại hiệu quả giáo dục cao.
KẾT LUẬN
1. Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi thân yêu nuôi dưỡng cả đời người, là môi trường quan trọng giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách. Với thiên chức riêng có mà không có một thiết chế xã hội nào có được, gia đình ngày càng khẳng định vị trí, vai trò to lớn của mình trong tiến trình phát triển của xã hội. Mặc cho các hình thức gia đình có đổi thay, mà sự thay đổi đó suy đến cùng là do sự phát triển kinh tế quy định, song như Hồ Chủ tịch đã khẳng định: Gia đình tốt thì xã hội mới tốt.
2. Là một bộ phận của hệ thống giáo dục xã hội, giáo dục gia đình - giáo dục dựa trên nền tảng tình thương, lao động và lẽ phải, là sự giáo dục có mục đích hướng tới sự hình thành và phát triển nhân cách của con người. Giáo dục gia đình bao gồm nội dung toàn diện: giáo dục đạo đức,học tập, lao động, giáo dục tính tự lập, giáo dục giới tính... (đức, trí, thể, mỹ). Phương thức giáo dục gia đình có sự kế thừa và phát huy những giá trị tốt đẹp của gia đình truyền thống với việc tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hóa giáo dục của nhân loại.
3. Trong những năm qua, giáo dục gia đình đã có vai trò to lớn đối với tiến trình phát triển đất nước nói chung, với giáo dục thế hệ trẻ nói riêng và đã đạt được những kết quả nhất định, song nó cũng chịu nhiều tác động khách quan và chủ quan, đó là tác động ảnh hưởng của những yếu tố lịch sử, yếu tố thời đại, cũng như thực tiễn của nền kinh tế - xã hội và của nền giáo dục nước nhà.
Kinh tế đất nước phát triển, đời sống của đa số gia đình được nâng lên là điều kiện thuận lợi cho giáo dục gia đình đối với thế hệ trẻ. Các bậc cha mẹ có cơ hội đầu tư cho con học tập, vui chơi và phát triển. Các phương tiện thông tin đại chúng đã và đang lan tỏa tới tận gia đình và góp phần không nhỏ vào việc xã hội hóa trẻ em, giúp các em phát triển và trưởng thành sớm. Nhưng mặt khác, trước thực trạng của đời sống kinh tế - xã hội, sự giao lưu hội nhập thế giới, sự vận động và phát triển của gia đình, của kinh tế thị trường công tác giáo dục gia đình đang đứng trước những khó khăn thách thức đòi hỏi phải nhận thức đúng và sớm giải quyết: trình độ văn hóa và kiến thức của một bộ phận cha mẹ không đáp ứng được giúp con học tập và giáo dục toàn diện; năng lực giáo dục của cha mẹ không theo kịp sự phát triển của con cái; nội dung giáo dục còn lúng túng; ý thức trách nhiệm của cha mẹ chưa đầy đủ; một số gia đình kinh tế còn khó khăn, cha mẹ phải lo nuôi nhiều hơn dạy; gia đình lủng củng bất hòa, sự không thống nhất trong phương pháp giáo dục; đặc biệt là ảnh hưởng của môi trường xã hội, của các loại văn hóa phẩm không lành mạnh, các tệ nạn ma túy, mại dâm,... đang làm băng hoại đạo đức xã hội, lôi cuốn một bộ phận trẻ em vào vòng tội lỗi; tình trạng trẻ em bỏ học lang thang...
4. Để nâng cao vai trò của giáo dục gia đình đối với thế hệ trẻ ở nước ta hiện nay, công tác giáo dục gia đình trong thời gian tới cần phải được triển khai theo những hướng chính sau: Đổi mới nhận thức về vị trí, vai trò của giáo dục gia đình; tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH, nhằm tạo điều kiện vật chất cần thiết cho việc nâng cao vai trò giáo dục gia đình; tạo lập môi trường văn hóa cho thế hệ trẻ phát triển toàn diện; tiếp tục đẩy mạnh cuộc cải cách giáo dục đào tạo, tạo điều kiện và cơ hội để thế hệ trẻ phấn đấu vươn lên.
Trên cơ sở những phương hướng ấy, thiết nghĩ để giáo dục gia đình đạt kết quả như mong muốn, cần thiết phải thực hiện các giải pháp sau: Xây dựng gia đình ngày càng ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và bền vững; tăng cường sự phối kết hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong việc giáo dục thế hệ trẻ, đặc biệt coi trọng ưu thế của giáo dục gia đình; nâng cao trình độ dân trí và năng lực giáo dục cho các bậc cha mẹ; nâng cao chất lượng giáo dục gia đình trên cơ sở cải tiến nội dung, phương pháp giáo dục; đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học về gia đình và giáo dục gia đình. Giải quyết những vấn đề này đòi hỏi nỗ lực chung của Đảng, Nhà nước, các đoàn thể xã hội, cộng đồng dân cư, nhưng trước hết trách nhiệm thuộc về các bậc làm cha mẹ.
Con người Việt Nam XHCN cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức và đạt tầm cao mới về trí tuệ - sản phẩm của nền giáo dục, trước hết là giáo dục gia đình sẽ là chủ thể của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
NHỮNG CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
Nghiêm Sĩ Liêm (1999), "Về vai trò của cha mẹ với việc giáo dục con cái trong gia đình ở nước ta hiện nay" Báo chí và Tuyên truyền, (4), tr. 22-25).
Nghiêm Sĩ Liêm (2000), "Vai trò người phụ nữ trong quan hệ gia đình ở nước ta hiện nay", Nghiên cứu lý luận, (3), tr. 16-17.
Nghiêm Sĩ Liêm (2000), "Vai trò người phụ nữ trong giáo dục gia đình ở nước ta hiện nay", Báo chí và Tuyên truyền, (2), tr. 34-36.
Nghiêm Sĩ Liêm (2001), "Suy nghĩ về nội dung và phương pháp giáo dục gia đình ở nước ta hiện nay", Khoa học về phụ nữ (1), tr. 30-32.
Nghiêm Sĩ Liêm (2001), "Tạo lập môi trường văn hóa cho việc nâng cao hiệu quả giáo dục gia đình", Báo chí và Tuyên truyền, (2), tr. 32-34.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Đào Duy Anh (1992), Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
Ban Tư tưởng văn hóa Trung ương (2000), Tài liệu hướng dẫn nghiên cứu các văn kiện (dự thảo) trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
A.M.Bác-đi-an (1977), Giáo dục các con trong gia đình, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
Đỗ Thúy Bình (1995), "Vài suy nghĩ về tác động của chính sách giáo dục đối với đời sống gia đình nông dân", Khoa học về phụ nữ, (1), tr. 30-34.
Trần Xuân Bình (1999), Gia đình nông thôn đồng bằng Bắc Bộ với việc thực hiện chức năng giáo dục trong công cuộc đổi mới, Luận văn Thạc sĩ triết học, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Hà Nội.
Phan Kế Bính (1997), Việt Nam phong tục, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
Bộ Văn hóa thông tin (1999), Hỏi đáp về xây dựng làng văn hóa, gia đình văn hóa, tổ chức và quản lý lễ hội truyền thống, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Bộ Y Tế (1997), Chương trình hợp tác y tế Việt Nam - Thụy Điển và sức khỏe sinh sản vị thành niên, Điều tra cơ bản tại Hà Nội, Vĩnh Phú, Thái Bình, Hà Nội.
Từ Chi (1997), "Nhận xét bước đầu về gia đình của người Việt", Văn hóa nghệ thuật, (1), tr. 55-59.
Phạm Hồng Chương, Nguyễn Thanh Tĩnh (1998), "Một số vấn đề về quan hệ gia đình và xã hội trong tiến trình đổi mới hiện nay", Thông tin lý luận, (7), tr. 36-39.
Phạm Khắc Chương (1993), Giải pháp tình huống trong giáo dục gia đình, Nxb Chính trị quốc gia, Nxb Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội.
Phan Đại Doãn (1998), Một số vấn đề về Nho giáo Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Phạm Thị Dung, Nguyễn Thu Hà, Phạm Minh Thảo, Từ Thu Hằng, Phạm Thị Hảo (1999), Từ điển Văn hóa gia đình, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Dự thật, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ Hai Ban chấp hành trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ Năm Ban chấp hành trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Quỹ dân số Liên Hiệp Quốc (7/1999), Hội thảo các nhà hoạch định chính sách về sức khỏe sinh sản vị thành niên, Đà Nẵng.
Trần Văn Giàu (1980), Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam, Nxb khoa học xã hội, Hà Nội.
Lê Thanh Hà (1999), Kế thừa, phát huy những giá trị đạo đức của gia đình truyền thống trong việc xây dựng gia đình văn hóa ở nước ta hiện nay, Luận văn Thạc sĩ khoa học triết học, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Trần Thu Hằng (1997), "Khi em là Ô-sin", Phụ nữ thủ đô (87), tr. 5-7.
Trương Mỹ Hoa (1995), "Vai trò của phụ nữ trong phát triển kinh tế xã hội và tham gia quản lý đất nước và định hướng đến năm 2000", Tạp chí Cộng sản, (10), tr.14-15.
Hội Nhà báo Việt Nam (1998), "Người chưa thành niên phạm tội nhìn từ môi trường gia đình", Chuyên san nhà báo và công luận, (6), tr. 19.
Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam Thành phố Hà Nội (1991), Dạy con nên người, Nxb Hà Nội.
Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam Thành phố Hà nội (1998), "Nghiện ma túy con đường tất yếu đến tội phạm", Báo phụ nữ Thủ đô, (71), tr. 7.
Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam (1998), Báo cáo đề tài nghiên cứu vai trò của gia đình trong việc giáo dục xã hội hóa trẻ em, Hà Nội.
Thế Huân (4-10-1998), Phóng sự điều tra "Khi trẻ em rời tổ ấm gia đình", Báo Nhân Dân, tr. 1.
Dương Thu Hương (1999), Cơ cấu gia đình và vị thế phụ nữ nông thôn đồng bằng bắc Bộ, Đề tài nghiên cứu khoa học, Phân viện Báo chí và Tuyên truyền, Hà Nội.
Trần Đình Hượu (1992), Những nghiên cứu xã hội học về gia đình Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
T.A. I.li.na (1979), Giáo dục học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
Nguyễn Khánh (1995), "Vấn đề gia đình hôm nay", Tạp chí Cộng sản, (5), tr. 6-9.
Vũ Khiêu (Chủ biên) (1991), Nho giáo xưa và nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Nguyễn Linh Khiếu (1999), "Gia đình và một số vấn đề đặt ra ở Việt Nam hiện nay", Triết học, (3), tr. 61.
Trần Hậu Kiêm (Chủ biên) (1997), Giáo trình đạo đức học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
In. Sun Yu (1984), Luật và xã hội Việt Nam thế kỷ XVII-XVIII, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Tương Lai (1994), "Lại bàn về gia đình từ hướng tiếp cận xã hội học", Xã hội học, (2), tr. 56-58.
Lê Ngọc Lân (1995), "Mục tiêu của giáo dục gia đình thành phố - Thực trạng vấn đề", Khoa học về phụ nữ và gia đình, (3), tr. 36-39.
Nguyễn Quang Lập, Phạm Khắc Chương (1995), "Quan hệ giới tính - tình dục đối với lớp trẻ - nỗi lo của gia đình và xã hội ", Khoa học về phụ nữ, (4), tr. 21-24.
Đặng Thị Linh (1996), Vấn đề phụ nữ trong gia đình ở Việt Nam hiện nay - Thực trạng và giải pháp, Luận án PTS khoa học triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Nguyễn Thế Long (1998), Gia đình và dân tộc, Nxb Lao động, Hà Nội.
A. Ma-ca-ren-cô (1978), Nói chuyện về giáo dục gia đình, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
C.Mác và Ph. Ăng-ghen (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
C.Mác và Ph. Ăng-ghen (1995), Toàn tập, tập 21, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đức Minh (1976), Giáo dục gia đình với tuổi thiếu niên, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Trần Đặng Kiều Minh, Hằng Nga, Vương Hà Loan (1995), Giáo dục giới tính và hạnh phúc lứa đôi, Nxb Đồng Tháp.
Phan Ngọc (1998), Vấn đề gia đình Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Dương Xuân Ngọc (1999), "Xây dựng lối sống văn hóa cho sinh viên trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước", Báo chí và Tuyên truyền, (1), tr. 29-33.
Đặng Kim Nhung (1997), "Kinh tế thị trường với vấn đề độ bền vững gia đình ở khu vực đô thị Việt Nam", Thông tin lý luận, (3), tr. 27-29.
I.A. Pê-sec-ni-co-va (1980), Dạy con yêu lao động, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
I.A. Pê-trec-nhi-co-va (1977), Giáo dục trong gia đình Mác, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
Vũ Thị Ngọc Phùng (Chủ biên) (1999), Tăng trưởng kinh tế, công bằng xã hội và vấn đề xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Quốc hội Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1998), Luật Bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Quốc hội Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1998), Luật Giáo dục, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Nguyễn Danh Sơn (Chủ biên) (1995), Mấy suy nghĩ về môi trường kinh tế xã hội cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Lê Thành (1996), Thành công trong bổn phận làm cha mẹ, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
Hà Thắm (1999), "Làm gì để xóa nạn mại dâm trẻ em", Nguyệt san Công an nhân dân, (1), tr. 10.
Lê Thi (1997), Vai trò gia đình trong việc xây dựng nhân cách con người Việt Nam, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
Trần Thị Minh Thi (1999), Vai trò người chồng trong việc chăm sóc sức khỏe sinh sản các cặp vợ chồng ở nông thôn, Đề tài nghiên cứu khoa học, Phân viện Báo chí và Tuyên truyền, Hà Nội.
Lương Duy Thứ (Chủ biên) (1997), Đại cương văn hóa phương Đông, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
Tòa án tối cao (1998), Báo cáo tình hình xét xử các vụ án dân sự hôn nhân và gia đình, Hà Nội.
Alvin Toffler (1980), Làn sóng thứ ba, Nxb Thông tin lý luận, Hà Nội.
Tổng cục Chính trị (1974), Tâm lý học, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
Từ điển Tiếng Việt (2000), Nxb Đà Nẵng - Trung tâm từ điển học, Hà Nội - Đà Nẵng.
Mai Trang (15-1-1999), "Rất cần đầu tư hơn nữa cho giáo dục", Báo Hà Nội mới, tr. 2.
Nguyễn Hữu Trọng (1994), Đạo đức cổ nhân, Nxb Đồng Tháp.
Trung tâm nghiên cứu khoa học về gia đình và phụ nữ (1994), Gia đình và vấn đề giáo dục gia đình, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Thái Duy Tuyên (1995), "Sự biến đổi định hướng giá trị của thanh niên Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường", Triết học, (1), tr. 38.
Trần Xuân Trường (1995), "Tương lai dưới con mắt nhà tương lai học An-vin Tô-phlơ ", Tạp chí cộng sản, (7), tr. 17.
Ủy ban Thiếu niên nhi đồng Trung ương (1979), Khoa học giáo dục con em trong gia đình, Ủy ban Thiếu niên nhi đồng Trung ương xuất bản, Hà Nội.
Viện Nghiên cứu Thanh niên (1992), Vấn đề thanh niên nhìn nhận và dự báo, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
Tân Việt (1997), Một trăm điều nên biết về phong tục Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
Trần Quốc Vượng (1997), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
V.A. Xu-khôm-Lin-xki (1977), Giáo dục thái độ cộng sản đối với lao động, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA2573.DOC